Mục lục
Chương I Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
I. Kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm về kinh doanh - kinh doanh Thương mại.
2. Các loại hình kinh doanh thương mại.
3. Doanh nghiệp thương mại và đặc điểm của Doanh nghiệp thương mại.
4. Tổ chức hoạt động kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
II. Thực chất hiệu quả kinh tế trong Doanh nghiệp thương mại.
1. Khái niệm về hiệ
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty XNK Hàng không AIRIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u quả:.
2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp thương mại.
4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
III. Hệ thống chỉ tiêu đo lường đánh giá hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
1. Yêu cầu đối với hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.
2. Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả kinh doanh.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
1. Những nhân tố bên trong Doanh nghiệp.
2. Các nhân tố từ môi trường bên ngoài.
Chương II Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không Airimex.
I. Một số nét khái quát về Công ty xuất nhập khẩu Hàng không Airimex.
1. Sơ lược về Công ty
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
3. Mô hình tổ chức của Công ty.
4. Chức năng - Nhiệm vụ - Quyền hạn của Công ty:
5. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty:
6. Nguồn vốn kinh doanh: 50
7. Nguồn nhân lực của Công ty: 50
II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty.
1. Đăc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty .
2. Mặt hàng kinh doanh.
3. Quy mô và tốc độ xuất nhập khẩu.
4. Cơ cấu thị trường.
III. Phân tích hiệu quả kinh doanh của Công ty.
1. Kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm qua.
2. Phân tích chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
3. Phân tích các chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả bộ phận.
3.1.1 Hiệu quả sử dụng lao động..
3.1.2 Chỉ tiêu tỷ suất tiền lương. 64
3.2 Hiệu quả sử dụng chi phí của Công ty.
3.2.1 Hiệu quả sử dụng chi phí chung. 67
3.2.2 Chỉ tiêu tỷ suất chi phí. 68
3.3 Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
3.3.1 Hiệu quả sử dụng vốn nói chung. 69
3.3.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động . 71
3.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn cố định. 72
4. Đánh giá chung về tình hình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của Công ty XNK Hàng không AIRIMEX.
Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không Airimex.
I. Phương hướng và mục tiêu hoạt động kinh doanh của Công ty.
1. Phương hướng kinh doanh của Công ty.
2. Mục tiêu kinh doanh của Công ty.
II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1. Nghiên cứu thị trường và giá cả hàng hoá thế giới, lựa chọn bạn hàng giao dịch.
2. Tăng cường các hoạt động quảng cáo chào hàng
3. Củng cố và mở rộng thị trường.
4. Hoàn thiện chính sách phân phối.
5. Xây dựng chính sách thu hút khách hàng và thực hiện tốt công tác ký kết hợp đồng.
6. Đa dạng hoá hình thức kinh doanh và mặt hàng kinh doanh.
7. Nâng cao khả năng quản lý tài chính.
8.Tăng cường công tác sử dụng vốn và hoàn thiện cơ cấu vốn của Công ty.
9. Hoàn thiện quản lý nhân sự trong Công ty.
10. Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho Công ty.
III. Kiến nghị với Nhà nước và tổng công ty Hàng không việt nam.
1. Đối với Tổng công ty Hàng không Việt Nam.
2. Đối với Nhà nước.
lời nói đầu
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt công tác xuất nhập khẩu là một trong ba chương trình kinh tế lớn của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng của mỗi Doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả cao.
Hiệu quả là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của mỗi đơn vị hoạt động kinh doanh. Điều đó hoàn toàn chính đáng và là lý do cơ bản để các Doanh nghiệp cùng tồn tại và phát triển trên thị trường.
Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn không ít những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh doanh thiếu tính khả thi dẫn đến hiệu quả không cao.
Về phương diện lý luận, vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay là rất cần thiết trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, với sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn TS Phạm Công Đoàn, các cô, chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hàng không- AIRIMEX, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX“. làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp của mình và hy vọng đóng góp một phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty xuất nhập khẩu Hàng không nói riêng và các Doanh nghiệp thương mại nói chung.
-Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn trình bày những lý luận cơ bản liên quan đến vấn đề hiệu quả kinh doanh.
Sau đó là đi đến phân tích thực trạng hoạt động của Công ty từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu và những nguyên nhân tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Công ty.
Cuối cùng là đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó để giúp Công ty đưa ra những chính sách hữu hiệu nâng cao hiệu quả kinh doanh.
-Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy hoạt động xuất nhập khẩu trong ba năm (1999-2001)của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX làm tài liệu để nghiên cứu.
-Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: “Một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường “.
Chương II: “Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX “.
Chương III: “Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX “.
Chương I một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
I. kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái niệm về kinh doanh - kinh doanh Thương mại.
1.1. Kinh doanh: là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Kinh doanh được phân biệt khác với hoạt động khác bởi các đặc điểm chủ yếu sau:
- Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện được gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ thể kinh doanh có thể là một cá nhân, hộ gia đình hoặc một Doanh nghiệp.
- Kinh doanh phải gắn liền với thị trường, không có thị trường thì không có khái niệm kinh doanh.
- Kinh doanh phải gắn liền với đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phải biết cách vận động vốn không ngừng.
- Cuối cùng mục đích chủ yếu của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận.
1.2. Kinh doanh thương mại: là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Kinh doanh thương mại trước hết đòi hỏi phải có vốn kinh doanh – vốn kinh doanh là các khoản vốn bằng tiền, tài sản có khác. Có thể lúc đầu vốn là khoản tích lũy, vốn góp, vốn huy động hoặc vốn vay... tất cả các điều đó là thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá. T - H - T’ trong đó T’ = T + (t.
Kinh doanh thương mại đòi hỏi phải thực hiện hành vi mua để bán (buôn bán). Xét trên toàn bộ và cả quá trình hoạt động kinh doanh thương mại là thực hiện hành vi mua hàng (ở đây không phải mua hàng để dùng) mà mua hàng để bán lại cho người khác. Đó là hoạt động buôn bán.
Kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) và hoạt động kinh doanh để thực hiện hành vi mua bán, nhưng sau mỗi kỳ kinh doanh thì phải bảo toàn được vốn và có lãi. Có như vậy mới mở rộng và phát triển được hoạt động kinh doanh.
2. Các loại hình kinh doanh thương mại.
Đổi mới quản lý từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý theo cơ chế thị trường cũng như theo chủ chương của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế nhiều thành phần đã như một đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh thật sự sẽ sôi nổi hơn rất nhiều. Các loại hình kinh doanh hiện nay cũng trở nên phong phú đa dạng hơn. Nhưng có thể quy về 3 loại hình kinh doanh cơ bản sau:
2.1. Kinh doanh chuyên môn hoá: Doanh nghiệp chỉ kinh doanh một loại hàng hoá nhất định cùng công dụng tính năng kỹ thuật. Ưu điểm của loại hình kinh doanh này là mặt hàng mà Doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, mặt hạn chế đó là việc Doanh nghiệp rất khó khăn khi chuyển đổi mặt hàng kinh doanh.
2.2. Kinh doanh tổng hợp: Doanh nghiệp tổ chức kinh doanh rất nhiều loại hàng hoá khác nhau. Trong khuôn khổ luật pháp cho phép thì Doanh nghiệp có thể kinh doanh bất kỳ loại hàng hoá nào mà đem lại lợi nhuận.
Ưu điểm của loại hình kinh doanh này là Doanh nghiệp có thể tận dụng được tối đa tiềm lực từ cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động, luôn mở rộng phạm vi hoạt động. Loại hình kinh doanh này luôn thích ứng được các thay đổi về nhu cầu thị trường có thể chuyển hướng kinh doanh nhanh, đồng thời hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Nhưng hạn chế của loại hình kinh doanh này là không chuyên môn hoá sâu sắc được mặt hàng kinh doanh, tính nhạy bén với thị trường nào đó bị giới hạn bởi sự dàn trải năng lực Marketting. Ngoài ra, do tính chuyên dụng không cao nên hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường.
2.3. Đa dạng hoá kinh doanh trên cơ sở ngành hàng chiến lược và lĩnh vực kinh doanh.
Khi nói đến đa dạng hoá kinh doanh thì chúng ta phải hiểu đa dạng hoá kinh doanh trên hai mặt: đa dạng hoá về mặt hàng kinh doanh và đa dạng hoá về lĩnh vực kinh doanh. Kinh doanh theo loại hình này Doanh nghiệp phải dựa trên cơ sở một ngành hàng chiến lược, một lĩnh vực cơ bản. Vấn đề ở đây là phải xác định được mặt hàng chiến lược phù hợp với khả năng của Doanh nghiệp mình và có sức cạnh tranh cao. Đây là loại hình kinh doanh tiến bộ có thể khắc phục được nhược điểm của hai loại hình mà ta vừa nghiên cứu ở trên. Nhưng loại hình này đòi hỏi rất cao về năng lực khả năng kinh nghiệm và chuyên môn của đội ngũ lãnh đạo, quản lý và sự năng động nhạy bén trước những biến đổi nhu cầu của thị trường.
3. Doanh nghiệp thương mại và đặc điểm của Doanh nghiệp thương mại.
3.1. Khái niệm Doanh nghiệp thương mại .
Doanh nghiệp thương mại ra đời do sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa trong sản xuất: một bộ phận những người sản xuất tách ra chuyên đưa hàng ra thị trường để bán, dần dần công việc đó được cố định vào một số người và hình thành các đơn vị các tổ chức kinh tế chuyên làm nhiệm vụ bán hàng hoá đó để thu lợi nhuận, những người đó được gọi là thương nhân. Đầu tiên Doanh nghiệp thương mại được xem như là Doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các công việc mua bán, sau này do sự cạnh tranh và phát triển đa dạng phức tạp hơn thì xuất hiện các dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại do đó Doanh nghiệp thương mại được hiểu như là Doanh nghiệp chủ yếu thực hiện các hoạt động thương mại.
Các hoạt động thương mại bao gồm:
Mua bán hàng hoá.
Dịch vụ thương mại (vận chuyển, đại lý..).
Xúc tiến thương mại (quảng cáo, hội chợ...).
Tùy theo từng mô hình tổ chức mà các Doanh nghiệp thương mại có thể được phân thành các trung tâm, các xí nghiệp, các hãng. Bài luận văn của tôi đi sâu vào nghiên cứu Doanh nghiệp thương mại là Công ty.
3.2. Các đặc điểm chủ yếu của Doanh nghiệp thương mại.
+ Đối tượng lao động của Doanh nghiệp thương mại là các sản phẩm hàng hoá hoàn chỉnh (hàng hóa đã kết thúc sản xuất đi vào lưu thôngđể tiêu dùng). Bởi vậy, ta thấy Doanh nghiệp thương mại là trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, do vậy mà nhiệm vụ của Doanh nghiệp thương mại không phải là việc tạo ra giá trị sử dụng, giá trị mới mà là thực hiện giá trị thông qua trao đổi. Từ những đặc trưng này mà Doanh nghiệp thương mại có vai trò đưa vào tiêu dùng những sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, nó đã hạn chế được những hàng hoá kém phẩm chất và hàng giả.....
+ Trong quá trình kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại nhân vật trung tâm là khách hàng. Nhiệm vụ của Doanh nghiệp thương mại là mua hàng hóa để bán lại, do vậy nếu không có khách hàng thì Doanh nghiệp không thực hiện được chỉ tiêu H - T’ không thực hiện được giá trị hàng hoá. Bởi vậy, mọi hoạt động của Doanh nghiệp thương mại đều tập trung vào khách hàng, đáp ứng tối đa độ thỏa mãn nhu cầu. Điều này khác với Doanh nghiệp sản xuất ở chỗ mọi hoạt động của Doanh nghiệp sản xuất đều hướng vào phục vụ người lao động (giảm nhẹ cường độ lao động, đảm bảo an toàn lao động, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động...) và hướng vào sản phẩm (đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, sáng chế ra những sản phẩm mới....) để hàng hoá tung ra thị trường được chấp nhận.
+ Doanh nghiệp thương mại là loại hình Doanh nghiệp phải sử dụng lao động sống. Do vậy khách hàng là nhân vật trung tâm trong hoạt động kinh doanh nên nhu cầu của họ là rất đa dạng. Nó không chỉ đơn thuần là việc bày hàng ra bán và thu tiền mà phải tiếp xúc với khách hàng, chỉ dẫn, tư vấn nên cần phải có nhiều nhân viên hướng dẫn. Do đó dẫn đến việc tốn nhiều chi phí tiền lương do sử dụng nhiều lao động làm giảm lợi nhuận kinh doanh. Như vậy việc cấp bách hiện nay là cần phải tiếp cận cách quản lý, phương thức, công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động, văn minh thương mại, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nâng cao được lợi nhuận và uy tín cho Công ty.
+ Doanh nghiệp thương mại có đặc thù liên kết tất yếu với Doanh nghiệp khác theo luật lệ thị trường. Trên phương diện tổ chức liên kết kỹ thuật, sự liên kết giữa các Doanh nghiệp trong ngành thương mại có vẻ khá lỏng lẻo, không như ngành sản xuất. Nhưng xét trên góc độ kinh tế xã hội chúng lại có sự liên kết với nhau khá chặt chẽ thông qua luật thành văn và không thành văn. Sự liên kết này có tính phường hội hết sức chặt chẽ và nghiêm minh. Liên kết này chống lại các thế lực cạnh tranh, co ép giá hay nói cách khác không bị phá giá trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Tổ chức hoạt động kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
Hiểu một cách đơn giản, Doanh nghiệp thương mại là doanh nghiệp chủ yếu thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và cho xã hội. Do vậy ta có thể đưa ra mô hình sau:
Hàng Hàng
Tiền Tiền
Cung ứng Tiêu thụ
Như vậy có thể xem hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại qua hai hoạt động đặc trưng là tiêu thụ hàng hoá và cung ứng hàng hoá.
4.1. Cung ứng hàng hoá.
Cung ứng hàng hoá là việc tổ chức nguồn hàng nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại được bắt đầu từ việc tổ chức mua hàng, kết thúc là việc bán hàng. Như vậy muốn có hàng để bán trên thị trường thì Doanh nghiệp luôn luôn phải được cung ứng hàng hoá.
Đối với Doanh nghiệp thương mại, việc tổ chức nguồn hàng nhằm tạo điều kiện vật chất cho lưu chuyển hàng hoá, để lưu thông được tiến hành thường xuyên liên tục, góp phần thực hiện chức năng và mục tiêu của Doanh nghiệp. Đồng thời còn thể hiện sức mạnh kinh tế của Doanh nghiệp để cạnh tranh với các Doanh nghiệp khác trên thị trường.
Tổ chức nguồn hàng tạo điều kiện thoả mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về mặt số lượng, chất lượng để nâng cao mức sống của mọi thành viên trong xã hội, đồng thời góp phần ổn định giá cả thị trường.
Nếu tổ chức tốt cung ứng hàng hoá thì:
+ Luôn đảm bảo tính thường xuyên đều đặn của Doanh nghiệp.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của Doanh nghiệp.
+ Thực hiện các mục tiêu các thành phần tham gia Doanh nghiệp.
Như vậy tổ chức nguồn hàng được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các Doanh nghiệp thương mại nhằm tạo ra nguồn hàng dồi dào về mặt số lượng, cơ cấu đảm bảo, thời gian phù hợp, giá cả hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường.
4.1.1. Mua hàng trong Doanh nghiệp thương mại.
Mua hàng nhằm cung cấp hàng cho Doanh nghiệp một cách thường xuyên đều đặn và kịp thời. Với hoạt động mua hàng cần nắm chắc tình hình biến động cung cầu trên thị trường nhằm dự đoán một cách chính xác số lượng cần mua. Nhờ đó mà Doanh nghiệp có thể tránh được những trường hợp như mua quá tải dẫn đến ứ đọng hàng hóa... Hoặc mua ít, không đủ lượng hàng bán làm gián đoạn thời gian lưu thông, ảnh hương tới kết quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
4.2.2. Dự trữ hàng hoá.
Hoạt động này nhằm phục vụ bán hàng được liên tục, không bị gián đoạn kinh doanh. Dự trữ hàng hoá là rất cần thiết nhưng nó lại mang tính hai mặt. Nếu dự trữ ít không đủ hàng để bán dẫn đến tình trạng “sốt hàng “ thì lúc này sẽ mất đi một khoản lợi nhuận rất lớn. Ngược lại, nếu dự trữ nhiều quá sẽ gây ứ đọng hàng dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn không thu được hồi được vốn nhanh làm quá trình quay vòng vốn chậm và sẽ làm mất thêm một khoản chi phí cho việc bảo quản hàng hoá. Vì vậy cần có số lượng và cơ cấu dự trữ hợp lý, góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh và quay vòng vốn.
4.2. Tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ hàng hoá là hoạt động đặc trưng, chủ yếu của Doanh nghiệp thương mại, là khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh hàng hoá. Tiêu thụ hàng hoá được thực hiện thông qua hoạt động bán hàng của Doanh nghiệp nhờ đó hàng hoá được chuyển thành tiền, thực hiện vòng chu chuyển vốn trong Doanh nghiệp và chuyển tiền tệ trong xã hội.
Tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu và chiến lược mà Doanh nghiệp theo đuổi, thúc đẩy vòng quay của quá trình tái sản xuất, qua đó tái sản xuất và tái sản xuất sức lao động được mở rộng góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Tiêu thụ hàng hoá theo nghĩa đầy đủ là quá trình gồm nhiều hoạt động: Nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng, lựa chọn kênh phân phối, các chính sách và các hình thức bán hàng, tiến hành quảng cáo, các hoạt động xúc tiến bán hàng... Nhưng ở bài này ta chỉ nghiên cứu những vấn để cơ bản cụ thể như sau:
4.2.1. Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là những xuất phát điểm của kế hoạch kinh doanh của các Doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường là việc phân tích mặt lượng và mặt chất của thị trường. Tức là cung, cầu thực thụ hoặc tiềm tàng của một sản phẩm, một dịch vụ để soản thảo những quyết định thương mại. Nghiên cứu thị trường để làm rõ các yếu tố cấu thành nên thị trường như cung, cầu, giá cả và cạnh tranh để tìm ra phương thức kinh doanh có hiệu quả nhất. Nghiên cứu thị trường giúp phát hiện những cơ hội, tăng khả năng thành công giảm được những nguy cơ rủi ro. Nghiên cứu thị trường thực hiện 3 mục tiêu cụ thể hay nói cách khác là giúp Doanh nghiệp giải đáp được 3 câu hỏi: Kinh doanh cái gì? Kinh doanh như thế nào? Đáp ứng nhu cầu của ai?
4.2.2. Xác lập kênh phân phối.
Kết quả tiêu thụ hàng hoá trong Doanh nghiệp thương mại phụ thuộc vào việc sử dụng các hình thức phương pháp và nghệ thuật bán hàng, thiết lập và sử dụng hợp lý các kênh phân phối, có chính sách đúng đắn thực hiện tốt kế hoạch tiêu thụ hàng hoá của Doanh nghiệp.
Việc lựa chọn kênh phân phối là do tính đặc thù của hàng hoá, tính chất thị trường, tập quán, thói quen tiêu dùng và dựa vào quy mô, năng lực của Doanh nghiệp. Để từ đó Doanh nghiệp thương mại xác lập kênh tiêu thụ dài hay ngắn, trực tiếp hay gián tiếp.
Phương thức bán hàng cũng được nghiên cứu và lựa chọn sao cho thích hợp đảm bảo tiêu thụ hàng hoá nhanh nhất có thể. Doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức bán buôn, bán lẻ hoặc cả hai.
4.2.3. Bán hàng.
Bán hàng là khâu cuối cùng của tiêu thụ hàng hoá, nó gồm 3 giai đoạn: chuẩn bị bán, tiến hành bán và những công việc sau bán. Đây là khâu rất quan trọng liên quan đến quyết định mua của khách hàng. Việc bán hàng là rất quan trọng, nhưng công việc sau bán hàng cũng rất quan trọng. Đó là việc cung cấp những dịch vụ cho khách. Đây là yếu tố thu hút khách hàng quay lại với Doanh nghiệp và đó là một vũ khí trong cạnh tranh.
Để tổ chức tốt tiêu thụ hàng hóa, Doanh nghiệp không những phải làm tốt mỗi khâu công việc mà còn phải phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu kế tiếp giữa các bộ phận tham gia trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình tiêu thụ hàng hoá của Doanh nghiệp.
Mở rộng tiêu thụ hàng hoá là điều kiện cơ bản để Doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện tốt các mục tiêu của Doanh nghiệp.
II. thực chất hiệu quả kinh tế trong Doanh nghiệp thương mại.
1. Khái niệm về hiệu quả.
Trước tiên để hiểu được thấu đáo về hiệu quả kinh doanh thì ta hãy xem xét những lý luận cơ bản của nó. Mặc dù đã có sự thống nhất về phạm trù hiệu quả kinh tế song lại có rất nhiều những lý luận khác nhau do đứng trên góc độ nghiên cứu khác nhau. Ta có thể nghiên cứu qua một số quan điểm sau đây:
- Có quan điểm cho rằng kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế là doanh thu trong tiêu thụ hàng hoá. Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của viên nghiên cứu kinh tế thuộc Viện LX (cũ) đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhịp độ tăng của các chỉ tiêu đó. Ngày nay quan niệm như vậy là không còn phù hợp. Vì theo quan điểm này thì hiệu quả kinh tế chỉ đạt được trong tiêu thụ hàng hóa hay là tốc độ tăng thu nhập quốc dân không phản ánh được bản chất kinh doanh của Doanh nghiệp. Vì hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp đạt được là do nhiều yếu tố tạo thành có thể là do trình độ sử dụng nguồn lực của Doanh nghiệp do tiết kiệm được chi phí hay là do mở rộng quy mô kinh doanh.... Hơn nữa, kết quả sản xuất có thể tăng lên do tăng chi phí hoặc mở rộng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này là chưa hợp lý.
- Nhưng có quan điểm khác cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bằng nhịp độ tăng tổng sản phẩm xã hội hoặc thu nhập quốc dân. Hiệu quả sẽ cao khi các nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó cao nhưng nếu như chi phí sản xuất hoặc các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn thì sao? Hơn nữa, điều kiện sản xuất năm hiện tại khác với năm trước. Các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế có những ảnh hưởng khác nhau, việc chọn năm gốc có ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh. Với mỗi năm gốc khác nhau thì lại có mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu. Theo quan điểm này đã phần nào đề cập tới mối tương quan so sánh giữa các thời kỳ để thấy được hiệu quả kinh tế. Nhưng chưa đầy đủ chưa nói được cụ thể thế nào là hiệu quả. Do vậy trong quá trình nghiên cứu đứng trên góc độ thương mại tôi thấy rằng hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh là sự mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà Doanh nghiệp đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được lợi ích đó.
Để hoạt động, doanh nghiệp thương mại phải có các mục tiêu hành động của mình trong từng thời kỳ. Đó có thể là các mục tiêu xã hội cũng có thể là mục tiêu kinh tế của chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để đạt các mục tiêu đó với chi phí thấp nhất. Đó là hiệu quả.
- Hiệu quả của Doanh nghiệp bao gồm 2 bộ phận:
+) Hiệu quả kinh tế.
+) Hiệu quả xã hội.
+) Hiệu quả kinh tế: Thực chất của hiệu quả kinh tế là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian nó biểu hiện trình độ sử dụng các nguồn lực của Doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu đã xác định. Quy luật tiết kiệm thời gian là quy luật tồn tại trong nhiều phương thức xã hội khác nhau. Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó. Nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất. Vậy tóm lại, hiệu quả kinh tế là phạm trù khách quan phản ánh trình độ và năng lực quản lý đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế xã hội đặt ra trong từng thời kỳ với chi phí nhỏ nhất. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các Doanh nghiệp.
Xét trên góc độ tuyệt đối thì hiệu qủa kinh tế được thể hiện thông qua sự chênh lệch giữa kết quả và chi phí.
Công thức:
HQ = KQ - CF
Trong đó: HQ là hiệu quả đạt được trong một thời kỳ nhất định.
KQ là kết quả đạt được trong thời kỳ đó.
CF là chi phí bỏ ra để đạt được kết quả.
Đây là hiệu quả tuyệt đối cho thấy mức chênh lệch giữa kết quả và chi phí, mức chênh lệch này càng cao thì hiệu quả càng lớn. Cách so sánh này rất đơn giản và dễ tính nhưng nó chỉ cho ta thấy một cách tổng quát chung nhất mà nó không đánh giá được chất lượng hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Thứ hai là không so sánh được giữa các thời kỳ với nhau, không đáp ứng được yêu cầu lý luận ta nghiên cứu ở phần trên. Thứ ba là không phản ánh được tiềm năng nội lực để nâng cao hiệu quả.Thứ tư là khó tách biệt được giữa hiệu quả và kết quả trong tính toán.
- Xét trên góc độ tương đối thì hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua tỉ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí theo công thức:
HQ = KQ - CF
Cách tính này cụ thể hơn so với cách tính trên. Nó phản ánh được hiệu quả ở mọi góc độ khác nhau. Tuy nhiên cách đánh giá này khá phức tạp nên đòi hỏi phải có quan điểm thống nhất khi lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả.
Như vậy suy cho cùng khi đánh giá hiệu quả của một Doanh nghiệp thì ta cần phải xem xét cả hai mặt đó là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội một cách đồng bộ. Vì hiệu quả kinh tế không đơn thuần là các thành quả kinh tế vì trong kết quả và chi phí kinh tế có các yếu tố nhằm đạt hiệu quả xã hội. Tương tự hiệu quả xã hội tồn tại phụ thuộc vào kết quả và chi phí nảy sinh trong hoạt động kinh tế.
+) Hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả xã hội là một đại lượng phản ánh mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được đối với xã hội và môi trường. Thực chất đó là sự tác động tích cực hay tiêu cực từ các hoạt động của con người trong đó có các hoạt động kinh doanh. Hiệu quả xã hội thường được biểu hiện thông qua mức độ thoả mãn nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của người dân, cải thiện điều kiện lao động, nghỉ ngơi, nâng cao trình độ nhận thức văn minh cho người lao động, cải tạo và bảo vệ môi sinh góp phần tích cực cho sự bền vững xã hội.
- Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan hệ gắn bó với nhau như hai mặt của một vấn đề. Hai mặt này phản ánh những khía cạnh khác nhau của một vấn đề kinh doanh nhưng lại không tách rời nhau. Không thể có hiệu quả xã hội mà không có hiệu quả kinh tế và ngược lại hiệu quả kinh tế là cơ sở nền tảng cho hiệu quả xã hội. Bất kỳ một quá trình hiện tượng kinh tế nào cũng bao hàm hai mặt: Tính xã hội và tính kinh tế. Do vậy chúng ta cần phải xem xét tính hiệu quả xã hội của Doanh nghiệp. Bàn về mối quan hệ khăng khít giữa hai phạm trù này V.I.Lênin đã viết: “Tôi cương quyết không hiểu sự khác biệt này có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ có thể có tính kinh tế bên ngoài xã hội “.
Trong kinh doanh thương mại hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh sự đóng góp của Doanh nghiệp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nền kinh tế quốc dân biểu hiện thông qua việc thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động, góp phần làm cho sự lưu thông hàng hoá được thuận tiện, lành mạnh.
2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế rất rộng phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Để có thể hiểu được bản chất của nó cần phân biệt rõ giữa hiệu quả và kết quả.
- Có thể hiểu kết quả là chỉ tiêu kinh tế phản ánh lợi ích kinh tế mà Doanh nghiệp thu được trong hoạt động kinh doanh của mình. Bất cứ một hành động nào của con người đều đạt tới một kết quả nào đó, cho dù là kết quả tốt hay xấu. Trong kinh doanh kết quả cần đạt được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của Doanh nghiệp. Kết quả đó có thể cân đo đong đếm như sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận.... và cũng có thể là các đại lượng phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như: uy tín, chất lượng sản phẩm. Nhưng đối với Doanh nghiệp thì kết quả đó không cho thấy trình độ quản lý, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của Doanh nghiệp mà phải thông qua khái niệm hiệu quả.
- ở công thức trên ta thấy hiệu quả kinh doanh bao gồm tất cả kết quả và chi phí đều được tính bằng cả hai loại đơn vị hiện vật và giá trị. Nhưng khi đo bằng đơn vị hiện vật thì khó xác định do tính không đồng nhất về đơn vị đo lường nên người ta thường tính hiệu quả theo đơn vị giá trị được biểu hiện bằng tiền tệ.
Như vậy hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo quan trọng là “đồng tiền “.
Từ đó ta thấy bản chất của hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả l._.ao động xã hội. Nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nguồn lực xã hội.
Mở rộng hơn lý luận về hiệu quả kinh tế trong Doanh nghiệp thương mại quốc tế ta thấy rằng:
Nâng cao hiệu quả kinh tế kinh doanh thương mại quốc tế là một nhân tố quyết định để chúng ta tham gia vào phân công lao động quốc tế nhằm thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
Kinh doanh thương mại quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu sẽ đem lại lợi ích cho nền kinh tế quốc dân nói chung bằng cách đa dạng hoá hoặc làm tăng khối lượng giá trị sử dụng cho nền kinh tế quốc dân. Mặt khác làm tăng thu nhập quốc dân nhờ thu được lợi thế so sánh trong trao đổi với nước ngoài tạo thêm tích luỹ cho quá trình sản xuất trong nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân trong nước.
3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp thương mại.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường như hiện nay chúng ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại là một hoạt động rất đa dạng và phong phú. Vì vậy muốn đánh giá tốt các vấn đề về hiệu quả kinh doanh thì phải phân tích cụ thể các chỉ tiêu vì thông qua các chỉ tiêu đó người ta có thể rút ra được tính hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Khi phân tích và đánh giá hiệu quả phải căn cứ vào mục tiêu của Doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của mình các nhà Quản trị Doanh nghiệp thường đạt ra nhiều mục tiêu hoạt động đó là các kết quả mà Doanh nghiệp phải phấn đấu để đạt được. Như vậy mục đích chính trong kinh doanh của Doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận, lợi nhuận là số tiền thu được lớn hơn chi phí bỏ ra. Nhưng lợi nhuận ở đây chưa phản ánh đầy đủ được lợi ích mà Doanh nghiệp đạt được(đối với nền kinh tế quốc dân). Đối với một Doanh nghiệp lợi nhuận là một tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế. Nhưng ở đây khi nói đến hiệu quả của một Doanh nghiệp là phải nói đến hai mặt tồn tại song song đó là hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế. Do đó đối với hiệu quả kinh tế thì lợi nhuận là một phần của giá trị mới mà Doanh nghiệp tạo ra được trong kinh doanh – Giá trị gia tăng .
Vậy đối với hiệu quả xã hội thì chính bộ phận giá trị gia tăng đó dùng để trả lương cho người lao động, hình thành nên nguồn thu nhập cho xã hội, là bộ phận quan trọng trong thu nhập quốc dân như: nộp thuế, trả lãi tiền vay...
Bởi vậy, khi phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế của các Doanh nghiệp thì phải đặt nó trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp với hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
Bất cứ một Doanh nghiệp nào muốn thành đạt trong sự nghiệp kinh doanh đều phải quan tâm đến năng suất, chất lượng và hiệu quả. Song làm thế nào để đạt được điều đó?
Nâng cao hiệu quả kinh doanh đó chính là việc đưa ra các biện pháp hợp lý dựa trên việc nghiên cứu môi trường kinh doanh và thực trạng nhằm đưa hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp nghiệp phát triển. ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở nước ta đã xuất hiện không ít những nhà Doanh nghiệp đầy tài năng. Mỗi Doanh nghiệp đều có những triết lý phong cách quản lý riêng. Nhưng tất cả họ đều chung một mục tiêu đó là: Phát triển không ngừng Doanh nghiệp của mình. Vì vậy, họ luôn tìm mọi cách để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bởi vậy, hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất lượng hoạt động kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của Doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao Doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh, đầu tư mua sắm trang thiết bị. Hơn nữa Doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao, sẽ thực hiện đầy đủ hơn nữa nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và người lao động.
- Đối với Nhà nước: Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp Doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước bằng các khoản thuế, lệ phí... Như chúng ta đã biết mỗi Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế và 80% ngân sách Nhà nước là lấy từ thuế, do đó để có một xã hội phồn vinh dân giàu nước mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp là điều kiện không thể thiếu.
- Đối với bản thân Doanh nghiệp: Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cơ bản để Doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình trong suốt thời gian hoạt động, nó tạo điều kiện để mở rộng quy mô, tăng lợi nhuận, tăng uy tín cho Doanh nghiệp, tăng vị thế cạnh tranh của Doanh nghiệp trên thị trường, đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của Doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
- Đối với người lao động: Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp họ đảm bảo công ăn việc làm, công việc ổn định tăng thu nhập, tạo điều kiện cải thiện đời sống tinh thần vật chất, điều kiện làm việc được tốt hơn và đạt được những vinh quang trong nghề nghiệp.
- Đối với người cung ứng: Cũng nhận được một phần lợi ích thông qua hoạt động cung ứng cho Doanh nghiệp góp phần tăng cường được các mối quan hệ bạn hàng, hạn chế được những rủi ro nhờ các mối liên kết kinh doanh tin cậy và bền vững.
Tóm lại, việc nghiên cứu hiệu qủa kinh doanh và nắm bắt được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh là tiền đề tốt cho mỗi Doanh nghiệp thương mại tự đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình một cách thực chất và định hướng cho tương lai đúng đắn nhằm quyết tâm khai thác tối đa mọi tiềm lực để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trên cơ sở tăng cường tích luỹ để đầu tư tái sản xuất kinh doanh cả chiều sâu lẫn chiều rộng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho toàn nền kinh tế quốc dân.
* ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại.
+ Đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp: Kinh doanh là một quá trình bao gồm nhiều khâu từ nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường cho đến việc phân phối tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì nhà lãnh đạo cần nhận thức mình nên kinh doanh gì? Kinh doanh như thế nào? Với chi phí là bao nhiêu? Lợi nhuận thu về là bao nhiêu?.... sẽ không có vấn đề gì nếu nguồn lực là vô hạn. Người ta có thể sử dụng nguồn lực một cách bừa bãi và lãng phí. Nhưng trên thực tế, nguồn lực là một phạm trù hữu hạn trong khi đó nhu cầu của con người là vô hạn. Do vậy, của cải đã khan hiếm lại càng khan hiếm hơn theo cả nghĩa tương đối lẫn nghĩa tuyệt đối. Từ đó bắt buộc con người phải tìm những phương án kinh tế tối ưu.
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển kinh tế theo chiều rộng kết thúc nhường lại cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu để đạt được điều đó là vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Như vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh là việc sử dụng các yếu tố đầu vào hợp lý nhưng kết quả đem lại là cao nhất. Trong điều kiện các nguồn lực khan hiếm việc nâng cao hiệu quả kinh doanh lại càng trở nên quan trọng đối với bất kỳ loại hình Doanh nghiệp nào. Tuy nhiên, sự lựa chọn mục tiêu kinh tế của các Doanh nghiệp trong các cơ chế kinh tế khác nhau là không giống nhau. Cụ thể là: Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung các Doanh nghiệp đều nhằm mục tiêu là hoàn thành kết hoạch Nhà nước giao cho, còn trong nền kinh tế thị trường như hiện nay mục tiêu của các Doanh nghiệp là không những hoàn thành kế hoạch một cách suất sắc mà còn đem lại lợi nhuận cao.
Mặt khác, nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện giúp cho các Doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh thực hiện tốt các mục tiêu và nhiệm vụ kinh doanh của Doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là một yếu tố phát triển bền vững. Vì vậy, nó mang ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
+ Đối với sự phát triển xã hội: Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp sẽ góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế chính trị của đất nước: Tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp cũng như các tệ nạn xã hội. Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển văn minh tiêu dùng từ đó phát triển văn hoá xã hội. Từ đó tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội của Doanh nghiệp cũng như các chủ trương chính sách mà Đảng và Nhà nước đề ra.
III. Hệ thống chỉ tiêu đo lường đánh giá hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệp thương mại.
1. Yêu cầu đối với hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Để đảm bảo tính đúng đắn và tính thống nhất của việc đánh giá và đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh người ta đưa ra một hệ thống chỉ tiêu đánh giá và đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh. Về phương diện tính toán thống kê chỉ tiêu đánh giá và đo lường là chỉ tiêu tương đối. Nó phản ánh một đơn vị đầu vào thì sẽ cho ra bao nhiêu đơn vị đầu ra. Mức độ hiện tượng mà ta cần nghiên cứu trình độ phổ biến được đạt ở tử số, còn mức độ của hiện tượng có quan hệ được đặt ở mẫu số. Kết quả kinh doanh của hoạt động kinh doanh gồm nhiều đại lượng và đầu vào của nó cũng có nhiều chỉ tiêu. Vì vậy hiệu quả kinh doanh được xác định bằng một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Các chỉ tiêu của hệ thống phải phản ánh hiệu quả kinh doanh của đơn vị một cách tổng quát cũng như riêng biệt từng yếu tố tham gia vào hoạt động kinh doanh. Do đó trong hệ thống chỉ tiêu phải có các chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải đảm bảo tính hệ thống và tính toàn diện. Tính toàn diện ở đây thể hiện ở chỗ các chỉ tiêu phải nêu được các yếu tố, các khâu, các bộ phận trong quá trình kinh doanh.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải thể hiện mối quan hệ giữa kết quả kinh tế và việc thực hiện chức năng của đơn vị.
+ Các chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải có sự liên hệ với nhau, có phương pháp tính toán cụ thể thống nhất. Các chỉ tiêu phải có phạm vi sử dụng nhất định của công tác đánh giá.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả phải hình thành trên cơ sở những nguyên tắc chung có hiệu quả, nghĩa là phản ánh được trình độ sử dụng lao động sống và lao động vật hoá thông qua việc so sánh giữa kết quả và chi phí. Trong đó, các đại lượng kết quả và chi phí phải có khả năng đo lường được thì mới có thể so sánh và tính toán được.
+ Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đáng giá hiệu quả phải đảm bảo kế hoạch hoá được kết quả của Doanh nghiệp, phải so sánh và đánh giá giữa kế quả đạt được với kế hoạch đề ra để từ đó có biện pháp cải thiện thích hợp nếu như kết quả không được như mong muốn.
2. Hệ thống chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Để đo lường và đánh giá hiệu quả kinh tế của Doanh nghiệp ta thiết lập chỉ tiêu trên cơ sở phân loại hiệu quả.
2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp.
Là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn lực của Doanh nghiệp nghĩa là trong một thời gian nhất định Doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra( doanh thu bán hàng) trên một đồng chi phí đầu vào bao gồm trị giá vốn hàng bán và chi phí kinh doanh để đạt được doanh thu đó.
Công thức biểu diễn:
HQ = M - GV + F
Trong đó: HQ là hiệu quả kinh tế.
M là doanh thu thuần đạt được trong kỳ.
GV là trị giá vốn hàng hoá đã tiêu thụ.
F là chi phí kinh doanh đã bỏ ra để đạt được doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này càng lớn nghĩa là trình độ sử dụng các nguồn lực tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh càng tốt và ngược lại chỉ tiêu này càng nhỏ thì trình độ sử dụng các yếu tố chi phí sẽ kém hiệu quả.
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
HQLN(Tỷ suất lợi nhuận) = LN *100 M
Trong đó: LN: Tổng lợi nhuận đạt được trong kỳ(Lợi nhuận trước thuế)
Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kỳ nhất định doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng doanh thu bán hàng thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp càng cao.
- Ngoài ra còn có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí.
HQLN =LN*100 GV + F
Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận của doanh nghiệp thu được trên một đồng chi phí bỏ ra.
2.2. Chỉ tiêu đo lường và đánh giá hiệu quả bộ phận.
2.2.1. Hiệu quả sử dụng lao động: Đượcđo lường và đánh giá bằng chỉ tiêu năng suất lao động.
W = M NV
Trong đó: W: năng suất lao động của một nhân viên.
NV: số nhân viên bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả có ích của một lao động trong quá trình hoạt động kinh doanh, nó được biểu hiện bằng doanh thu bình quân của một lao động hoặc lượng hao phí lao động bình quân cho một đơn vị mức lưu chuyển doanh thu. Năng suất lao động là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả lao động. Qua chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá một cách chung nhất hiệu quả sử dụng lao động trong toàn đơn vị. Cũng từ chỉ tiêu năng suất lao động trong kỳ ta có thể so sánh với năng suất lao động ở kỳ trước hoặc năng suất lao động ở các đơn vị khác trong ngành để đánh giá được chất lượng công tác sử dụng lao động ở đơn vị. Năng suất lao động của Công ty chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố thay đổi theo từng thời kỳ. Nên để đánh giá chính xác chất lượng sử dụng lao động ta cần loại trừ các nhân tố ảnh hưởng lượng hoá được.
2.2.2. Hiệu quả sử dụng chi phí tiền lương.
Công thức biểu diễn:
HQTL=M x QL
Trong đó: QL: Tổng quỹ lương của Công ty trong một kỳ kinh doanh.
M: Doanh thu thuần đạt được trong kỳ.
Chỉ tiêu này trong một thời kỳ nhất định đơn vị bỏ ra một đồng chi phí tiền lương thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao thì lao động sử dụng càng có hiệu quả.
Ngoài ra, ta còn sử dụng chỉ tiêu tỷ suất tiền lương để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống.
Công thức:
Tỷ suất tiền lương = QL* 100
M
Tỷ suất tiền lương là tỷ lệ % so sánh giữa tổng quỹ lương và tổng mức doanh thu trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này cho biết để thực hiện 100 đồng tổng mức doanh thu thì phải chi phí bao nhiêu đồng để trả lương, chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng lao động sống càng tốt.
2.2.3. Hiệu quả sử dụng chi phí: Chỉ tiêu này phản ánh mức doanh thu đạt được trên một đồng chi phí bỏ ra. Đây là chỉ tiêu thuận nghĩa là HQF càng cao thì hiệu quả sử dụng chi phí càng cao.
Công thức:
HQF=M x F
Trong đó: HQF : Hiệu quả sử dụng chi phí.
F: Chi phí kinh doanh trong kỳ để đạt được doanh thu thuần.
* Hiệu quả sử dụng chi phí còn có thể đo lường bằng chỉ tiêu tỷ suất chi phí (ký hiệu F’) ta có:
F’= F * 100
M
Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu cần có bao nhiêu đồng chi phí. Đây là chỉ tiêu nghịch có nghĩa là tỷ suất chi phí càng cao thì hiệu quả sử dụng chi phí càng thấp và ngược lại.
Ngoài ra, hiệu quả sử dụng chi phí có thể được đánh giá bằng chỉ tiêu lợi nhuận thuần trên chi phí kinh doanh. Đây là chỉ tiêu phản ánh Doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần khi bỏ ra một đồng chi phí kinh doanh.
Chỉ tiêu lợi nhuận thuần trên chi phí kinh doanh
= Lợi nhuận thuần * 100
F
2.2.4. Hiệu quả sử dụng vốn:
Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại là số tiền ứng trước về các tài sản cần thiết nhằm thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của kinh doanh trong kỳ, bao gồm tiền ứng cho tài sản lưu động và tài sản cố định. Thông thường hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá qua hai bước:
Bước1: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung: Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của Doanh nghiệp được đánh giá bằng hai chỉ tiêu.
HQV = M x HQV
=LN VV
Trong đó: V là số vốn bình quân sử dụng trong năm và được tính bằng công thức bình quân điều hoà.
V
= V1/2 + V2 + V3 + ................. + Vn/2
n-1
Bước2: Đánh giá hiệu quả sử dụng các loại vốn.
* Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Được đánh giá bằng chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
L = M
N = VLĐ
VLĐ
m
Trong đó: VLĐ: Vốn lưu động bình quân trong kỳ.
L: Số lần chu chuyển vốn lưu động trong kỳ.
N: Số ngày chu chuyển vốn lưu động trong kỳ.
m: Doanh thu thuần bình quân một ngày.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Được đánh giá bằng chỉ tiêu sức sản xuất vốn cố định.
Sức sản xuất của vốn cố định=M VCĐ
Trong đó: VCĐ là vốn cố định bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định được sử dụng trong kỳ mang lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể được đánh bằng chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận trên vốn cố định.
Sức sinh lời của vốn cố định=LN* 100VCĐ
IV. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp.
Ta có thể nhận thấy Doanh nghiệp thương mại như là một thể tồn tại trong môi trường kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan tới tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết Doanh nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến kinh doanh và đến hiệu quả kinh doanh nếu không làm được điều này thì Doanh nghiệp không thể biết được hiệu quả hình thành từ đâu và cái gì sẽ quyết định nó. Việc kinh doanh tiến triển tốt phụ thuộc vào sự am hiểu tường tận các điều kiện môi trường mà Doanh nghiệp phải đương đầu. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh, nhưng chúng ta có thể nghiên cứu môi trường tổng quát của Doanh nghiệp thành hai nhân tố chính: Nhân tố bên trong Doanh nghiệp (hoàn cảnh nội bộ) và nhân tố bên ngoài Doanh nghiệp (môi trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp). Sau đây ta đi vào phân tích cụ thể tác động theo 2 nhóm này.
1. Những nhân tố bên trong Doanh nghiệp.
Những nhân tố bên trong Doanh nghiệp chính là những nhân tố thuộc hoàn cảnh nội bộ của một Doanh nghiệp. Các Doanh nghiệp phải cố gắng phân tích một cách cặn kẽ các yếu tố nội bộ đó nhằm tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu của Doanh nghiệp qua đó xác định được năng lực và những lợi thế cạnh tranh của Doanh nghiệp. Trong guồng máy hoạt động chung của Doanh nghiệp mỗi nhân tố đóng một vai trò nhất định mà nếu thiếu nó thì toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả. Dưới đây tôi xin đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu quả kinh doanh:
1.1. Mặt hàng kinh doanh và cơ cấu mặt hàng kinh doanh.
Luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tiêu thụ. Câu hỏi đầu tiên khi Doanh nghiệp bắt tay vào kinh doanh là Doanh nghiệp sẽ bán cái gì? Cho đối tượng nào? Đưa ra thị trường những sản phẩm nào? Nên tập trung vào một loại hàng hay đưa ra nhiều loại hàng? Và cách thức đưa ra thị trường như thế nào? Hàng hoá là đối tượng kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại. Việc chọn đúng mặt hàng kinh doanh có ý nghĩa quan trọng to lớn đối với sự thành công hay thất bại của Doanh nghiệp. Mặt hàng kinh doanh là lời giải đáp cho Doanh nghiệp về một nhu cầu đã được lượng hoá thông qua nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường. Cần phải nhận thức được rằng mọi mục tiêu của Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được nếu hàng hoá mà họ lựa chọn tiêu thụ được.
1.2. Yếu tố nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự thành công của Doanh nghiệp. Con người là tài sản có giá trị nhất của Doanh nghiệp và là dạng rất linh hoạt của vốn. Con người thu thập xử lý dữ liệu thông tin để hoạch định mục tiêu phân tích bối cảnh và lựa chọn thực hiện các kết hoạch của Doanh nghiệp. Như vậy lực lượng lao động của Doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Con người bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, nguyên liệu mới có hiệu quả hơn trước hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất cũng như hiệu quả so với trước. Trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả của Doanh nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng công suất của máy móc tận dụng nguyên vật liệu, chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh làm tăng năng suất tăng hiệu quả từng nơi làm việc. Ngoài ra hiệu quả kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm, tinh thần hiệp tác, phối hợp khả năng thích ứng với những thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong Doanh nghiệp. Lực lượng lao động có trình độ, trách nhiệm chính là động cơ tốt phát huy hiệu quả kinh doanh. Để có được đội ngũ lao động có trình độ, tinh thần trách nhiệm cao thì Doanh nghiệp phải chăm lo đến việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động. Đó là nhiệm vụ hàng đầu của hầu hết các Doanh nghiệp hiện nay để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
1.3. Vốn kinh doanh và cơ cấu vốn.
Vốn kinh doanh là một trong những tiềm năng quan trọng nhất của Doanh nghiệp. Vốn lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng để xếp Doanh nghiệp vào loại có quy mô lớn hay nhỏ. Vốn kinh doanh là điều kiện để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh là cơ sở để hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở chi phí bỏ ra hay là tối thiểu hoá chi phí cho một mục tiêu nhất định nào đó. Vì vậy vốn chính là cơ sở để tạo ra lợi nhuận. Thiếu vốn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kinh doanh sẽ không tận dụng được lợi thế quy mô, thời cơ và cơ hội. Vốn gồm có vốn cố định và vốn lưu động.
- Vốn cố định là vốn đầu tư vào tài sản cố định của Doanh nghiệp thương mại. Vì tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình kinh doanh, sau mỗi chu kỳ kinh doanh vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nên giá trị của nó được chuyển dần vào giá trị sản phẩm. Đặc điểm cơ bản nhất của kinh doanh thương mại là gắn liền với quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá. Điều này quyết định cơ cấu vốn kinh doanh trong thương mại. Cơ cấu tài sản cố định của Doanh nghiệp thương mại thương được tính bằng các loại, số lượng tài sản cố định và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ TSCĐ của Doanh nghiệp. Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là chỉ tiêu quan trọng nói lên trình độ kỹ thuật và khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành hàng lưu thông hàng hoá. Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của từng Doanh nghiệp và giúp cho việc xác định phương hướng tái sản xuất mở rộng TSCĐ được dễ dàng hơn.
- Tài sản lưu động và vốn lưu thông biểu hiện bằng tiền hợp thành vốn lưu động. Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp trong kỳ. Kinh doanh thương mại là lĩnh vực lưu thông và phân phối hàng hoá nên vốn lưu động chiếm tỷ lệ chủ yếu trong vốn kinh doanh.
1.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ.
Đây cũng là một nhân tố rất quan trọng trong việc tăng chất lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ mới là điều kiện kiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất. Nếu xét trong mối quan hệ với người lao động thì cơ sở vật chất kỹ thuật vừa là công cụ vừa là môi trường tốt để nâng cao năng lực của đội ngũ lao động. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thực đóng vai trò quyết định đối với việc nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả và đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế nước ta. Để phù hợp với xu thế chung đó hầu hết các Doanh nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất nâng cao trang thiết bị kỹ thuật cho Doanh nghiệp mình. Thực tế, đã cho thấy Doanh nghiệp nào tạo dựng được công nghệ sản xuất và hệ thống thiết bị hiện đại làm chủ yếu tố kỹ thuật và phát triển sản xuất kinh doanh thì Doanh nghiệp đó đạt được kết quả và hiệu quả kinh doanh cao khả năng trụ được trên thị trường cạnh tranh đem lại khả năng phát triển cho Doanh nghiệp.
1.5. Yếu tố Marketting.
Đối với Doanh nghiệp thương mại do hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ.... để đáp ứng được những thay đổi của thị trường buộc Doanh nghiệp đó phải có bộ phận riêng để nghiên cứu thị trường. Do đó yếu tố Marketting ảnh hưởng rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trong Doanh nghiệp. Bộ phận Marketting bao gồm các khâu như: phân tích, lập kết hoạch, thực hiện kiểm tra các chương trình mà trọng tâm là việc xây dựng và phát huy các mối quan hệ trao đổi với khách hàng trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Các nhu cầu, thị hiếu, sở thích của thị trường cần được thường xuyên quan tâm một cách có hệ thống. Từ đó Doanh nghiệp có thể đề ra các kế hoạch hành động hữu hiệu hơn về sản phẩm, định giá trong phân phối và giao tiếp với thị trường, với các nhóm khách hàng, các hãng mà Doanh nghiệp có dự định hướng tới.
1.6. Tổ chức quản lý.
Tổ chức quản lý chung của Doanh nghiệp bao gồm các khía cạnh sau:
- Cơ cấu tổ chức của Doanh nghiệp.
- Tổ chức hệ thống thông tin giao tiếp.
- Hệ thống kiểm tra giám sát chung.
- Không khí nề nếp tổ chức.
- Hệ thống hoá việc soản thảo quyết định.
- Hệ thống kế hoạch hóa chiến lược.
Nếu công tác quản lý chung của Doanh nghiệp thực hiện tốt thì toàn bộ hệ thống kinh doanh sẽ đạt được kết quả cao. Điều đó đòi hỏi hệ thống tổ chức của Doanh nghiệp phải năng động ít tầng lớp trung gian. Bộ máy tổ chức quản lý có hiệu quả là yếu tố quyết định sự thành công của Doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức phù hợp góp phần phát triển nguồn nhân lực. Xác định rõ thực lực của từng cá nhân cụ thể, đặt họ đúng vị trí trong Doanh nghiệp sẽ là cách thúc đẩy hiệu quả và phát huy nhân tố con người.
Tóm lại, môi trường bên trong Doanh nghiệp được hiểu là nền văn hoá tổ chức Doanh nghiệp được hình thành và phát triển cùng với quá trình vận hành Doanh nghiệp. Nền văn hoá Doanh nghiệp bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như truyền thống, các phong cách sinh hoạt, nghệ thuật ứng xử... Tất cả những yếu tố đó tạo ra một bầu không khí một bản sắc tinh thần đặc trưng riêng cho từng Doanh nghiệp. Môi trường bên trong là yếu tố đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Nó có thể tác động làm biến đổi các yếu tố của môi trường bên ngoài.
2. Các nhân tố từ môi trường bên ngoài.
Môi trường bên ngoài là hệ thống toàn bộ các nhân tố bên ngoài Doanh nghiệp có liên quan và ảnh hưởng tới quá trình tồn tại, vận hành và phát triển Doanh nghiệp. Các nhân tố bên ngoài bao gồm:
2.1. Nhân tố khách hàng.
Khách hàng là cá nhân, nhóm người, Doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu và có khả năng thanh toán về hàng hoá dịch vụ của Doanh nghiệp mà chưa được đáp ứng và mong được thoả mãn. Khách hàng là nhân tố quan trọng hàng đầu cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Theo quan điểm hiện đại thì mọi nỗ lực của Doanh nghiệp sẽ lấy khách hàng làm trọng tâm. Quá trình nghiên cứu khách hàng phải được thường xuyên duy trì trong hoạt động kinh doanh. Khả năng thanh toán của khách hàng sẽ tác động trực tiếp đến lợi nhuận ngành hàng mà Doanh nghiệp kinh doanh.
Doanh nghiệp cần phải phân tích khách hàng hiện tại và tương lai. Các thông tin thu được từ phân tích sẽ là cở sở định hướng quan trọng cho các kế hoạch hoạt động kinh doanh. Nó là yếu tố quan trọng cho việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
2.2. Người cung ứng.
Những người cung ứng là các doanh nghiệp và các cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố cần thiết cho doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ nhất định. Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng, sớm hay muộn, trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ra ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thật vậy, đối với doanh nghiệp thì muốn có hàng hoá bán cho khách hàng thì doanh nghiệp phải luôn luôn được cung ứng hàng hoá. Việc tổ chức nguồn hàng nhằm tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá được diễn ra thường xuyên liên tục thể hiện sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Do đó các nhà cung ứng có thể giành được quyền lực thương lượng lớn hơn các doanh nghiệp trong một ngành hàng nhất định qua đe doạ tăng giá, giảm chất lượng các hàng hóa và dịch vụ mà họ đang cung cấp, hoặc chia phần cung ứng giữa các khách hàng khác nhau. Các doanh nghiệp nhỏ phụ thuộc vào một nhà cung cấp hoặc một nhóm nhà cung cấp nhất định thường ở vào tình thế nguy hiểm đặc thù bị tăng các chi phí cung ứng mà không thể chuyển những gia tăng này sang người tiêu dùng. Chính vì thế, nhà quản lý của doanh nghiệp phải luôn luôn có đầy đủ các thông tin chính xác về tình trạng, số lượng, chất lượng, giá cả, ... hiện tại và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ.
2.3. Đối thủ cạnh tranh.
Yếu tố cạnh tranh có tác động lớn tới hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp thương mại. Hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quan trọng đối với Doanh nghiệp. Các đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ cạnh tranh trong ngành hàng đang kinh doanh của Doanh nghiệp. Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số lượng Doanh nghiệp tham gia trong ngành hàng, sự đa dạng hoá của sản phẩm....
Các tác động của cạnh tranh đòi hỏi Doanh nghiệp cần phải có những ứng xử hợp lý mới có thể đẩy mạnh được hoạt động kinh doanh của mình. Việc phân tích các đối thủ cạnh tranh có vai trò quan trọng hàng đầu khi xem xét yếu tố cạnh tranh trong môi trường vi mô của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần đánh giá đúng đối thủ cạnh tranh của mình, xem xét các năng lực triển vọng của đối thủ cạnh tranh. Tiềm lực của đối thủ cạnh tranh sẽ là nhân tố tác động quyết định chia sẻ thị phần trên thị trường.
2.4. Yếu tố về giá cả.
Giá cả trên thị trường biến động thay đổi rất nhanh. Do vậy, Doanh nghiệp cần phải nắm vững thị trường, dự đoán thị trường để xác định mức giá mua vào bán ra cho phù hợp.
- Giá mua vào: Có vai trò quan trọng ánh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Nó cần được xác định một cách chính xác để làm sao giá bán ra phù hợp với tình hình giá cả trên thị trường. Giá mua vào càng thấp càng tốt và để đạt được giá mua vào thấp thì Doanh nghiệp cần phải tìm hiểu thị trường, lựa chọn thị trường mua hợp lý. Doanh nghiệp càng có mối quan hệ, có nhiều nhà cung ứng thì đây là điều kiện thuận lợi cho phép Doanh nghiệp khảo giá và lựa chọn được mức giá hợp lý từ phía các nhà cung cấp.
- Giá bán ra: ảnh hưởng đến lợi nhuận của Doanh nghiệp, nó xác định bằng sự thoả thuận của người mua và người bán thông qua quan hệ cung cầu. Để đạt hiệu quả kinh doanh thì giá bán đảm bảo lớn hơn giá thành sản xuất cộng với chi phí lưu thông. Do vậy, để đạt được hiệu quả kinh doanh phải dự báo giá cả và thị trường.
2.5. Cơ chế chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Các yếu tố về chính trị có mối liên hệ mật thiết với các yếu tố kinh tế vĩ mô. Đây là những nhân tố khuyến khích hoặc hạn chế quá trình quốc tế hóa hoạt động kinh doanh. Ví dụ: Chính s._.xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường đồng thời xử lý các số liệu thông tin, các số liệu đã thu thập được để cung cấp cho các bộ phận cần thiết.
Chuyên viên quảng cáo làm nhiệm vụ nghiên cứu, thiết kế lựa chọn các hình thức quảng cáo, các chương trình quảng cáo của Công ty.
4. Hoàn thiện chính sách phân phối.
Với chức năng hoạt động phạm vi cả nước, Công ty AIRIMEX có nhiệm vụ nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng bay ngành Hàng không Việt Nam. Ngoài ra, trong chiến lược phát triển, Công ty còn hướng mở rộng kinh doanh ngoài ngành. Với chức năng nhiệm vụ đó Công ty cần mở rộng một số các chi nhánh khác trên cả nước. Hiện nay Công ty đã có một chi nhánh tại Thành Phố HCM cạnh sân bay Tân Sơn Nhất. Song chi nhánh này vẫn chưa có quyền tiến hành các thủ tục hải quan với tư cách là một pháp nhân độc lập mà mọi giấy tờ văn bản chính phải được sự uỷ quyền của AIRIMEX Hà Nội. Vì vậy trước mắt Công ty cần khẩn trương hoàn thành thủ tục để hoàn tất pháp nhân cho chi nhánh, tạo điều kiện để chi nhánh chủ động trong hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra, Công ty có thể áp dụng chính sách phân phối đối với các sản phẩm mua rồi bán lại. Một chiến lược phù hợp nhất với Công ty hiện nay là áp dụng kênh ngắn tức là hàng hoá được bán thẳng cho khách hàng không thông qua bất kỳ một khâu trung gian nào. Một kênh phân phối như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí đồng thời tiếp cận được trực tiếp với khách hàng. Điều đó giúp Công ty tranh thủ được ý kiến thái độ khách hàng về hàng hoá cung ứng để dần hoàn thiện chính sách phân phối, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
5. Xây dựng chính sách thu hút khách hàng và thực hiện tốt công tác ký kết hợp đồng.
Công ty hiện nay hầu như mới chỉ quan tâm tới việc xuất nhập khẩu các mặt hàng có giá trị lớn còn các mặt hàng có giá trị nhỏ Công ty thường bỏ qua. Có nhiều khách hàng có những mặt hàng có giá trị nhỏ họ tìm đến nhờ uỷ thác xuất nhập khẩu nhưng Công ty đã không quan tâm đầy đủ làm như vậy đã vô tình mất đi nhiều mối quan hệ khách hàng. Công ty cần phải nâng cao khẩu hiệu “phục vụ tất cả mọi nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất dù lớn hay nhỏ “ có thể có những mặt hàng Công ty nhập nhưng không thu được lợi nhuận về hoặc lợi nhuận ít nhưng Công ty cũng nên chấp nhận để như vậy thu hút thêm khách hàng mới. Thiết lập mối quan hệ kinh doanh với các nước ổn định là hướng đi đúng đắn Công ty cần phát huy. Xây dựng chính sách thu hút khách hàng trong hoạt động kinh doanh trước hết phải xây dựng các phương án dự báo nhu cầu về mặt hàng. Làm thế nào để có kế hoạch đón bắt nhu cầu khách hàng và đưa ra phương án đáp ứng nhu cầu là một vấn đề đặt ra cho Công ty. Muốn đạt được điều đó thì ngay
Từ đầu Công ty phải tạo cho mình có uy tín, vị thế vững chắc trên thị trường trong và ngoài nước mà cốt lõi nhất phải kể đến là “chất lượng hàng hoá, cung cách giao dịch trong kinh doanh “. Chất lượng và uy tín của Công ty là phương tiện quảng cáo hữu hiệu nhất để tự quảng cáo mình. Nhờ đó mà bạn hàng cũ yên tâm, bạn hàng mới thì tin tưởng nhiều hơn vào Công ty. Tóm lại trong chính sách thu hút khách hàng luôn phải đưa ra quan điểm thống nhất đôi bên cùng có lợi.
Ngoài ra một yếu tố ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Công ty đó là công tác ký kết hợp đồng. Sự thành công trong đàm phán ký kết có thể đem lại cho Công ty những hợp đồng xuất nhập khẩu có ý nghĩa và giá trị cao góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Ngược lại sự thất bại trong đàm phán có thể dẫn đến việc thực hiện kết hoạch đề ra gặp khó khăn, mặt khác làm tổn thương đến mối quan hệ bạn hàng. Vì vậy công tác đàm phán ký kết hợp đồng cần được Công ty quan tâm hoàn thiện.
Cụ thể để đạt được kết quả tốt trong đàm phán ký kết hợp đồng Công ty nên thực hiện các công việc sau:
- Chú trọng việc công tác đào tạo, nâng cao trình độ hiểu biết cho đội ngũ cán bộ về lĩnh vực đàm phán ký kết hợp đồng thông qua việc tổ chức các buổi học về kỹ năng, nghệ thuật giao tiếp trong đàm phán, khuyến khích tạo điều kiện cung cấp tài liệu, thông tin để cán bộ công nhân viên tìm hiểu sâu về phong tục tập quán nền văn hoá của bạn hàng nước ngoài cũng như các quốc gia có triển vọng hợp tác trong kinh doanh trên toàn thế giới.
- Chủ động dành quyền soản thảo hợp đồng. Thực hiện được điều này sẽ giúp Công ty tìm kiếm được những lợi thế trong đàm phán đồng thời giảm thiểu những rủi ro không đáng có do “lỡ “ ký kết hợp đồng khi chưa thực sự nắm chắc các điều kiện đặt ra trong hợp đồng..
- Đề cao tình thần và giữ gìn bản sắc dân tộc trong đàm phán ký kết.
- Cuối cùng Công ty cần phải hết sức thận trọng, tỉnh táo trong đàm phán ký kết nhất là khi đối tác chủ động dành quyền soạn thoả hợp đồng có như vậy Công ty mới tránh được rủi ro, bị thiệt thòi đồng thời tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty.
6. Đa dạng hoá hình thức kinh doanh và mặt hàng kinh doanh.
Đa dạng hoá kinh doanh để tăng nhanh số vòng quay của vốn nhằm tăng kết qủa của hoạt động kinh doanh là cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Hiện nay, Công ty hầu như là chỉ áp dụng hình thức xuất nhập khẩu uỷ thác hộ các Công ty khác trong ngành Hàng không. Thực tế, có rất nhiều hình thức nhập khẩu khác sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với cương vị của mình Công ty nên áp dụng phương pháp nhập khẩu hàng đổi hàng để thu phí uỷ thác uỷ thác của cả người xuất khẩu và người nhập khẩu.
Ngoài ra, Công ty cần liên doanh, liên kết với các hãng sản xuất máy bay, phụ tùng bảo dưỡng, sửa chữa máy bay, phụ tùng bảo dưỡng, sửa chữa máy bay, động cơ để tăng thêm lợi nhuận và mở rộng với mối quan hệ với các bạn hàng trong kinh doanh. Điều này đã đạt được hiệu quả trong góp vốn cổ phần với hãng Hàng không cổ phần PACIFICA AIRLINES tạo một khoản thu về tài chính trong năm 2001. Trong những năm tới Công ty cần tìm kiếm đối tác liên doanh, liên kết nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh.
Công ty cần đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh trên cơ sở mặt hàng chuyên ngành. Đây là cách thức kinh doanh an toàn và phổ biến nhất để nâng cao doanh thu, lợi nhuận tức là hiệu quả hoạt động kinh doanh. Hơn nữa uy tín, kinh nghiệm của mình, là đơn vị trong ngành kinh tế mũi nhọn Công ty có trách nhiệm thúc đẩy các nghành kinh tế phát triển thông qua nhập khẩu trực tiếp hoặc nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị kinh tế khác có nhu cầu.
Qua thực tế năm 2001 cho thấy việc kinh doanh đạt hiệu quả một phần từ việc kinh doanh các mặt hàng khác ngoài trang thiết bị phục vụ ngành Hàng không. Việc kinh doanh các mặt hàng khác vừa tạo điều kiện tăng doanh thu cho doanh nghiệp vừa tạo thế chủ động trong kinh doanh, tránh được sự phụ thuộc vào các bạn hàng truyền thống tức là sự phụ thuộc vào đầu tư mua sắm trang thiết bị, máy móc của các đơn vị bạn và của ngành.
Việc đầu tư mua sắm này có tính chất chu kỳ do vậy nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Công ty.
Trong điều lệ thành lập Công ty có qui định của Công ty được phép kinh doanh tổng hợp các mặt hàng nên cần phải tận dụng qui chế này cùng với các chính sách của nhà nước ở từng thời kỳ mà mở rộng cơ hội, thời cơ mở rộng mặt hàng nhập khẩu ô tô, xe máy, ti vi.... Việc nhập những mặt hàng mới có công việc hết sức khó khăn vừa phải nắm bắt thời cơ, vừa phải cân nhắc cẩn thận. Những vấn đề mà cán bộ kinh doanh không thể bỏ qua khi nhập khẩu một mặt hàng mới lạ:
* Đặc điểm của hàng hoá đó : Về chủng loại mẫu mã, chất lượng, kỹ thuật, đặc điểm tiêu thụ, tính thời vụ, tính công nghệ.
* Những Doanh nghiệp đã và đang kinh doanh mặt hàng này.
* Chính sách của Nhà nước đối với mặt hàng đó như thế nào.
* Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ở trong nước như thế nào, nó đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống.
Việc mở rộng mặt hàng kinh doanh nâng cao được sử dụng vốn, quay vòng vốn, từ đó tạo cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Ngoài ra thu hút được nhiều lao động cho xã hội, tức là nâng cao hiệu quả xã hội.
7. Nâng cao khả năng quản lý tài chính.
Dùng tiền để làm ra tiền “ châm ngôn này nói một cách đơn giản là một doanh nghiệp cần phải có nguồn tài chính để hoạt động sinh lời “. Quản lý tài chính bao gồm những chức năng sau:
- Quản lý tài chính sao cho tài sản của Công ty được sử dụng để có thể đem lại lợi nhuận cao nhất từ những đồng vốn bỏ vào đầu tư.
- Đánh giá được nhu cầu đối với tài sản mới.
- Nhận tiền để cấp cho các khoản bổ xung tài sản.
- Quản lý tài sản cũ lẫn mới sao cho mỗi loại đều có thể đóng góp nhiều nhất cho hoạt động sinh lợi của Công ty.
- Hoàn trả lại được các khoản tiền vay lấy từ lợi nhuận do các nguồn vốn tạo ra.
* Thực hiện chương trình tiết kiệm chi phí kinh doanh.
Chi phí kinh doanh và lợi nhuận là hai mặt đối lập của quá trình kinh doanh, muốn đạt được lợi nhuận tối đa thì một biện pháp quan trọng để thực hiện đó là làm sao giảm được chi phí tối đa có thể. Xuất phát từ tình hình tiết kiệm chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nguyên tắc chung dựa trên định mức chi phí kinh doanh được giao, Công ty phải xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng yếu tố chi phí Công ty chỉ được chi tiêu trong phạm vi mức chi phí đã duyệt. Do đó để hoàn thiện kế hoạch tiết kiệm chi phí Công ty cần phải tìm các nguyên nhân các mặt còn tồn tại của các yếu tố chi phí không hợp lý đưa ra các biện pháp cụ thể khắc phục những tồn tại đó. Chẳng hạn như:
- Chi phí trả lãi tiền vay: Công ty nên tận dụng triệt để nguồn vốn tự có đồng thời tính chính xác nhu cầu vay vốn và chỉ vay khi nhu cầu thực tế đòi hỏi, tránh tình trạng vốn vay chưa sử dụng mà vẫn phải chịu chi phí tiền vay. Khuyến khích các biện pháp mua nhanh, bán nhanh thu hồi vốn nhanh để có thể trả nợ tiền vay ngân hàng giảm được chi phí lãi tiền vay.
- Chi phí bảo quản hàng hoá: Để giảm được khoản chi phí này công tác dự trữ bảo quản phải tăng cường hơn nữa đặc biệt người làm công tác này phải có trình độ hiểu biết về đặc điểm hàng hoá để từ đó có biện pháp đề phòng.
- Chi phí sửa chữa tài sản cố định: Công ty cần thực hiện theo đúng thứ tự ưu tiên về đầu tư sửa chữa.
- ...................................................
- Chi phí văn phòng và chi phí khác:
+ Đối với chi phí lễ tân, tiếp khách, hội họp, đối ngoại giao dịch và chi phí bằng tiền khác phải gắn liền kinh doanh và hiệu quả kinh tế. Mức chi cụ thể do giám đốc Công ty quyết định không vượt quá định mức quy định tại khoản 11 chương III của thông tư số 99/1998/TT-BTC.
+ Công ty nên thực hiện chính sách giao việc cho từng bộ phận chuyên môn. Mỗi phòng ban bộ phận phải chịu trách nhiệm với cấp trên về các khoản tài chính được giao để làm sao hoàn thành được nhiệm vụ chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đem lại hiệu quả cao nhất cho Công ty.
+ Quy định mức chi phí về các khoản như điện, nước, điện thoại.... đối với các phòng nhằm giảm tối đa các chi phí không cần thiết.
8. Tăng cường công tác sử dụng vốn và hoàn thiện cơ cấu vốn của Công ty.
Sử dụng vốn có hiệu quả và không ngừng áp dụng các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một yêu cầu tất yếu nhằm đáp ứng duy trì sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Qua phân tích về tình hình sử dụng vốn cố định và vốn lưu động của Công ty cho thấy cơ cấu tài sản của Công ty hiện nay là không hợp lý nên đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả kinh doanh của Công ty rất thấp.
Do vậy Công ty cần thực hiện một số biện pháp nhằm cơ cấu lại tài sản để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh chung của toàn Công ty.
8.1. Đối với vốn cố định:
Mặc dù hoạt động kinh doanh và sức sinh lợi của tài sản cố định tăng lên rất nhanh cũng không làm tăng được lợi nhuận của Công ty. Qua báo cáo về tình hình tăng giảm tài sản cố định của Công ty cho thấy vốn cố định của Công ty có hiện tượng như trên là do lượng đầu tư vào tài sản cố định hàng năm của Công ty không đáng kể so với lượng khấu hao hàng năm. Do đó Công ty cần phải quan tâm quản lý và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý. Tức là Công ty cần chú ý tới mục đích chính của quỹ khấu hao là dùng để đầu tư tái tạo lại lượng tài sản cố định đã hao hụt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Mặt khác để duy trì sự tồn tại và phát triển Công ty không những phải duy trì được lượng tài sản cố định hiện có mà còn phải tiến hành đầu tư hơn nữa vào tài sản cố định để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh.
8.2. Đối với vốn lưu động.
Công ty nên dùng các biện pháp bảo toàn và phát triển hơn nữa nguồn vốn lưu động. Để được điều này yêu cầu các phương án sử dụng vốn kinh doanh phải gắn với phương pháp kinh doanh hợp lý và có hiệu quả. Vốn lưu động sau mỗi chu kỳ kinh doanh lại được chuyển tiếp vào các hoạt động trong kinh doanh sau, do đó Công ty cần phải tạo ra nguồn vốn lưu động kịp thời để bổ xung đầy đủ vốn lưu động theo yêu cầu hoạt động kinh đặt ra.
8.3. Hoàn thiện cơ câú vốn của công ty.
Hầu hết các Doanh nghiệp ở nước ta hiện nay đều không quan tâm và không sử dụng được các nguồn vốn một cơ cấu tối ưu. Có thể nói cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn vốn tài trợ cho kinh doanh của một Doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của chính Doanh nghiệp đó tại một mức giá vốn bình quân và rẻ nhất. Ta có thể hiểu một cách đơn giản hơn rằng cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu và vốn vay sao cho doanh lợi vốn chủ sở hữu và lợi nhuận của Công ty đạt được là cao nhất với chi phí bình quân sử dụng vốn thấp nhất và độ rủi ro ở mức an toàn. Thực tế cho thấy với tỷ lệ vốn vay từ 80 đến 90% tổng số vốn kinh doanh thì các Doanh nghiệp thực sự đã đặt mình và các nhà cung cấp vốn vào tình trạng nguy hiểm bởi độ rủi ro tài chính cao. Còn nếu tỷ lệ vốn chủ sở hữu chiếm từ 80 đến 90% tổng số vốn kinh doanh thì sẽ dẫn đến tình trạng doanh lợi vốn chủ sở hữu và lợi nhuận của Doanh nghiệp là không cao mặc dù rủi ro tài chính là hầu như không có.
Trong những năm gần đây lượng vốn chủ sở hữu của công ty là rất lớn và luôn chiếm trên 85% tổng số vốn (như ta đã trình bày ở phần trước) do đó mà mức doanh lợi vốn chủ sở hữu và lợi nhuận của Công ty không cao. Vì vậy mà Công ty cần điều chỉnh lại cơ cấu vốn sao cho hợp lý để nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cố định và làm tăng lợi nhuận của Công ty.
9. Hoàn thiện quản lý nhân sự trong Công ty.
9.1. Tổ chức phân bổ nguồn lao động một cách hợp lý khoa học.
Muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh thì không thể không nhắc tới yếu tố con người. Những giải pháp trên sẽ vô hiệu nếu nguồn lao động không được phân bố một cách hợp lý khoa học. Công ty cần có phải nghiêm túc trong việc tinh giảm bớt những nhân viên không đủ năng lực, để thu hút thêm những người có năng lực lao động năng động có đầu óc sáng tạo trong kinh doanh. Công ty có chế độ thưởng phạt rõ ràng quyền lợi đi liền với trách nhiệm làm cho người lao động luôn lấy hiệu quả công việc đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó Công ty nên mở lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ công nhân viên, sắp xếp lao động đúng người, đúng ngành nghề phù hợp với khả năng, năng lực của từng người tránh trường hợp lãng phí chi phí mà không đem lại hiệu quả kinh doanh.
9.2. Tăng cường các biện pháp quản lý, khuyến khích người lao động và cải thiện điều kiện việc làm áp dụng chế độ nghỉ ngơi.
- Tăng cường quản lý chặt chẽ và áp dụng kỷ luật lao động là biện pháp hành chính hữu hiệu để người lao động chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thời gian làm việc và yêu cầu của Công ty trong quá trình kinh doanh. Mục đích của kỷ luật lao động là để chấn chỉnh lại những hành vi không đúng để hoàn thiện công tác quản lý chứ không phải để trừng phạt. Công ty xuất nhập khẩu Hàng không đã xây dựng cho mình một hệ thống các quy định nội quy thiết thực rõ ràng và chặt chẽ áp dụng kỷ luật nghiêm khắc những vi phạm. Để từ đó đã khắc phục được những tình trạng như làm việc không đủ thời gian quy định, trong quá trình làm việc chưa nghiêm túc.... đã ảnh hưởng xấu tới hiệu quả công việc của toàn Công ty. Đối với các cán bộ công nhân viên có tinh thần trách nhiệm trong công việc Công ty đã có những chính sách khen thưởng đề xuất để từ đó họ hăng hái hơn trong công việc.
- Cần khen thưởng biểu dương công khai kết hợp thưởng tiền và tăng lương đối với những nhân viên có thành tích để mọi người noi theo. Tạo cơ hội để nhân viên học tập nâng cao trình độ, luôn chứng tỏ Công ty luôn sẵn sàng tạo điều kiện để tất cả mọi người đều có thể thăng tiến.
- Thường xuyên tổ chức các buổi gặp mặt giao lưu nói chuyện chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi kiến thức. Để từ đó có thể bàn về những khó khăn, những cơ hội, kế hoạch để cùng nhau tháo gỡ.
- Ngoài ra, Công ty nên quan tâm hơn tới bản thân người lao động như đảm bảo cho họ có môi trường làm việc trong sạch, xây dựng môi trường làm việc thuận lợi thoải mái tránh tình trạng căng thẳng kéo dài làm hao phí sức lực của nhân viên mà không đem lại hiệu quả. Xây dựng môi trường làm việc dân chủ như lập hòm thư góp ý để mọi người có thể đề xuất ý kiến của mình. Nhân viên có thể đề xuất ý kiến trực tiếp lên giám đốc, hoặc phó giám đốc. Điều này sẽ tạo ra mối quan hệ tốt giữa các cấp , các bộ phận với nhau tạo bầu không khí đoàn kết giúp đỡ nhau trong công việc.
- áp dụng chế độ nghỉ ngơi nhiều hơn sau những ngày làm việc căng thẳng mệt mỏi. Công ty nên tổ chức các buổi tham quan nghỉ mát cho cán bộ công nhân viên tạo điều kiện nghỉ ngơi, giải trí và cũng là để chứng tỏ sự quan tâm của Công ty đến nhân viên của mình.
9.3. Quan tâm đào tạo đội ngũ chuyên gia có năng lực.
Đội ngũ cán bộ kinh doanh đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay ở Công ty còn nhiều hạn chế trong công việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh, đàm phán giao dịch với đối tác nước ngoài. Trình độ về nghiệp vụ thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế.... còn nhiều yếu kém., trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu trong giao dịch. Công ty cần có chính sách cụ thể để nâng cao trình độ các chuyên gia, tạo môi trường thuận lợi và sử dụng đãi ngộ tốt để qua đó phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ trong Công ty.
9.4. Nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn lao động.
Tuyển chọn lao động là một yêu cầu tất yếu khách quan với tất cả các doanh nghiệp trong quá trình tồn tại và phát triển. Chỉ có tuyển chọn lao động các doanh nghiệp mới có thể đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động trong doanh nghiệp. Việc đào tạo và tái đào tạo chỉ có lợi ích và được xem như giải pháp trước mắt nhằm cải thiện năng lực công tác của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Về lâu dài các doanh nghiệp cần phải tiến hành tuyển lao động mới .
Điều đó lại càng quan trọng đối với Công ty vì: Hiện nay cơ cấu lao động của Công ty thì không phù hợp, chất lượng lao động thấp hơn nữa Công ty lại đang có xu hướng mở rộng hoạt động kinh doanh. Mặt khác từ trước tới nay Công ty thường xuyên tuyển lao động dưới một sức ép nào đó chưa bám sát với yêu cầu đòi hỏi của công việc. Do đó trong thời gian tới Công ty cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác tuyển chọn lao động. Để làm được điều này Công ty cần đảm bảo một số yêu cầu sau trong công tác tuyển chọn lao động:
- Phải dựa vào cơ cấu lao động công ty đang hướng tới.
- Phải phân tích đánh giá công việc trước khi tuyển nhân viên mới.
- Tuyển những người có trình độ chuyên môn và trình độ tay nghề cao, phải có khả năng làm việc tới năng suất lao động cao, hiệu suất công việc tốt.
- Tuyển những người có tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật, trung thực và gắn bó với công việc với công ty.
- Tuyển những người có sức khoẻ và làm việc lâu dài trong công ty với nhiệm vụ được giao.
- Tuyển chọn phải thông qua thử thách thực tế.
- Không tuyển theo cảm tính hoặc dưới một sức ép nào để mà không xuất phát từ đòi hỏi của công việc.
Có như vậy Công ty mới có thể có được một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và trình độ tay nghề cao, có khả năng tiếp thu nhanh các kiến thức cũng như khả năng nắm bắt các cơ hội trong kinh doanh.
10. Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho Công ty.
Hiện nay, Công ty không chỉ làm nhiệm vụ nhận uỷ thác đơn đặt hàng nhập khẩu mà Công ty mà công ty còn kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu qua đại lý bán hàng. Vì vậy, hệ thống kho hàng bến bãi, hệ thống giao thông vận tải là rất quan trọng cho việc bảo đảm an toàn hàng hoá.
Để có thể kinh doanh qua đại lý bán hàng có hiệu quả ngoài việc theo sát nhu cầu, nắm chắc khách hàng đổi mới phong cách bán hàng khẩn trương thiết lập một hệ thống đại lý tiêu thụ trên cơ sở phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu với độ hấp dẫn cao hơn. Phải coi hệ thống đại lý bán hàng là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, từ đó dẫn đến cải tạo và xây dựng những cửa hàng có qui mô lớn, vừa là kho chứa khối lượng đảm bảo cho lượng hàng hoá bán ra ở cửa hàng đó vừa cung cấp cho các cửa hàng nhỏ hơn ở các khu vực lân cận.
Hoàn thiện hệ thống kho tàng, bến bãi phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu là rất quan trọng, khi hàng về có thể chuyển thẳng vào kho cất giữ giảm được chi phí tồn kho, lưu bãi.... Cùng với việc hoàn thiện hệ thống cửa hàng, kho tàng, bến bãi là việc hoàn thiện hệ thống vận tải. Chi phí cho việc vận tải hàng hoá nhập khẩu là rất lớn. Việc phân bổ luồng lạch, bố trí các tuyến xuất nhập khẩu hợp lý sẽ góp phần làm giảm chi phí vận tải xuống. Sử dụng kết hợp các phương tiện vận tải một cách linh hoạt, thực hiện khoán theo chiều sâu để trách tình trạng làm việc có tính thời vụ. Khai thác tối đa khả năng vận tải trong nghành, tăng cường vận tải chuyển thẳng nhằm hạn chế sự nhàn rỗi hoặc phải thuê vận tải bên ngoài. Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng phục vụ, đảm bảo vận tải an toàn, đúng số lượng, hạn chế hao hụt ở mức thấp nhất.
III. Kiến nghị với Nhà nước và tổng công ty Hàng không việt nam.
1. Đối với Tổng công ty Hàng không Việt Nam.
Tổng công ty Hàng không Việt Nam mới đi vào hoạt động, do vậy các qui chế về xuất nhập khẩu chưa được đầy đủ và rõ ràng. trong những năm tới Công ty mong muốn được sự quan tâm hơn nữa của Tổng công ty Hàng không Việt Nam và ban hành một qui chế rõ ràng về xuất nhập khẩu các trang thiết bị máy móc thiết bị phục vụ ngành hàng không, từ đó Công ty có thể hiểu và thực hiện được rõ ràng hơn nhiệm vụ và kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Được sự quan tâm hơn nữa trong việc mở rộng mặt hàng, ngành hàng kinh doanh, không chỉ mặt hàng phục vụ ngành Hàng không, mà cả những mặt hàng ngoài ngành như việc nhập ôtô, xe máy, ti vi. . .
Với uy tín và năng lực hoạt động của Tổng công ty hàng không Việt nam, Tổng công ty có thể tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty xuất nhập khẩu Hàng không Việt nam trong các vấn đề: tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng mới.
Công ty mong muốn được sự quan tâm, đầu tư hơn nữa trong việc mở rộng vốn kinh doanh, pham vi hoạt động kinh doanh của Công ty tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
2. Đối với Nhà nước.
Trong hơn 10 năm thực hiện chính sách kinh tế “mở cửa “ nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế gia tăng đáng kể qua các năm tuy nhiên để theo kịp các nước đang phát triển trên thế giới Việt Nam cần phải làm nhiều hơn nữa. Nói riêng đối với Công ty xuất nhập khẩu Hàng không để tạo điều kiện cho Công ty phát huy hết khả năng của minh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Nhà nước cần xem xét một số biện pháp chính sách sau:
Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tổng thể để từ đó Công ty có cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình.
Cần thiết có sự đối thoại và hợp tác thường xuyên giữa Chính Phủ và Công ty theo tinh thần trao đổi những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của Công ty để qua đó Chính Phủ có thể điều chỉnh chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho Công ty phát triển.
Chính Phủ nên thành lập các trung tâm tư vấn những thông tin cần thiết liên quan đến các quốc gia, tập đoàn kinh tế... về mọi lĩnh vực. Một trung tâm như vậy sẽ rất có lợi cho các Doanh nghiệp đặc biệt là cho các Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
Nhà nước cần sớm hoàn thiện các cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung theo hướng cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại, tài chính, ngân hàng.... nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động kinh doanh của Công ty nói riêng và của Doanh nghiệp thương mại nói chung.
Nhà nước cần xem xét hạn chế thay đổi biều thuế xuất nhập khẩu đặc biệt là biểu thuế xuất nhập khẩu các loại hàng hoá trong nước chưa sản xuất được. Chỉ có sự ổn định của biểu thuế xuất nhập khẩu thì Công ty mới có khả năng thành lập được chiến lược kinh doanh lâu dài và hiệu quả. Việc thường xuyên thay đổi biểu thuế xuất nhập khẩu sẽ gây khó khăn trong định hướng kinh doanh của Công ty.
Tiếp tục xem xét, cải thiện chính sách cho vay vốn kinh doanh đối với các Doanh nghiệp với lãi suất hợp lý, có như vậy thì Công ty mới có điều kiện bổ xung nguồn vốn kinh doanh hiện đang thiếu.
Tạo điều kiện cho Công ty được dễ dàng đi khảo sát thị trường nước ngoài, dự các cuộc hội thảo, hội chợ hoặc mời các chuyên gia nước ngoài hướng dẫn và tổ chức trao đổi kinh nghiệm quản lý, nghiệp vụ chuyên môn....
Duy trì ổn định chính trị – xã hội là một giải pháp lâu dài trong việc phát triển kinh tế đất nước sẽ tạo lòng tin đối với các Doanh nghiệp quốc tế và các Doanh nghiệp trong nước.
Sau đây là những kiến nghị cụ thể:
* Trợ cấp xuất nhập khẩu.
Chi phí tạo điều kiện cho Công ty được vay tín dụng để thúc đẩy xuất nhập khẩu với lãi suất ưu đãi, thủ tục vay vốn, bảo lãnh đơn giản. Đồng thời, Chính phủ cần chú trọng thoả đáng đến việc sử dụng tỷ giá hối đoái để thúc đẩy xuất nhập khẩu với cơ chế điều tiết tỷ giá song phương và đa phương mềm dẻo gắn với từng thị trường. Mặt khác, Nhà nước thực hiện ưu đãi cho Công ty được ưu đãi về giá cả sử dụng các công trình hạ tầng như điện, nước, thông tin liên lạc, phương tiện vận tải, trợ giá xuất nhập khẩu. Chính Phủ sử dụng các biện pháp gián tiếp như điều tiết cung cầu bằng cách hỗ trợ về tài chính thông qua hế thống kho đệm Chính Phủ.
Nhà nước đứng ra lập quỹ bảo hiểm xuất nhập khẩu để Công ty tự tin hơn trong việc xuất nhập khẩu sao cho đảm bảo gánh vác mọi rủi ro, mạo hiểm khi gặp phải trường hợp như thanh toán trả chậm hay tín dụng dài hạn.
* Xây dựng hệ thống thông tin về thị trường xuất nhập khẩu.
Do hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế có phạm vi rộng lớn các quốc gia khác nhau về quan điểm chính trị, chính sách kinh tế, môi trường văn hóa xã hội.... cho nên các Doanh nghiệp thường gặp những khó khăn trong kinh doanh đặc biệt là việc thu thập thông tin đáng tin cậy và cập nhật. Chính Phủ cần tăng cường thông tin cho các Doanh nghiệp thông qua việc hình thành các sở giao dịch, các trung tâm lưu trữ, tổ chức các hội trợ triển lãm nhiều để các Doanh nghiệp gặp gỡ trao đổi... Các thông tin về thị trường cần được thông báo cập nhật cho các Doanh nghiệp nhằm giúp họ điều chỉnh và có biện pháp ứng xử thích hợp với từng thị trường.
* Tăng cường các liên kết kinh tế khu vực, quốc tế và kí kết các hiệp định thương mại.
Xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động trọng tâm của các quan hệ kinh tế đối ngoại. Đây là hoạt động đặc thù do các bên tham gia xuất phát trên nền tảng luật pháp, kinh tế, văn hoá, chính trị... khác nhau. Do đó rất cần có sự đảm bảo của Chính Phủ nhằm tạo điều kiện bảo đảm an toàn cho các quan hệ kinh tế, thúc đẩy hợp tác hai chiều như hiệp định về bảo hộ đầu tư, hiệp định thương mại. Những thoả thuận ở cấp Chính Phủ sẽ là những khuôn khổ luật pháp quan trọng để các Doanh nghiệp mở rộng và phát triển thị trường xuất nhập khẩu.
kết luận
Việc đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Nó không chỉ có ý nghĩa với Công ty, đối với Doanh nghiệp trong ngành mà nó là tác nhân quan trọng trong phát triển kinh tế ở nước ta. Như ta đã biết Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX là một đơn vị kinh doanh trong ngành Hàng không- một ngành kinh tế kỹ thuật then chốt của đất nước. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của ngành Hàng không Việt Nam, kết hợp với chức năng nhiệm vụ của đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế thị trường vấn đề đạt và nâng cao hiệu quả kinh doanh đã trở thành mục tiêu, tiền đề, mở đường cho mọi hoạt động kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không AIRIMEX.
Sau một quá trình hoạt động Công ty đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận tuy chỉ là những điểm khởi đầu nhưng nó đã đóng góp phần nào vào sự phát triển của ngành Hàng không nói riêng và ngành kinh tế Việt Nam nói chung. Để tồn tại, phát triển và khẳng định vị trí trên chặng đường kinh doanh đầy khốc liệt Công ty cần không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, phấn đấu trở thành một Công ty xuất nhập khẩu có uy tín không những trong ngành Hàng không, mà còn trong nước, trong khu vưc và trên thế giới.
Thông qua đề tài này tôi muốn nêu lên một cách tiếp cận vấn đề này ở cấp độ Doanh nghiệp thương mại. Phương pháp luận đưa ra trong đề tài này có thể áp dụng cho bất cứ một Doanh nghiệp nào trong nghiên cứu, thúc đẩy hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn.
Do giới hạn về thời gian và trình độ hạn chế nên đề tài này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo và các bạn sinh viên để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới thầy giáo: TS. Phạm Công Đoàn và bác Trần Đình Vân cùng các cô chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hàng không đã trực tiếp giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo.
Giáo trình Kinh tế doanh nghiệp thương mại - TS Phạm Công Đoàn, TS Nguyễn Cảnh Lịch- Nhà XBGD - 1999.
Giáo trình Phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp thương mại - PGS-TS Trần Thế Dũng - Nhà XBGD -1999
Quản trị doanh nghiệp thương mại - Phạm Vũ Luận.
Khái luận về quản trị chiến lược - FRED.P.DAVID
Giáo trình quản trị thương mại quốc tế - PGS.PTS Trần Chí Thành.
Giáo trình kinh tế học quốc tế - Trường ĐH KTQD.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Hàng không Airimex năm (1999-2001).
Những văn bản pháp quy và nguyên tắc hoạt động của Công ty XNK Hàng không.
Tạp chí Hàng không năm 2001.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9487.doc