TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
~~~~~~*~~~~~~
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài :
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU THÉP CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU KHOÁNG SẢN MINEXPORT
Giảng viên hướng dẫn
:
TS. Đàm Quang Vinh
Sinh viên thực hiện
:
Vũ Ngọc Linh
Lớp
:
KDQT 46A
Khoá
:
46
Hệ
:
Chính quy
HÀ NỘI – NĂM 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan dưới đây là những nghiên cứu của riêng tôi, dựa trên những hướng dẫn của giáo viên và người hướng dẫn
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1848 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thép của Công ty cổ phần XNK Khoáng sản MINEXPORT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại cơ sở thực tập. Những số liệu, dẫn chứng, hình vẽ, bảng biểu… là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Sinh viên thực hiện
VŨ NGỌC LINH
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Bảng 2: Kim ngạch nhập khẩu thép của công ty giai đoạn 2003-2005
Bảng 3: Một số chỉ tiêu đáng giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thép của công ty giai đoạn 2005-2007
Bảng 4: Chỉ tiêu nhập khẩu thép của công ty MINEXPORT
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1: Quy trình kinh doanh nhập khẩu
Hình 2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cty cp XNK khoáng sản
Hình 3: Sơ đồ hệ thống phân phối thép của công ty
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua , Việt Nam từ một nước có nền công nghiệp kém phát triển đã từng bước thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đồng thời không ngừng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Chính sách đổi mới đó đã làm gia tăng số lượng các dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng, dự án liên doanh liên kết xây dựng các khu công nghiêp, các công trình giao thông vận tải, các hoạt động chế tạo, sản xuất, mua sắm thiết bị và xây dựng cơ bản… Thực tế này đã phát sịnh làm tăng nhanh nhu cầu sử dụng thép trong mọi lĩnh vực, ngành nghề và thị trường thép trở thành “ điểm nóng” của Việt Nam trong thời gian vừa qua, thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay năng lực sản xuất của ngành thép Việt Nam còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được đầy đủ mọi nhu cầu thép trong nước cả về số lượng và chất lượng. Hơn thế nữa ngành thép nội địa cũng chưa tự sản xuất được phôi thép – nguyên liệu chính để phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất sản phẩm thép thành phẩm. Do vậy, nhập khẩu thép và phôi thép từ nước ngoài là điều tất yếu khách quan, có ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Là một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu sản phẩm thép, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản MINEXPORT nhận thấy vai trò quan trọng của sản phẩm thép nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay nên đã tiến hành kinh doanh nhập khẩu mặt hàng này nhằm đem lại lợi nhuận cao cho công ty đồng thời đem lại lợi ích tối đa cho người tiêu dung và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản, em thấy tình hình kinh doanh nhập khẩu thép của công ty đóng vai trò rất lớn tới hoạt động của công ty, đóng góp một phần rất lớn vào doanh thu của công ty. Do vậy, em chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thép của công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản MINEXPORT” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Qua việc nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp và thực trạng kinh doanh thép của công ty để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thép của công ty.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận hoạt động nhập khẩu và hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá tình hình kinh doanh nhập khẩu thép của công ty.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép của công ty.
4. Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề nghiên cứu các vấn đề về hiệu quả hoạt động kinh doanh thép của công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản MINEXPORT.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp.
6. Kết cấu chuyên đề
Chương I: Lý luận về nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Chương II: Thực trang hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thép ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản MINEXPORT
Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu thép của công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản MINEXPORT
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. TỔNG QUAN VỀ NHẬP KHẨU VÀ KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của nhập khẩu
Khái niệm:
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ quan biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ. Đối với phần lớn các nước, đây nó có vai trò rất quan trọng và chiếm một tỷ trọng rất lớn trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người nhưng tầm quan trong kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Hoạt động thương mại quốc tế bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu. Hai hoạt động này đều có vai trò rất lớn đối với một quốc gia, một hoạt động giúp quốc gia có thể giúp một quốc gia bán được những hàng hóa sản xuất dư thừa và mang lại một khoản lợi nhuận về cho đất nước, một hoạt động giúp quốc gia đó có được những hàng hóa cần thiết đối với nền kinh tế mà trong nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất không đủ.
Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Như vậy, nhập khẩu là hoạt động đầu tư tiền của, công sức và nguồn lực của cá nhân hay tổ chức vào việc mua hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước.
Đặc điểm:
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh rất phức tạp, nó khác với việc kinh doanh hàng hóa trong nước. Do đó, ngoài những đặc điểm chung của các hoạt động kinh doanh, hoạt động nhập khẩu còn có nhiều đặc điểm khác đặc trưng của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động giữa những doanh nhân có trụ sở tại các nước khác nhau do đó họ khác biệt nhau về ngôn ngữ, văn hóa, luật pháp và hai nền kinh tế khác nhau.
Hàng hóa được di chuyển qua biên giới các quốc gia và trên quãng đường dài nên thường vận chuyển bằng nhiều phương thức vận tải khác nhau nhưng chủ yếu là vận tải bằng đường biển.
Hoạt động nhập khẩu thường phải tiến hành thông qua hợp đồng kinh tế. Trên đó quy định mọi điều khoản về hàng hóa, giá cả, vận chuyển, thanh toán… Bên cạnh đấy, các bên tham gia hợp đùng cũng thường quy định các luật lệ quốc tế điều chỉnh hay các tập quán thương mại để điều chỉnh.
Khi tham gia hoạt động nhập khẩu thì đồng tiền thanh toán cho đối tác thường là ngoại tệ đối với người nhập khẩu hoặc người xuất khẩu hoặc đối với cả hai bên.
Vai trò:
Thực tế thì việc nhập khẩu ở một số quốc gia diễn ra tràn lan và với khối lượng lớn dẫn đến việc sử dụng không đúng nguồn ngoại tệ và gây ra tâm lý chuộc hàng ngoại và coi thường hàng nội, làm cho việc sản xuất hàng hóa giảm sút. Tuy nhiên không thể phủ nhận vai trò của nhập khẩu trong nền kinh tế của một quốc gia. Nó thể hiện sự phụ thuộc gắn bó của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Bởi thế, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đang ngày càng mạnh mẽ càng phát huy vai trò qua trọng của hoạt động này.
Nhập khẩu sẽ mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hóa lớn hơn khả năng sản xuất trong nước. Hoạt động nhập khẩu, thị trường nội địa có được sự dồi dào và phong phú hơn, các mặt hàng đa dạng về mẫu mã và chất lượng, cho phép thỏa mãn nhu cầu cao và đa dạng của thị trường trong nước.
Các sản phẩm nhập khẩu với mẫu mã, chất lượng và giá cả cạnh tranh đã tạo ra động lực thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước không ngừng cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng, giảm chi phí. Nhập khẩu giúp xóa bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng và chế độ tự cung tự cấp, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước.
Nhập khẩu có vai trò rất quan trọng với nền sản xuất trong nước, nó là nguồn tạo đầu vào cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo những điều kiện thuận lợi hơn cho việc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Bên cạnh đấy, nhập khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Sự thúc đẩy này thể hiện ở việc nhập khẩu đã tạo ra đầu vào cho hoạt động xuất khẩu, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Ngoài ra, nhập khẩu chính là cầu nối giữa các nền kinh tế trong và ngoài nước, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế. Nhập khẩu cũng tạo ra sự chuyển giao công nghệ, từ đó quốc gia có được những kinh nghiệm, kĩ thuật và ứng dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến để áp dụng trong sản xuất xã hội.
1.1.2. Các hình thức nhập khẩu
Trong thương mại quốc tế, các quốc gia thường áp dụng nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau. Nhưng phổ biến có 5 hình thức đó là: Nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu ủy thác, nhập khẩu liên doanh, nhập khẩu tái xuất và nhập khẩu đối lưu.
Nhập khẩu trực tiếp
Thông qua hình thức nhập khẩu trực tiếp, các nhà sản xuất trong nước sẽ nhận hành trực tiếp từ người sản xuất ở nước ngoài và phải tự tổ chức các khâu của quá trình nhập khẩu mà không qua trung gian. Hình thức này sử dụng phần lớn trong các hoạt động buôn bán quốc tế lớn.
Nhập khẩu trực tiếp có ưu điểm cho phép các doanh nghiệp có được mức lợi nhuận cao hơn do giảm được chi phí các khâu trung gian, đồng thời cố được những mối quan hệ bền vững với bạn hàng. Tuy nhiên đòi hỏi doanh nghiệp phải chụi mọi trách nhiệm về hoạt động của mình, tự tìm thị trường, đàm phán hợp đồng, giao nhận và tiêu thụ. Do đó doanh nghiệp cần có sự đầu tư lớn và chấp nhận rủi ro.
Nhập khẩu ủy thác
Nhập khẩu ủy thác là hoạt động được hình thành khi các đơn vị kinh doanh có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa nhưng không có quyền nhập khẩu trực tiếp (không có giấy phép nhập khẩu, không có quota nhập khẩu…) hoặc không có kinh nghiệm nhập khẩu trực tiếp nên đã ủy thác cho một công ty khác có đủ khả năng tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của đơn vị. Bên nhận ủy thác tiến hành đàm phán với nước ngoài làm các thủ tục để nhập khẩu hàng hóa về và nhận một phần thù lao gọi là phí ủy thác.
Bên nhận ủy thác có ưu điểm không phải bỏ vốn, xin kim nghạch, thị trường đầu ra. Nhưng phải đại diện bên ủy thác để tìm và giao dịch với đối tác nước ngoài, chịu trách nhiệm với mọi điều khoản đã kí trong hợp đồng nhập khẩu và nhận hàng .
Đối với bên ủy thác họ không cần phải tìm nguồn hàng nhập, không phải gặp những rủi ro trong giao dịch vận chuyển hàng hóa. Tuy vậy, họ không kiểm soát được nguồn hàng, mất đi sự liên kết với khách hàng và không thích nghi nhanh với những biến động của thị trường quốc tế.
Nhập khẩu liên doanh
Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên doanh một cách tự nguyện (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp thực hiện hoạt động nhập khẩu theo hướng có lợi cho cả hai bên, cùng chịu rủi ro, cùng chia lợi nhuận.
Hình thức này sẽ ít chịu rủi ro hơn bởi mỗi bên liên doanh nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn do đó rủi ro cũng sẽ được chia sẻ cho cả hai bên.
Nhập khẩu tái xuất
Hoạt động nhập khẩu tái xuất là hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào trong nước không phải đề tiêu dùng nội địa mà để xuất khẩu sang nước thứ ba nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Thông qua hình thức này, hàng hóa không được qua chế biến ở nước tái xuất, doanh nghiệp tái xuất phải tính toán đến chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho bảo quản, và hải quan sao cho đảm bảo mức lợi nhuận. Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất và có thể chuyển thẳng đến nước thứ ba. Do hoạt động này có nhiều bên tham gia đòi hỏi doanh nghiệp cần nắm bắt, nhạy bén với thông tin và quan hệ rộng rãi để nắm bắt rõ tình hình thị trường và giá cả của từng nước khác nhau, bên cạnh đó cần chặt chẽ trong các hợp đồng với các đối tác.
Nhập khẩu đối lưu
Nhập khẩu đối lưu là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Người nhập khẩu không dùng tiền để trả cho nhà xuất khẩu mà dùng hàng đổi hàng, đây là phương thức thanh toán trong nhập khẩu đối lưu. Trong trường hợp này, người bán đồng thời cũng là người mua và lượng hàng hoá được trao đổi có giá trị tương đương.
Hình thức này có ưu điểm là vừa có thể bán được hàng vừa mua được hàng mà không cần nhiều đến chi phí tìm đối tác, đàm phán kí kết hợp đồng. Hình thức này thường áp dụng trong trường hợp hai nước có nhu cầu buôn bán vì nó không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế mà trong trường hợp này nó mang lại cả lợi ích chính trị.
1.1.3. Kinh doanh nhập khẩu
1.1.3.1. Khái niệm của kinh doanh nhập khẩu
Khi việc buôn bán hàng hóa trong nội tại nước đó không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường nước đó sẽ ngay lập tức dẫn tới việc giao dịch buôn bán hàng hóa mở rộng ra ngoài phạm vi nước đó và đó được gọi là kinh doanh xuất nhập khẩu. Kinh doanh xuất nhập nhập khẩu được hiểu là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nước thông qua hành vì mua bán.
Do vậy, kinh doanh nhập khẩu là hoạt động mua hàng hóa, dịch vụ của một nước khác để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và tái xuất nhằm mục đích kiếm lời.
Công việc kinh doanh nhập khẩu có ý nghĩa sống còn với một quốc gia bởi nó mở rộng khả năng tiêu dùng của nước đó, nó cho phép tiêu dùng một lượng hàng hóa nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước. Ngoài ra, kinh doanh nhập khẩu còn dẫn đến sự tăng lên của những loại hàng hóa có thể tiêu dùng được trong nền kinh tế, giúp cho sản xuất trong nước thay đổi và phát triển.
1.1.3.2. Nội dung của kinh doanh nhập khẩu
Quá trình kinh doanh nhập khẩu trải qua nhiều công đoạn và phải thực hiện nhiều công việc. Tuy nhiên, các công việc kinh doanh nhập khẩu được thực hiện theo một quy trình bao gồm các công đoạn sau: Lập kế hoạch kinh doanh, giao dịch và kí kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, tiêu thụ hàng hóa và đánh giá kết quả kinh doanh.
Thực hiện hợp đồng
Giao dịch và kí kết hợp đồng
Lập kế hoạch kinh doanh
Hình 1: Quy trình kinh doanh nhập khẩu
Tiêu thụ hàng hóa
Đánh giá kết quả kinh doanh.
Lập kế hoạch kinh doanh
Để đảm bảo cho công việc kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả thì cần phải xây dựng một kế hoạch kinh doanh tốt. Điều này sẽ giúp cho các hoạt động của doanh nghiệp đạt được mục tiêu trong kinh doanh.
Kế hoạch kinh doanh thường được xây dựng theo các bước sau:
- Đặt ra mục tiêu và những thành quả cần đạt được cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, dự đoán mức doanh thu, chi phí và lợi nhuận có thể đạt được thông qua hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Nghiên cứu và phân tích thị trường: Để đảm bảo kinh doanh thành công cần phải tổ chức nghiên cứu và phân tích thị trường. Trong kinh doanh nhập khẩu doanh nghiệp cần phải tìm hiểu về hàng hóa, thị trường và bạn hành.
Để nhận biết hàng hoá, cần phải tìm hiểu kĩ về thương phẩm, giá trị, công dụng, đặc tính của sản phẩm, thị trường tiêu thụ trong nước của sản phẩm.
Tìm hiểu thị trường nước ngoài: cần nắm vững điều kiện kinh tế chính trị, luật pháp, chính sách tiền tệ tín dụng… Ngoài ra cần tìm hiểu về nguồn hàng có trong nước đó, sự biến động giá. Nếu như bạn không có chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu và phân tích thị trường, tốt nhất là bạn nên tìm đến một công ty tư vấn. Công ty tư vấn sẽ cung cấp cho bạn tất cả những thông tin nghiên cứu và phân tích thị trường với nội dung theo đơn đặt hàng của bạn.
Tìm hiểu bạn hàng: Không chỉ căn cứ vào các thông tin mà bạn hàng cung cấp, người nhập khẩu cần tìm hiểu các thông tin liên quan đến khả năng tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trong kinh doanh. Thông thường sử dụng hai phương pháp nghiên cứu về khách hàng là điều tra qua tài liệu, sách báo và điều tra tại chỗ.
- Thông qua các thông tin có được từ nghiên cứu thị trường rút ra những đánh giá, phân tích về thị trường. Phân tích được những cơ hội và nguy cơ mà doanh nghiệp phải đối mặt. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, đồng thời tìm kiếm và xác định các nguồn lực có khả năng huy động của doanh nghiệp cho kế hoạch kinh doanh. Từ đó tìm ra những cơ hội phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
- Lập các kế hoạch Marketing, kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính…phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Lên kế hoạch thực hiện: Liệt kê các hoạt động chi tiết để doanh nghiệp đạt được mục đích đề ra và càng chi tiết càng tốt. Đề ra các biện pháp thực hiện để đạt tới mục tiêu đề ra. Những biện pháp này bao gồm các biện pháp ở nước ngoài( như lựa chọn đối tác, đàm pháp kí kết hợp đồng, vận chuyển…) và các biện pháp trong nước (xúc tiến bán hàng, tìm đại lý trong nước…).
- Đánh giá hiệu quả kinh doanh. Doanh nghiệp phải xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn đánh giá cụ thể, đầy đủ và chặt chẽ. Từ đó, việc đánh giá sẽ giúp phát hiện những điểm yếu khi thực hiện kế hoạch để có thể điều chỉnh cho phù hợp.
Giao dịch và kí kết hợp đồng
Sau khi đã lên kế hoạch kinh doanh, doanh nghiệp sẽ đàm phán với bạn hàng, giao dịch và thỏa thuận với họ về các điều khoản sẽ được kí kết trong hợp đồng thông qua các phương thức như thư tín, điện thoại hoặc đàm phán trực tiếp. Trong quá trình đàm phán, những vấn đề được đề cập là hàng hoá, vận chuyển, thanh toán, bảo hiểm, khiếu nại, phạt và bồi thường…
Việc thỏa thuận các vấn đề về kinh doanh với đối tác sẽ tiến tới ký kết hợp đồng kinh tế nhằm quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên có trong hợp đồng liên quan đến việc mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các bên.
Thực hiện hợp đồng
Hiệu lực của hợp đồng bắt đầu khi hai bên đã kí kết hợp đồng, từ đó các bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng cũng như công việc của người nhập khẩu và xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều và các điều khoản đã kí trong hợp đồng và các thông lệ quốc tế mà hợp đồng dẫn chiếu. Thông thường, doanh nghiệp khi tham gia thực hiện hợp đồng nhập khẩu cần làm các công việc sau:
- Xin giấy phép nhập khẩu: sau khi kí kết hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp cần khai báo với cơ quan Nhà nước, đây là biện pháp để nhà nước quản lý xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp chỉ được phép nhập khẩu khi có các giấy phép của cơ quan Nhà nước cho phép và giấy phép này chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh một mặt hàng nhất định.
- Mở thư tín dụng (nếu có): trong hợp đồng có yêu cầu người nhập khẩu phải mở L/C thì doanh nghiệp phải ra ngân hàng được yêu cầu trong hợp đồng và mở đúng hạn để người xuất khẩu có thể chuẩn bị hàng hoá để chuyển hàng.
- Thuê tàu lưu cước (nếu có): Tuỳ thuộc vào các điều khoản của hợp đồng, đặc điểm hàng hoá và điều kiện vận tải mà doanh nghiệp tìm kiếm phương tiện vận tải phù hợp để vận chuyển. Để đảm bảo cho việc vận tải và thời hạn giao hàng, doanh nghiệp thường uỷ thác việc thuê tàu cho các công ty hàng hải đảm nhận.
- Làm thủ tục hải quan: Khi hàng hoá được vận chuyển qua biên giới hay đến cảng biển đều phải làm các thủ tục hải quan, bao gồm: khai báo hải quan, xuất trình hàng hoá, thực hiện các quyết định của hải quan.
- Giao nhận hàng hoá: sau khi hàng hoá về đến cảng, doanh nghiệp phải trực tiếp hoặc uỷ thác cho công ty giao nhận làm các thủ tục nhận hàng, xếp dỡ và nhận hàng về kho bãi của mình.
- Làm thủ tục thanh toán: Để có được bộ chứng từ gốc doanh nghiệp cần phải đến ngân hàng nơi mở L/C hoặc ngân hàng được uỷ quyền nhờ thu để kiểm tra bộ chứng từ. Sau đó, doanh nghiệp phải trả tiền cho ngân hàng để có được bộ chứng từ hợp lệ, qua đó mới có thể nhận được hàng.
Tiêu thụ hàng hóa
Xác định mục tiêu của doanh nghiệp khi nhập khẩu hàng hóa là có thể bán được hàng hóa đấy ở trong nước để thu về lợi nhuận. Để đảm bảo cho việc bán hàng, tiêu thụ hàng hóa, doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược Marketing bao gồm phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến bán hàng nhằm thu hút khách hàng và các chế độ hậu mãi… Các hoạt động nghiên cứu thị trường cũng như Marketing cần được xúc tiến để đảm bảo việc tiêu thụ hàng hoá theo đúng mục đích kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đánh giá kết quả kinh doanh nhập khẩu
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu phải tiến hành với một khối lượng công việc rất lớn, nó đòi hỏi nhiều công đoạn, do đó chi phí cho hoạt động này cũng rất lớn. Để đảm bảo đạt chỉ tiêu kinh doanh thì đòi hỏi phải kiểm tra, rà soát từng hoạt động của doanh nghiệp.
Để xác định hiệu quả của công việc kinh doanh cũng như mức độ thực hiện của công việc kinh doanh nhập khẩu so với mục tiêu đề ra, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chính xác và đầy đủ. Hệ thống này đánh giá công việc kinh doanh qua các chỉ tiêu về về hiệu quả cũng như lợi ích mà doanh nghiệp đạt được. Qua đó, nó cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin nhằm phát hiện ra những điểm còn tồn tại trong quá trình kinh doanh, những mặt cần khắc phục để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.2.1. Khái quát về hiệu quả kinh doanh
1.2.1.1. Một số khái niệm
Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều muốn đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Nhưng tùy vào từng ngành, từng lĩnh vực hay quan điểm của từng người mà vấn đề hiệu quả kinh doanh được hiểu theo những cách khác nhau. Nhưng nhìn chung có bốn quan điểm sau về hiệu quả kinh doanh.
Thứ nhất: Hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá (1). Quan điểm này không đề cập đến chi phí kinh doanh, do đó nếu hoạt động kinh doanh đều tạo ra cùng một kết quả kinh doanh thì sẽ có hiệu quả như nhau mặc dù chi phí của chúng là khác nhau. Hiệu quả có được khi kinh doanh đem lại doanh thu cao.
Thứ hai: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phầm tăng thêm của kết quả kinh doanh và phần tăng lên của chi phí(2). Quan điểm này thể hiện mối quan hệ so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra nhưng chỉ xét đến phần tăng thêm. Theo quan điểm này, hiệu quả chỉ có được khi kinh doanh mà phần doanh thu tăng them phải lớn hơn phần chi phí tăng thêm.
Thứ ba: Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đ(1)(2)(3): Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI
ó(3). Điều này đã phản ánh được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh vì thể hiện được mối quan hệ giữa kết quả và chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy vây, kết quả và chi phí luôn vận động, nên quan điểm này chưa thể hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và cho phí.
Thứ tư: Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất(4). Quan điểm này so sánh tốc
độ vận động của hai yếu tố kết quả và chi phí. Mối quan hệ này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
Tóm lại, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh khả năng sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệ(4): Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI
p để thực hiện ở mức độ cao nhất các mục tiêu kinh tế - xã hội với chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn chặt với hiệu quả kinh tế của toàn xã hội, vì vậy cần phải được xem xét toàn diện về định tính và định lượng, không gian và thời gian.
Về định tính, mức độ hiệu quả kinh doanh là những nỗ lực của doanh nghiệp và phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những nỗ lực đó với việc đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội về kinh tế, chính trị và xã hội. Hiệu quả đạt được không chỉ là lợi ích của doanh nghiệp mà còn là lợi ích cho toàn xã hội.
Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện tương quan so sánh giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh chỉ có được khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại. Để có được điều đó cần nâng cao trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất nhằm đạt doanh thu cao nhất với chi phí là thấp nhất.
Về mặt thời gian và không gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kì, giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, thời kì tiếp theo. Điều đó đòi hỏi bản thân các doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích lâu dài. Không vì chạy theo lợi nhuận mà cắt giảm tuỳ tiện các chi phí cho môi trường, chi phí cho tương lai như đầu tư cho giáo dục, đào tạo … Các chi phí này giúp cho hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp cũng sẽ mang lại những hiệu quả tốt hơn.
1.2.1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
Phân loại hiệu quả kinh doanh còn tùy thuộc vào từng doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực khác nhau. Để thuận tiện cho việc quản lý và nâng cao hiệu quả kinh doanh người tao thường dựa vào các căn cứ để phân loại hiệu quả kinh doanh.
- Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả có hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
+ Hiệu quả tuyệt đối: là phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng phương án kinh doanh, từng thời kì kinh doanh, từng doanh nghiệp. Được tính bằng công thức:
∑ kết quả - ∑ chi phí = ∑ lợi nhuận
+ Hiệu quả tương đối: là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Được tính bằng các công thức:
H1 =
Trong đó, Pn và Rn lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và doanh thu nhập khẩu. Công thức trên cho biết mức độ hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được từ một phương án kinh doanh, từng thời kì kinh doanh.
H2 =
Trong đó, Pn và Cn lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và chi phí nhập khẩu. Công thức cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả hoặc một đơn vị kết quả thì tạo ra từ bao nhiêu đơn vị chi phí
- Căn cứ vào phạm vi tính hiệu quả có hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận.
+ Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp, cho các bộ phận trong doanh nghiệp.
+ Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng bộ phận của doanh nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
- Căn cứ vài thời gian tính hiệu quả có hiệu quả ngắn hạn và hiệu quả dài hạn.
- Căn cứ vào đối tượng xem xét hiệu quả có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp.
- Căn cứ vào khía cạnh khác của hiệu quả thì có hiệu quả tài chính và hiệu quả chính trị - xã hội.
1.2.1.3. Các nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh
Kinh doanh trên thị trường ngày nay đòi hỏi mọi doanh nghiệp đều phải cố gắng tìm mọi cách để nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng thương vụ kinh doanh và của toàn doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là bằng cách nào hay giải pháp nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh? Qua cách tính toán hiệu quả kinh doanh thì con đường cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh là tìm mọi cách để tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc làm cho tốc độ tăng doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng chi phí. Đây cũng là ba nhóm giải pháp chủ yếu để doanh nghiệp đạt được mục tiêu là tăng hiệu quả kinh doanh.
Nhóm biện pháp tăng doanh thu con đường đầu tiên và cơ bản mà mọi doanh nghiệp thường nghĩ tới để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Biện pháp tăng doanh thu đòi hỏi doanh nghiệp phải cố gắng tiêu thụ được nhiều hàng hóa hơn hoặc bán hàng hóa với mức giá cao hơn trước đây. Do đó, yêu cầu doanh nghiệp việc cải thiện khâu sản xuất hay chất lượng đầu vào để có thể sản xuất ra được các sản phẩm có chất lượng tốt hơn trước đây, hoặc phải đẩy mạnh chiến lươc marketing như thay đổi mẫu mã đa dạng và hấp dẫn, đẩy mạnh xúc tiến bán hàng để khách hàng biết nhiều đến sản phẩm và chấp nhận sản phẩm, hay mở rộng đoạn thị trường mục tiêu hay tìm kiếm các thị trường mới nhằm tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn nữa.
Nhóm biện pháp giảm chi phí cũng rất quan trọng để có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh. Giảm chi phí tức là doanh nghiệp có được mức chênh lệnh giữa doanh thu và chi phí cao hơn, hoặc có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn trước và cạnh tranh hơn do đó mà có thể bán được nhiều hàng hóa hơn. Giảm chi phí đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng các yếu tố sản xuất một cách khoa học, hợp lý.
Nhóm biện pháp tìm cách để tốc độ tăng doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng chi phí. Kinh doanh trong điều kiện sản xuất lớn khó có thể giảm được tổng chi phí do sản lượng tăng quá lớn. Bên cạnh đó, chi phí đầu vào của sản xuất ngày càng có chiều hướng tăng. Do đó việc giảm chi phí là rất khó khăn đối với doanh nghiệp. Trong trường hợp này doanh nghiệp phải tìm mọi cách để tốc độ tăng của doanh thu phải lớn hơn tốc độ tăng của chi phí, làm cho mối tương quan giữa doanh thu và chi phí theo chiều hướng có lợi. Và để đảm bảo điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng các yếu tố sản xuất một cách tiết kiệm và hợp lý, tránh lãng phí.
1.2.2. Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu trong doanh nghiệp
1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu thì yếu tố hiệu quả cũng là vấn đền quan trong đối với doanh nghiệp. Hiệu quả của kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp chỉ có thể đạt được khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra. Nó cũng thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các nguồn lực cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu còn thể hiện khi kết quả từ hoạt động nhập khẩu cao hơn so với kết quả đạt được khi tiến hành sản xuất hàng hóa đó trong nước. Hiệu quả kinh doanh này là sự đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả lao động xã hội, giúp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hạ giá thành sản phẩm cho người dân.
Tóm lại, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhập khẩu và trình độ tổ chức, quản lý của doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội ở mức cao nhất với chi phí thấp nhất.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Nhằm mục đích đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, và để đảm bảo việc tính toán hiệu quả một cách chính xác thì hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cần được xây dựng theo nguyên tắc nhất định. Các chỉ tiêu trong hệ thống phản thống nhất, không mâu thuẫn và phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính toán. Các chỉ tiêu phải toàn diện và phải phản ánh được mọi mặt của quá trình nhập khẩu. Các chỉ tiêu phải khả thi và tính toán đo lường được, không được quá phức tạp và phản ánh được cả mặt chất và mặt lượng của hoạt động nhập khẩu.
Các chỉ tiêu phản á._.nh hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu phổ biến là: hệ thống các chỉ tiêu tổng hợp và hệ thống các chỉ tiêu bộ phận.
* Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp bao gồm chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương đối.
- Chỉ tiêu tuyệt đối:
Hiệu quả = Doanh thu nhập khẩu- Chi phí nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thông qua lợi nhuận là sự chênh lệch giưa doanh thu và chi phí nhập khẩu của doanh nghiệp.
- Chỉ tiêu tương đối:
+ Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả theo doanh thu:
Hnk =
Trong đó, Rn và Cn lần lượt là doanh thu và chi phí nhập khẩu. Chỉ tiêu này thể hiện được một đồng chi phí chúng ta bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ trình độ sử dụng các nguồn lực tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt hay hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là cao.
+ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu:
Hnk =
Trong đó, Rn và Rn lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và doanh thu nhập khẩu. Chỉ tiêu này phản ánh trong kinh doanh, khi thu về một đồng doanh thu thì người nhập khẩu sẽ có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí:
Hnk =
Trong đó, Pn và Cn lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và chi phí nhập khẩu. Chỉ tiêu này cho biết với mỗi một đồng chi phí bỏ ra thì doanh nghiệp thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ nhập khẩu
Tỷ suất ngoại tệ NK=
Trong đó Fc và Dc lần lượt là tổng giá thành ngoại tệ và tổng thu nhập nội tệ. Chỉ tiêu này phản ánh việc doanh nghiệp bỏ ra bao nhiêu đồng ngoại tệ thì thu được một đồng nội tệ. Với chỉ tiêu này, người nhập khẩu sẽ so sánh với tỷ giá trao đổi ngoại tệ tại thời điểm thực hiện hợp đồng, nó cho biết rằng nếu việc kinh doanh của họ có lợi hơn bao nhiêu lần việc đổi ngoại tệ trong nước, từ đó doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định có nên tiến hành kinh doanh hay không.
* Hệ thống các chỉ tiêu bộ phận
- Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
+ Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Hp =
Trong đó Pn và Cf lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và tổng vốn cố định. Chỉ tiêu này cho biết mỗi một đồng vốn cố định đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì doanh nghiệp sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Hp’ =
Trong đó Pn và Cw lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và tổng vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết với mỗi đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
+ Hệ số doanh thu trên vốn lưu động:
Hd =
Trong đó Rn và Cw lần lượt là doanh thu nhập khẩu và tổng vốn lưu động. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động tao ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
+ Hệ số doanh thu trên vốn nhập khẩu:
Hd’ =
Trong đó Rn và C lần lượt là doanh thu nhập khẩu và tổng vốn đầu tư cho nhập khẩu. Chỉ tiêu này phản ánh với mỗi đồng vốn đầu tư cho hoạt động nhập khẩu thì thu về được bao nhiêu đồng doanh thu.
- Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động:
Hlđ =
Trong đó Pn và W lần lượt là lợi nhuận nhập khẩu và tổng tiền lương phải trả cho người lao động. Chỉ tiêu này cho biết mỗi lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu thì sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Các nhân tố này nằm ngoài doanh nghiệp nhưng vẫn có thể tác động đến hoạt động kinh doanh của công ty. Những yếu tố này doanh nghiệp không thể tác động ngược trở lại mà chỉ có thể tự điều chỉnh để thích hợp với chúng
1.3.1.1. Môi trường văn hóa
Khi kinh doanh ở các thị trường khác nhau ta đều bắt gặp các nền văn hóa khác nhau. Ở từng quốc gia khác nhau sẽ có những có những cái nhìn khác nhau về thẩm mĩ, giá trị cũng như có những phong tục tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ…khác nhau. Trong kinh doanh quốc tế, đòi hỏi người doanh nhân phải am hiểu phần nào đấy văn hóa nơi đấy vì nó sẽ giúp ta sống và làm việc được với con người nơi đó. Nó sẽ giúp ta nâng cao khả năng tiếp cận thị trường, đàm phán, tránh được những hiểu nhầm trong giao tiếp với bạn hàng
1.3.1.2. Môi trường chính trị và luật pháp
Những yếu tố này tạo lập khuân khổ cho hoạt động kinh doanh, nếu nắm bắt được các yếu tố này thì đảm bảo cho sự thành công là rất lớn.Đối với kinh doanh nhập khẩu các yếu tố này lại càng cần thiết và phức tạp hơn vì doanh nghiệp cần phải tìm hiệu hai hoặc nhiều hệ thống chính trị pháp luật ở nước nhà và nước mình kinh doanh. Luật pháp và các chính sách của chính phủ sẽ quy định và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh quốc tế. Chúng quy định doanh nghiệp được tham gia vào hoạt động kinh doanh nào, và kinh doanh mặt hàng nào. Điều khác biệt khi kinh doanh quốc tế là doanh nghiệp phải chịu sự tác động của luật pháp của nước mình và nước sở tại, ngoài ra các doanh doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của luật pháp quốc tế, các thông lệ, tập quán, và các cam kết thương mại của các quốc gia đó. Điều này bắt buộc doanh nghiệp cần phải nắm chắc hệ thống luật phát của các quốc gia, của từng khu vực và các hiệp định mà quốc gia đó có lien quan, nó sẽ giúp cho họ đưa ra được những quyết định sang suốt trong hoạt động kinh doanh nhằm giảm các thách thức, rủi ro mà họ có thể gặp phải.
Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu thì sự ổn định về chính trị sẽ giúp cho việc làm ăn của công ty tại thị trường đấy cũng sẽ ổn định, vì thế mức độ ổn định hay không của nước sở tại cũng là yếu tố để đánh giá mức độ hấp dẫn của nó và ảnh hưởng đến quyết định đầu tư hay không đầu tư lâu dài vào thị trường đấy. Yếu tố ổn định chính trị không chỉ thể hiện sự ổn định của thể chế, hệ thống tổ chức chính trị, uy tín của nhà cầm quyền với người dân mà khi kinh doanh trên quốc gia đấy doanh nghiệp cũng phải để ý đến các chính sách của họ đối với việc kinh doanh, các quy định về thuế, các rào cản đối với ngành nghề kinh doanh. Bên cạnh đấy, khi kinh doanh ở nước sở tại thì việc tạo ra những mối quan hệ thân thiết với chính quyền nước sở tại cũng là yếu tố đảm bảo về mặt chính trị giúp cho việc kinh doanh của doanh nghiệp được ổn định.
Những mối quan hệ tốt đẹp giữa các quốc gia cũng sẽ mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các thành viên trong xã hội. Khi một quốc gia có những quan hệ ngoại giao tốt đẹp sẽ dẫn đến những thỏa thuận ưu đãi và dễ dàng hơn, nhiều cơ hội kinh doanh được tao ra đối với các doanh nghiệp khi có thêm nhiều thị trường, nhiều khách hang nhờ đó sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì lợi ích đấy mà nhiều quốc gia đã tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như WTO, IMF, APEC, ASEAN…và đẩy mạnh quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới.
1.3.1.3. Môi trường kinh tế
Tính ổn định hay bất ổn về kinh tế của nền kinh tế của quốc gia hay khu vực sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Với một nền kinh tế ổn định và tăng trưởng đều đặn thì việc kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ thuận lợi, các đối tác và nguồn hàng cũng như việc tiêu thụ của doanh nghiệp cũng sẽ tăng trưởng theo. Khi có những biến động trên thị trường khiến nguồn cung cấp hàng hóa của doanh nghiệp gặp khó khăn dẫn đến đầu vào của việc nhập khẩu chịu ảnh hưởng có thể làm cho chi phí tăng, hay khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng nhanh, mức tiêu thụ của người tiêu dùng giảm sút cũng làm cho việc tiêu thụ của sản phẩm trở lên khó khăn. Do đó, khi có những biến động xấu về kinh tế cũng đều tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh.
Ngày nay, khi Việt Nam đang chuyển đối sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhiều nước khác trên thế giới cũng là nền kinh tế thị trường, nơi mà người ta có thể tự do lựa chọn sản phẩm, tự do kinh doanh và giá cả linh hoạt dẫn đến có rất nhiều biến động xảy ra đối với nền kinh tế. Trong khi đó trong nền kinh tế thị trường thì chính phủ lại rất ít can thiệp trực tiếp tới các hoạt động kinh doanh, tuy vậy chính phủ vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong việc giữ ổn định cho nền kinh tế. Chính phủ thực thi các chính sách tài khóa như tác động đến thuế hay chi tiêu của chính phủ để điều tiết lạm phát hay các chính sách tiền tệ như kiểm soát lượng cung tiều, lãi suất. Việc thực hiện luật chống độc quyền, khuyến khích các ngành nghề phát triển ,đảm bảo sự cạnh tranh công bằng, tự do cho các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Chính điều đó đã giảm thiểu sự biến động của nền kinh tế, giúp cho việc hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được đảm bảo.
1.3.1.4. Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh là vấn đề doanh nghiệp nào cũng gặp phải khi hoạt động kinh doanh và đối với hoạt động nhập khẩu thì doanh nghiệp lại càng phải đối mặt với nhiều sự cạnh tranh hơn. Mối lo ngại về cạnh tranh đến từ người sản xuất hàng hóa cùng loại và hàng hóa thay thế trong nước và những nhà nhập khẩu khác từ nhiều quốc gia khác nhau. Trong xu thế mở của thị trường như hiện nay thì sức ép đấy lại càng lớn hơn. Do đó, việc nắm bắt được những đối thủ cạnh tranh hiện tại và tương lai để có thể hạn chế được những nguy cơ có thể xảy đến đối với doanh nghiệp. Một phương pháp tốt nhất để có thể giảm sức ép cạnh tranh cho mình, tạo rào cản kinh tế ngăn cản doanh nghiệp khác di chuyển ngành nghề là phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của sản phẩm trên thị trường, tăng cường nội lực.
1.3.1.5. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đối với hoạt động nhập khẩu
Tỷ giá là mối quan hệ so sánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền của hai quốc gia, nó dùng để định giá đồng ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tỉ giá giữa đồng ngoại tệ trên đồng nội tệ giảm, tức là doanh nghiệp sẽ bỏ ra ít nội tệ hơn trước để nhập khẩu hàng hóa, do đó chi phí để nhập khẩu hàng hóa cũng rẻ hơn trước và làm cho kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ tăng và ngược lại. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ có nhiều biến động nếu tỷ giá cũng biến động, vì như thế doanh nghiệp sẽ không dự tính được chi phí trong kinh doanh, ảnh hưởng rất lớn đến những phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Nguồn nhân lực
Đây là những nhân tố doanh nghiệp có thể tác động nhằm giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt được những kết quả đã đề ra. Con người luôn là yếu tố quyết định mọi sự thành công trong bất kì công việc nào. Con người tạo ra,sử dụng và quản lý máy móc, các thiết bị công nghệ cao...Trong kinh doanh nhập khẩu thì con người trực tiếp tham gia và thực hiện mọi hoạt động, do đó để hoạt động này có hiệu quả thì việc nắm bắt các kiến thức về kinh doanh, am hiểu về thị trường, nắm bắt thông tin và hoạch định chiến lược kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng. Nó đòi hỏi con người phải không ngừng học hỏi, nâng cao kiến thức trình độ của mình để đảm bảo việc thực hiện các công việc một cách hiệu quả cũng như có những giải pháp mới, hữu hiệu nhất giúp cho ích cho hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, doanh nghiệp phải tuyển chọn những người thực sự có năng lực và không ngừng đào tạo để nâng cao trình độ cho người lao động sẽ đảm bảo công việc kinh doanh của mình luôn mang lại lợi nhuận cao.
1.3.2.2. Tiềm lực tài chính
Tiềm lực tài chính là yếu tố rất quan trọng. Nó tác động tới quy mô doanh nghiệp, nó quyết định đến việc hình thành và khai thác cũng như quy mô của cơ hội của doanh nghiệp. Nó cũng phải ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn tự có của doanh nghiệp, khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối và quản lý hiệu quả nguồn vốn. Doanh nghiệp mà có một tiềm lực tài chính mạnh không những có thể tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh, có nhiều cơ hội kinh doanh hơn, và với quy mô lớn hơn. Bên cạnh đó nó cũng tạo ra sự tin tưởng cho đối tác trong kinh doanh. Ngoài ra, với tiềm lực tài chính mạnh, các tập đoàn các công lớn ngày càng chi phối nhiều hớn tới nền kinh tế của các quốc gia.
1.3.2.3. Tài sản của doanh nghiệp
Cơ sở vật chất bao gồm các công trình, nhà kho, phương tiện vận tải...giúp cho việc giao nhận hàng hóa, bảo quản đóng gói và bán hàng. Đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất sẽ giúp cho việc kinh doanh tiết kiệm được chi phí không cần thiết, giảm thiểu được lượng hàng hỏng do bảo quản không tốt, tăng năng suất lao động.
Ngoài các tài sản hữu hình ra, doanh nghiệp cần rất quan tâm đến hình ảnh, thương hiệu của mình trên thị trường. Đây sẽ là một vũ khí cạnh tranh vô cùng quan trọng của doanh nghiệp. Khi kinh doanh, tao được hình ảnh tốt, có uy tín với đối tác và người tiêu dùng sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm bớt được những rủi ro có thể gặp phải. Để làm được điều đó, điều cốt lõi là doanh nghiệp phải đảm bảo sản phẩm của mình có chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh. Bên cạnh đó tích cực hoạt động quan hệ công chúng và quảng bá hình ảnh của mình để tạo được niềm tin cho người tiêu dùng và để có được những khách hàng trung thành với sản phẩm.
1.3.2.4. Trình độ quản lý
Trong nhập khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành rất nhiều công đoạn và hàng hóa vận chuyển từ những nước xa xôi, bên cạnh đó các bạn hàng lại có rất nhiều khác biệt so với kinh doanh nội địa. Đo đó, đòi hỏi người quản lý phải thật sáng suốt, và chặt chẽ. Người quản lý phải đảm bảo việc quản lý các bộ phận và phối hợp hoạt động của các bộ phận. Chính vì thế yêu cầu người lãnh đạo phải có trình độ quản lý cao, biết xây dựng một hệ thống thông tin đáp ứng yêu cầu của công việc, hệ thống quảy lý phải khoa học, phân chia nhiệm vụ không mâu thuẫn chồng chéo nhau. Ngoài ra để có thể kinh doanh tốt trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đòi hỏi người lãnh đạo phải nhạy bén, linh họa và biết chớp thời cơ.
1.4. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP
Hoạt động xuất nhập khẩu xuất hiện khi có sự chênh lệnh về các nguồn lực giữa các quốc gia. Khi một quốc gia không thể hay khó khăn trong việc sản xuất ra hàng hóa do không đủ nguồn lực để tạo ra nó sẽ dẫn đến việc nhập khẩu hàng hóa đó từ những nước khác, cũng như thế đối với doanh nghiệp để đáp ứng các yếu tố đầu vào mà trong nước không có hay không đủ thì việc phải tìm kiếm các nguồn lực từ bên ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên, do mọi nguồn lực trên thế giới không phải là vô tận, việc sử dụng các nguồn lực nhất là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến sự khan hiếm và cạn kiện. Vì thế việc nhập khẩu không thể diễn ra một cách ồ ạt mà cần có sự tính toán kỹ lưỡng, phải có những phương án tối ưu. Như vây, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tức là nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất, tránh tình trạng cạn kiện nguồn tài nguyên.
Trong kinh doanh ngày nay, việc cạnh tranh và tồn tại được trên thương trường là rất khó. Nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ giúp mang về cho doanh nghiệp nhiều lợi nhuận hơn, không ngừng gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tạo ra được những nguồn lực để có thể mở rộng kinh doanh, nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh việc giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển ổn định và bền vững, nó còn giúp cho người lao động trong doanh nghiệp có được cuộc sống tốt đẹp hơn, doanh nghiệp sẽ quan tâm hơn đến người lao động, cải thiện điều kiện lao động, đào tạo nâng cao trình đọ cho họ.
Đối với người tiêu dùng và xã hội, việc nhập khẩu đã giúp họ có được nhiều sự lựa chọn hơn về hàng hóa, đáp ứng nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng. Do đó, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu sẽ đem lại cho họ những sản phẩm với chất lượng tốt hơn và với giả cả ngày càng rẻ hơn. Qua đó, cũng mang lại nhiều lợi ích cho xã hội.
Vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh hoạt động nhập khẩu là rất cần thiết. Nó không chỉ mang lại những lợi ích cho doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nói riêng mà nó còn mang lại lợi ích cho cả xã hội. Chính vì thế nó trở thành mối quan tâm rất lớn của doanh nghiệp, đóng vai trò sống còn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU THÉP Ở CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU KHOÁNG SẢN MINEXPORT
2.1. TỔNG QUAN VỀ CỤNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU KHOỎNG SẢN MINEXPORT
• Tên công ty: Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Khoáng sản.
• Tên giao dịch quốc tế: VIETNAM NATIONAL MINERAL EXPORT-IMPORT JOINT STOCK COMPANY
• Tên viết tắt: MINEXPORT JSC.
• Địa chỉ: 28 Bà Triệu – Hàng Bài – Hoàn Kiếm – Hà Nội.
• Điện thoại: 04.8253336 – Fax: 04.8253326
• E-mail: minexport@bdvn.vnd.net
• Số Đăng ký kinh doanh: 0103011397
• Ngày cấp: 21/03/2006. Thay đổi lần cuối ngày 12/12/2007
• Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc : TRẦN THỊ LAN ANH
• Vốn điều lệ: 24.000.000.000 vnđ
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu khoáng sản tiền thân là Công ty Xuất nhập khẩu khoáng sản, được thành lập vào ngày 05/03/1956, là một trong những đơn vị có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất của Bộ Ngoại Thương trong những năm đất nước đổi mới và lĩnh vực xuất nhập khẩu chỉ thuộc một vài công ty nhà nước nắm giữ. Nhưng từ khi đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc xuất nhập khẩu được thông thoáng hơn và nhiều thành phần kinh tế khác cũng có thể tham gia vào lĩnh vực này, do đó Công ty xuất nhập khẩu khoáng sản đã chuyển đổi và thành lập lại theo quyết định số 331TM/TCCP ngày 31/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Thương Mại. Từ khi chuyển đổi, cũng là lúc đất nước bắt đầu mở cửa, nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, công ty đi vào hoạt động với rất nhiều thách thức và khó khăn trong thời kì mới.
Đến năm 2005, thực hiện chính sách đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà Nước, Bộ trưởng Bộ Thương Mại ra quyết định số 1266/QĐ-BTM về việc cho phép công ty Xuất nhập khẩu khoáng sản (MINEXPORT) tiến hành cổ phần hóa ngày 26/04/2005. Sau một thời, đến tháng 3 năm 2006 công ty đã mở đại hội cổ đông đầu tiên để bầu ra hội đồng quản trị và ban kiểm soát theo đúng như điều lệ của công ty cổ phần.
Sau khi được cổ phần công ty chính thức đăng kí tên hợp pháp là Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Khoáng sản. Hoạt động với tư cách là công ty cổ phần Nhà nước trực thuộc Bộ Thương Mại, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, có tài khoản giao dịch tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam( VIETCOMBANK ) và ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu ( EXIMBANK) và kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu trong danh sách đã được Bộ Thương Mại phê duyệt và phù hợp với các quy định của Nhà nước.
2.1.2. Lĩnh vực hoạt động
Để bảo đảm hoạt động kinh doanh trong thời kì cổ phần hóa công ty đã mở rộng thêm nhiều hoạt động kinh doanh, bên cạnh hoạt động chủ yếu là xuất nhập khẩu các mặt hàng khoáng sản, hóa chất, vật liệu… công ty còn kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, lương thực thực phẩm, đại lý kinh doanh, dịch vụ môi giới vận tải, môi giới bất động sản, liên doanh liên kết đầu tư. Cụ thể:
- Kinh doanh nguyên vật liệu khoáng sản, các loại quặng và tinh quặng kim loại (bao gồm cả các loại khoáng sản dùng trong ngành xây dựng và hóa chất trừ loại khoáng sản, loại hoá chất nhà nước cấm); kim loại đen, kim loại mầu và các loại hợp kim; nguyên vật liệu, vật tư, máy móc thiết bị thi công công trình, thiết bị điện phục vụ ngành điện.
- Kinh doanh các loại hóa chất nhà nước không cấm, nhựa đường, chất dẻo, dầu nhờn và các phụ gia kể cả nhựa đường và các sản phẩm hóa dầu.
- Kinh doanh các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng, điện tử, điện máy, ôtô, xe đạp, xe máy, điều hòa nhiệt độ, rượu, bia, nước giải khát (không bao gồm kinh doanh quán bar); nguyên phụ liệu thuốc lá (không bao gồm sản xuất thuốc lá).
- Kinh doanh lương thực, thực phẩm, gạo, các mặt hàng nông, lâm, thủy, hải sản, thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy hải sản, phân bón, phân hữu cơ, phân vi sinh (trừ loại lâm sản nhà nước cấm).
- Kinh doanh vật liệu xây dựng, gỗ và lâm sản, trang thiết bị y tế, dụng cụ thiết bị âm thanh, nhạc cụ, thiết bị văn phòng, nội thất.
- Đại lý kinh doanh các mặt hàng nhà nước không cấm cho khách hàng trong và ngoài nước.
- Dịch vụ môi giới vận tải, đại lý và giao nhận vận chuyển hàng hóa; dịch vụ đóng gói hàng hóa, bao bì.
- Dịch vụ môi giới bất động sản, nhà đất, cho thuê văn phòng, nhà ở, kho bãi, nhà xưởng, thi công công trình xây dựng và giao thông; tư vấn đầu tư theo quy định của pháp luật (không bao gồm tư vấn pháp luật và hoạt động tư vấn về giá đất).
- Dịch vụ tổ chức phục vụ hội nghị, hội thảo, hội chợ triển lãm trong và ngoài nước các mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh của công ty.
- Liên doanh, liên kết đầu tư, gia công, chế biến các mặt hàng khoáng sản và các mặt hàng khác nhà nước không cấm.
Không hạn chế chỉ kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu khoáng sản, công ty đã có những mặt hàng mới có tỷ suất lợi nhuận cao hơn và có đáp ứng nhiều hơn nhu cầu xuất khẩu như hàng nông lâm thủy hải sản cũng như nhu cầu nhập khẩu là hàng tiêu dùng và phân bón , thức ăn chăn nuôi. Nhờ đó, công ty đảm bảo hoạt động kinh doanh mang lại doanh thu cho công ty và thu nhập cho công nhân viên. Bên cạnh đó từng bước đưa công ty phát triển mạnh hơn nữa.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu khoáng sản với tổng số nhân viên là 61 người với độ tuổi trung bình là 35 và đều có trình độ tay nghề, kĩ thuật cũng như học vấn đáp ứng đủ yêu cầu của công việc được sắp xếp trong cơ cấu tổ chức với các phòng ban và với chức năng và nhiệm vụ sau:
• Hội đồng quản trị: gồm các thành viên do các cổ đông có quyền biểu quyết cử ra và dựa vào tỷ lệ vốn góp để cử. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của công ty, có quyền thực hiện những hoạt động quan trong của công ty. Quyết định của hội đồng quản trị dựa trên nguyên tắc đa số phiếu.
• Ban giám đốc công ty bao gồm một giám đốc và hai phó giám đốc. Giám đốc do Bộ Thương mại bổ nhiệm, là người điều hành hoạt động công ty theo chế độ thủ trưởng và chịu trách nhiệm về công ty trước Bộ Thương mại và Nhà nước. Hai phó giám đốc có nhiệm vụ trợ giúp và tư vấn cho giám đốc về các mục tiêu và chiến lược kinh doanh của công ty.
• Ban kiểm soát: bao gồm 3 thành viên trong đó có 1 thanhg viên có nghiệp vụ kế toán tài chính, trưởng ban là cổ đông của công ty. Ban kiểm soát có quyền đề nghị triệu tập đại hội đồng cổ đông nếu phát hiện hội đồng quản trị có vi phạm về quản lý.
• Phòng tổng hợp bao gồm hai phòng là phòng tổ chức cán bộ và phòng hành chính. Phòng tổng hợp có nhiệm vụ sắp xếp, đào tạo, tổ chức và quản lý lao động trong công ty hiệu quả, phù hợp, đồng thời giải quyết các chế độ về tiền lương, bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi cho mọi người thành viên công ty
• Phòng kế toán tài vụ có nhiệm vụ theo dõi tình hình công nợ, kiểm số liệu của chứng từ thanh toán đồng thời cùng các phòng kinh doanh mở sổ sách tính toán theo dõi thu chi để quyết toán.
• Bên cạnh phòng tổng hợp và phòng kế toán tài vụ như các doanh nghiệp khác, các phòng ban chủ yếu trong công ty là 6 phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Lãnh đạo mỗi phòng là các trưởng phòng và phó phòng. Các phòng thực hiện chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu và được giám đốc giao quyền tự chủ trong kinh doanh, các trưởng phòng chịu trách nhiệm về các hoạt động của phòng mình trước ban giám đốc. Các phòng được dùng vốn của công ty theo quy định, được công ty bảo lãnh để vay vốn ngân hàng theo khế ước vay. Các phòng phải chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, và trả lãi suất tiền vay và sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Các trưởng phòng được chủ động phân phối thu nhập cho người lao động trong phòng theo nguyên tắc “ phân phối theo lao động” đồng thời chịu trách nhiệm về sự cân bằng và hợp lý trong phân phối thu nhập.
• Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh cũng có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gồm 2 phòng là phòng nghiệp vụ và phòng quản lý. Chi nhánh này thực hiện hạch toán phụ thuộc, tự chịu trách nhiệm về kinh doanh, tài chính, công nợ và những khoản nộp ngân sách Nhà nước, việc mua sắm tài sản cố định, sửa chữa lớn phải có báo công ty trước khi thực hiện.
• Văn phòng đại diện giao nhân tại Hải Phòng làm nhiệm vụ giao nhận hàng của công ty cho các đơn vị bốc dỡ của cảng. Mọi phát sinh đều phải có dự trù và báo cáo thông qua phòng kế toán tài vụ và giám đốc phê duyệt.
• Cửa hàng điện tử có chức năng kinh doanh các mặt hàng điện tử được công ty nhập khẩu, chủ yếu là các sản phẩm của JVC và Sony.
• Ban kinh doanh chứng khoán và bất động sản mới được thành lập và có nhiệm vụ tìm hiểu và đầu tư vào các thị trường đang mang lại nhiều lợi nhuận là thị trường bất động sản và chứng khoán để có thể mở rộng hoạt động đầu tư của công ty đem lại lợi nhuận.
Hình 2: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Cty cp XNK khoáng sản Phòng XNK 6
Phòng XNK 2
Chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh
Văn phòng đại diện tại Hải Phòng
Phòng XNK 1
Phòng XNK 3
Phòng XNK 4
Phòng XNK 5
Ban KD CK và BĐS
Cửa hàng điện tử
Phòng Kế toán Tài vụ
Phòng Tổng hợp
Ban Giám đốc
Hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
2.1.4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty
2.1.4.1. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật
Công ty có số vốn điều lệ là 24 tỷ trong đó vốn sở hữu của Nhà nước chiếm 28,98% vốn điều lệ tương đương với 6.955 tỷ đồng, vốn của các cổ đông trong công ty được mua ưu đãi chiếm 4,58% và vốn thuộc sở hữu của các cổ đông khác chiếm 66,44% vốn điều lệ. Cơ cấu vốn này có thể được thay đổi trong quá trình kinh doanh của công ty.
Cơ sở hạ tầng nhà xưởng bao gồm : Nhà làm việc tại 28 Bà Triệu với diện tích 1160m2 đang xây dựng lại để chở thành trụ sở và trung tâm thương mại, thuê tòa nhà 9 tầng tại 35 Hai Bà Trưng với thời gian 20 năm từ năm 1998, nhà kho Bình Triệu với điện tích 2453m2 , cùng nhiều diện tích đất, nhà sử dụng làm cửa hàng, gara ô tô, kho bãi khác
Ngoài ra công ty còn nhiều máy móc thiết bị khác phục vụ trong việc thông tin liên lạc, đi lại vận chuyển, và kinh doanh sản xuất .
2.1.4.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh
Về mạng lưới kinh doanh: Công ty có mạng lưới hoạt động kinh doanh khá rộng với trụ sở chính tại Hà Nội điều hành mọi hoạt động của các chi nhánh và phòng ban xuất nhập khẩu. Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu và quản lý một xí nghiệp sản xuất túi xách. Một cơ sở giao nhận tại Hải Phòng làm nhiệm vụ giao nhận hành hóa tại cảng. Ngoài ra công ty còn có một xí nghiệp sản xuất và chế biến phân bón phục vụ nông nghiệp tại Gia Lâm – Hà Nội.
Về mặt hành kinh doanh:
- Về xuất khẩu: Công ty thực hiện kinh doanh các mặt hàng khoáng sản quặng và tinh quặng, kim loại đen, kim loại màu và hợp kim, hàng thủ công mỹ nghệ, may mặc, giầy dép. Bên cạnh đó các sản phẩm thủy tinh, đồ gốm sứ và các hàng hóa khô và nông sản ( ngoại trừ gạo) cũng được công ty tìm thị trường nước ngoài để xuất khẩu.
- Về nhập khẩu: Công ty nhập khẩu chủ yếu các sản phẩm hợp kim như sắt thép và hóa chất, phân bón. Ngoài ra vật liệu xây dụng, hàng tiêu dùng và máy móc công nghiệp cũng được công ty đáp ứng cho thị trường trong nước.
Về thị trường và khách hàng: Trong giai đoạn trước đây, do ảnh hưởng của điều kiện chiến tranh nên nước ra chỉ có quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh đó, thị trường và khách hàng của công ty trong giai đoạn này cũng chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô. Về sau khi đất nước mở cửa, do nhu cầu phát triển công ty cũng mở rộng thêm thị trường xuất nhập khẩu sang các đối tác và bạn hàng mới như: Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc…Trong đó thị trường nhập khẩu chủ yếu của công ty là Nga và Trung Quốc và thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước Bắc Âu và Anh.
Kết quả hoạt động kinh doanh chung của công ty: Trong những năm vừa qua, tình hình kinh doanh của công ty nhìn chung là tốt. Tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí, công ty đã đạt được lợi nhuận không ngừng tăng hàng năm và thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên trong công ty cũng liên tục tăng lên. Đồng thời với việc tổng doanh thu tăng theo từng năm đã chứng tỏ quy mô hoạt động của công ty cũng ngày càng lớn hơn. Ngoài ra việc nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ và đúng hạn không những phản ánh việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước mà còn cho thấy tình hình hoạt động của công ty vẫn tăng trưởng ổn định. Kết quả này cũng là cố gắng rất lớn của lãnh đạo công ty và toàn thể công nhân viên đã xác định và quyết tâm rất lớn.
Bảng1 : Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Đơn vị: Nghìn đồng
TT
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
1
Doanh thu
457.214.425
497.324.546
531.145.140
2
Chi phí
456.145.145
496.003.142
529.514.341
3
Lợi nhuận trước thuế
1.069.280
1.321.404
1.630.799
4
Lợi nhuận sau thuế
769.881
951.410
1.174.175
Nguồn: BCKD Phòng XNK 3
2.2. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU THÉP Ở CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU KHOÁNG SẢN
2.2.1. Tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thép của công ty trong vài năm gần đây
Xuất phát từ thực tế hiện nay trên thị trường Việt Nam đang có một nhu cầu rất lớn về lượng thép phục vụ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng và dùng trong các ngành công nghiệp nặng, trong khi nền công nghiệp thép của nước ta không đủ đáp ứng nhu cầu này, công ty Minexport đã tiến hành tìm kiếm và thúc đẩy hoạt động nhập khẩu thép nhằm đáp ứng một phần nào đó nhu cầu này. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty đã thực hiện mua bán với nhiều với nhiều đối tác khác nhau, và trong mỗi thời kì công ty đều xác định cho mình nguồn hàng chủ yếu để nhập khẩu cũng như thị trường đầu ra ổn định. Với nguồn hàng là những bạn hàng uy tín lâu năm, luôn đáp ứng những yêu cầu mà công ty đặt ra về chất lượng, giá cả và khả năng cung ứng, cũng như điều kiện giao hàng và thanh toán. Thông thường, trong quá trình nghiên cứu thị trường, công ty thường tìn kiếm các thông tin từ sách báo, bản tin thị trường của thông tấn xã Việt Nam, các tạp chí chuyên ngành nước ngoài, các thông tin của cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài…bên cạnh đó, Internet cũng là công cụ tìm kiếm thông tin tìm kiếm thông tin rất hữu hiệu của doanh nghiệp.
Về giao dịch buôn bán thép và các sản phẩm thép, trong thời gian qua công ty đã nghiên cứu và mở rộng quan hệ mua bán với các đối tác từ các quốc gia như Nga, Nhật, Hàn Quốc, Ukraina, Trung Quốc và._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26612.doc