Mục lục
lời mở đầu.
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động nhập khẩu tại các doanh nghiệp.
1. Một số vấn đề cơ bản về nhập khẩu.
1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.3. Phân loại nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu1.5.Vai trò của kinh doanh nhập khẩu.
2. Các bước tiến hành nhập khẩu tại doanh nghiệp.
2.1. Nghiên cứu thị trường.
2.2. Lập phương án kinh doanh.
2.3. Giao dịch, đàm p
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân Hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hán và ký kết hợp đồng.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu. 3.các khái niệm nâng cao hiệu quả.3.1Các quan đIểm hiệu quả.3.2Sự cần thiết nâng cao hiệu quả.3.3Nâng cao hiệu quả.
Chương 2: tình hình hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
1. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu tại công ty.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
1.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy điều hành của công ty.
1.3. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty.
1.4. Đặc điểm về thị trường và khách hàng của Công ty.
1.5. Đặc điểm về sản phẩm của Công ty.
2. thực trạng hoạt động nhập khẩu tại công ty vật tư kỹ thuật ngân hàng.
2.1. Tổ chức giao dịch ký kết hợp đồng
2.2. Tổ chức thực hiện các hợp đồng.
2.3. Thị trường nhập khẩu của Công ty.
2.4. Kết quả hoạt động nhập khẩu của Công ty.
2.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.6. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của Công ty.
chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân Hàng.
1. Những quan điểm và định hướng kinh doanh của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng3. Kiến nghị. kết luận lời mở đầu
Trong những năm vừa qua, các hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể. Với những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước là xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ đối ngoại mà chủ yếu là các quan hệ thương mại đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Việc phát triển quan hệ ngoại thương được xem là mũi nhọn chiến lược chủ đạo trong chương trình phát triển dài hạn và toàn diện của đất nước. Những định hướng cơ bản hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển chung trên bình diện quốc gia và quốc tế, nó đã nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan hệ ngoại thương giữa nước ta với các nước trên thế giới không ngừng tăng lên cả về chất và lượng.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật công nghệ thông tin. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn để phát triển kinh tế đất nước, tránh được tụt hậu về kinh tế và tham gia hội nhập vào nền kinh tế quốc tế một cách toàn diện và sâu sắc.
Cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta nhìn chung đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã và đang góp phần tạo nên thành công đó. Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng là một đơn vị đầu mối về nhập khẩu các thiết bị chuyên dùng của ngành Ngân hàng phục vụ cho việc hiện đại hoá hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam. Trong những năm qua Công ty đã thực hiện nhập khẩu một cách có hiệu quả để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, qua đó tạo được uy tín của Công ty đối với thị trường trong nước và quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa mở ra những cơ hội mới cho doanh nghiệp nhưng cũng đồng thời nó cũng chứa đựng những rủi ro lớn. Vì vậy nó đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường quốc tế ngày càng phải tự hoàn thiện mình, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để đảm bảo doanh nghiệp có thể tồn tại được. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh cang trở nên bức thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua thực trạng hoạt động của Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng trong những năm qua được ghi nhận trong những năm qua trong quá trình thực tập kết hợp với những kiến thức em đã học được tại Trường Đại học em xin mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng”.
Đề tài đề cập đến một số ngiệp vụ kinh doanh nhập khẩu hiện nay đang được sử dụng trong giao dịch ngoại thương tại Việt nam. Cụ thể là các phương pháp giao dịch, các chứng từ liên quan đến giao dịch ngoại thương. Qua đó giúp ta có thể hình dung và nắm bắt được những điều cơ bản phải làm trước khi tiến hành một giao dịch kinh doanh. Thông qua phân tích tình hình kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư Ngân hàng rút ra những nhận xét đánh giá, từ đó đưa ra những giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư Ngân hàng nói riêng và các công ty xuất nhập khẩu nói chung.
Trong đề án này được chia làm ba phần sau:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động nhập khẩu và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong các doanh nghiệp.
Phần 2: Thực trạng về tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Phần 3: Một số phương hướng và biện pháp nhăm nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu tại Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng kinh doanh XNK-Công ty Vật tư kỹ thuật Ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, nghiên cứu thực tập đạt kết quả tốt. Xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn - Tiến sỹ Vũ Quang Thọ đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chuyên đề này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra phức tạp trong khi quỹ thời gian nghiên cứu hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến nhận xét của thầy, cô giáo.
Xin trân trọng cảm ơn !
Hà nội, tháng 5 năm 2004.
Sinh viên
chương I: những vấn đề chung về hoạt động nhập khẩu tại các doanh nghiệp.
một số vấn đề cơ bản về nhập khẩu.
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.1.1.Khái niệm về nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá lấy tiền tệ là môi giới. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và bên ngoài.
Nếu xét trên phạm vi hẹp thì tại Điều 2 Thông tư số 04/TM-ĐT ngày 30/7/1993 của Bộ Thương mại định nghĩa: “ Kinh doanh nhập khẩu thiết bị là toàn bộ quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị và dịch vụ có liên quan đến thiết bị trong quan hệ bạn hàng với nước ngoài ”.
Vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức kinh tế, các Công ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở thị trường nội địa hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các quốc gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày công, và giải quyết sự khan hiếm hàng hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của các ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa đảm bảo vật tư, thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác triệt để lợi thế so sánh của quốc gia, góp phần thực hiện chuyên môn hoá trong phân công lao động quốc tế, kết hợp hài hoà và có hiệu quả giữa nhập khẩu và cải thiện cán cân thanh toán.
thiện cán cân thanh toán quốc tế .1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động phức tạp so với hoạt động kinh doanh trong nước. Hoạt động nhập khẩu có những đặc điểm sau:
- Hoạt động nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật như điều ước quốc tế và Ngoại thương, luật quốc gia của các nước hữu quan, tập quán Thương mại quốc tế.
- Các phương thức giao dịch mua bán trên thị trường quốc tế rất phong phú: Giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch tại hội chợ triển lãm.
- Các phương thức thanh toán rất đa dạng: nhờ thu, hàng đổi hàng, L/C...
- Tiền tệ dùng trong thanh toán thường là ngoại tệ mạnh có sức chuyển đổi cao như : USD, bảng Anh...
- Điều kiện cơ sở giao hàng: có nhiều hình thức nhưng phổ biến là nhập khẩu theo điều kiện CIF, FOB...
- Kinh doanh nhập khẩu là kinh doanh trên phạm vi quốc tế nên dịa bàn rộng, thủ tục phức tạp, thời gian thực hiện lâu.
- Kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc vào kiến thức kinh doanh, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ Ngoại thương, sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin.
- Trong hoạt động nhập khẩu có thể xảy ra những rủi ro thuộc về hàng hoá. Để đề phong rủi ro, có thể mua bảo hiểm tương ứng.
- Hoạt động nhập khẩu là cơ hội để các doanh nghiệp có quốc tịch khác nhau hợp tác lâu dài. Thương mại quốc tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ kinh tế - chính trị của các nước xuất khẩu, góp phần phát triển kinh tế đối ngoại.
Phân loại nhập khẩu.
Dưới đây là một số loại hình nhập khẩu cơ bản và phổ biến nhất:
1.3.1. Nhập khẩu trực tiếp.
Theo cách thức này, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua. Hoạt động chủ yếu là doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường nước ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao dịch với bên xuất khẩu, thực hiện theo hành lang pháp lý quốc gia cũng như thông lệ quốc tế.
Đặc điểm: Được tiến hành một cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo đúng hợp đồng, phải tự bỏ vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên cứu, giao nhận, kho bãi cùng các chi phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo, thuế nhập khẩu...
1.3.2. Nhập khẩu uỷ thác.
Theo quyết định số 1172/TM/XNK ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại về việc ban hành” Quy chế XNK uỷ thác giữa các pháp nhân trong nước” đã định nghĩa như sau:
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận làm dịch vụ nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác giữa các doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật tư, thiết bị nào đó nhưng lại không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bạn hàng, thực hiện thủ tục uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp có chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông tin về thị trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện có liên quan đến đơn hàng uỷ thác thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
Đặc điểm: Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch XNK không được tính vào doanh thu. Khi nhận uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một hợp đồng mua bán hàng hoá, vật tư với nước ngoài và một hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác ở trong nước.
1.3.3. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán đồng thời là người mua và ngược lại. Lượng hàng hoá dịch vụ trao đổi có giá trị tương đương. Giao dịch đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân bằng: Cân bằng về mặt hàng, cân bằng về giá cả, cân bằng về cùng một điều kiện giao hàng và cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
Đặc điểm: Hợp đồng này có lợi ở chỗ là cùng một hợp đồng ta có thể tiến hành đồng thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức này thì lượng hàng giao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau. Doanh nghiệp xuất khẩu được tính vào cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh thu trên hàng hoá nhập và hàng xuất.
1.3.4. Nhập khẩu tái xuất.
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất một quan điểm về tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến hành nhập khẩu không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nhằm thu lợi nhuận. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm:
- Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí nhập hàng và xuất hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế XNK.
- Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và hàng nhập, doanh số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế.
- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển khẩu, nhưng tiền phải do người tái xuất trả cho người nhập khẩu và thu từ người nhập khẩu.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một họat động kinh doanh hết sức phức tạp và nhạy cảm với môi trường kinh doanh. Kinh doanh nhập khẩu chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Có hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, đó là:
1.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp.
Các yếu tố bên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, nó tác động một cách trực tiếp và là yếu tố nội lực quyết định hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp có đạt hiệu quả hay không. Các nhân tố đó là:
* Tổ chức hoạt động kinh doanh: Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Nếu như việc tổ chức kinh doanh càng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Làm tốt công tác tổ chức kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp phải là tốt các khâu: Chuẩn bị trước khi giao dịch như nghiên cứu thị trường, khai thác nhu cầu tiêu dùng trong nước, lập phương án kinh doanh thận trọng...
* Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp: Bộ máy quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng một cách gián tiếp tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu nói riêng và hoạt động kinh doanh toàn doanh nghiệp nói chung. Tổ chức bộ máy quản lý hợp lý, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh. Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp là một điều hết sức quan trọng trong kinh doanh XNK.
* Nhân tố con người: Đội ngũ cán bộ công nhân viên là một nhân tố quan trọng có tính chất quyết định đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, có năng lực, trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình, tích cực trong công tác kết hợp với việc bố trí nguồn nhân lực theo chiến lược “ đúng người, đúng việc, đúng lúc” của doanh nghiệp thì nhất định sẽ có ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả kinh doanh.
* Vốn kinh doanh: Là nhân tố tối quan trọng, là thành phần không thể thiếu trong kinh doanh, nó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
* Cơ sở vật chất và uy tín kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu công ty có cơ sở vật chất kỹ thuật càng hiện đại bao nhiêu thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kinh doanh bấy nhiêu như: việc giữ gìn bảo quản hàng hoá được tốt hơn, tiết kiệm chi phí trong khâu vận chuyển , nâng cao chất lượng phục vụ
* Thị trường - khách hàng: Thị trường là một tấm gương trung thực cho các doanh nghiệp tự soi vào để đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có đạt hiệu quả cao hay không phụ thuộc vào mức độ đáp ứng các yêu cầu của thị trường.
Những nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp.
Đây là nhóm nhân tố có tầm ảnh hưởng vĩ mô điều tiết hoạt động doanh nghiệp, nó bao gồm:
* Quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước ta với nước khác: Hoạt động nhập khẩu hoạt động trong một khung cảnh rộng lớn là nền kinh tế thế giới, thị trường quốc tế, đối tượng hợp tác rất đa dạng. Việc mở rộng các mối quan hệ chính trị ngoại giao sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ chức kinh doanh phát triển những bạn hàng mới.
* Hệ thống luật pháp: Nó tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. Hệ thống luật pháp yêu cầu phải động bộ, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế.
* Môi trường chính trị - xã hội: Nhân tố này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhập khẩu. Có đảm bảo ổn định về chính trị, giữ vững môi trường hoà bình và hữu nghị với các nước trên khu vực và trên thế giới thì mới tạo bầu không khí thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
* Môi trường kinh doanh: Phải đảm bảo sự ổn định vĩ mô nên kinh tế trong đó chú ý đảm bảo tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp, khắc phụ sự thâm hụt của cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế nhăm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh, sẽ tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
1.5. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành nên nghiệp vụ ngoại thương. Biểu hiện là việc mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước hoặc nhằm tái sản xuất với mục đích thu lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện mối tương quan gắn bó chặt chẽ với nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên mỗi một thời kỳ đều có đặc điểm riêng, chiến lược phát triển kinh tế riêngvì vậy mà vai trò, nhiệm vụcủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu nhà nước đề ra.
Trên thực tế, một khi nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập vào nền kinh tế thế giới thì vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng trở nên quan trọng, có thể thấy cụ thể là:
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng trong nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao cũng như thị hiếu của người tiêu dùng, làm tăng mức sống người dân, tăng thu nhập quốc dân.
- Nhập khẩu tạo sự chuyển giao công nghệ, do đó có thể tái xuất mở rộng hàng hoá có hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí, tạo ra sự đồng đều về phát triển trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh tích cực giữa hàng nội và hàng nhập khẩu tức là tạo ra động lực cho các nhà sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, tạo đà cho xã hội ngày càng phát triển.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để cơ chế tự cung tự cấp của nền kinh tế đóng.
- Nhập khẩu giải quyết được các nhu cầu đặc biệt như hàng hoá khan hiếm, hàng hoá cao cấp, công nghệ hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được hay khó khăn trong quá trình sản xuất vì nguồn lực khan hiếm.
- Nhập khẩu góp phần khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của một quốc gia, tham gia sâu rộng và sự trao đổi quốc tế và sự phân công lao động quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, từng bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò và nhiệm vụ của hoạt động nhập khẩu còn tuỳ thuộc và quan điểm đường lối lãnh đạo của mỗi nước. Với nước ta, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước quản lý kinh tế đối ngoại tập trung bằng mệnh lệnh, nghị định của chính phủ... làm cho hoạt động nhập khẩu mất đi tính linh hoạt và không đúng với bản chất của nó. Từ sau ĐH VI, nhà nước đã đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với nền kinh tế thị trường thì hoạt động nhập khẩu đang dần khởi sắc và đi vào quỹ đạo của nó.
Tuy chỉ qua một thời gian ngắn mà hoạt động nhập khẩu đã phát huy được vai trò lớn của nó, thực sự đã tạo cho thị trường trong nước trở nên sôi động, đa dạng và phong phú về hàng hoá, vật tư. Tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang chuyển mình hoà nhập với nền kinh tế khu vự và thế giới.
2. các bước tiến hành nhập khẩu tại các doanh nghiệp.
2.1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Nghiên cứu thị trường nhập khẩu là cả một quá trình tìm kiếm khách hàng và có hệ thống cùng với việc phát triển tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề Marketing. Bởi vậy, nghiên cứu thị trường ngày càng đóng vai trò quan trọng để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhập khẩu.
Để nắm vững các yếu tố thị trường hiểu rõ quy luật vận động của thị trường nhăm ứng xử kịp thời, các nhà nhập khẩu nhất thiết phải tiến hành công tác nghiên cứu thị trường, bao gồm: Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng thị trường, lựa chọn bạn hàng, nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
2.1.1. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu.
Mục đích nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu là để tiến hành nhập khẩu đúng chủng loại mà thị trường trong nước cần kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết mặt hàng nhập khẩu trước hết căn cứ vào nghiên cứu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như công dụng, đặc tính, quy cách, phẩm chất, mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán, kỹ năng sản xuất và các dịch vụ kèm theo...
2.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Nghiên cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả năng cung cấp của nhà sản xuất. Nghiên cứu dung lượng của thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường.
2.1.3. Lựa chọn bạn hàng.
Trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc những tổ chức có quan hệ với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá hay dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Chọn thương nhân để giao dịch: Thường chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp. Chúng ta cần quan tâm đến quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, vốn, cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trong nhập khẩu.
Giá cả luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường, nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường, nó bao gồm các công việc sau: Nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Lập phương án kinh doanh.
Bao gồm các bước sau:
- Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
- Đề ra những mục tiêu cụ thể như : sẽ nhập khẩu bao nhiêu với giá cả bao nhiêu, nhập ở thị trường nào và tình hình tiêu thụ hàng hoá đó như thế nào.
- Đề ra biện pháp thức hiện: Bao gồm cả biện pháp đối với trong nước và biện pháp đối với thị trường ngoài.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh
Giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
2.3.1. Các phương thức chủ yếu trong giao dịch nhập khẩu.
Dưới đây là một số phương thức giao dịch cơ bản trong buôn bán quốc tế:
* Giao dịch trực tiếp: Giao dịch trực tiếp trong kinh doanh thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp (hoặc thông qua thư từ, điện tín...) với người bán (người mua) về hàng hoá, giá cả, giao dịch, phương thức thanh toán. Trong phương thức thanh toán này hai bên tiếp cận thị trường hỏi giá, báo giá, chào hàng và đi đến chấp thuận giá cả của hàng hoá đó. Và từ đó đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá.
* Giao dịch qua trung gian: Giao dịch qua trung gian trong kinh doanh Thương mại quốc tế là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) quy định về điều kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán... phải qua một người thứ ba là người trung gian buôn bán(chủ yếu là các cửa hàng đại lý, các tổ chức môi giới). Việc sử dụng đại lý và môi giới có nhiều ưu điểm: Những người trung gian hiểu rõ về tình hình thị trường, luật pháp, tập quán địa phương, giảm được chi phí vận chuyển, hình thành được đại lý buôn bán tiêu thụ rộng, tạo điều kiện cho việc chiếm lĩnh thị trường mới. Tuy nhiên giao dịch này cũng có những nhược điểm là mất liên hệ trực tiếp với khách hàng, thị trường buôn bán, lợi nhuận bị chia sẻ....
* Giao dịch tại hội chợ triển lãm: Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ tổ chức vào một thời gian nhất định. Tại đó người bán trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
* Giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá: Sở giao dịch hàng hoá là thị trường đặc biệt, tại đó thông qua người môi giới do sở giao dịch chỉ định người mua và người bán mua bán hàng hoá có khối lượng lớn có phẩm chất đồng loại và có thể thay thế nhau. Các loại giao dịch ở sở giao dịch là: Giao dịch ngay, giao dịch kỳ hạn, nghiệp vụ tự bảo hiểm...
2.3.2. Đàm phán
Đàm phán thương mại là quá trình trao đổi ý kiến của các chủ thể trong một quan hệ kinh doanh nhằm đi tới thống nhất các điều kiện, cách xử lý những vấn đề nảy sinh trong quan hệ buôn bán. Nội dung của các cuộc đàm phán thương mại gồm: Tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì, đóng gói, giao hàng, giá cả, thanh toán, bảo hiểm, bảo hành...
2.3.3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu.
Một hợp đồng kinh tế ngoại thương là sự thoả thuận giữa những đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên bán (bên xuất khẩu) là một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhập hàng. Hình thức hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị XNK ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó đã có đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng làm cơ sở pháp lý cụ thể cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác, và làm căn cứ cho việc xác định lỗi khi có tranh chấp xảy ra.
2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Sau khi hợp đồng nhập khẩu được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK với tư cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Nói chung cần tiến hành các công việc sau:
- Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu và xin giấy phép nhập khẩu đối với hàng chuyên ngành.
- Kiểm tra chất lượng hàng hoá nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 và Thông tư liên Bộ GTVT- Ngoại thương số 52/TTLB ngày 25/1/1975, hàng nhập khẩu khi đi qua cửa khẩu cần được kiểm tra kỹ càng. Doanh nghiệp nhập khẩu, với tư cách là một bên đứng tên trong vận đơn, phải lập thư dự kháng nếu nghi ngờ hoặc thực sự thấy hàng có tổn thất, sau đó phải yêu cầu công ty bảo hiểm lập biên bản giám định nếu tổn thất xảy ra bởi những rủi ro đã được mua bảo hiểm.
- Thuê tàu chở hoặc uỷ thác thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dựa vào: Những điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải. Chủ hàng nhập khẩu phải căn cứ vào đặc điểm và khối lượng vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn thuê tàu cho phù hợp đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng.
- Mua bảo hiểm: Các chủ hàng nhập khẩu của ta, khi cần mua bảo hiểm, đều mua tại các Công ty Việt nam để đề phòng rủi ro. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm phải làm một hợp đồng với công ty bảo hiểm. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến hay mua bảo hiểm bao. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: Bảo hiểm rủi ro (Điều kiện A), Bảo hiểm có tổn thất riêng (Điều kiện B) và Bảo hiểm miễn tổn thất riêng (Điều kiện C).
- Làm thủ tục Hải quan: Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để nhập khẩu đều phải làm thủ tục Hải quan. Thủ tục Hải quan là một công cụ quản lý hành vi mua bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu. Việc làm thủ tục Hải quan gồm ba bước chủ yếu: Khai báo Hải quan, xuất trình hàng hoá và thực hiện các quyết định của Hải quan.
- Giao nhận hàng nhập khẩu: Theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1973 “ Các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng công ty đã nhập hàng đó”. Và theo NĐ 200/CP ngày 31/12/1993 của nhà nước thì mọi việc giao nhận hàng đều phải uỷ thác qua cảng khi hàng về cảng.
- Làm thủ tục thanh toán: Nghiệp vụ thanh toán là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế, là nghiệp vụ quan trọng và cuối cùng trong việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Trong kinh doanh thương mại hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau như: phương thức nhờ thu, phương thức điện chuyển tiền và phương thức tín dụng chứng từ.
+ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại: Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời gian khiếu nại.3.._. các khái niệm về nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp.
3.1. Các quan điểm về hiệu quả.
Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét.
Nếu xét theo hiệu quả cuối cùng thì: Hiệu quả kinh tế là mức độ chênh lêch giữa doanh số thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đứng trên góc độ này thì phạm trù hiệu quả đông nhất với lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức hoạt động sản xuất - kinh doanh và tổ chức quản lý trong toàn doanh nghiệp.
Nếu đứng trên góc độ các yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất-kinh doanh. Nó phản ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào hoạt động sản xuất-kinh doanh. Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố tham gia quá trình sản xuất-kinh doanh. Đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, phản ánh trình độ của nền sản xuất hàng hoá, sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là do hiệu quả đạt được cao hay thấp, chỉ tiêu hiệu quả phản ánh cả về mặt định lượng và cả về mặt định tính. Về mặt định lượng thì hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất-kinh doanh phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Về mặt định tính nó phản ánh ảnh hưởng của hoạt động sản xuất - kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế, những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội.
Khi đứng trên phạm vi khác nhau để xem xét vấn đề hiệu quả thì có thể chia hiệu quả làm nhiều loaị khác nhau.
Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì gồm có hiệu quả KT- XH và hiệu quả chính trị. Cả hai chỉ tiêu hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế và phạm trù hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế của một hoạt động sản xuất-kinh doanh nhăm đề cập tới những lợi ích kinh tế mà hoạt động đó thu được thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế không phản ánh quy mô, hình thức của hoat động kinh tế mà phản ánh về mặt chất lượng của nó. Trong quá trình phát triển sản xuất xã hội thì nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm và trở nên đắt hơn, người ta thấy rằng kết quả thu được từ các hoạt động đó là rất thấp. Lý luận hiệu quả kinh tế băt nguồn từ yêu cầu thự tế của quá trình sản xuất nhằm diễn giải, đánh giá chất lượng của toàn bộ quá trình hoạt động đó đồng thời tác động tích cực trở lại công tác quản lý, tổ chức kinh doanh được tốt hơn. Vấn đề hiệu quả kinh tế trở thành chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh chung của quốc tế khi đưa ra thảo luận năm 1878 do Sapodơnicop cùng các nhà kinh tế và khoa học khác trình bày. Nhưng mãi tới năm 1910 thì hiệu quả kinh tế mới chính thức được thống nhất và được công nhận băng văn bản. Từ đó tới nay, khái niệm về hiệu quả kinh tê luôn được quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện và trở thành bộ phân quan trọng của kinh tế học trong nền kinh tế thị trường. Quan điểm về hiệu quả kinh tế được chia thành ba hệ thống quan điểm sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất: Cho răng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh tế được đánh giá theo công thức:
Q
H= ------
C
Trong đó: Q : Là kết quả đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Theo cách đánh giá hiệu quả kinh tế của quan điểm này thì số lần đạt được kết quả so với chi phí ngày càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Đại diện cho quan điểm này là Colicop phát biểu: “Hiệu quả sản xuất là tính hiệu quả của một nền sản xuất nhất định. Chúng ta sẽ so sánh kết quả với chi phí cần thiết để đạt kết quả đó. Khi lấy tổng sản phẩm chia cho vốn sản xuất chúng ta được hiệu suất vật tư, tổng sản phẩm chia cho số vật tư ta được hiệu suất lao động ”. Trong cuốn “ Những vấn đề cơ bản về nâng cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội” xuất bản năm 1982, PTS Trần Văn Đức cho rằng: “Hiệu quả kinh tế được xem xét trong mối tương quan giữa một bên là kết quả thu được và một bên là chi phí bỏ ra ”. Tác giả Lê Thụ cũng đã xác định: “Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu tổng hợp nhất về chất lượng của hoạt động
SX-KD. Nội dung của nó là so sánh kết quả thu được và chi phí bỏ ra”.
* Hệ thống quan điểm thứ hai: Cho rằng hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số giữa giá trị sản xuất đạt được và chi phí bỏ ra đẻe đạt được kết quả đó. Theo quan điểm này hiệu quả kinh tế được xác định bằng công thức:
H = Q - C
Trong đó: Q : Là giá trị sản xuất đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Có thể nói hiệu quả kinh tế được tính theo quan điểm này là phần tăng thêm về giá trị từ kết quả thu được so với chi phí bỏ ra. Theo quan điểm này, tác giả Đỗ Thịnh cho rằng: “Thông thường hiệu quả được biểu hiện như một hiệu số giữa kết quả và lượng chi phí... Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều trường hợp không thực hiện được phép trừ không có ý nghĩa. Do vậy nói một cách linh hoạt hơn nên hiểu hiệu quả kinh tế theo quan điểm này là:
Qt - Qt-1
H = --------------
Ct - Ct-1
Trong đó: Qt và Qt-1 : Là kết quả của hai thời kỳ liên kết.
Ct và Ct-1 : Là chi phí tương ứng với Qt và Qt-1.
Quan điểm này thường được dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế trong tổng thể kinh tế - xã hội. Quan điểm tổng thể của LN. Canieop cho rằng: “Hiệu quả của sản xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá trên cơ sở những nguyên tác chung đối với nền KTQD bằng cách so sánh kết quả của sản xuất với chi phí hoặc nguồn dự trữ đã sử dụng.
Từ hệ thống quan điểm hiệu quả kinh tế trên cho thấy khái niệm hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó được hình thành, bổ sung và hoàn thiện cùng với quá trình của lịch sử phát triển kinh tế. Để áp dụng khái niệm hiệu quả kinh tế cho việc phân tích một cách đầy đủ, chính xác các hình thức kinh tế, chúng ta cần kết hợp hài hoà việc sử dụng ba hệ thống quan điểm trên. Mỗi hệ thống quan điểm hiệu quả kinh tế sẽ được áp dụng để phân tích hiện tượng kinh tế theo từng lĩnh vực với mức độ, phạm vi không gian thời gian cụ thể. Chẳng hạn khi phân tích kết quả kinh tế của một hiện tượng mà chỉ chú trọng tới hệ thông quan điểm thứ nhất thì sẽ không được hiệu quả thực của các mức đầu tư tạ các giai đoạn khác của hoạt động kinh tế đó. Điều đó dẫn tới sai sót trong việc hoạch định kết quả quản lý trong tương lai. Thường những ngành đạt tỷ suất nguồn vốn lớn là ngành sản xuất có quy mô nhỏ, có chu kỳ sống của sản phẩm ngắn, mức độ cạnh tranh và rủi ro cao nên việc so sánh hiệu quả của các quy mô sản xuất khác nhau. Xét hiệu qủa kinh tế của hoạt động kinh doanh theo tỷ số giữa gia tăng hiệu quả và gia tăng chi phí tương ứng theo thời kỳ là xét hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư ứng với nền tảng cơ sở vật chất hay nguồn lực đã có sẵn, ứng với các mức đầu tư theo các giai đoạn khác nhau của cùng một hoạt động kinh tế ta đã thu được các mức gia tăng của kết quả là khác nhau.
Vậy, khái niệm hiệu quả kinh tế có thể được mở rộng theo ba hệ thống quan điểm trên là: Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đánh giá một cách tổng quát chất lượng các hoạt động kinh tế thông qua các chỉ tiêu hiệu số, chỉ tiêu so sánh hay sự gia tăng giữa kết quả và chi phí để đạt kết quả đó theo những lĩnh vực trong những điều kiện cụ thể.
Ngoài các công thức tổng quát trên thì hiệu quả kinh tế của một hoạt động kinh doanh được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó chủ yếu là:
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (TLN):
Q - C
TLN = --------
C
Trong đó: Q : Là kết quả thu được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá cơ hội đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác nhau, nó còn dùng để so sánh cơ hội và lãi suất, lạm phát, mức tăng giảm của tỷ giá hối đoái... để có chính sách đúng cho đầu tư tương lai.
- Suất chi phí ( HC):
HC = C/Q.
Chỉ tiêu này biểu hiện tỷ trọng chi phí cần thiết để có được một đơn vị kết quả hay còn gọi là suất tiêu hao. Nó thường được để định giá các sản phẩm trước khi tung ra thị trường.
- Tỷ suất doanh lợi ( Rb):
B + A
Rb = --------- x %
S
Trong đó: B : Lãi.
A : Khấu hao.
S : Tổng số tiền bỏ ra để kinh doanh.
- Thời gian hoàn vốn: ( T ):
S
T = ------------
B + A + I
Trong đó: I : Là khoản trả tiền lợi tức và tiền vay.
- Doanh lợi hoà vốn ( S0).
d
S0 = -------
V
1 - ----
S
Trong đó: d : Những chi phí cố định.
V : Tổng chi phí khả biến.
S : Tổng doanh thu bán hàng.
LN
- Mức sinh lời của vốn lưu động = --------
VLĐ
Trong đó: LN : Lợi nhuận trong kỳ.
VLĐ : Vốn lưu động.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bỏ ra SX - KD thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Số lần chu chuyển vốn lưu động ( L ).
M
L = ----------
VLĐ
Trong đó: M : Tổng doanh thu.
- Mức lợi nhuận đạt được trên một lao động ( PLĐ):
LN
PLĐ = -------
T
Trong đó: T: Tổng số lao động bình quân.
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận mà một lao động làm ra trong kỳ, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
Zt
- Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu = -----
C
Trong đó: Zt : Là giá bán buôn trong nước.
C : Tổng chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ.
Như vậy, các chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả của toàn bộ quá trình SX-KD của toàn doanh nghiệp. Nó là kết quả của sự nỗ lực nhằm nâng cao hiệu hiệu quả SX-KD của doanh nghiệp. Vì thế các chỉ tiêu này càng lớn thì phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố thì phản ánh hiệu quả dụng từng yếu tố tham gia vào quá trình SX-KD của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao, tất cả đều góp phần vào việc nâng cao hiệu quả SX-KD của toàn doanh nghiệp, đồng thời nó cũng phản ánh một khía cạnh nào đóhiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hoạt động nhập khẩu vật tư, thiết bị.
3.2. Sự cần thiết tất yếu phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn SX-KD, nó quyết định sự sống của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả thì càng mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường rộng lớn và tạo uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Do vậy hiệu quả SX-KD của doanh nghiệp là một vấn đề có tầm quan trọng to lớn tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp, buộc họ phải quan tâm nghiên cứu để duy trì và phát triển hoạt động SX - KD của mình. Ngày nay, trên thương trường mà người ta ví rằng “Thương trường như chiến trường” nóng bỏng và kịch liệt như vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì bản thân nó phải luôn luôn không ngừng hoàn thiện và phát triển. Trong quá trình SX-KD, các doanh nghiệp không chỉ nghĩ đến việc đoạt doanh thu hàng năm cao mà còn nghĩ đến việc làm sao để kết quả đạt được năm nay phải cao hơn năm trước cả về số lượng và chất lượng. Sự cần thiết đó xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Các doanh nghiệp, thương nhân luôn mong muốn doanh nghiệp ngày càng thu được nhiều lợi nhuận hơn, ngày càn đem lại nhiều lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội hơn nữa cho bản thân các doanh nghiệp và toàn xã hội. Để đáp ứng được mong muốn đó, các doanh nghiệp cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả nhập khẩu vật tư, thiết bị, có như vậy mới đáp ứng được mong muốn của mình.
- Các doanh nghiệp luôn có tham vọng, mong muốn doanh nghiệp của mình ngày càng được mở rộng, phát triển, ngày càng có vị trí cao và uy tín trên thị trườngnhằm chống chọi với môi trường kinh doanh phức tạp trong cơ chế thị trường hiện nay. Để đạt được điều đó công ty cần phải nâng cao các chỉ tiêu như: Doanh thu, tốc độ chu chuyển nguồn vốn, lợi nhuận, kim ngạch nhập khẩu... Đó chính là những chỉ tiêu hiệu quả thì doanh nghiệp mới thoả mãn được mong muốn của mình trong chiến lược phát triển doanh nghiệp.
- Kinh doanh trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt và chỉ giành thắng lợi khi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh. Do đó, để vượt lên trên các đối thủ cần phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là sự cần thiết khách quan để đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì và phát triển, khẳng định vị trí của mình trên thị trường.3.3. Nâng cao hiệu quả kinh doanh trong hoạt động nhập khẩu.
3.3.1. Hoàn thiện công tác tổ chức kinh doanh nhập khẩu.
Công tác tổ chức kinh doanh có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nếu như vịêc tổ chức kinh doanh càng phù hơp với chức năng, điều kiện của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu thị trường nó sẽ thúc đẩy doanh nghiệp chiếm lĩnh thị phần, thu hút khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, làm tăng tài sản vô hình cho doanh nghiệp. Để hoàn thiện công tác tổ chức kinh doanh nhập khẩu có thể thực hiện các chiến lược sau:
Đa dạng hoá hình thức nhập khẩu.
Hiện nay, trong hoạt động ngoại thương có bốn hình thức nhập khẩu cơ bản, đó là: Nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu uỷ thác, buôn bán đối lưu, nhập khẩu tái xuất. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho tháy nước ta áp dụng hai hình thức nhập khẩu chủ yếu là nhập khẩu trực tiếpvà nhập khẩu uỷ thác. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh XNK phải tìm mọi biện pháp để thực hiện hai biện pháp này có hiệu quả. Ngoài ra, cần phải khai thác nhu cầu tiêu dùng ở thị trường trong nước, xem xét khả năng của doanh nghiệp để kết hợp với các hình thức kinh doanh nhập khẩu khác như nhập khẩu tái xuất nhằm thu lợi nhuận. Trên cơ sở nước nhập khẩu phải có những khó khăn nhất định trong việc nhập khẩu trực tiếp hàng hoá, vật tư đó. Tiến hành nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị đồng thời xuất khẩu sản phẩm cho họ, nhập khẩu hàng hoá kết hợp với tái chế để xuất khẩu hàng hoá đó, làm trung gian xuất nhập khẩu cho họ...
3.3..1.2. Linh hoạt trong giao dịch kinh doanh nhập khẩu
Quá trình kinh doanh nhập khẩu được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều công việc, từ giai đoạn chuẩn bị giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng cho đến tổ chức thực hiện hợp đồng.
Giai đoạn chuẩn bị giao dịch phải được thực hiện hết sức cẩn thận, tỉ mỉ và chu đáo; Linh hoạt trong quá trình nghiên cứu thị trường mà trong đó nghiên cứu hàng hoá, lựa chọ nhà cung cấp phù hợp là quan trọng; Chính xác và hiệu quả trong khâu lập phương án kinh doanh.
Việc đàm phán ký kết hợp đồng ngoài việc gặp nhau trực tiếp cần chú trọng đến một vài hình thức khác nhau như đàm phán ký kết hợp đồng qua điện thoại, thư tín, Fax, mạng Internet...
Phải biết sử dụng nghệ thuật ứng xử trong đàm phán. Biện pháp này rất quan trọng, giúp cho doanh nghiệp giảm được nhiều chi phí, tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó phải linh hoạt trong thủ tục hành chính, cập nhật thông tin, cập nhật chính sách quant lý vĩ mô của nhà nước... tạo thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện hợp đồng.
3.3.1.3. Mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu.
Việc mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu phải đi đôi với việc mở rộng ngành hàng, phát triển thị trường, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh việc xác định mặt hàngnhập khẩu nào là chủ yếu, truyền thống là thế mạnh của doanh nghiệp là tập trung gia tăng về số lượng cũng như chất lượng và giữ gìn, phát triển thị trường đó. Cần phải tìm kiếm và khai thác nhu cầu tiêu dùng và sản xuất trong nước về các loại hàng hoá khác. Từ đó doanh nghiệp nghiên cứu khả năng và tìm kiếm nguồn cung cấp các loại hàng hoá đó trên thị trường thế giới trên cơ sở mối quan hệ và khả năng của doanh nghiệp, lập phương án kinh doanh cho từng mặt hàng. Kinh doanh nhập khẩu nhiều loại hàng hoá, vật tư sẽ có cơ sở chiếm lĩnh nhiều đoạn, nhiều khúc thị trường khác nhau. Từ đó nâng cao được doanh số bán hàng của doanh nghiệp.
3.3.1.4. Thúc đẩy hoạt động khuyếch trương bán hàng.
Suy cho cùng thì việc doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, vật tư có đạt hiệu quả hay không là tuỳ thuộc vào việc hàng hoá, vật tư nhập về có tiêu thụ được hay không. Để tổ chức tốt khâu bán hàng thì điều qua trọng phải thúc đẩy hoat động khuyếch trương bán hàng, đó là một công cụ quan trọng trong chiến lược Marketing trong mỗi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các chiến lược sau:
- Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Làm tốt các hoạt động xúc tiến bán hàng như: Phát không các tài liệu liên quan đến sản phẩm cho khách hàng, bán hàng kèm theo quà thưởng...
- Xây dựng tốt mối quan hệ quần chúng nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng như: Tổ chức hội nghị khách hàng, hội thảo quốc tế, tiến hành các hoạt động tài trợ, từ thiện...
- Tổ chức dịch vụ sau bán hàng như: Doanh nghiệp cần cung cấp tư liệu kỹ thuật như các bản hướng dẫn sử dụng, sơ đồ cấu tạo và các Catalogue hàng hoá, bảo hành bảo dưỡng...
- Các điều kiện ưu đãi trong thanh toán.
- Sử dụng các kỹ thuật yểm trợ như: Mở rộng cửa hàng giới thiệu sản phẩm, tham gia vào các hiệp hội kinh doanh, hội chợ triển lãm...
3.3.2. Mở rộng trị trường.
Kinh doanh trong cơ chế thị trường, chiếm lĩnh thị trường là yêu cầu quan trọng để phát triển doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bên cạnh việc duy trì và mở rộng thị trường chính hiện có của mình, cần phải luôn luôn mở rộng thị trường kinh doanh, phân khúc thị trường hợp lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, có như vậy doanh nghiệp mới đạt hiệu quả kinh doanh cao. Bởi vì, thị trường đóng vai trò hết sức quan trọng cho mỗi doanh nghiệp, thị trường là môi trường kinh tế-xã hội của doanh nghiệp, là tấm gương để các doanh nghiệp nhận biết nhu cầu xã hội và đánh giá kết quả kinh doanh của mình để thông qua đó doanh nghiệp có thể biết được nên kinh doanh cái gì? Thị trường là nơi hình thành các mối quan hệ kinh tế của doanh nghiệp với doanh nghiệp, của doanh nghiệp với toàn bộ nền kinh tế quốc dân... Đối với các doanh nghiệp kinh doanh XNK thì việc mở rộngthị trường có nghĩa là đồng thời mở rộng cả thị trường mua và thị trường bán.
3.3.2.1. Thị trường mua.
Việc mở rộng thị trường mua sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều thị trường khác nhau để nhập khẩu một loại hàng hoá nhất định. Thị trường mua là một thị trường rất quan trọng bởi vì trong đó hoạt động mua có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh chung của doanh nghiệp: Hoạt động mua ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hoạt động mua ảnh hưởng một cách trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh... Vì vậy, sự đa dạng của thi trường mua sẽ cho phép doanh nghiệp tận dụng việc cạnh tranh trong cung cấp hàng hoá, có cơ hội lựa chon nhà cung cấp; Doanh nghiệp thuận lợi trong việc quyết định nhập khẩu loại hàng hoá, vật tư nào? của ai? mà thoả mãn được các yêu đặt ra như: Chi phí thấp nhất, chất lượng hàng hoá cao, các điều kiện về thuế quan, thủ tục hải quan, vận chuyển và các điều kiện ưu đãi về các dịch vụ khác; Doanh nghiệp cũng thuận lợi trong việc thu hút người mua, nhằm tiêu thụ nhanh chóng, tốc độ quay vòng vốn nhanh và đạt lợi nhuận cao. Để mở rộng thị trường nhập khẩu, doanh nghiệp cần thông qua các tổ chức thương mại, tổ chức kinh doanh quốc tế, tổ chức tư vấn hoặc tự kiểm tra, nghiên cứu để xác định xem có bao nhiêu nhà cung cấp cùng một loại hàng hoá, vật tư trên cơ sở cân nhắc về chi phí vận chuyển, chất lượng hàng hoá, các điều kiện cơ sở giao hàng, phong tục tập quán kinh doanh của thị trường... Từ đó, doanh nghiệp quyết định nên nhập hàng từ thị trường nào là tối ưu, đồng thời xác định hợp tác làm ăn lâu dài nếu thấy có lợi.
3.3..2.2. Thị trường bán.
Việc mở rộng thị trường bán sẽ cho phép doanh nghiệp gia tăng số lương hàng hoá nhập khẩu, mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, thúc đẩy gia tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận, nâng cao uy tín và vị trí của doanh nghiệp. Thị trường bán đóng vai trò chủ yếu vì trong đó hoạt động bán hàng có tác động trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện: chỉ có thông qua hoạt động bán hàng các doanh nghiệp mới có thể thực hiện được mục tiêu của quá trình kinh doanh đề ra, chỉ có bán hàng mới nâng cao trách nhiệm của CBCNV trong doanh nghiệp để từng bước cải thiện đời sông của họ. Bán hàng nhằm tăng thị phần cho doanh nghiệp, mở rộng quy mô và phạm vi thị trường hàng hoá; Tối đa hoá doanh thu và lợi nhuận; Bán hàng nhằm phục vụ khách hàng, góp phần vào việc thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đây chính là một khía cạnh chức năng xã hội của doanh nghiệp và tự khẳng định vị trí của minh như một tế bào của nền kinh tế quốc dân. Để mở rộng thị trường bán, các doanh nghiệp cần tập trung vào một số biện pháp sau:
- Để tấn công sang thị trường của đối thủ cạnh tranh các doanh nghiệp cần phải tạo ra ưu thế hơn hẳn cho sản phẩm của mình như: chất lượng, giá cả, các điều kiện mua bán khác, phương thức thanh toán và hoạt động Marketing.
- Để mở rộng thị trường bán loại hàng hoá doanh nghiệp đang nhập khẩu, doanh nghiệp cần phải điều tra, xác định đúng nhu cầu của thị trường về các loại hàng hoá đó một cách linh hoạt như:
+ Với những hàng hoá , vật tư mà việc tiêu thụ thường được tiến hành theo các đơn đặt hàng thì doanh nghiệp có thể xác định câù bằng cách cộng tất cả các khối lượng hàng hoá đã được ký kết theo các mức giá bán, theo chủng loại và thời điểm tiêu thụ.
+ Với các doanh nghiệp đã biết được dung lượng thị trường và thị phần tương đối của doanh nghiệp mình thì có thể xác định cầu bằng công thức:
Nhu cầu TT về hàng hoá của DN = Dung lượng thị trường * Thị phần DN
+ Trong trương hợp các doanh nghiệp không xác định được thị phần của doanh nghiệp mình họ có thể xác định cầu hàng hoá bằng cách lấy dung lượng thị trường trừ đi phần thị trường tương đối của các doanh nghiệp trong một ngành.
+ Đối với những hàng hoá mà đối tượng tiêu dùng đã được chỉ định có thể dựa vào quy mô biên chế và định mức cho phép để xác định nhu cầu thị trường.
Sau khi đã xác định được nhu cầ thị trường sẽ xác định các đối tượng mua cầu sau đó sử dụng các chính sách như: Giao tiệp khuyếch trương, ưu đãi trong thanh toán... để lôi kéo khách hàng.
- Đối với những hàng hoá trong nước có nhu cầu tiêu dùng nhưng doanh nghiệp chưa có điều kiện nhập hay chưa tham gia thì cần phải nhanh chóng tìm kiếm, khai thác thị trường nhập khẩu hấp dẫn, tìm nhà cung cấp phù hợp, kết hợp với các hoạt động Marketing để tiến hành nhập khẩu và tiêu thụ thử để dần dần thâm nhập thị trường hàng hoá đó.
- Đối với những hàng hoá thị trường trong nước có nhu cầu nhưng chưa biết hoặc tiêu thụ ít vì thiếu thông tin về hàng hoá hay không có khả năng thanh toán mà doanh nghiệp có lợi thế về thị trường nhập khẩu thì cần áp dụng phương thức thanh toán linh hoạt, cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng có nhu cầu, kết hợp với các biện pháp kích thích tiêu dùng để có chiến lược kinh doanh nhập khẩu hiệu quả.
3.3.3. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý của doanh nghiệp.
Bộ máy tổ chức quản lý doanh nghiệp có anh hưởng một cách gián tiếp tơi hiệu quả của hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Việc tổ chức bộ máy quản lý hợp lý, gọn nhẹ, làm vịec có hiệu quả, các phong ban và các cán bộ của doanh nghiệp cùng hợp tác chặt chẽ, tận tình trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được nhưngx chi phí không cần thiết, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được nhịp nhàng, công việc kinh doanh được hoàn thành tốt đảm bảo có hiệu quả. Để hoàn thiện bộ máy quản lý cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Nguồn tài nguyên nhân sự: Đây là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày nay chịu tác động bởi một môi trường đầy cạnh tranh và thách đố, điều quyết định hơn nhau hay không là do phẩm chất, trình độ, sự gắn bó của công nhân viên đối với doanh nghiệp - nghĩa là các nhà quản trị phải nhận thức và đề ra chiến lược quản trị tài nguyên nhân sự của mình một cách có hiệu quả. Nguồn nhân lực cần phải thực sự có năng lực, có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với công việc và biết tạo bầu không khí văn hoá lành mạnh cho doanh nghiệp. Đối với nhà quản trị phải biết “Dụng nhân như dụng mộc”, tức là phải biết tuyển chọn đúng người có khả năng, bố chí họ vào chức vụ hoặc công việc thích hợp và tuyển dụng phải đúng thời điểm cần thiết, tránh lãng phí về lao động cũng như chi phí. Kế hoạch này kết hợp với chính sách tiền lương, động viên và thang thưởng sẽ làm cho năng suất lao động cao, giá thành hạ, tinh thần công nhân viên được nâng cao và là động lực để phát triển công ty. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải có các khoá đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho CBCNV để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho họ, mở rộng kiến thức về kinh tế, thương mại, thị trường, luật pháp... có như thế đội ngũ lao động mới đáp ứng được đòi hỏi của công việc ngày càng khó khăn phức tạp, thủ đoạn nghệ thuật kinh doanh ngày càng tinh vi, cơ chế quản lý cũng như hệ thống pháp luật ngày càng chặt chẽ... nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiêp: Đây là một nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có nhiệm vụ vạch ra phương hướng, nhiệm vụ kinh doanh và chịu trách nhiệm điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, bộ máy quản lý phải gọn nhẹ, linh hoạt , tránh tình trạng quản lý chồng chéo gây phiền phức cho cấp dưới, làm chậm tiến độ SX-KD, lãng phí thời gian và chi phí. Các bộ phận, phòng ban phải phối hợp chặt chẽ có hiệu quả trong công việc, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành hiệu quả công việc của mình. Các phòng ban có chức năng, nhiệm vụ cũng như công việc liên quan với nhau cần phải phối hợp chặt chẽ để tiến độ công việc được tiến hành một cách hiệu quả, chẳng hạn như: Phòng kinh doanh XNK, phòng kinh doanh vật tư, phòng kế toán... Việc phối hợp giữa các phong ban này tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp thực hiện tốt công việc giao nhận, tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu, đảm bảo chi phí, thu hồi vốn nhanh. Nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp nói chung.
- Tổ chức bộ máy kinh doanh XNK: Đây là một công việc hết sức quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. Do tính chất phức tạp của hoạt động nhập khẩu, phải tiến hành qua nhiều khâu, nhiều công đoạn, các công đoạn lại có những đặc điểm riêng từ nghiên cứu thị trường, lạp phương án kinh doanh, ký kết hợp đồng cho đến việc tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy, cần phải phân công công việcvà trách nhiệm cho các CBCNV một cách rõ ràng và hợp lý. Mỗi một bộ phận đảm đương những công việc cụ thể và có trách nhiệm, quyền hạn riêng của bộ phận đó. Tiến hành thực hiện công việc thông qua sự phối hợp giữa các bộ phận đó với nhau. Như vây, điều này sẽ quyết định đến chất lượng nội dung của các hợp đồng như: Giá chào, giá mua, chi phí giao dịch, các thiệt hại do chậm trễ, lưu kho, bến bãi, khiếu nại... Do đó quyết định hiệu quả của từng hợp đồng.
Ngoài ra, các CBCNV trong phòng kinh doanh XNK phải nắm vững nghiệp vụ ngoại thương, giao tiếp ứng xử tốt, biết vận dụng nghệ thuật xử thế trong đàm phán ký kết hợp đồng, có đầu óc kinh tế và nhạy cảm với thị trường...
3.3.4. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một đòi hỏi tất yếu trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Nó góp phần làm nâng cao hiệu quả hoạt động SX-KD của doanh nghiệp. Bởi vì vốn là yếu tố đầu vào của quá trình SX-KD, nó quyết định đầu ra và giá thành sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp thương mại, kinh doanh XNK thì thường có đặc điểm là vốn cố định chiếm tỷ trọng nhỏ trong vốn SX-KD, trong đó vốn lưu động quyết định đến hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Cho nên các doanh nghiệp cần cố gắng duy trì một tỷ lệ thấp vốn cố định bằng việc hạn chế mua sắm các tài sản cố định không cần thiết. Đối với vốn lưu động cần phải sử dụng và quản lý tốt. Cần đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn bằng việc đẩy nhanh tiến độ tiêu thụ hàng hoá khi nhập khẩu về, ký kết các hợp đồng tiêu thụ, vạch kế hoạch tiêu thụ hàng hoá trước khi nhập về, tránh việc hàng hoá bị ứ đọng. Đồng thời cần phải hoach định cân đối giữa khả năng tiêu thụ và khối lượng hàng nhập để giảm chi phí tồn kho, dự trữ và phải có biện pháp giải quyết thích hợp đối với hàng tồn kho. Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải chú ý huy động vốn từ các nguồn khác nhau tuỳ theo điều kiện của từng doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì bên cạnh nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp, các nguồn có thể bổ sung là: Quỹ đầu tư phát triển doanh nghiệp trích từ l[ị nhuận, vốn từ liên doanh liên kết, vay tín dụng...
Việc sử dụng vốn vay: Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì nhu cầu về vốn lưu động không ổn định trong năm, có tháng nhu cầu vốn cao nhưng cũng có tháng nhu cầu vốn lại thấp, vì vốn lưu động còn tuỳ thuộc vào nhu cầu nhập khẩu hàng hoá, vật tư trong từng thời kỳ. Do đó, doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch dự kiến nhu cầu vốn lưu động một cách chi tiết để biết rõ nhu cầu về vốn trong từng thời kỳ. Từ đó có kế hoạch vay vốn và xác định kỳ hạn đối với từng loại vốn vay, các doanh nghiệp này cần cố gắng rút ngắn kỳ hạn các khoản vay, để tiện lợi cho việc chuyển đổi vốn và giảm lãi suất phải trả, tránh hiện tượng nhu cầu vốn không cần thiết trong khi vẫn phải trả lãi suất vay vốn.
Các doanh nghiệp kinh doanh XNK nhiều khi có được cơ hội kimh doanh tốt nhưng đồng thời đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, chẳng hạn như nhận được Quota nhập khẩu, hợp đồng kinh tế hoặc khi thị trường có nhiều biến động về giá cả, khi doanh nghiệp muốn nhập khẩu với số lượng lớn nhằm mục đích cạnh tranh. Đây là._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23146.doc