Phần mở đầu
Hải Dương là một tỉnh nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp với Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh là 3 trung tâm kinh tế trọng điểm của đất nước. Là một tỉnh nông nghiệp nhưng Hải Dương trong những năm gần đây, nền kinh tế tỉnh đã có sự chuyển dịch rõ rệt, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, nhu cầu cuộc sống ngày càng trở nên phong phú và đa dạng. Uống không chỉ đơn thuần là nhu cầu sinh lý giải quyết cơn khát của con người mà nó còn là nhu cầu gắn liền với
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia - Nước giải khát hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đời sống tình cảm của con ngưới. Một trong những nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của người dân đó là bia, nước giải khát, nơi đây hứa hẹn một thị trường tiêu thụ lớn và hấp dẫn.
Công ty Bia – nước giải khát Hải Dương ngày nay nguyên là nhà máy mỳ sợi trước đây ra đời, sản phẩm của công ty đã đáp ứng được nhu cầu đó của người tiêu dùng thành phố Hải Dương nói riêng và tỉnh Hải Dương nói chung, hướng tới nâng cao chất lượng sản phẩm tạo lên một sản phẩm riêng biệt của Hải Dương để tiêu thụ trên toàn quốc và bước tiếp theo có thể xuất khẩu .Bia, Vang vải thiều, sâm panh vải thiều đã trở thành một thứ đồ uống quan trọng của người dân trong tỉnh. Nó có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ, trong quán bình dân ven đường, nhà hàng, khách sạn, trong nhà ăn của các doanh nghiệp, cơ quan, trong từng hộ gia đình, đặc biệt là sản phẩm bia hơi trong suốt quá trình hình thành và phát triển, mục tiêu cơ bản của công ty là không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận, đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước, tích luỹ tái đầu tư mở rộng sản xuất cho đơn vị mình và tăng thu nhập cho người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, sản phảm của công ty luôn phải đối mặt sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại và những biến động không ngừng trong môi trường khinh doanh. Để đạt được các mục tiêu trong môi trường kinh doanh luôn biến động này các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: nguồn lực về vốn, về con người, không ngừng tổ chức cơ cấu lại bộ máy hoạt động.....Thực chất những việc này là doanh nghiệp thực hiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là thước đo tổng hợp, phản ánh năng lực sản xuất và trình độ kinh doanh của một doanh nghiệp, là điều kiện quyết định sự thành bại của tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất Bia, Nước giải khát như Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương nói riêng. Để khai thác triệt để các nguồn lực khan hiếm nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, các Công ty, các doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiến hành đánh giá các kết quả đã thực hiện và đưa ra các giải pháp, biện pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả.
Vấn đề hiệu quả kinh doanh luôn được ban lãnh đạo Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương quan tâm xem đây là thước đo và công cụ thực hiện mục tiêu kinh doanh tại Công ty. Với những kiến thực thu được trong quá trình học tập và xuất phát từ thực tế của Công ty em nhận thấy vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh thực sự giữ vai trò quan trọng. Theo đó: "Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia - Nước giải khát hải Dương'' được chọn làm đề tài nghiên cứu trong Luận văn tốt nghiệp này.
Bài Luận văn tốt nghiệp gồm ba chương chính sau đây:
Chương 1: Hiệu quả kinh doanh và vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh ở doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Công ty Bia - nước giải khát Hải Dương
Đề tài này được hoàn thành là nhờ vào sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của các thầy cô, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn Đàm Văn Nhuệ cũng như tập thể cán bộ trong Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương. Do thời gian thực tập và trình độ có hạn, nên trong bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy, các cô và bạn đọc để em có thể bổ sung, thêm những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện : Hoàng Tùng.
chương I
Hiệu quả kinh doanh và vấn đề
nâng cao hiệu quả kinh doanh ở doanh nghiệp
I Bản chất hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp
1. Khái niệm và bản chất
1.1. Khái niệm
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau song có thể khẳng định trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay mọi doanh nghiệp kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiẹp phải xác định chiến lược kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh; phải phân bổ và quản trị có hiệu quả các nguồn lực và luôn kiểm tra quá trình đang diễn ra là có hiệu quả? muốn kiểm tra tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải đánh giá được hiệu quả kinh doanh ở phạm vi doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận của nó.
Có thể nói rằng mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ảnh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Chúng ta hãy bắt đầu bằng các khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Có quan điểm cho rằng " hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền khinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản suất của nó ". thực chất quan điểm này đã dề cập đến khía cạnh phân bổ hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên giác độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét trên giác độ lý thuyết, hiệu quả kinh doanh chỉ có thể đạt được trên đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mức hiểu quả kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện, trong đó đòi hỏi phải dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo quy mô phù hợp với cầu thị trường. Thế mà không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực .
Nhiều nhà quản trị học quan niệm hiệu quả kinh daonh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạ được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó. Manfred Kuhn cho rằng :"tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh ". Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hgiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ảnh trình dộ lợi dụng các nguồn lợc (nhân, tài, vật lực, tiền vốn ) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem vói mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng công thức chung nhất như sau :
k=h/c
Trong đó : H- Hệu quả kinh doanh
K- Kết quả đạt được
C- hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó
Như thế, hiệu quẩ kinh doanh phản ảnh mặt chất lượng cá hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong quá trình kinh đoanh của doanh nghiệp trong sự vần động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động của từng nhân tố .
1.2. Bản chất
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ảnh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ảnh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất ( lao động, máy móc thiết bị, nguyên liệu tiền vốn ) trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả. kết quả là phạm trù phản ảnh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoăch đơn vị giá trị. Các đơn vị hiện vật cụ thể được sử dụng tuỳ thuộc vào đặc trưng của sản phẩm mà quá trình kinh doanh tạo ra, nó có thể là tấn, tạ, kg, m, m3, lít, ... Các đơn vị có thể là đồng, triệu đồng , ngoại tệ ,...Kết quả cũng có thể phản ảnh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh hoàn tòan định tính như uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm,...Cần chú ý rằng không phải chỉ kết quả định tính mà kết quả đinh lượng của một thời kỳ kinh doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thanh phẩm ....Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản suất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ được và thu được tiền về ,...
Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ảnh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối. Cần chú ý rằng trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được phản ảnh bằng tỷ số tương đối: tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Tránh nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả kinh doanh với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí luôn là số tuyệt đối, phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả của quá trình kinh doanh và không bao giờ phản ảnh được trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh thì hỉệu quả là phương tiện để có thể đạt được mục tiêu đó .
Hao phí nguồn lực của một thời kỳ trước hết là hao phí về mặt hiện vật , cũng có thể được xác định bởi đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị .Tuy nhiên , thông thường người ta hay sử dụng đơn vị giá trị vì nó mang tính so sánh cao .Rõ ràng ,việc xác định hao phí nguồn lực của một thời kỳ nhất định cũng là vấn đề không đơn giản .Không đơn giản ngay sự nhận thức về phạm trù này:hao phí nguồn lực được đánh giá thông qua phạm trù chi phí , chi phí kế toán hay chi phí kinh doanh ? Cần chú ý rằng , trong các phạm trù trên chỉ phạm trù chi phí kinh doanh là phản ảnh tương đối chính xác hao phí nguồn lực thực thế .Mặt khác , việc có tính toán được chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay khôngcũng như có tính toán được chi phí kinh daonh đến từng bộ phận doanh nghiệp hay không còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh .
Cũng cần chú ý rằng hiệu quả kinh doanh phản ảnh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong một thời kỳ kinh doanh nào đó hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với sợ tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào .
Vậy hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ảnh trình độ lợi dụng các nguồn lực, phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh ,phức tạp và khó tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó đều khó xác định một cách chính xác.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Phân loại hiệu quả kinh doanh là một việc làm hết sức thiết thực, nó là phương cách để các doanh nghiệp xem xét đánh giá những kết quả mà mình đạt được và là cơ sở để thành lập các chính sách, chiến lược, kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp. Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả được biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau, mỗi dạng thể hiện những đặc trưng và ý nghĩa cụ thể của nó. Việc phân loại hiệu quả kinh doanh theo những tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực trong việc điều hành tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp.
2.1. Hiệu qủa cá biệt và hiệu quả kinh tế quôc dân
Hiệu quả cá biệt là hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp, với biểu hiện trực tiếp là lợi nhuận kinh doanh và chất lượng thực hiện những yêu cầu xã hội đặt ra cho nó. Hiệu quả kinh tế quốc dân được tính cho toàn bộ nền kinh tế, về cơ bản nó là sản phẩm thăng dư, thu nhập quốc dân hay tổng sản phẩm xã hội mà đất nước thu được trong mỗi thời kỳ so với lượng vốn sản xuất, lao động xã hội và tài nguyên đã hao phí.
Trong việc thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp, mà còn cần phải đạt được hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại phụ thuộc vào mức hiệu quả cá biệt. Nghĩa là phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi người lao động và mỗi doanh nghiệp. Đồng thời xã hội thông qua hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước cũng có tác động trực tiếp đến hiệu quả cá biệt. Một cơ chế quản lý đúng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả cá biệt, ngược lại một chính sách lạc hậu, sai lầm lại trở thành lực cản kìm hãm nâng cao hiệu quả cá biệt.
2.2. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận
Thứ nhất , hiệu quả kinh doanh tổng hợp . Hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (hay một đơn vị bộ phận của doanh nghiệp ) trong một thời kỳ xác định
Thứ hai , hiệu quả kinh doanh bộ phận .Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh chỉ xét ở từng lĩnh vực hoạt động ( sử dụng vốn , lao động, máy móc thiết bị ,nguyên vật liệu ,...) cụ thể của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ phản ảnh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp chứ không phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp .
Giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp cấp doanh nghiệp phản ánh hiệu quả hoạt động của tất cả các lĩnh vực hoạt động cụ thể của doanh nghiệp.Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp có thể xuất hiện mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận, khi đó chỉ có hiệu quả kinh doanh tổng hợp là phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ có thể phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động, từng bộ phận của doanh nghiệp mà thôi
2.3. Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn
Thứ nhất , hiệu quả kinh daonh ngắn hạn, là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá ở từng khoảng thời gian. Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn chỉ đề cập đến từng khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng, quý, năm, vài năm,...
Thứ hai, hiệu quả kinh doanh dài hạn, là hiệu quả kinh doanh được xem xét ,đánh giá trong thời gian dài gắn với các chiến lược, các kế hoạch dài hạn hoặc thậm chí, nói dến hiệu quả kinh doanh dài hạn người ta hay nhắc đến hiệu quả lâu dài, gắn với quãng đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Cần chú ý rằng, giữa hiệu quả kinh doanh dài hạn và hiệu quả kinh doanh ngắn hạn vừa có mối quan hệ biện chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có thể mâu thuẫn nhau.Về nguyên tắc, chỉ có thể xem xét và đánh giá hiệu quả kinh doanh ngắn hạn trên cơ sở vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả kinh doanh dài hạn trong tương lai. Trong thực tế, nếu mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, chỉ có thể lấy hiệu quả kinh doanh dài hạn làm thước đo chất lượng hoat động kinh doanh của doanh nghiệp vì nó phản ánh xuyên suốt quá trình lợi dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
II. sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Các nguồn lực sản xuất xã hội là một phạp trù khan hiếm: càng ngày người ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất phục vụ các nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng không có giới hạn. Điều này phản ảnh quy luật khan hiếm. Quy luận khan hiếm bắt buộc mọi doanh nghiệp phải lựa chọn vầ trả lời chính xác ba câu hỏi :sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? vì thị trường chỉ chấp nhận các doanh nghiệp nào quyết định sản xuất đúng loại sản phẩm (dich vụ ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Mọi doanh nghiệp trả lời không đúng ba vấn đề trên sẽ sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được trên thi trường - tức kinh doanh không có hiệu quả, lãnh phí nguồn lực xã hội - sẽ không có khả năng tồn tại.
Mặt khác, mọi doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường mở cửa và ngày càng hội nhập phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh .muốn chiến thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp phải luôn tạo và duy trì các lợi thế cạnh tranh :chất lượng và sự khác biệt hoá, giá cả và tốc độ cung ứng .Để duy trì lợi thế về giá cả doanh nghiệp phải sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Chỉ trên cơ sở sản xuất kinh doanh với hiệu quả kinh tế cao, doanh nghiệp mới có khả năng đạt được điều này .
Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm (dịch vụ )cung cấp cho thị trường. Muốn vậy, doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhất định. Doanh nghiệp càng sử dụng tiết kiêm các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để thu được lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao càng phản ánh doanh nghiệp dã sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất.Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận ...
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, nó liên quan tới tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau.
Muốn đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh thì trước hết doanh nghiệp phải xác định được nhân tố nào tác động đến kinh doanh và tác động đến hiệu quả kinh doanh, nếu không làm được điều này thì doanh nghiệp không thể biết được hiệu quả hình thành từ đâu và cái gì sẽ quyết định nó. Xác định nhân tố ảnh hưởng, ảnh hưởng như thế nào và mức độ, xu hướng tác động là nhiệm vụ của bất cứ nhà kinh doanh nào.
Nói đến nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có rất nhiều, nhưng chúng ta có thể chia làm hai nhóm chính: nhân tố thuộc về doanh nghiệp và nhân tố ngoài doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có biện pháp tác động lên các yếu tố một cách hợp lý, có hiệu quả, làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển tốt hơn, phát huy tốt hơn các nhân tố tích cực và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì nó phải có một hệ thống cơ sở vật chất, con người, đây chính là nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp. Trong guồng máy hoạt động chung của doanh nghiệp, mỗi nhân tố đóng một vai trò nhất định, mà thiếu nó thì toàn bộ hệ thống sẽ hoạt động kém hiệu quả hay ngừng hoạt động. Dưới đây xin đưa ra một số nhân tố ảnh hưởng chính đến hiệu quả kinh doanh.
1.1. Nhân tố quản trị doanh nghiệp và lực lượng lao động
Con người là khởi nguồn của mọi hoạt động có ý thức. Hoạt động kinh doanh được bắt đầu là do con người, tổ chức thực hiện nó cũng chính do con người. Một đội ngũ công nhân viên tốt là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện kinh doanh có hiệu quả. Với khả năng lao động và sáng tạo thì nhân tố con người được đánh giá là nhân tố nòng cốt cho sự phát triển. Kết hợp với hệ thống tư liệu sản xuất con người đã hình thành lên quá trình sản xuất. Sự hoàn thiện của nhân tố con người sẽ từng bước hoàn thiện quá trình sản xuất và xác lập hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. Tuy vậy mỗi cá nhân đặt ngoài sự phân công lao động sẽ lại là một nhân tố làm giảm hiệu quả kinh doanh, khắc phục điều này chính là nguyên nhân ra đời của bộ máy tổ chức, quản lý
Bộ máy tổ chức, quản lý là sự tác động trực tiếp của của các cấp lãnh đạo xuống các cá nhân, công nhân viên nhằm mục đích buộc phải thực hiện một hành động hay một công việc nào đó. Bộ máy tổ chức, quản lý có hiệu quả là yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Sự kết hợp yếu tố sản xuất không phải là tự phát như quá trình tự nhiên mà là kết quả của hoạt động có tổ chức, có kế hoạch, có điều khiển của con người, vì vậy hình thành bộ máy tổ chức có hiệu quả là một đòi hỏi để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo ra một cơ cấu sản xuất phù hợp và thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Một cơ cấu hợp hợp lý còn góp phần xác định chiến lược kinh doanh thông qua cơ chế ra quyết định và ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu và chiến lược đó.
Cơ cấu tổ chức phù hợp góp phần phát triển nguồn nhân lực. Xác định rõ thực lực của từng cá nhân cụ thể, đặt họ đúng vị trí trong doanh nghiệp sẽ là cách thúc đẩy hiệu quả và phát huy nhân tố con người. Đồng thời nó tạo động lực cho các cá nhân phát triển, nâng cao trình độ khả năng của mình.
1.2. Vốn kinh doanh
Ngày nay, nói đến kinh doanh thì nhân tố đầu tiên được quan tâm chính là vốn, đây là yếu tố nền tảng cho một hoạt động kinh doanh bắt đầu. Ngay trong luật pháp của Việt Nam cũng có quy định điều luật một doanh nghiệp được xã hội thừa nhận thì phải có số vốn tối thiếu là bao nhiêu. Vì vậy có thể khẳng định tầm quan trọng của vốn trong kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp dùng trong kinh doanh, bao gồm:
Tài sản cố định hữu hình: Nhà của, kho tàng, của hàng, quày hàng, các thiết bị máy móc....
Tài sản cố định vô hình: Bằng phát minh sáng chế, bản quyền sở hữu công nghiệp, uy tín của công ty trên thị trường, vị trí địa lý, nhãn hiệu các hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh....
Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý....
Vốn kinh doanh trong doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc thành lập loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là điều kiện quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh là một trong những tiềm năng quan trọng nhất của doanh nghiệp. Vốn lớn hay nhỏ là một trong những điều kiện quan trọng để xếp doanh nghiệp vào loại có quy mô lớn, trung bình, nhỏ.
Vốn kinh doanh bao giờ cũng là cơ sở để hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Nó là một chất keo để chắp nối, dính kết các quá trình và các quan hệ kinh tế.
Vốn kinh doanh là điều kiện, khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là việc tối đa hoá lợi ích dựa trên cơ sở chi phí bỏ ra hay là tối thiếu hoá chi phí cho một mục tiêu nhất định nào đó. Trong kinh doanh không thể thiếu khái niệm chi phí khi muốn có hiệu quả. Vì vậy mà vốn chính là cơ sở để tạo ra lợi nhuận, đạt được mục đích cuối cùng của nhà kinh doanh.
Thiếu vốn cho kinh doanh sẽ làm giảm hiệu quả do không tận dụng được lợi thế quy mô, không tận dụng được các thời cơ, cơ hội. Tuy nhiên, thiếu vốn là vấn đề mà các doanh nghiệp luôn luôn gặp phải. Đứng trên góc độ của nhà kinh doanh thì cách thức giải quyết sẽ là tối đa hoá lợi ích trên cơ sở số vốn hiện có.
1.3. Nghệ thuật kinh doanh và xử lý thông tin
Nghệ thuật kinh doanh là việc sử dụng có hiệu quả nhất các phương pháp, các tiềm năng, các cơ hội và các kinh nghiệm được tích luỹ trong quá trình kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đề ra của doanh nghiệp.
Nghệ thuật kinh doanh là đảm bảo cho doanh nghiệp luôn tồn tại và phát triển. Đó là việc sử dụng các tiềm năng của bản thân doanh nghiệp cũng như của người khác, các cơ hội các phương pháp thủ đoạn kinh doanh có thể để: bỏ ra chi phí ít, thụ lại được nhiều, che dấu những nhược điểm của doanh nghiệp, giữ bí mật kinh doanh và khai thác được những điểm mạnh, điểm yếu của người khác, giải quyết nhanh ý đồ của doanh nghiệp mà không lôi kéo các đối thủ mới vào cuộc. Bảo đảm cho doanh nghiệp phát triển lâu dài.
Ngày nay sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật đang làm thay đổi hẳn nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng .thông tin được coi là hàng hoá
Trong kinh doanh nếu biết mình, biết người và nhất là hiểu rõ các đói thủ cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh. Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp cho thấy nắm được các thông tin cần thiết và biết xử lý, xử dụng nó kịp thời là một điều kiện rất quan trọng dể ra các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao
Tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng nhu cầu thông tin kinh doanh lại vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí kinh doanh cho quá trình thu thập, xử lý ,lưu trữ vã xử lý thông tin. Do nhu cầu thông tin ngày càng lớn nên nhiệm vụ này cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản trị hiện nay. Phù hợp với xu thế phát triển hệ thống thông tin nội bộ pâhỉ là hệ thống thông tin nối mạng cục bộ trong nước và quốc tế.
1.4. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay mỗi doanh nghiệp cần phải mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình, vì mạng lưới kinh doanh là cách thức để doanh nghiệp có thể tiêu thụ được sản phẩm của mình. Có tiêu thụ được sản phẩm thì mới thực hiện được kết quả kinh doanh và thực hiện lợi nhuận. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ cho phép doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, tăng doanh số bán và lợi nhuận. Mạng lưới kinh doanh phù hợp sẽ cho phép doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hiện nay tình hình thị trường rất biến động và cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi doanh nghiệp cần phải năng động sáng tạo tìm ra cái mới, cái cần và ngày càng hoàn thiện mạng lưới kinh doanh để thích nghi trong cơ chế thị trường và đưa doanh nghiệp ngày càng đi lên.
1.5. Đòn bẩy kinh tế trong doanh nghiệp.
Việc doanh nghiệp sử dụng các hình thức trách nhiệm vật chất, thưởng phạt nghiêm minh sẽ tạo ra động lực cho người lao động nỗ lực hơn trong phần trách nhiệm của mình, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tối đa tiềm năng lao động, tạo điều kiện cho mọi người, mọi bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh.
2. Những nhân tố ngoài doanh nghiệp.
Ngoài các nhân tố thuộc doanh nghiệp thì hệ thống nhân tố ngoài doanh nghiệp cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1. Thị trường.
Thị trường là tổng hợp các thoả thuận thông qua đó người mua và người bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Chức năng cơ bản của thị trường là ấn định giá cả đảm bảo sao cho số lượng mà những người muốn mua bằng số lượng của những người muốn bán. Thị trường được cấu thành bởi người bán, người mua, hàng hoá và hệ thống quy luật thị trường.
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì tất yếu phải chịu sự tác động và tuân theo các quy luật của thị trường, việc thực hiện ngược lại các quy luật tất yếu sẽ bị đào thải. Thị trường tác động đến kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các nhân tố sau:
Cầu về hàng hoá
Cầu về hàng hoá là số lượng hàng hoá dịch vụ mà người mua muốn mua và sẵn sàng mua tại những mức giá cụ thể. Cầu là một bộ phận cấu thành lên thị trường, nó là lượng hàng hoá tối đa mà doanh nghiệp có thể tiêu thụ tại một thời điểm tại một mức giá nhất định. Khi cầu thị trường về hàng hoá của doanh nghiệp tăng thì lượng tiêu thụ tăng lên, giá trị được thực hiện nhiều hơn, quy mô sản xuất mở rộng và doanh nghiệp đạt được lợi nhuận ngày một tăng. Chỉ có cầu thị trường thì hiệu quả kinh doanh mới được thực hiện, thiếu cầu thị trường thì sản xuất sẽ luôn trong tình trạng trì trệ, sản phẩm luôn tồn trong kho, giá trị không được thực hiện điều này tất yếu là không có hiệu quả.
Vấn đề cầu thị trường luôn được các doanh nghiệp quan tâm. Trước khi ra quyết định thực hiện một hoạt động kinh doanh cụ thể nào thì công việc đầu tiên được các doanh nghiệp xem xét đó là cầu thị trường và khả năng đưa sản phẩm của mình vào thị trường. Ngày nay cầu thị trường đang trong tình trạng trì trệ, vấn đề kích cầu đang được Nhà nước và chính phủ đạt lên hàng đầu để thúc đẩy phát triển kinh tế, đây cũng là vấn đề gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu cầu thị trường đầy đủ sẽ là nhân tố góp phần thành công của doanh nghiệp.
Cung về hàng hoá
Cung thị trường về hàng hoá là lượng hàng hoá mà người bán muốn bán và sẵn sàng bán tại những mức giá cụ thể.
Nhìn chung cung thị trường về hàng hoá tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên hai phương diện sau:
Cung thị trường về tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hệ thống các yếu tố đầu vào mà doanh nghiệp cần. Việc thị trường có đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu của doanh nghiệp sẽ đảm bảo hoạt động kinh doanh diễn ra đều đặn và liên tục, nếu không thì dẫn đến tình trạng cạnh tranh trong việc thu mua yếu tố đầu vào.
Cung thị trường tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc tiêu thụ. Nếu trên thị trường có quá nhiều đối thủ cũng cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp sản xuất hay những mặt hàng thay thế, thì tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, làm giảm mức tiêu thụ của doanh nghiệp. Sản phẩm không tiêu thụ được thì sản xuất sẽ ngừng trệ....
Giá cả
Giá cả trên trong cơ chế thị trường biến động phức tạp trên cơ sở quan hệ cung cầu, ở các thị trường khác nhau thì giá cả khác nhau. Do vậy doanh nghiệp cần phải nắm vững thị trường, dự đoán thị trường, để xác định mức giá mua vào bán ra cho phù hợp
Giá mua vào: có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Nó cần được xác định trên cơ sở của dự đoán thị trường và giá bán có thể. Giá mua vào càng thấp càng tốt và để đạt được giá mua vào thấp, doanh nghiệp cần phải tìm kiếm thị trường, lựa chọn mua ở thị trường nào và mua của ai. Doanh nghiệp càng có mối quan hệ rộng, có nhiều người cung cấp sẽ cho phép khảo giá được ở nhiều nơi và lựa chọn mức giá thấp nhất.
Giá bán ra: ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, nó được xác định bằng sự thoả thuận của người mua và người bán thông qua quan hệ cung cầu. Để đạt được hiệu quả kinh doanh thì giá bán phải đảm bảo lớn hơn giá thành sản xuất cộng với chi phí lưu thông. Do vậy để đạt hiệu quả kinh doanh phải dự báo giá cả và thị trường.
Cạnh tranh
Tình hình cạnh tranh trên thị trường có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cạnh tranh càng gay gắt có nghĩa là doanh nghiệp càng phải khó khăn và vất vả để tồn tại và phát triển. Ngoài ra cạnh tranh còn dẫn đến giảm giá bán, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trở lên khó khăn. Vì giờ đây doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm giảm giá thành, tổ chức lại bộ máy kinh doanh phù hợp.... để bù đằp những mất mát cho công ._.ty về giá cả, chiến lược, mẫu mã.
2.2. Tập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân.
Đây là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nó quyết định mức độ chất lượng, số lượng, chủng loại, gam hàng.... Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và nghiên cứu để làm sao phù hợp với sức mua, thói quen tiêu dùng ở mức giá cả chấp nhận được. Bởi những yếu tố này tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3. Mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Đây là giá trị vô hình của doanh nghiệp, nó tác động đến sự thành bại trong nâng cao hiệu quả kinh doanh. sự tác động đó là phi lượng hoá mà chúng ta không thể tính toán hay đo đạc bằng các phương pháp định lượng. Quan hệ, uy tín của doanh nghiệp sẽ cho phép mở rộng các cơ hội kinh doanh, mở rộng những đầu mối làm ăn và từ đó doanh nghiệp sẽ có quyền lựa chọn những gì có lợi cho mình. Hơn thế nữa quan hệ và uy tín sẽ cho phép doanh nghiệp có ưu thế trong việc tiêu thụ, vay vốn hay mua chịu hàng hoá....
2.4. Kỹ thuật công nghệ.
Yếu tố kỹ thuật công nghệ làm cơ sở cho yếu tố kinh tế, là phương cách để dẫn đến sự ra đời của sản phẩm mới, tác động vào mô hình tiêu thụ và hệ thống bán hàng. Những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ đã làm thay đổi tận gốc hàng hoá và quy trình sản xuất, tác động sâu sắc đến hai yếu tố cơ bản tạo lên khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán sản phẩm.
Doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những biến đổi đang diễn ra của yếu tố khoa học kỹ thuật. Phân tích yếu tố khoa học kỹ thuật giúp doanh nghiệp nhận thức được các thay đổi về mặt công nghệ và khả năng ứng dụng của nó vào doanh nghiệp. Hướng nghiên cứu có thể bao gồm những yếu tố sau:
Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng trong hoạt động kinh doanh.
Chiến lược phát triển kỹ thuật và công nghệ của đất nước.
2.5. Chính trị và pháp luật.
Hoạt động kinh doanh phải tuân theo các quy định của pháp luật. Luật pháp là quy tắc của cuộc chơi kinh doanh mà ai vi phạm sẽ bị xử lý. Luật pháp ngăn cấm mọi người kinh doanh bất hợp pháp, trốn thuế, buôn lậu....xong nó cũng bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia kinh doanh. Yếu tố chính trị là thể hiện sự điều tiết bằng pháp luật của Nhà nước đến các hoạt động kinh doanh.
Để thành công trong kinh doanh các doanh nghiệp phải phân tích, dự đoán về chính trị và luật pháp cùng xu hướng vận động của nó, bao gồm:
Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của chính phủ.
Sự phát triển và quyết định bảo vệ người tiêu dùng.
Hệ thống luật, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành.
2.6. Điều kiện tự nhiên.
Môi trường tự nhiên gồm các nhân tố:
Nhân tố thời tiết khí hậu, mùa vụ: nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến quy trình, tiến độ kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng đố uống giải khát, hàng nông sản, thuỷ hải sản....Với những điều kiện thời tiết, khí hậu và mùa vụ nhất định thì các doanh nghiệp phải có chính sách cụ thể phụ hợp với điều kiện đó. Và khi yếu tố này không ổn định sẽ làm mất ổn định hoạt động kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
Nhân tố tài nguyên thiên nhiên: nhân tố này chủ yếu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên. Một khu vực có nhiều tài nguyên với trữ lượng lớn và có chất lượng tốt sẽ ảnh hưởng và tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp khai thác. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất nằm trong khu vực này mà có nhu cầu đến tài nguyên, nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhân tố vị trí địa lý: đây là nhân tố không chỉ tác động đến lợi thế của doanh nghiệp mà còn tác động đến các mặt khác trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Giao dịch vận chuyển, sản xuất....các mặt này cũng tác động đến hiệu quả kinh doanh bởi sự tác động lên các chi phí tương ứng.
VI. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh .
1. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp.
Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh là giới hạn, là mốc xác định danh giới có hay không có hiệu quả.như thế, trước hết càn xác định được tiêu chuẩn hiệu quả cho mỗi chỉ tiêu đẻ phân biệt mức có hay không có hiệu quả.
Sẽ không có tiêu chuẩn chung cho các công thức xác định khác nhau. Nếu theo phương pháp so sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của ngành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả nếu giá trị đạt được ứng với một chỉ tiêu cụ thể xác định không thấp hơn giá trị bình quân của ngành .
2. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh.
Bảng 1: Một số ký hiệu:
TR : tổng doanh thu
M : tổng vốn K.D
MF : vốn cố định bình quân
TC : tổng chi phí
AL : số lao động bq/năm
D : khấu hao TSCĐ
P : lợi nhuận
WL : tổng tiền lương
V : nguyên giá TSCĐ bq
MV : vốn lưu động B.Q
N : số vòng quay VLĐ
B : tổng nợ phải trả
BS : tổng nợ ngắn hạn
MM :vốn bằng tiền
SQ : tồn kho
Q : sản lượng
Z : giá thành
Qu : sản lượng hỏng
Zu : chi phí S.P hỏng
Bảng 2: hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
Chỉ tiêu
Công thức xác định
í nghĩa
I. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp
1. Lợi nhuận
TR – TC
Phản ánh số tiền lãi của Công ty
2. Doanh thu trên một đồng chi phí sản xuất
TR
----------
TC
Bỏ ra một đồng chi phí chúng ta thu mấy đồng được mấy đồng doanh thu
3. Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất
TR
----------
M
Bỏ ra một đồng vốn đầu tư vào sản xuất ta thu được mấy đồng doanh thu
4. Doanh lợi theo chi phí
P
----------
TC
Doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì lãi mấy đồng
5. Doanh lợi theo vốn sản xuất
P
----------
M
Đầu tư một đồng vốn thì ta thu được mấy đồng lãi
5. Doanh lợi doanh thu thuần
P
----------
TR
Khi thu được một đồng doanh thu chứng ta sẽ lã được mấy đồng
II. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hoạt động sử dụng lao động
1. Năng suất lao động
TR
----------
AL
Một lao động tạo ra mấy đồng doanh thu
2. Kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương
TR
WL
Bỏ ra một đồng tiền lương thì thu được mấy đồng doanh thu
3. Khả năng sáng tạo giá trị của lao động
P
AL
Số khoản tiền lãi mà một công nhân đem lại cho doanh nghiệp
III. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
1. Sức sản xuất của vốn cố định
TR
MF
Bỏ ra một đồng vốn cố định thì thu được mấy đồng doanh thu
2. Sức sinh lợi của vốn cố định
P
MF
Đầu tư một đồng vốn cố định cho ta khoản lãi là bao nhiêu
3. Hệ số hao mòn TSCĐ
D
----------
V
Khả năng thu hồi giá trị áy móc thiết bị đã đầu tư
IV. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1. Sức sinh lợi của vốn lưu động
P
----------
MV
Đầu tư một đồng vốn lưu động thu được mấy đồng lãi
2. Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay
365
----------
N
Cho biết thời gian để luân chuyển hết một vòng vốn lưu động là bao nhiêu ngày
3. Số vòng quay vốn lưu động
TR
----------
MV
Số lần quay vòng của vốn lưu động trong thời kỳ nghiên cứu
4. Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động
MV
----------
TR
Để có một đồng doanh thu thì vốn lưu động cần là bao nhiêu
V. Nhóm chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính
1. Chỉ số mắc nợ
B
----------
M
Phản ánh phần trăm vốn Công ty đi chiếm dụng và sử dụng cốn của người khác
2. Khả năng thanh toán ngắn hạn
MV
----------
BS
Khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn của Công ty bằng tài sản lưu động
3. Khả năng thanh toán nhanh
MV – SQ
----------
BS
Khả năng chi trả nhanh của Công ty với các khoản nợ ngắn hạn
4. Khả năng thanh toán tức thời
MM
----------
BS
Khả năng tra ngay tức thì các khoản nợ ngắn hạn của Công ty
5. Hệ số quay kho
TR
----------
SQ
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm
1. Tỷ lệ sai hỏng
Cách 1: Thước đo hiện vật
Qu *100
----------
Q
Cách 2: Thước đo giá trị
Zu * 100
----------
Z
Phản ánh khả năng sản xuất của Công ty về độ chính xác, trình độ tay nghề của công nhân sản xuất, và hiệu quả sản xuất.
2. Tỷ lệ đạt chất lượng
Q – Qu
----------*100
Q
Phản ánh sản phẩm đạt chất lượng của công ty
3. Hệ số phân cấp bình quân
S Qi*Pi
----------
S Qi*P1
Phản ánh mức độ phẩm chất bình quân của các sản phẩm mà Công ty cung cấp
3. Các quan điểm cơ bản trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh doanh và chính những điều này làm triệt tiêu những cố gắng, nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả. Như vậy khi dề cập đến hiệu quả kinh doanh chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
3.1 Về mặt thời gian.
Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xét trong dài hạn, hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả của chu kỳ sau. Trong thực tế không ít trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt, thiếu xem xét toàn diện lâu dài. Vấn đề này đang tồn tại ở khá nhiều doanh nghiệp và trong đội ngũ cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Nghiên cứu và xem xét hiệu quả và nâng cao hiệu quả kinh doanh về mặt thời gian là việc không thể thiếu nhằm để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
3.2 Về mặt không gian.
Có hiệu quả kinh doanh hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả của hoạt động cụ thể nào đó, có ảnh hưởng tăng giảm như thế nào đối với cả hệ thống mà nó liên quan túc là giữa các ngành kinh tế này với các ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, và đặc biệt là đối với doanh nghiệp Nhà nước thì có mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh với việc thực hiện các nhiệm vụ khác ngoài kinh tế
Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung thì nó mới được coi là thực sự có hiệu quả.
3.3 Về mặt định lượng.
Hiệu quả kinh doanh phải được thể hiện trong mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng thu giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động (lao động sống và lao động vật hoá) để tạo ra một đơn vị sản phẩm có ích nhất.
3.4 Về mặt định tính.
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả đạt được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả ấy. Có như vậy thì hiệu quả hoạt động kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn diện.
Kết quả đạt được trong sản xuất mới đảm bảo được yêu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nhưng kết quả tạo ra ở mức nào, với giá trị nào, đó chính là vấn đề cần xem xét, vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Vì thế đánh giá hoạt động kinh doanh không chỉ đánh giá kết quả mà còn đánh giá chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó, tức là đánh giá người sản xuất tạo ra kết quả bằng phương tiện gì, bằng cách nào và chi phí bao nhiêu. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ , do đó vấn đề mà con người quan tâm là làm sao với khả năng hiện có tạo ra được nhiều sản phẩm nhất. Đây là một nguyên nhân mà chúng ta phải xem xét lựa chọn phương cách để đạt được kết quả lớn nhất. Điều này cũng minh hoạ cho sự khác biệt giữ hai khái niệm hiệu quả và kết quả
3.5 Đánh giá hiệu quả kinh doanh phải căn cứ vào cả mặt hiện vật và mặt giá trị của hàng hoá.
Mặt hiện vật của hàng hoá thể hiện ở số lượng sản phẩm, chất lượng sản phẩm, mặt giá trị là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá sản phẩm, của kết quả và chi phí bỏ ra. Xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh trên cả hai mặt là một tất yếu. Đứng trên giác độ mặt hiện vật nó cho biết khả năng cung cấp và thoả mãn nhu cầu thị trường của doanh nghiệp, đứng trên giác độ mặt giá trị nó cho biết hiệu quả đích thực của kinh doanh.
Chương II
Phân tích hiệu quả kinh doanh ở công ty bia- nước giải khát hải dương
I. Giới thiệu khái quát chung về công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương.
1. Quá trình hình thành và phát triển .
Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương ngày nay nguyên là nhà máy mỳ sợi trước đây được xây dựng từ năm 1968 do Liên Xô giúp đỡ viện trợ. Đến năm 1971 đi vào sản xuất với 2 mặt hàng chính là chế biến một mỳ thành mỳ sợi và bánh mỳ.
Đến năm 1980 sáp nhập xưởng bánh kẹo của ngành thương nghiệp, đổi tên thành xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm số 1 Hải Dương. Mặt hàng chủ yếu là sản xuất bánh kẹo, chế biến bột ớt, bột tỏi để xuất khẩu sang Đông Âu.
Trải qua nhiều những thăng trầm của những năm bao cấp, thành tích cao nhất của xí nghiệp là năm 1984 xuất khẩu được hàng ngàn tấn bột ớt và bột tỏi cho Liên Xô và đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba.
Sang đầu những năm 1989 -1990 nền kinh tế nước ta chuyển sang thời kỳ đổi mới, xoá bỏ chế độ bao cấp chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Các sản phẩm của xí nghiệp sản xuất ra như bánh kẹo, bột ớt, bột tỏi không cạnh tranh được trên thị trường. Tài sản cố định của xí nghiệp lúc đó chủ yếu là nhà xưởng, bánh kẹo sản xuất thủ công, máy móc cũ, đã nhiều lần chuyển mặt hàng khác nhưng đều không thành công. Sản xuất đình đốn dẫn đến xí nghiệp thua lỗ, công nợ nhiều không có khả năng thanh toán.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh, ngành chủ quản đã có giải pháp thích hợp là thay đổi cơ cấu tổ chức lãnh đạo xí nghiệp, cho chuyển hướng sản xuất nếu có phương án sản xuất khả thi để xí nghiệp thoát khỏi bế tắc trong sản xuất kinh doanh và công nhân có việc làm.
Do vậy, cuối năm 1990 qua đi khảo sát nghiên cứu tình hình sản xuất công nghiệp ở một số tỉnh xung quanh với những doanh nghiệp có quy mô gần giống như xí nghiệp của Hải Dương lúc đó như Thái Bình, Hà Tây, Hà Bắc, Hải Phòng, Quảng Ninh. Công ty quyết định trình phương án chuyển đổi sản xuất từ bánh kẹo, nghiền bột ớt, tỏi sáng sản xuất mặt hàng bia hơi và đồ uống, vì trên địa bàn Hải Hưng lúc đó chưa có đơn vị nào (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh) đầu tư mặt hàng này. Nên ngày 5 tháng 3 năm 1991 theo quyết định số 354 QĐUB của UBND tỉnh Hải Dương về việc đổi tên và điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của xí nghiệp thành công ty Bia – nước giải khát Hải Dương ngày nay, là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương có trụ sở tại phố Đền Thánh – thành phố Hải Dương tỉnh Hải Dương.
Điện thoại (0320) 852.319 – 853740
Fax (0320) 859835
Số tài khoản T10A – 000152 ngân hàng công thương tỉnh Hải Dương.
Để giảm bớt rủi ro trong sản xuất kinh doanh, phương châm của công ty về đầu tư mặt hàng mới là: đầu tư từ nhỏ đến lớn, lấy ngắn nuôi dài, vươn lên chiếm lĩnh thị trường bằng uy tín và chất lượng sản phẩm.
Năm 1990 Công ty trình phương án sản xuất bia hơi với công suất 500.000 lít bia/ năm nhưng đã có những phương án mở rộng gấp 2 lần với vốn đầu tư được vay là 1 tỷ đồng. Sau 1 năm, năm 1992 công ty đã đạt gần 1 triệu lít và cũng năm đó công ty trình phương án mở rộng công suất gấp 2 lần với giá trị đầu tư là 950 triệu đồng và năm 1993 công ty đã đạt sản lượng 1,9 triệu lít.
Qua nắm bắt thị trường, hiệu quả đầu tư vượt công suất, công ty đã quyết định phương án đầu tư tiếp nâng công suất lên 5 triệu lít bia/ năm, với vốn đầu tư 5 tỷ đồng. Đến năm 1995, Công ty bán ra đạt 6,2 triệu lít, vượt công suất 1,2 triệu lít bia.
Sau khi đã khẳng định sản phẩm của công ty có uy tín trên thị trường. Việc chiếm lĩnh và mở rộng thị trường là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty.
Cuối năm 1994 công ty đầu tư xong công suất thiết kế 5 triệu lít bia/ năm. Nhưng kết thúc năm 1995 Công ty tiêu thụ được 6,2 triệu lít, vượt công suất 1,2 triệu lít. Qua khảo sát và nghiên cứu thị trường các huyện thị trong tỉnh và các khu vực xung quanh tỉnh, Công ty quyết định trình phương án đầu tư đưa công suất lên 10 triệu lít bia/ năm, nhưng việc đầu tư được chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1 (năm 1996): Đưa công suất lên 7,5 triệu lít bia/năm.
Giai đoạn 2( năm 1997 -1998): Đưa công suất lên 10 triệu lít.
Tổng vốn đầu tư là 6 tỷ đồng.
Phương án đã được UBND tỉnh phê duyệt. Việc phân giai đoạn nhằm đầu tư nhanh, phát huy công suất để mùa hè không để trống thị trường nhằm đạt hiệu quả
2. Chức năng nhiệm vụ của công ty.
Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương được thành lập theo quyết định số 354 QĐUB của UBND tỉnh Hải Dương ngày 5 -3 -1991. Trong quyết định thành lập này có quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của công ty như sau.
Sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm chủ yếu là: bia hơi, bia chai, sâm panh vải thiều, vang vải thiều, vang tropical…
Hợp tác với các đơn vị cơ khí, điện lạnh để thiết kế, chế tạo thiết bị và chuyển giao công nghệ sản xuất bia, nước giải khát.
Giải quyết việc làm và ngày càng nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong công ty.
Bảo toàn và phát triển vốn
Đóng góp đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và các cơ quan chủ quản.
Cung cấp dịch vụ cho các nhà hàng, khách sạn, đại lý.
Liên doanh, liên kết nhằm mở rộng sản xuất.
3. Cơ cấu tổ chức của công ty.
Bộ máy quản lý Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương tổ chức theo mô hình trực tuyến, phân thành 4 phòng ban với chế độ một thủ trưởng.
Đứng đầu là ban giám đốc lãnh đạo chung toàn công ty, ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc. Giám đóc đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của công ty trước pháp luật, giám đốc chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhà nước cũng như trước toàn thể cán bộ công nhân viên về Hải Dương sản xuất kinh doanh của công ty. Trợ giúp giám đốc là 2 phó giám đốc thực hiện chức năng chuyên môn của mình.
Phó giám đốc phụ trách tổ chức hành chính. Chịu trách nhiệm về chỉ đạo và kiểm tra các công tác hành chính và nhân sự lao động. Bồi dưỡng đào tạo công nhân và đảm bảo an ninh trật tự. Cụ thể giám sát phòng hành chính và ban bảo vệ.
Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật sản xuất: Chịu trách nhiệm về chỉ đạo kiểm tra kỹ thuật để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất, cụ thể là: giám sát hoạt động kỹ thuật, đảm bảo an toàn sản xuất, an toàn lao động, nghiên cứu và bảo dưỡng máy móc thiết bị, đào tạo bồi dưỡng tay nghề.
Để giúp ban giám đốc quản lý các tổ đội sản xuất có các phòng, ban chức năng. Các phòng ban này được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh, bao gồm: phòng tổ chức hành chính, phòng kế toán tài vụ, phòng kế hoạch vật tư, phòng kỹ thuật.
Phòng kỹ thuật: (12 người) xây dựng tải tiến quy trình công nghệ sản xuất, tổng hợp và đưa vào thực tiễn các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phụ trách về các vấn đề kỹ thuật trong nhà máy. Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật cho các sản phẩm mới, kiểm tra nghiệm thu chất lượng sản phẩm.
Phòng kế hoạch vật tư: (8 người). Lập kế hoạch hàng năm, xây dựng định mức trong các khâu sản xuất, lập kế hoạch mua sắm trang thiet bị Tạo điều kiện để xuất vật tư cho sản xuất được dễ dàng. Nhập vật tư, bảo quản dự trữ khoa học để hàng hoá có chất lượng đảm bảo khi xuất dùng, xây dựng mới, tu sửa các công trình, cơ sở vật chất của công ty.
Phòng kế toán tài vụ: (10 người) thực hiện các nghiệm vụ tính toán ghi chép các thông tin về vốn, vật tư, nguyên vật liệu, thành phẩm… nắm tình hình thu chi, lỗ lãi, bảo quản vốn và nộp ngân sách. Bên cạnh đó có bộ phận có nhiệm vụ tiếp nhận, thanh toán các chế độ lương thưởng, bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho người lao động.
Phòng tiêu thụ: (6 người) nhiệm vụ chủ yếu là thông tin quảng cáo, marketing, khai khác mở rộng thị trường, tổ chức mạng lưới lưu thông, tổ chức giao hàng tại công ty, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động liên quan đến việc bán hàng và dịch vụ bán hàng.
Phòng tổ chức hành chính (7 người) chăm lo vấn đề, đời sống cho cán bộ công nhân viên công ty. Tiếp khách giải quyết các thủ tục hành chính…
Ban bảo vệ (8 người) bảo vệ trật tự an ninh, an toàn cho sản xuất. Đảm bảo thực hiện đúng các nội quy, quy chế của công ty.
Bảng 3 :Tình hình lao động của công ty.
TT
Đơn vị
Tổng số
Bậc thợ
Đhọc
Cđẳng
Tcấp
S cấp
2
3
4
5
6
7
1
Giám đốc
1
1
2
Pgiám đốc
2
2
3
Phòng kỹ thuật
12
6
2
2
2
4
Phòng kế toán vật tư
8
3
1
1
2
1
5
Phòng kế toán tài vụ
10
5
2
3
6
Phòng tiêu thụ
6
2
2
1
1
7
Phòng hành chính
7
3
1
3
8
Phân xưởng
209
13
3
7
35
48
53
31
19
Nguồn: Phòng tổ chức hành chính
Bộ máy tổ chức, quản lý là sự tác động của các cấp lãnh đạo xuống các cá nhân, công nhân viên nhằm mục thựchiện tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bộ máy tổ chức, quản lý của công ty được xây dựng bởi cơ cấu các phòng ban khá hợp lý nhưng vẫn còn những hạn chế là trình độ vẫn chưa đồng đều, nhân sự ở vài phòng, ban chưa tinh giảm đến mức hiệu quả. trong công ty vẫn còn 26 lao động chỉ là những lao động phổ thông chưa qua đào tạo, chủ yếu trong số này thuộc bộ phận bảo vệ và dịch vụ vận chuyển.
Nhìn chung bộ máy nhân sự cho hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn còn cồng kềnh , chưa tinh giảm đến mức hiệu quả, trình độ vẫn chưa đồng đều. Do vậy, trong thời gian tới công ty cần phải xem xét vấn đề này, đặc biẹt là sau khi cổ phần hoá.
Sơ đồ bộ máy quản lý công ty bia – nước giải khát Hải Dương.
Giám đốc
phó giám đốc kỹ thuật
P kế hoạch vật tư
P kế toán tài vụ
phó giám đốc tổ chức hành chính
P tiêu thụ
P tổ chức tài chính
P kỹ thuật
PX cơ nhiệt điện
PX sản xuất bia
Bộ phận dịch vụ
Ban bảo vệ
Bộ phận dịch vụ
Đặc điểm tổ chức sản xuất tại Công ty
Công ty bia – nước giải khát Hải Dương có 2 bộ phận sản xuất: phân xưởng sản xuất và phân xưởng nhiệt điện.
* Phân xưởng sản xuất gồm các tổ:
+ Tổ xay sát + Tổ ủ men + Tổ xuất
+ Tổ lọc + Tổ nấu + Tổ đóng chai
* Phân xưởng cơ nhiệt điện gồm có các tổ:
+ Tổ điện + Tổ lạnh
+ Tổ lò hơi + Tổ cơ khí
* Tại các phân xưởng đều có bộ phận quản lý, gồm:
- Quản đốc phân xưởng
- Phó quản đốc
- Các tổ trưởng:
4. Đặc diểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Bia- Nước giải khát Hải Dương.
4.1. Đặc điểm quy trình công nghệ tại công ty.
Tại công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương hiện nay tiến hành sản xuất với quy trình qua các công đoạn, các bước chuyển biến khác nhau.
Nguyên liệu chính được dùng là: Malt (mầm đại mạch, gạo, hoa bia (hoa hublon), đường, nước.
Để có được sản phẩm bia phải trải qua ccá giai đoạn chính sau:
* Giai đoạn nấu: gồm 2 bước.
Bước 1: xay malt và gạo thành bột mịn
Bước 2: trộn riêng bột gạo và bột malt với nước đun sôi bột gạo theo nhiệt độ quy định: nhiệt độ qua giai đoạn hồ hoá đến 650C rồi dịch hoá trên 75oC. Hoà dung dịch Malt và gạo với nhau, để một thời gian sẽ cho ra nước mạch nha. Khi đó lấy dung dịch mạch nha có độ đường 10. Dung dịch này được đưa qua bộ phận lọc bỏ bã, khi công việc ở khâu này hoàn thành thì đem trộn hoa hublon vào dung dịch, đun sôi tới nhiệt độ quy định thì hạ nhiệt xuống 12oC chuyển sang giai đoạn 2 –giai đoạn lên men.
* Giai đoạn lên men sơ bộ: nước mạch nha ở giai đoạn nấu được chuyển vào thùng chứa, đổ men vào với tỷ lệ 1% theo thể tích men để ủ trong khoảng 24h thì bước sang giai đoạn lên me chính.
* Giai đoạn lên men chính: dung dịch mạch nha sau khi lên men sơ bộ thì chuyển sang quá trình lên men chính. Nhiệt độ lên men chính cao nhất là 15oC và thấp nhất là 7oC, thời gian lên men chính từ 5 -7 ngày. Sau quá trình này đường biến thành cồn và CO2 độ đường được hạ phù hợp với các thông số kỹ thuật chuyên môn.
* Giai đoạn lên men phụ: Được tiến hành ngay sau quá trình lên men chính, có tác dụng bão hoà CO2 và ổn định thành phần hoá học của Bia. Thời gian lên men phụ là 15 ngày, điều kiện nhiệt độ từ 1-2oC, áp suất 0,5 – 0,70C.
* Giai đoạn lọc bia: khi kết thúc lên men phụ dung dịch sẽ được kiểm tra độ chua, nếu đủ yêu cầu mới lọc bia để loại bỏ các tạp chất hữu cơ và men có trong bia để tăng thời gian bảo quản.
Bia được qua “máy lọc khung bản” và được bảo hoà CO2 tạo thành bia thành phẩm. Quá trình lọc trong điều kiện 1-20C áp suất từ 3 -3,5 at. Bia thành phẩm phải đảm bảo các thông số kỹ thuật về độ trong, hàm lượng CO2, độ đường sót, độ lạnh và dây truyền công nghệ sản xuất bia của công ty là một dây chuyền hiện đại đồng bộ, khép kín vận hành đơn giản, sản phẩm luôn đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh công nghệ thực phẩm, có giá trị dinh dưỡng cao, có tác dụng giải khát, kích thích tiêu hoá thức ăn rất có lợi cho sức khoẻ người tiêu dùng. Quy trình công nghệ sản xuất là các giai đoạn nối tiếp nhau liên hoàn.
Toàn bộ qui trinh trên có thể khái quát theo sơ đồ sau
Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất bia
Malt đại mạch
Gạo tẻ
Nghiền
Nghiền
Hồ hoá
Dich hoá
Đường hoá
Lọc bã
Chăn nuôi
Nước đường
Bã
Nấu hoá
Lọc (Lắng)
Lạnh nhanh
Lên men
Lọc
Bia thành phẩm
Bã hoa
Men giống
Xác men
Chăn nuôi
Sơ đồ do phòng Kỹ thuật cung cấp
4.2. Đặc điểm sản phẩm bia hơi của Công ty.
Từ ngày thành lập và trải qua hơn 30 năm hoạt động, Công ty đã có rất nhiều sản phẩm khác nhau. Nắm bắt được tình hình thực tế từ năm 1991 trả lại đây sản phẩm chính của Công ty là bia hơi. Năm 2002 sản lượng bia của Công ty đạt 13,2 triệu lít so với năm 2001 là 12 triệu lít tức là tăng 12%.
Bia là một loại đồ uống được sản xuất là 1 loại hạt nảy mầm gọi là Malt và hoa hublon (hoa tạo hương bia). Những nguyên liệu này chủ yếu là nhập khẩu. Vào những năm 60 của thế kỷ XX khi bia dược bán trên thị trường miền Bắc, bia vẫn còn là một đồ uống xa lạ với mọi người, người tiêu dùng chưa quen với hương vị đắng của bia nên sản lượng tiêu dùng bia khá ít. Dần dần, nhận ra tác dụng của loại đồ uống này thì nó trở lên thông dụng hơn và đến nay thì nó đã khá phổ biến ở mọi nơi. Người ra không chỉ uống vào những ngày nóng mà còn vào những tháng mùa đông hanh khô. Đặc biệt trong các dịp lễ tết, hội nghị, bia trở thành nhu cầu không thể thiếu. Và trong tương lai nó vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển mạnh.
Bia, đặc biệt là bia hơi giống như mọi thứ hàng thực phẩm khác, qua thời gian bia sẽ lên men do đó chất lượng sẽ giảm. Chính vì vậy vấn đề đặt ra là phải gắn liền quá trình sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.
Nguyên liệu chính trong sản xuất bia là Malt, hoa hublong và gạo tẻ.
Bảng 6: Định mức tiêu hao nguyên liệu cho 100 lít bia.
Malt
Hublon
Gạo
Caohoa
Đường và hoá chất
11kg
0,8 kg
6 kg
0,4 kg
1,5 kg
Số liệu phòng kỹ thuật:
Bảng 7 :Tiêu chuẩn của bia hơi của công ty.
Chỉ tiêu
Tiêu chuẩn
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Chất tan ban đầu (05)
10
10 ± 0,2
10 ± 0,2
10 ± 0,2
10 ± 0,2
Hàm lượng cồn (%V)
2,7
2,3 -3
2,5 -3
2,5 -2,9
2,5 -2,9
Hàm lượng CO2 (G/L)
>2,7
>2,5
>2,5
>2,6
>2,7
Độ chua (G/L)
<1,5
<1,53
<1,52
<1,48
<11,5
Độ mài (EBC)
6 -7
5,8 -7
6-7
6-7,2
6-7
Dea xety (mg/l)
<0,15
<0,17
<0,15
<0,15
<0,18
Thời gian bảo quản (giờ)
24
24
24
24
24
Số liệu phòng kỹ thuật
Sản phẩm của công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương nhìn chung là đạt các tiêu chuẩn khoa học về bia hơi. sản phẩm bia khi sản xuất đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật và vệ sinh rất cao mới cho sản phẩm có chất lượng. Song mặt khác nó cũng yêu cầu một chế độ bảo quản nghiêm ngặt trong khoảng nhiệt độ thấp từ trong quá trình thanh lọc đến lúc tiêu dùng. Đặc điểm này có ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ bia.
4.3. Đặc điểm về tiêu thụ sản phẩm.
Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương có sản phẩm chính là bia hơi. Hiện nay sản phẩm bia trên thị trường được chia làm ba loại: bia cao cấp, bia bình dân, bia có chất lượng kém. sản phẩm bia hơi của công ty là loại sản phẩm tươi và mát có giá trị dinh dưỡng cao, thời gian bảo quản tốt nhất là 24h. Sản phẩm của Công ty thuộc loại chất lượng phổ thông, đối tượng chính là người tiêu dùng có thu nhập từ trung bình trở xuống. sản phẩm của Công ty là thành phố Hải Dương, với các thị trấn thuộc các huyện trong tính.
Bảng 8 :Tình hình tiêu thụ của công ty.
Năm
Số điểm tiêu thụ
Tổng lượng tiêu thụ vốn
Số lượng tiêu thụ bình quân điểm/ ngày
1999
780
9,6 triệu lít
30
2000
860
11 triệu lít
35
2001
730
12 triệu lít
45
002
745
13,2 triệu lít
50
Số liệu phòng tiêu thụ
Do bia là một sản phẩm đang có sức tiêu thụ lớn, thu lợi nhuận cao nên ngày càng có nhiều sản phẩm cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất. Đối thủ đáng ló ngại nhất hiện nay của Công ty là các công ty sản xuất bia có chất lượng cao như bia hơi Hà Nội, bia lon các loại với những lời quảng cáo hấp dẫn vì Công ty hiện nay vẫn đang bỏ ngỏ thị trường cho loại sản phẩm này, đó cũng là tình trạng chung cho công ty sản xuất bia hơi với mục đích phục vụ những đối tượng khách hàng với mức thu nhập trung bình.
Ngoài tính thời vụ, thị hiếu người tiêu dùng, công ty phải tính đến thu nhập của người tiêu dùng và cách phân bổ của họ cho đồ uống trong sinh hoạt hàng này mà đặc biệt là mặt hàng bia hơi. Những người có thu nhập trung bình trở xuống thì họ lại luôn phải suy xét trong tiêu dùng sao cho hợp lý. Đây cũng chính là đối tượng khách hàng chủ yếu của Công ty. Từ những nhận xét đó, công ty hướng mũi nhọn phấn đấu của mình vào đối tượng khách hàng này nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn về mức độ thoả mãn của người tiêu dùng. Bên cạnh đó công ty ngày càng củng cố, nâng cao chất lượng, thâm nhập vào đối tượng khách hàng có thu nhập cao hơn để mở rộng thị trường.
Từ năm 1997 thị trường của công ty đã đi vào ổn định, kênh phân phối chủ yếu của công ty là những người bán lẻ đó là hộ gia đình cửa hàng đại lý tiêu thụ giới thiệu sản phẩm cho công ty. Do vậy mà sản phẩm của công ty nhanh chóng thâm nhập thị trường, thông qua mạng lưới này Công ty có thể quảng cáo sản phẩm của mình tới quảng đại quần chúng. Năm 1999 mặc dù có nhiều địa điểm tiêu thụ nhưng số lượng tiêu thụ bình quân chỉ được 30 lít/ điểm/ ngày, nhưng con số này đến năm 2002 đã là 50 lít/ điểm/ ngày. Tuy nhiên do tính chất thời vụ của bia, nên số lượng có sự phân bổ khác nhau giữa mùa đông và mùa hè. Mùa đông một ngày trung bình lượng bia tiêu thụ tại một điểm chỉ là 25 lít, còn vào mùa hè con số này là 75 lít, đặc biệt là ở các đại lý lớn có kinh doanh thêm các thức ăn phục vụ cho uốn._.hải thu 553 triệu đồng được đầu tư vào tài sản cố định sẽ đem lại 553 * 0,149 = 82,397 triệu đồng tiền lãi.
Việc đầu tư vào tài sản cố định mà cụ thể là máy móc thiết bị là cần thiết vì để đạt được mức sản lượng 15 triệu lít bia/năm vào năm 2005 công ty cần phải nâng công suất tối thiểu là 14,7 triệu lít. Hiện nay công suất máy móc thiết bị là 13 triệu lít/năm, do vậy Công ty phải đầu tư máy móc thiết bị nếu muốn thực hiện kế hoạch của mình.
Song song với áp dụng phương án sử dụng khoản tiền đòi nợ đầu tư vào tài sản cố định thì Công ty phải tiến hành huy động các nguồn vốn khác để hỗ trợ và có thể đầu tư vào tài sản cố định, nguồn vốn này có thể là huy động từ ngân hàng các doanh nghiệp liên doanh, hay từ ngân sách Nhà nước.
Một phương thức khác mà doanh nghiệp cũng có thể áp dụng là thuê tài sản cố định của các doanh nghiệp khác để tiến hành cân đối tài sản cố định và tài sản lưu động, nhằm đạt đựoc cơ cấu vốn hợp lý. Nhưng quan trọng hơn cả là Công ty sử dụng chúng mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.4.3. Cải thiện công tác khấu hao TSCĐ .
Trong những năm qua Công ty thực hiện khấu hao theo quyết định 1065/TC/QĐ/CSTC, khấu hao đường thăng với tỷ lệ 10%- 12%/năm. Với tỷ lệ này Công ty phải mất 8-10 năm mới khấu hao hết tài sản cố định.
Thực tế hiện nay Công ty có những tài sản cố định, máy móc thiết bị lạc hậu cần phải đổi mới. Dưới sự tác động của tiến bộ kỹ thuật, sự biến động của giá cả, sự hư hỏng mất mát làm giảm công suất máy móc trước thời hạn là nguyên nhân làm cho quỹ khấu hao không thể bù đắp tái đầu tư vào tài sản cố định.
Trong thời gian tới Công ty cần có sự đổi mới công tác trích khấu hao, cụ thể là tăng tỷ lệ trích khấu hao tài sản cố định để đảm bảo tái đầu tư (do chi phí tài sản cố định cho một lít bia của công ty tương đối thấp 55 đ/lít). Công ty cần phải phân loại từng nhóm tài sản cố định và xác định tỷ lệ khấu hao cho mỗi nhóm cho phù hợp. Theo quy định về khấu hao hiện nay công ty có thể trích khấu hao với tỷ lệ 20%, do vậy để tăng nguồn vốn tự có cho đổi mới công nghệ, tuỳ theo từng nhóm tài sản cố định công ty có thể trích khấu hao trên 10-12%/năm.
Ví dụ : nếu công ty áp dụng tỷ lệ khấu hao 20%/năm cho máy móc thiết bị thay vì 12%/năm thì chỉ sau 5 năm là công ty có thể thu hồi được vốn đầu tư, trong khi đó trước đây công ty phải mất hơn 8 năm mới thu hồi được vốn. Với tỷ lệ trích khấu hao mới Công ty rút ngắn được hơn 3 năm cho thời gian thu hồi vốn. Điều này thể hiện sự phù hợp với thực tế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự rút ngắn của chu kỳ đổi mời máy móc thiết bị. Đồng thời nó hạn chế được sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy vậy việc áp dụng tỷ lệ khấu hao 20% sẽ làm tăng giá thành sản phẩm, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng rất thấp.
Với mức khấu hao 55 đồng/lít bia hơi là điều kiện đảm bảo việc áp dụng tỷ lệ khấu hao cao trong thời gian tới không ảnh hưởng nhiều đến giá thành và giá bán sản phẩm của Công ty trên thị trường.
1.4.4. tăng hiệu xuất sử dụng TSLĐ.
Vấn đề khúc mắc lớn nhất trong sử dụng tài sản lưu động của Công ty là lượng hàng tồn kho quá lớn chiếm 34,52% vốn kinh doanh và 48,78% vốn lưu động (năm 2002). Để tăng hiệu suất sử dụng tài sản lưu động yêu cầu Công ty phải giảm lượng hàng tồn kho trong đó chủ yếu là nguyên vật liệu. Cụ thể là phải thực hiện các biện pháp sau:
Bán thanh lý, hạ giá để thu hồi vốn lưu động lượng hàng tồn kho quá lâu của Công ty. Trong lượng hàng tồn kho của Công ty có một số bộ phận tồn kho quá lâu, chuyển qua một số kỳ kinh doanh như Malt và đường gây ứ đọng vốn. Vì vậy lượng hàng này cần thiết phải được thanh lý để thu hồi vốn sử dụng vào các mục đích khác. Để thanh lý Công ty có thể liên hệ với các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng Malt và đường.
Xây dựng kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu theo chu kỳ sản xuất. Đây là công việc hết sức khó khăn, yêu cầu Công ty phải cân đối lượng bán ra và mua vào. Căn cứ vào các định mức sử dụng nguyên vật liệu do phòng kỹ thuật thiết kế, cộng với dự đoán thị trường của phòng Marketing và kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty để đưa ra nhu cầu sử dụng nguyên vật. Căn cứ vào các thuộc tính tự nhiên, chu kỳ cung ứng nguyên vật liệu là cơ sở đúng đắn nhất để công ty đưa ra mức dự trữ nguyên vật liệu tối ưu.
Với các khoản phải thu biện pháp xử lý đã được nêu trong phần cải tiến cơ cấu vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu.
2.1 Tăng cường hoạt động marketing.
2.1.1 Thành lập bộ phận marketing thuộc phòng tiêu thụ.
Trong nền kinh tế thị trường mang tính cạch tranh như ngày nay thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được nhằm thúc đẩy, hỗ trợ cho tiêu thụ sản phẩm, tăng sản lượng tiêu thụ của Công ty, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động Marketing tiến hành phân tích, nghiên cứu khả năng thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu. Soạn thảo chương trình Marketing - Mix với các chính sách (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp) tác động mạnh tới quá trình sản xuất và kinh doanh. Thông qua hoạt động Marketing Công ty sẽ biết được nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình, từ đó mà Công ty có kế hoạch đầu tư kinh doanh dài hạn phù hợp với nhu cầu thị trường. Hoạt động Marketing sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận, tốc độ luân chuyển vốn....
Thực tế thời gian qua Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương chưa chú trọng đến hoạt động Marketing. Điều này được thể hiện rõ là Công ty chưa có bộ phận marketing, hoạt động Marketing nằm phân tán ở các phòng như phòng Kế hoạch vật tư (thực hiện các vấn đề kế hoạch, chính sách giá cả, tiêu thụ sản phẩm....), phòng kỹ thuật (nghiên cứu sản phẩm mới). Các hoạt động Marketing của Công ty có tính đơn lẻ, không tập trung, thiếu một chính sách nhất quán đồng bộ phù hợp với định hướng và chiến lược phát triển của Công ty.Do việc thiếu công tác nghiên cứu thị trường nên dẫn đến tình trạng sản phẩm đạt các tiêu chuẩn khoa học, nhưng khi bán ra thị trường vẫn bị người tiêu dùng chê và xem chưa thoả mãn được nhu cầu. Theo kế hoạch Công ty sẽ sản xuất 15 triệu lít bia hơi/năm vào năm 2005, vậy liệu Công ty có dễ dàng tiêu thụ được khối lượng sản phẩm lớn như vậy không để đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và đạt hiệu quả kinh doanh nếu không đẩy mạnh hoạt động Marketing.
Vì vậy nhiệm vụ cấp bách của Công ty hiện nay là phải đẩy mạnh hoạt động Marketing. Công ty nên chính thức tách nghiệp vụ Marketing tại các phòng để thành lập nên bộ phận Marketing thuộc phàng tiêu thụ . Để thành lập bộ phận này Công ty phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực, năng động và có trách nhiệm với công việc. Công ty nên chuyển những cán bộ trước đây hoạt động Marketing tại phòng kế hoạch, và phòng kỹ thuật, tiến hành đào tạo thêm nghiệp vụ cho họ để họ có thể thực hiện được nhiệm vụ, chức năng được giao. Yêu cầu với đối với nhân viên Marketing là phải có kiến thức, có khả năng thu thập xử lý thông tin và hiểu biết về lĩnh vực chế biến thực phẩm và
Chức năng chính của bộ phận Marketing sau khi thành lập là thực hiện các nghiệp vụ làm việc với thị trường, tìm thị trường mục tiêu mới và thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường đã chiếm lĩnh. Nội dung cơ bản trong hoạt động Marketing bao gồm:
- Nghiên cứu thị trường trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu như các bản tin kinh tế, thương mại... và dặc biệt quan trọng là nghiên cứu trên cơ sở thăm dò thực tế. Căn cứ vào các thông tin từ thị trường mục tiêu, khách hàng Công ty xác định chất lượng và mức giá bán ra thị trường tối ưu nhất.
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển của Công ty và chiến lược Marketing.
- Thực hiện các nghiệp vụ nhằm hỗ trợ thúc đẩy tiêu thụ.
Để bộ phận Marketing hoạt động Công ty cần tiến hành trang bị cơ sở vật chất, đó là nơi làm việc cho cán bộ, các thết bị xử lý thông tin. Công ty cần giao quyền hạn và trách nhiệm cụ thể, có chính sách và tạo điều kiện để bộ phận Marketing thực hiện tốt trách nhiệm.
Thành lập bộ phận Marketing và lợi ích từ bộ phận Marketing có ý nghĩa về nhiều mặt, trước hết là thức đây tiêu thu, sau đó là nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
2.1.2. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trương .
Những năm qua nghiên cứu thị trường đã được Công ty quan tâm, nhưng hiệu quả do nghiên cứu thị trường đem lại tại Công ty chưa cao, cụ thể là thị trường mục tiêu nằm trên địa bàn TP Hải Dương và một số thị trấn lân cận là chủ yếu, là một doanh nghiệp dẫn đâu ngành của tỉnh nhưng thi phần vẫn chưa tương xứng .... Là một nhiệm vụ của bộ phận Marketing do vậy nghiên cứu thị trường phải giao cho bộ phận Marketing. Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường yêu cầu bộ phận Marketing phải có một kế hoạch cụ thể về địa bàn, về tiến độ thực thi nhằm đưa ra các kết quả xác đáng và các quy luật biến động của thị trường đối với sản phẩm bia hơi của Công ty theo giá, theo mùa.... Cụ thể là thực hiện các nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu thị trường hiện tại, thị trường tiềm năng của Công ty theo khu vực địa lý, thu nhập người tiêu dùng. Cần xác định tốc độ gia tăng, quy mô, cơ cấu, sự vận động của loại thị trường này.
- Nghiên cứu nhu cầu đối với sản phẩm bia nói chung và bia hơi của Công ty nói riêng tại thị trường tỉnh Hải Dương và các khu vực lân cận và đặc biệt là địa bàn mà Công ty còn bỏ ngỏ(những khu vục xa trung tâm thị trấn ). Xác định nhu cầu có khả năng thanh toán của khách hàng, đây là nhiệm vụ quan trọng nhất trong nghiên cứu thị trường, nó giúp Công ty xác định được thị trường mục tiêu.
- Nghiên cứu nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán của khách hàng. Để tránh những phản ánh không tốt về chất lượng sản phẩm của Công ty thì nghiên cứu chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng là quan trọng nhất. Công ty không chỉ thu nhận các ý kiến của khách hàng một cách bị động thông qua phản ánh của họ tại quầy giới thiệu sản phẩm như hiện nay, mà phải thực hiện các bảng hỏi điều tra chất lượng sản phẩm, mức giá bán hợp lý. Các bảng hỏi do bộ phận Marketing của Công ty thiết kế trên cơ sở hiểu biết rõ về đặc tính và tác dụng của sản phẩm, công việc này nên được tiến hành thương xuyên khoảng 1 năm một lần.
- Nghiên cứu tình hình cạch tranh của thị trường bia. Công ty cần chú ý đến các đối thủ cạnh tranh với các chiến lược cũng như tiềm năng của họ, đặc biệt là sản phẩm bia hơi của Hà Nội và một số tỉnh lân cận. Từ những hiểu biết về đối thủ cạch tranh Công ty phải đưa ra các chính sách, các chiến lược phát triển của mình cho phù hợp để duy trì và phát triển thị phần của Công ty.
Từ những nghiên cứu trên Công ty lựa chọn thị trường mục tiêu cho mình. Theo thực tế của Công ty hiện nay, Công ty nên chọn đoạn thị trường mà mức thu nhập đầu người từ trung bình đến sát mức cao .
2.1.3. Tăng cường các hoạt động xúc tiến khuếch trương.
Hiện nay Công ty chưa đẩy mạnh hoạt động xúc tiến khuyếch trương và quảng cáo sản phẩm. Hoạt động quảng cáo khuyếch trương sản phẩm của Công ty trước đây chỉ là băng rôn khẩu hiệu tại nhưng của hàng la đại lý lớn còn lại là bỏ ngỏ. Để tăng mức tiêu thụ, Công ty cần tăng cường hơn các hình thức quảng các trêncác phương tiện thông tin của tỉnh ( báo , đài, Truyền hình tỉnh) có thể Công ty cần thực hện quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo ở các báo địa phương khác.... Thúc đẩy hoạt động quảng cáo khuyếch trương, yêu cầu Công ty dành một khoản ngân sách riêng cho hoạt động này. Việc xác định cần cung cấp bao nhiêu tiền cho quảng cáo nhằm thu lợi ích cao nhất và chi phí thấp nhất sẽ được thực hiện bởi bộ phận marketing và phòng kế hoạch. Hai phòng ban này phải phối hợp với nhau lập ra một dự thảo về chương trình xúc tiến khuyếch trương trên căn cứ định hướng phát triển, chiến lược phát triển, chiến lược Marketing và kế hoạch chiếm lĩnh thị trường của Công ty. Sau khi lập song dự thảo với đầy đủ luận chứng kinh tế sẽ được trình lên phó giám đốc kinh doanh, phó giám đốc sẽ đưa vấn đề này lên ban giám đốc cùng thảo luận và quyết định hoạt động của chương trình xúc tiến khuyếch trương. Sau khi chương trình được duyệt, giám đốc ra quyết định cung cấp ngân sách cho chương trình hoạt động. Ngân sách do phòng tài vụ kế toán nắm giữ và xuất khi có lệnh của giám đốc hoặc hoá đơn thu chi về hoạt động của chương trình.
Tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm .
Hai nhân tố cơ bản của cạnh tranh hiện nay là chất lượng và giá cả. Cạnh tranh là nhân tố để Công ty có thể tồn tại và phát triển và cũng là nhân tố làm Công ty thất bại và phá sản. Công ty muốn phát triển cần nắm chắc nhân tố cạnh tranh không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Ngày nay hầu hết người tiêu dùng đều ưa thích các sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải chăng. Do vậy để thúc đẩy tiêu thụ tăng doanh thu Công ty cần nâng cao chất lượng sản phẩm và tiến hành giảm giá.
Cuối nhũng năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX giá cả là nhân tố chủ yếu quyết định khả năng cạch tranh của sản phẩm, nhưng hiện nay nhân tố quyết định sự cạnh tranh của sản phẩm là chất lượng và giá cả. Do đời sống ngày càng cải thiện nên người tiêu dùng mong muốn thoả mãn nhu cầu của mình một cách tốt nhất và họ ít quan tâm đến giá cả. Đặc biết là với sản phẩm bia hơi được sản xuất phục vụ người tác động bình dân vốn dĩ đã có mức giá tương đối rẻ, vì vậy mà nhân tố quyết định cạnh tranh sản phẩm bia hơi là chất lượng.
Sản phẩm bia hơi của Công ty Bia - Nước giả khát Hải Dương được thiết kế theo mẫu dây chuyền công nghệ của Đan Mạch, với hệ thống máy móc hoàn toàn đạt tiêu chuẩn. Vì vậy chất lượng sản phẩm đáp ứng phần nào nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường thì Công ty cần tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm được tiến hành theo hai bước sau:
Thứ nhất, Công ty tiến hành đổi mới công nghệ bằng nghiên cứu và đầu tư cải tiến máy móc thiết bị (được trình bày trong mục đổi mới công nghệ của phần biện pháp làm giảm chi phí sản xuất).
Thứ hai, về mặt quản lý Công ty cần xây dựng chính sách sản phẩm và chất lượng sản phẩm:
Chính sách sản phẩm
Công ty cần xây dựng chính sách sản phẩm Bia cho phù hợp. Hiện nay sản phẩm tiêu thụ của Công ty chủ yếu là bia hơi, tuy nhiên thị trường đang rất ưa chuộng loại bia tươi lấy từ Hà Nội ,một sản phẩm có mức tăng trưởng cao nhất trong thị trường bia một số năm gần đây. Công ty có thể nghiên cứu loại sản phẩm này và công nghệ sản xuất nó, nếu phù hợp về điều kiện kinh tế kỹ thuật thì Công ty nên đầu tư kinh doanh mặt hàng mới.
Ngoài ra Công ty cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng Bia theo các nghiên cứu về chất lượng sản phẩm trong nghiệp vụ nghiên cứu thị trường. Công ty cần tạo hương bia đặc trưng cho sản phẩm để người tiêu dùng có thể phân biệt sản phẩm của Công ty với các hãng khác và hấp dẫn người tiêu dùng hơn.
Chính sách chất lượng sản phẩm và cam kết thực hiện
Chính sách chất lượng sản phẩm là ý đồ và định hướng chung về chất lượng sản phẩm do lãnh đạo cao nhất chính thức đề ra. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay chính sách chất lượng sản phẩm cần thiết cho nhiều bên. Với doanh nghiệp chính sách chất lượng sản phẩm giúp doanh nghiệp hoạt động một cánh nhất quán, định hướng hoạt động theo mục tiêu chung, là bước mở đầu cho việc xây dựng hệ thống chất lượng, cho việc triển khai công tác quản lý chất lượng ở doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Với người tiêu dùng chính sách chất lượng sản phẩm giúp họ hiểu rõ hơn về doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp nó là cơ sở đảm bảo an toàn cho người tác động lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp.
Đối với Công ty xây dựng chính sách chất lượng sản phẩm cần theo mục tiêu sau đây:
“Mục tiêu tổng quát của Công ty là đạt được và thể hiện được uy tín chất lượng sản phẩm trên thị trường. Công ty sẽ cố gắng hết sức mình để thoả mãn các nhu cầu của khách hàng bằng cách cung cấp sản phẩm có chất lượng cao có khả năng đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng với giá cả có sức cạnh tranh.”
Nội dung của chính sách chất lượng sản phẩm của Công ty bao gồm:
1. Sản phẩm sẽ đáp ứng nhu cầu của khách hàng về chức năng an toàn thẩm mỹ và độ tin cậy.
2.Các yêu cầu kỹ thuật sẽ được chấp hành nghiêm túc từ quá trình chế biến đến lên men, lọc bia và chiết bia.
3.Sự lựa chọn và đánh giá, giám sát những người cung ứng đầu vào cho sản xuất sẽ được tiến hành trên cơ sở khoa học kỹ thuật và các thủ tục quy định.
4.Việc cải tiến chất lượng sẽ được kế hoạch hoá và ứng dụng trên cơ sở thông tin phản hồi của khách hàng và sự điều tra thị trường.
5.Cán bộ công nhân viên của Công ty có quyền yêu cầu, đòi hỏi những người khác làm tốt công việc đồng thời có nghĩa vụ cung cấp những việc mình làm với chất lượng tốt.
6.Tiến hành tổ chức đào tạo và giáo dục cho mọi nhân viên trong công ty để họ hiểu và nắm được tránh nhiệm cũng như nghiệp vụ chuyên môn của mình.
Để thực hiện tốt mục tiêu của chính sách chất lượng sản phẩm và các nội dung của nó Công ty có thể làm như sau:
- Xây dựng quy chế chất lượng, quy chế kiểm tra kiểm soát chất lượng, xác định trách nhiệm của từng bộ phận, của từng cá nhân, đề ra quy chế thưởng phạt nghêm minh rõ ràng.
- Tuyên truyền vận động với nội dung: chất lượng là sự sống còn của Công ty mà chất lượng nằm trong tay của mỗi công nhân, mỗi công nhân đều có tính chất quyết định với sự sóng còn của Công ty. Lợi ích của người công nhân gắn liền với lợi ích của Công ty, công ty phát triển thì lợi ích của công nhân cũng tăng theo và ngược lại. Do vậy mỗi nhân viên trong Công ty phải có trách nhiệm với kết quả do mình làm ra và không ngừng nâng cao kết quả đó.
Ngoài việc chú trọng đến chất lượng sản phẩm Công ty cũng cần quan tâm hơn đến giá cả để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình. Giá cả có tác động mạnh mẽ đến doanh thu và từ đó tác động đến lợi nhuận của Công ty. Mặc dù hiện nay trên thị trường cạnh tranh về giá cả sản phẩm bia hơi đã nhường vị trí cho cho cạnh tranh về chất lượng, nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng đối với cạnh tranh. Do vậy Công ty cần xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt để phù hợp với sự biến động nhu cầu.
Trong việc định giá sản phẩm Công ty phải căn cứ vào chi phí sản xuất kinh doanh bỏ ra nhằm đảm bảo thu hồi được vốn kinh doanh, ngoài ra còn phải căn cứ vào giá cả của các đối thủ cạnh trạnh và các loại bia khác để định giá cho phù hợp nhằm duy trì vàc phát triển thị phần. Ngoài ra Công ty nên tiếp tục áp dụng chính sách giá phân biệt với những người tiêu dùng mua một khối lượng lớn sản phẩm để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ.
2.3. Mở rộng mạng lưới tiêu thụ.
Chính sách phân phối hợp lý thúc đẩy lưu thông nhanh, tăng sản lượng tiêu thụ, làm cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội thực hiện hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để tiêu thụ được 15 triệu lít bia/năm vào năm 2005 Công ty Bia - Nước giải Khát Hải Dương cần cơ cấu lại, tổ chức lại và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối.
Hệ thống kênh phân phối của Công ty chủ yếu là các hộ gia đình làm đại lý kinh doanh và một của hàng giới thiệu tiêu thụ sản phẩm. Để thực hiện nhiệm vụ trên Công ty cần mở rộng số lượng hộ gia đình làm đại lý tiêu thụ tại các địa bàn, đặc biệt là các địa bàn còn bỏ ngỏ. Công ty nên liên hệ với các nhà hàng, các của hàng ăn bình dân để hợp tác, biến họ thành người tiêu thụ sản phẩm đắc lực cho Công ty. Vì tại các của hàng này việc ăn uống có thể bán kèm với sản phẩm hơi của Công ty. Tại mỗi địa điểm tiêu thụ đã có trước đây Công ty thực hiện các biện pháp giúp đại lý tăng sản lượng tiêu thụ bình quân một ngày như cho phép trả chậm trong điều kiện Công ty chấp nhận được và thực hiện chính sách giá ưu tiên....
Vấn đề lưu thông sản phẩm của Công ty gặp khó khăn do các khách hàng nhận hàng tại kho của Công ty, trong khi đó công nhân và phương tiện bốc dỡ, vận chuyển của Công ty rất hạn chế. Mặt khác hiện nay Công ty chủ yếu tiến hành phân phối sản phẩm đến khoảng 11 giờ sáng, gây khó khăn rất lớn cho việc lấy hàng và vận chuyển (sự cạnh tranh mua của khách hàng). Công ty cần thực hiện phân phối sản phẩm với khoảng thời gian nhiều hơn, có thể là cả ngày và đầu tư vào hệ thống kho bãi, và phương tiện vận chuyển và thuê thêm đội ngũ bốc xếp để thuận tiện hơn cho tiêu thụ sản phẩm.
3. Xây dựng môi tường văn hoá , quy chế quản lý công ty.
Trong những năm gần đây chúng ta đã bắt đầu quen với khái niệm văn hoá Công ty. Vậy văn hoá Công ty là gì? Có thể nói văn hoá Công ty là toàn bộ những giá trị tinh thần mà Công ty tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó tác động đến tình cảm lý trí và hành vi của tất cả thành viên trong Công ty, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Với Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương đây còn là phạm trù mới, chưa được coi trọng trong tổ chức, điều hành sản xuất của lãnh đạo. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh Công ty cần xây dựng môi trường văn hoá và quy chế quản lý trong Công ty, cụ thể như sau:
- Đảm bảo sự thống nhất trong Công ty về mục tiêu hành động chung, có chung một chuẩn mực đạo đức trong đó giá trị cơ bản nhất là tôn trọng ủng hộ phát triển con người.
Thật vậy khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì trình độ nhận thức của con người về địa vị xã hội ngày càng đầy đủ. Khi đó trong Công ty cần phải thiết lập sự bình đẳng giữa công nhân và lãnh đạo trong một chừng mực nào đấy, tạo môi trường văn hoá và sự tôn trọng con người để kích thích tinh thần làm việc của họ.
- Đảm bảo sự cân đối giữa phát triển một trình độ kỹ thuật công nghệ cao với sự phát triển nhân cách của lao động góp phần giảm hao phí sức lực, tăng năng suất lao động.
- Giải quyết tốt quan hệ con người như quan hệ lãnh đạo và công nhân viên trong các buổi thảo luận, phiên họp.....
- Thúc đẩy phát huy sáng kiến, tinh thần và khả năng sáng tạo của công nhân và cán bộ, xem đây là nguồn tài sản lớn nhất của Công ty và luôn tạo động lực cho nó.
- Xây dựng, gắn bó người lao động với Công ty, thông báo rõ cho người lao động nắm được kế hoạch phương hướng sản xuất kinh doanh dài hạn và ngắn hạn của Công ty tạo nên mục tiêu hành động thống nhất của toàn Công ty.
- Thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh, lấy phần thưởng vật chất làm cơ sở động lực để người lao động phấn đấu.
- Tổ chức thực hiện các buổi liên hoan văn nghệ, du lịch cho cán bộ công nhân viên vào ngày nghỉ để tăng thêm bầu không khí đoàn kết, để họ có thể xem Công ty như là nhà mình.....
4. Một số kiến nghị.
4.1. kiến nghị đối với công ty.
Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá.
Trong những năm gần đây Chính Phủ đang quyết tâm đẩy nhanh việc thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình doanh nghiệp này. Theo chủ trương của các cơ quan ban ngành trong tỉnh Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương sẽ được cổ phần hoá trong năm nay, đây la một công việc cần thiết đối với công ty. Trong thời gian này công ty đang chuẩn bị cho công việc quan trọng này ,công việc này cần được công ty đẩy nhanh nhằm nâng cao khả năng độc lập tự chủ trong kinh doanh ,nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường, huy động vốn cho công ty mở rộng quy mô sản xuất, gắn lợi ích của cán bộ công nhân viên với công ty.Từ đó nâng cao trách nhiệm của họ, tích cực tham gia sản xuất nâng cao năng suất lao động,nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để thực hiện nhanh và có hiệu quả cần phải có sự tham gia tích cực của hai bên ( Công ty và Nhà nước ). Nhưng sự chỉ đạo của Nhà nước là đẫ rõ ràng, cụ thể ở đây là sự chỉ đạo của Sở Tài chính tỉnh nên kiến nghị này thuộc về công ty .
Hướng công ty vào sự phát triển bền vững.
Để thưc hiện dược việc này công ty cần có sự thời gian. Nhưng công việc mà công ty cần phải làm là xây dựng hề thống sử lý nước thải, công việc này cần làm ngay sau quá trình cổ phần hoá vì hàng này công ty thải ra môi trường một lượng nước thải không nhỏ. xây dựng môi trường xung quanh xanh sạch, chú ý nhiều hơn nữa đến điều kiện làm việc của công nhân viên.
Hướng tới tiến hành xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001- 2000, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập hệ thống quản trị chất lượng nhằm nâng cao uy tín, hình ảnh của công ty trên thị trường, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có chất lượng thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng và nâng cao sức cạnh tranh của công ty. Việc đạt dược chứng chỉ này có ý nghĩa giống như giấy thông hành cho sản phẩm của công ty thâm nhập và mở rộng thị trường trong diều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Để thực hiện được những công việc trên Công ty cần đẩy mạnh các hoạt động chuẩn bị, trước mắt cần có các biện pháp làm cho mọi thành viên trong công ty cảm thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, đó là trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong Công ty chứ không phải chỉ là của các cấp lãnh đạo hay một số người nào đó.
Kiến nghị đối với Nhà nước.
Các chính sách vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đó chính là môi trường pháp lý bao gồm luật và các văn bản dưới luật,... Mọi quy định pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Chính sách thuế.
Nguyên liệu chính cho qúa trình sản xuất bia của công ty là Malt và hoa Hublon, mức thuế mà Nhà nước áp dụng đối vưói mặt hàng này là 10%. Đều này làm tăng chi phí, dẫn đến đẩy giá thành sản xuất bia lên cao gây khó khăn cho công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương nói riêng và ngành SX bia noi chung. Vì vậy, Nhà nước cần có các biện pháp giảm thuế hoặc trợ giá đối với loại nguyên liệu này.
Bia là loại nước giải khát có cồn nên phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là 50% trên doanh thu và không được hưởng khấu trừ đầu vào do đó giá bị đẩu lên ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm, hạn chế sức cạnh tranh đối với các đồ uống khác. Thuế tiêu thụ được tính theo độ cồn, độ cồn trong bia là từ 5-6% nhưng thuế tiêu thụ dặc biệt lại cao gấp 3 lần rượu có độ cồn 30%, hơn nữa đây là loại nước giải khát mát bổ có tác dụng đẩy lùi tiêu dùng rượu có hại cho sức khoẻ người tiêu dùng. Vì vầy cần giảm thuế tiêu thụ đặc biệt xuống còn 30% đối với bia cho ngang băng với mức của các nước trong khu vực, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hỗ trợ về vốn.
Trong quá trình mở rông quy mô sản xuất công ty đang rất cần một lượng vốn lớn để đổi mới máy móc thiết bị. Nhà nước nên cho phép công ty không chỉ phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty mà cần có những biện pháp giúp công ty huy đông được các nguồn vốn nhàn rỗi bên ngoài thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu,...ngoài ra Nhà nước nên đứng ra bảo đảm cho Công ty vay vốn Ngân Hàng hay cho vay với lãi suất thấp với những dự án khả thi mà không cần thế chấp. Điều này Nhà nước chỉ can thiệp thông qua các văn bản pháp luật chung, không can thiệp sâu vào công việc kinh doanh của công ty nhằm vẫn tạo tính chủ động cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Tăng chi phí quảng cáo.
Hiện nay Nhà nước cho phép trích 7% trên tổng chi phí sản xuất để làm kinh phí cho hoạt động tiêu thụ lưu thông sản phẩm, với tỷ lệ này thì kinh phí cho quảng cáo cũng như các hoạt động marketing khác của công ty là rất ít nhất là khi sản lượng sản xuất tăng lên. Đây là một sự hạn chế lớn đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh ngày càng tăng như hiên nay, các công ty "đua nhau" quảng bá khuếch trương hình ảnh, xây dựng thương hiệu cho công ty của mình thì con số này là quá nhỏ. Nhà nước nên xem xét điều chỉnh tỷ lệ này lên 10% để đảm bảo cho Công ty có thể có những chương trình marketing có hiệu quả khi mà trên thị trường hiện nay các hoạt động này đang là công cụ cạnh tranh cơ bản.
kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có mục tiêu bao trùm đó là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận không chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại mà là điều kiện để doanh nghiệp ngày càng phát triển. Để có được lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng tăng thì doanh nghiệp phải từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Là một doanh nghiệp Nhà nước. Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương đã vượt qua bao khó khăn thử thách để tồn tại và phát triển. Đây là một thành công lớn của tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Bên cạnh đó công ty luôn thực hiện tốt sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, UBND tỉnh và các ban, ngành trong tỉnh, Công ty cũng đã tranh thủ được sự giúp đỡ của lãnh đạo tổng công ty bia nước giải khát Việt Nam. Công ty cũng tiếp nhận được sự giúp đỡ về chuyên môn kỹ thuật của Viện công nghệ thực phẩm – Bộ công nghiệp, Viện nghiên cứu rượu bia – nước giải khát Việt Nam, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội để chế tạo nâng cấp thiết bị đã tạo nên sự phát triển và sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Nhưng bên cạnh những thành tựu mà công ty đã đạt được trong hơn 10 năm đổi mới Công ty cũng còn có những khó khăn từ chính bản thân công ty cũng như từ phía khách quan đem lại. Công ty bia – nước giải khát Hải Dương giám chấp nhận cạnh tranh và thu được lợi nhuận không nhỏ, đứng vững trong cơ chế thị trường. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là tất yếu cho sự phát triển của các doanh nghiệp – Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất.
Bằng những kiến thức được học ở nhà trường và qua quá trình thực tập, khảo sát thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh tại Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương em xin được đi sâu vào phân tích vấn đề "một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh" trong bài Luận văn này.
Để có được bài Luận văn này, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy Đàm Văn Nhuệ cùng sự giúp đỡ của tập thể cán bộ Công ty Bia – Nước giải khát Hải Dương.
Mục lục
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Gáo trình chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
3. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
4. Báo Hải Dương số Xuân Quý mùi năm 2003.
5. Tạp chí của hiệp hội Rượu - Bia - Nước giải khát Việt Nam số 8/2002
6. Thuyết minh báo cáo tài chính năm 2002 của Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương trước cơ quan thuế.
7. Báo cáo 10 năm đổi mới và phát triển sản xuất bia (1991-2001) Công ty Bia - Nước giải khát Hải Dương.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9476.doc