TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
**************
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA
CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU XI MĂNG
Giảng viên hướng dẫn : TS. Mai Thế Cường
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thùy Linh
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh quốc tế
Lớp : Kinh doanh quốc tế B
Khóa : 46
Hệ : Chính quy
HÀ NỘI, NĂM 2008
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp này là công trình do em tự nghiên cứu dưới sự hướng dẫ
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1652 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty XNK xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của TS Mai Thế Cường cùng với sự giúp đỡ của các cô chú trong phòng Xi măng – Clinker, Công ty xuất nhập khẩu xi măng.
Các số liệu nêu ra và trích dẫn trong Luận văn là trung thực. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 6 năm 2008
Sinh Viên
Nguyễn Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự động viên, giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của TS. Mai Thế Cường. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã dạy bảo em trong suốt bốn năm học để em có được những kiến thức như ngày hôm nay.
Đặc biệt, em xin cảm ơn các cô chú trong phòng Xi măng – clinker tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn.
Em cũng xin cảm ơn sự quan tâm, động viên to lớn về mặt vật chất cũng như tinh thần của gia đình, người thân và bạn bè.
Hà Nội, tháng 6 năm 2008
Sinh Viên
Nguyễn Thuỳ Linh
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên đầy đủ
CP Chi phí
DT Doanh thu
LN Lợi nhuận
SXKD Sản xuất kinh doanh
Tr.đ Triệu đồng
VLCL Vật liệu chịu lửa
VP Văn phòng
VLĐ Vốn lưu động
XNK Xuất nhập khẩu
XMCL Xi măng – clinker
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu theo thị trường 2005-2007 27
Bảng 2.2 Cơ cấu lao động theo bộ phận chức năng 28
Bảng 2.3 Cơ cấu vốn của Công ty 2005-2007 30
Bảng 2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh 2005-2007 31
Bảng 2.5 Kim ngạch nhập khẩu theo hình thức nhập khẩu 2005-2007 32
Bảng 2.6 Kim ngạch nhập khẩu theo sản phẩm 2005-2007 34
Bảng 2.7 Chỉ tiêu lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận 36
Bảng 2.8 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động 40
Bảng 2.9 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động 42
Bảng 2.10 So sánh chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh 46
Bảng 3.1 Kế hoạch nhập khẩu năm 2008 theo mặt hàng 53
Bảng 3.2 Kế hoạch tài chính năm 2008. 53
Bảng 3.3 Dự báo nhu cầu xi măng toàn quốc 55
Bảng 3.4 Cam kết về thuế nhập khẩu xi măng của Việt Nam 55
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức công ty XNK xi măng................................. ....................24
Hình 2.2 Kim ngạch nhập khẩu theo hình thức nhập khẩu 2005-2007... ..........33
Hình 2.3 Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu 2005-2007................................... ...............35
Hình 2.4 Tăng trưởng lợi nhuận nhập khẩu 2005-2007...................... .................37
Hình 2.5 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu nhập khẩu 2005-2007........... ..........37
Hình 2.6 Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí nhập khẩu 2005-2007....................... ....38
Hình 2.7 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn nhập khẩu 2005-2007.................... ....39
Hình 2.8 Số vòng quay vốn lưu động nhập khẩu 2005-2007.......................... ......40
Hình 2.9 Thời gian 1 vòng quay vốn lưu động nhập khẩu 2005-2007.......... ......41
Hình 2.10 Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động nhập khẩu 2005-2007................. ......42
Hình 2.11 Doanh thu bình quân 1 lao động nhập khẩu 2005-2007.............. ......43
Hình 2.12 Mức sinh lời 1 lao động nhập khẩu 2005-2007............................. .......44
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu đang được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm bởi nó tác động to lớn đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong xu hướng đó có thể nhận thấy hoạt động kinh tế đối ngoại mà ngoại thương là trọng tâm diễn ra mạnh mẽ hơn cả. Ngoại thương tạo điều kiện cho mỗi nước tranh thủ tận dụng nguồn lực bên ngoài kết hợp với nội lực để tạo thành sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây có thể coi là một bước ngoặt quan trọng đối với một đất nước đang trên đà phát triển như Việt Nam, tạo ra thế và lực phát triển mới. Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang không ngừng tận dụng tối đa cơ hội mà hội nhập kinh tế đem lại để có thể đứng vững và vươn lên trong môi trường cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt. Trong đó đặc biệt phải kể đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu vì môi trường kinh doanh của các công ty này không chỉ giới hạn quốc gia mà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố quốc tế.
Là một trong những doanh nghiệp Nhà nước có uy tín lâu năm về lĩnh vực xuất nhập khẩu vật tư thiết bị xi măng trên thị trường trong nước và quốc tế, Công ty xuất nhập khẩu xi măng VINACIMEX cũng không đứng ngoài xu thế hội nhập đó. Quá trình thực tập tại công ty đã giúp em có cơ hội tìm hiểu rõ hơn về những thuận lợi công ty đạt được, cũng như những khó khăn mà công ty đã và đang phải đối mặt trong bối cảnh hiện nay. Qua hơn 15 năm hoạt động, công ty đã không ngừng xây dựng và đổi mới nhằm duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh, phát huy lợi thế cạnh tranh để đáp ứng nhu cầu thị trường ngày một tốt hơn. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề mà Công ty cần phải nghiên cứu và tổ chức một cách hợp lý để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh.
Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu xi măng”
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu xi măng.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung:
+ Nghiên cứu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu xét dưới giác độ doanh nghiệp
+ Nghiên cứu 2 hình thức là nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu ủy thác
- Thời gian: từ năm 2005 đến năm 2007
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập - thống kê - tổng hợp số liệu: Trong đề tài này, các số liệu được tập hợp, thu thập từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các thông tin trên báo, đài, internet…Sau đó tiến hành thống kê, tổng hợp lại cho có hệ thống để phân tích.
- Phương pháp so sánh: Là phương pháp xem xét một chỉ tiêu dựa trên việc so sánh với một chỉ tiêu cơ sở, qua đó xác định xu hướng biến động của chỉ tiêu cần phân tích. Tùy theo mục đích phân tích, tính chất và nội dung của các chỉ tiêu kinh tế mà ta có thể sử dụng các kỹ thuật so sánh thích hợp như so sánh tuyệt đối, so sánh tương đối.
- Phương pháp liên hệ: Để lượng hóa các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế. Có nhiều cách liên hệ như liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi tuyến…Luận văn sử dụng phương pháp liên hệ tuyến tính là liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ tiêu.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng hình và tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu xi măng
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.1 TỔNG QUAN VỀ NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm hoạt động nhập khẩu
1.1.1.1 Khái niệm về nhập khẩu
Nhập khẩu là một trong hai bộ phận cấu thành của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu có tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế cho những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu
Từ điển Kinh tế học hiện đại của Học viện Công nghệ Massachuset định nghĩa “Hàng nhập khẩu là hàng hóa hoặc dịch vụ được tiêu dùng ở một nước nhưng mua ở nước khác”.
Khoản 2, điều 28, chương 2 luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”.
Như vậy bản chât của nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và kết nối sản xuất với tiêu dùng.
1.1.1.2 Đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu
Kinh doanh nhập khẩu có những đặc trưng riêng, khác với kinh doanh nội địa. Những đặc trưng này có ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
- Về thị trường: Thị trường nhập khẩu rất đa dạng. Mỗi quốc gia có lợi thế so sánh trong sản xuất những mặt hàng nhất định. Do vậy nhà nhập khẩu có rất nhiều cơ hội để lựa chọn thị trường cung cấp cho mình. Việc nhập khẩu hàng hóa từ thị trường nào cần tính đến những lợi ích thu được cũng như những chi phí phải bỏ ra khi nhập khẩu từ thị trường đó.
- Về môi trường pháp luật: Kinh doanh nhập khẩu chịu sự chi phối của hệ thống luật quốc gia và luật quốc tế. Giữa các nguồn luật này lại thường có sự mâu thuẫn, xung đột với nhau. Do đó khi tham gia kinh doanh nhập khẩu, mỗi doanh nghiệp cần nắm rõ nguồn luật điều chỉnh hợp đồng nhập khẩu để tránh những tranh chấp phát sinh.
- Về phương thức thanh toán: Có nhiều phương thức khác nhau được sử dụng trong hoạt động thanh toán nhập khẩu như: Phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức tín dụng chứng từ...Việc thanh toán hàng nhập khẩu lại thường sử dụng các loại ngoại tệ nên chịu tác động lớn của tỷ giá hối đoái. Vì thế doanh nghiệp muốn kinh doanh nhập khẩu hiệu quả thì không thể không quan tâm đến các điều khoản thanh toán.
1.1.1.3 Các hình thức nhập khẩu
Hiện nay có nhiều hình thức nhập khẩu được áp dụng tùy thuộc vào mục tiêu và năng lực của doanh nghiệp. Dưới đây là một số hình thức nhập khẩu phổ biến ở Việt Nam:
Nhập khẩu trực tiếp
Là hình thức nhập khẩu mà bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, hàng hóa được mua trực tiếp từ nước ngoài mà không thông qua trung gian. Bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu.
Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp sẽ tự tiến hành các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng, tự bỏ vốn kinh doanh hàng nhập khẩu, chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho lưu bãi, nộp thuế, tiêu thụ hàng hóa.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận cao hơn so với hình thức nhập khẩu ủy thác vì không phải chia sẻ lợi nhuận cho trung gian. Đồng thời doanh nghiệp có thể thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với nhà cung cấp. Tuy nhiên nhược điểm là độ rủi ro cao vì doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm với toàn bộ hoạt động của mình trong suốt quá trình nhập khẩu.
Nhập khẩu ủy thác
Là hình thức nhập khẩu thông qua trung gian thương mại. Bên ủy thác sẽ trả một khoản tiền gọi là phí ủy thác cho bên nhận ủy thác. Bên nhận ủy thác có trách nhiệm thực hiện đúng các nội dung được quy định trong hợp đồng ủy thác đã ký kết giữa các bên.
Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu ủy thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không cần quan tâm đến khâu tiêu thụ hàng hóa mà chỉ thay mặt cho bên ủy thác tiến hành giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, làm thủ tục giao nhận cũng như làm thủ tục đòi khiếu nại, bồi thường với đối tác nước ngoài khi có tổn thất.
Ưu điểm của hình thức này là độ rủi ro thấp hơn nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp không mất nhiều chi phí. Song lợi nhuận từ hình thức nhập khẩu này lại không cao vì doanh nghiệp nhận ủy thác không được tính giá trị lô hàng giao cho bên ủy thác vào doanh thu của công ty mà chỉ được tính vào kim ngạch nhập khẩu. Khi hạch toán doanh thu, doanh nghiệp chỉ hạch toán phần phí ủy thác mà thôi.
Nhập khẩu liên doanh
Là hình thức kinh doanh nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp, trong đó có ít nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp các kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợi nhất cho tất cả các bên tham gia, cùng chia lợi nhuận và cùng chịu lỗ theo tỷ lệ vốn góp liên doanh
Nhập khẩu hàng đổi hàng
Là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu, thanh toán trong hoạt động này không dùng tiền mà dùng hàng hóa. Mục đích của nhập khẩu hàng đổi hàng là vừa thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu, vừa xuất khẩu được hàng hóa trong và ngoài nước
Nhập khẩu gia công
Là hình thức nhập khẩu theo đó bên nhập khẩu cũng chính là bên nhận gia công tiến hành nhập khẩu nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm về để tiến hành gia công theo hợp đồng ký giữa hai bên. Hàng hóa nhập khẩu có thể do bên đặt gia công bán đứt cho bên nhận gia công hoặc do bên đặt gia công chuyển sang cho.
1.1.2 Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Theo khoản 2, điều 4, chương I của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 giải thích “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” Như vậy về bản chất mọi doanh nghiệp tham gia kinh doanh đều nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận ở mức tối đa. Muốn đạt được điều ấy, yêu cầu đặt ra là họ phải hợp lý hóa hoạt động kinh doanh của mình. Và để xem xét mức độ hợp lý hóa đó, người ta thường sử dụng thuật ngữ “hiệu quả kinh doanh”.
Cho đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về “hiệu quả kinh doanh” được nhắc đến, sự khác nhau này chủ yếu là do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu khác nhau đem lại. Tuy nhiên người ta có thể chia các quan điểm này thành các nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh đồng nhất với kết quả kinh doanh và với các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Quan điểm này không đề cập đến chi phí kinh doanh, nghĩa là nếu hoạt động kinh doanh tạo ra cùng một kết quả thì có cùng một mức hiệu quả, mặc dù hoạt động kinh doanh đó có hai mức chi phí khác nhau.
Nhóm thứ hai cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã nói lên qua hệ so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó, nhưng lại chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ sung.
Nhóm thứ ba cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã phản ánh được mối liên hệ bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được kết quả với chi phí bỏ ra, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động, nên quan điểm này chưa biểu hiện được mối tương quan về lượng và về chất giữa kết quả và chi phí.
Nhóm thứ tư cho rằng: Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất. Quan điểm này đã chú ý đến sự so sánh giữa tốc độ vận động của kết quả và tốc độ vận động của chi phí. Mối quan hệ này phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
Các quan điểm trên thống nhất ở việc xem xét mối quan hệ giữa kết quả và chi phí, tuy nhiên nhược điểm của chúng là chưa phản ánh hết được bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn rất chặt với hiệu quả kinh tế xã hội, vì thế nó cần được xem xét toàn diện về cả mặt định tính và định lượng. Xét về mặt lượng, hiệu quả phải gắn với việc thực hiện các mục tiêu chính trị xã hội môi trường nhất định. Do vậy chúng ta không thể chấp nhận việc các nhà kinh doanh tìm mọi cách để đạt được các mục tiêu kinh tế cho dù phải trả bất cứ giá nào. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ kinh doanh tiếp theo.
Trong luận văn này, hiệu quả kinh doanh được hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất.
1.1.3 Phân loại hiệu quả kinh doanh
1.1.3.1 Dựa vào phương pháp tính hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối
phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh, từng doanh nghiệp bằng cách lấy chênh lệch giữa kết quả kinh doanh và chi phí tạo ra kết quả đó
Tổng lợi nhuận = Tổng kết quả - Tổng chi phí
Hiệu quả kinh doanh tương đối
Phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp
Được xác định bằng cách so sánh các đại lượng thể hiện kết quả và chi phí.
H1 =
Kết quả
Chi phí
Công thức trên phản ánh sức sản xuất của các chỉ tiêu đầu vào
Hoặc
H2 =
Chi phí
Kết quả
Công thức trên phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu đơn vị chi phí
1.1.3.2 Dựa vào phạm vi tính toán hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
hiệu quả kinh doanh được tính trong phạm vi toàn bộ doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh bộ phận
hiệu quả kinh doanh được tính đối với
từng bộ phận,
từng hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp
Từng yếu tố sản xuất.
1.1.3.3 Dựa vào thời gian mang lại hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh trước mắt
xem xét trong một khoảng thời gian ngắn,
hiệu quả mang lại ngay khi chúng ta thực hiện hoạt động kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh lâu dài
xem xét, đánh giá trong một khoảng thời gian dài
hiệu quả mang lại sau khi thực hiện hoạt động kinh doanh một khoảng thời gian nhất định.
1.1.3.4 Dựa vào đối tượng xem xét hiệu quả
Hiệu quả do chính việc thực hiện hoạt động kinh doanh đó mang lại.
Hiệu quả do một hoạt động kinh doanh khác mang lại.
1.1.3.5 Dựa vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả
Hiệu quả tài chính
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về khía cạnh kinh tế tài chính, biểu hiện mối quan hệ lợi ích mà doanh nghiệp nhận được trong kinh doanh và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi ích đó
Hiệu quả chính trị - xã hội
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về khía cạnh chính trị - xã hội môi trường, sự đóng góp của nó vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích lũy ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tác động đến môi trường sinh thái và tốc độ đô thị hóa...
1.2 HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Nghiên cứu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu về cơ bản cũng tương tự như nghiên cứu hiệu quả kinh doanh, chỉ khác nhau ở phạm vi nghiên cứu. Nếu hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh nhập khẩu phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp trong hoạt động nhập khẩu mà thôi.
Xét trên giác độ doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu chỉ có thể đạt được khi thu được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, thể hiện trình độ khả năng sử dụng các yếu tố nguồn lực cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp
Xét trên giác độ xã hội: Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu chỉ có thể đạt được khi tổng lợi ích xã hội nhận được từ hàng hóa dịch vụ nhập khẩu lớn hơn chi phí bỏ ra để sản xuất những hàng hóa dịch vụ này trong nước, nghĩa là hoạt động nhập khẩu góp phần làm nâng cao hiệu quả lao động xã hội, tăng chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
1.2.2 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.2.2.1 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp
Lợi nhuận nhập khẩu
Lợi nhuận nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu – Chi phí nhập khẩu
Lợi nhuận nhập khẩu là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình kinh doanh nhập khẩu. Nó phản ánh các mặt số lượng và chất lượng hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất như lao động, vật tư, tài sản cố định v.v…Tuy nhiên chỉ tiêu lợi nhuận chưa cho biết hiệu quả kinh doanh nhập khẩu được tạo ra từ nguồn lực nào, loại chi phí nào.
Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu
Tỷ suất Lợi nhuận trên doanh thu ( Pdt )
Pdt =
Lợi nhuận nhập khẩu
Tổng doanh thu nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu từ kinh doanh nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng về lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn càng lớn, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Tỷ suất Lợi nhuận trên chi phí ( Pcp )
Pcp =
Lợi nhuận nhập khẩu
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi phí bỏ vào kinh doanh nhập khẩu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận thu về. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại.
Tỷ suất Lợi nhuận trên tổng vốn ( Pv )
Pv =
Lợi nhuận nhập khẩu
Tổng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bỏ vào kinh doanh nhập khẩu thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận thu về. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ khả năng sinh lợi của vốn càng cao, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại.
1.2.2.2 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh nhập khẩu bộ phận
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Số vòng quay vốn lưu động nhập khẩu ( Svlđ )
Svlđ =
Doanh thu thuần nhập khẩu
Vốn lưu động nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong một kỳ kinh doanh nhập khẩu. Chỉ tiêu này càng cao thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp càng lớn và ngược lại.
Thời gian 1 vòng quay vốn lưu động nhập khẩu ( Tv )
Tv =
Thời gian của kỳ phân tích Thời gian của kỳ phân tích thường là 360 ngày
Số vòng quay vốn lưu động nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để vốn lưu động cho kinh doanh nhập khẩu quay được 1 vòng. Thời gian quay vòng vốn lưu động càng ngắn chứng tỏ tốc độ luân chuyển càng lớn, hiệu quả kinh doanh nhập khẩu càng cao ngược lại.
Hệ số đảm nhiệm vốn lưư động nhập khẩu ( Hvlđ )
Hvlđ =
Vốn lưu động nhập khẩu
Tổng doanh thu nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra 1 đồng doanh thu nhập khẩu cần bao nhiêu đồng vốn lưu động bình quân. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều và ngược lại.
Hiệu quả sử dụng lao động nhập khẩu
Mức sinh lời 1 lao động nhập khẩu (D)
D =
Lợi nhuận nhập khẩu
Số lao động nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động tham gia vào hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ phân tích. Chỉ tiêu càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
Doanh thu bình quân 1 lao động (W)
W =
Tổng doanh thu nhập khẩu
Số lao động nhập khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh một lao động tham gia vào hoạt động kinh doanh có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ phân tích. Chỉ tiêu càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng lao động càng cao.
1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.2.4.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Môi trường kinh tế
Hoạt động trong môi trường kinh doanh quốc tế đòi hỏi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu phải nghiên cứu các yếu tố kinh tế tác động đến hoạt động kinh doanh của mình như: Các quan hệ kinh tế quốc tế, sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước, sự biến động của thị trường, sự biến động tỷ giá hối đoái, hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng tài chính...
Các quan hệ kinh tế quốc tế
Liên kết kinh tế hiện là một xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thế giới với sự xuất hiện của ngày càng nhiều các tổ chức kinh tế quốc tế như: WTO, APEC, NAFTA, ASEAN...Sự phát triển của các liên kết kinh tế này tác động đến các nhà kinh doanh nước ngoài theo hai hướng. Một mặt các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và khai thác những nguồn lực có lợi cho sản xuất kinh doanh mà không phải đối mặt với những rào cản thương mại. Các nhà sản xuất kinh doanh mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, còn các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có cơ hội tiếp xúc với nhiều nhà cung cấp hơn. Mặt khác nó tạo nên môi trường kinh doanh bất lợi cho các doanh nghiệp ở các quốc gia ngoài khối liên kết so với doanh nghiệp ở các quốc gia trong khối.
Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước
Hoạt động nhập khẩu chịu sự tác động trực tiếp của tình hình sản xuất trong nước và quốc tế. Khi nền sản xuất trong nước phát triển sẽ tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ với hàng hóa nhập khẩu và có thể làm giảm nhu cầu nhập khẩu. Trái lại, một nền sản xuất trong nước yếu kém sẽ thức đẩy nhu cầu nhập khẩu hàng hóa bổ sung hoặc thay thế từ nước ngoài. Trong khi đó, sự phát triển sản xuất quốc tế sẽ góp phần tạo ra nhiều sản phẩm với giá trị sử dụng cao, mẫu mã đẹp và giá thành hạ.
Sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế
Thị trường chủ yếu tác động đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu là thị trường sản phẩm và thị trường nguyên liệu đầu vào.
Sự biến động của thị trường sản phẩm cho thấy sự biến động trong nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Khi nhu cầu về một sản phẩm nào đó của người tiêu dùng trong nước tăng lên thì nhu cầu nhập khẩu mặt hàng đó của doanh nghiệp cũng thường tăng theo và ngược lại.
Thị trường nguyên liệu đầu vào phụ thuộc vào sự biến động của thị trường sản phẩm. Nhu cầu về sản phẩm càng lớn thì càng cần nhiều nguyên liệu đầu vào và ngược lại. Đồng thời thị trường nguyên liệu đầu vào cũng tác động mạnh mẽ đến thị trường sản phẩm. Nếu nguyên liệu đầu vào của sản phẩm nào đó trở nên khan hiếm thì thị trường sản phẩm sẽ biến động về giá cả, lượng hàng cung ứng, thậm chí cả về chất lượng hàng hóa đó. Còn nguyên liệu trong nước dồi dào thì nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu sẽ giảm, giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn...
Bất kỳ thị trường nào biến động cũng đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để duy trì và phát triển, các nhà quản trị cần liên tục theo dõi, phân tích xu hướng biến động của thị trường để có thể kịp thời đề ra các phương án nhập khẩu hợp lý.
Sự biến động tỷ giá hối đoái
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu luôn có sự tham gia của ngoại tệ. Do vậy sự biến động về tỷ giá hối đoái có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ giá hối đoái tăng tức là đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ, khiến cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt hơn vì người nhập khẩu phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để mua cùng một lượng hàng hóa. Khi đó các nhà nhập khẩu thường phải tăng giá bán hàng nhập khẩu trong nước để bù đắp chi phí phát sinh, khiến cho nhu cầu về hàng hóa nhập khẩu giảm xuống, người tiêu dùng chuyển sang các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng nhập khẩu, từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngược lại tỷ giá hối đoái giảm, đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn trước, kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu.Khi đó các doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra ít nội tệ hơn để mua cùng một lượng hàng hóa như trước, tức là chi phí nhập khẩu của doanh nghiệp giảm xuống.
Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc
Đặc điểm nổi bật của hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sự cách biệt về mặt không gian. Vì vậy có thể nói kinh doanh nhập khẩu không thể tách rời hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Ngày nay rất nhiều sản phẩm đã được tiêu chuẩn hóa, do vậy việc cung cấp hàng hóa đầy đủ, nhanh chóng, chính xác chính đã trở thành một trong những nhân tố quyết định đến khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lựa chọn phương thức vận tải đáp ứng được nhu cầu trên với giá thành thấp sẽ giúp doanh nghi vừa giảm bớt được chi phí, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những bước ngoặt trong phương thức liên lạc trên toàn cầu. Thay vì phải đến tận nơi để tìm kiếm, liên hệ nhà cung cấp và khách hàng với chi phí ăn ở, đi lại tốn kém, doanh nghiệp chỉ cần ngồi tại công ty và sử dụng điện thoại hoặc internet để kết nối với bất cứ nơi nào trên thế giới.
Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc tốt sẽ cho phép mọi doanh nghiệp có thể tận dụng được cơ hội kinh doanh, rút ngắn thời gian nhập khẩu, giảm bớt các chi phí, làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu. Ngược lại, hoạt động nhập khẩu phát huy được tính hiệu quả sẽ góp phần làm cho sản xuất trong nước phát triển, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện để đầu tư, cải tạo, nâng cấp hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước.
Hệ thống ngân hàng tài chính
Trong kinh doanh nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng thì nhu cầu huy động vốn vay từ ngân hàng là rất lớn. Khi hệ thống tài chính ngân hàng phát triển mạnh thì khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp cũng như những dịch vụ hỗ trợ kinh doanh của ngân hàng sẽ được thực hiện nhanh chóng và dễ dàng hơn, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và nắm bắt cơ hội. Các doanh nghiệp lần đầu tiên hợp tác nếu có sự đảm bảo của ngân hàng về mặt tài chính sẽ góp phần nâng cao uy tín với bạn hàng.
Môi trường luật pháp
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu với đặc điểm là các chủ thể tham gia thường ở các quốc gia khác nhau nên doanh nghiệp không những phải tuân thủ luật pháp của nước mình mà còn phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Nếu các văn bản pháp luật rõ ràng, công bằng và phù hợp sẽ góp phần tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh mà không gặp phải các vướng mắc hay rủi ro về mặt pháp lý. Ngược lại, các quy định pháp luật không rõ ràng sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, dẫn đến tình trạng lợi dụng kẽ hở pháp luật để kinh doanh phạm pháp như hàng lậu, hàng giả...ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu, uy tín, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, tức là làm giảm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một loại thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu, theo đó đối tượng nộp thuế phải nộp cho cơ quan hải quan nước có hàng hóa nhập khẩu đi._. qua một khoản tiền.
Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu trước hết là để góp phần vào việc phát triển và bảo hộ sản xuất do có xu hướng làm tăng giá hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa. Thuế nhập khẩu cũng góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách và là công cụ quan trọng trong đàm phán quốc tế, thúc đẩy tự do hóa thương mại.
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh nhập khẩu thì thuế nhập khẩu lại làm tăng chi phí đầu vào, làm cho giá bán đầu ra tăng lên dẫn tới nhu cầu về hàng nhập khẩu giảm đi.
Hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được nhập về từ một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định.
Hạn ngạch nhập khẩu giống như thuế nhập khẩu làm tăng giá hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa. Tác động này giúp cho các nhà sản xuất kém hiệu quả sản xuất ra một sản lượng cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Nhưng hạn ngạch nhập khẩu khác thuế quan nhập khẩu về hai mặt: Thứ nhất, Chính phủ không có thu nhập từ hạn ngạch. Thứ hai, hạn ngạch nhập khẩu có thể biến một doanh nghiệp nhập khẩu trong nước trở thành độc quyền.
1.2.4.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Nguồn nhân lực
Con người là chủ thể sáng tạo sử dụng các nguồn lực khác để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp, là nhân tố cơ bản quyết định sự thành bại của doanh nghiệp . Người lao động nếu có trình độ và kỹ năng, thành thạo các nghiệp vụ xuất nhập khẩu, am hiểu về thị trường thì sẽ có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí về thời gian, tiền bạc, sức lao động v.v... cũng như giảm bớt rủi ro trong quá trình kinh doanh, đồng thời giúp cho việc tiêu thụ hàng hóa được thuận lợi. Hiện nay xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra môi trường cạnh tranh vô cùng gay gắt, đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng được đội ngũ lao động có trình độ cao để nâng cao lợi thế cạnh tranh.
Nguồn vốn
Vốn là một yếu vô cùng cần thiết đối với hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhập khẩu thường phải vay vốn để đặt cọc, ký quỹ hoặc thanh toán hàng nhập khẩu. Nếu nguồn vốn hạn hẹp, doanh nghiệp sẽ bị bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, hay khi tiến hành cùng lúc nhiều hợp đồng, khả năng thanh toán của doanh nghiệp là rất thấp. Doanh nghiệp cần xác định cho mình cơ cấu vốn hợp lý để có thể tăng hiệu quả sử dụng vốn, từ đó đem lại tích lũy cho doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động kinh doanh nhập khẩu bao gồm hệ thống kho bãi, phương tiện vận chuyển, thiết bị bảo quản hàng hóa v.v...Nếu được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, doanh nghiệp sẽ giảm bớt được chi phí thuê mượn, chủ động trong kinh doanh. Ngược lại, những doanh nghiệp không có điều kiện trang bị cơ sở vật chất sẽ bị tăng chi phí đầu vào, dễ mất cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp phải cải tiến, nâng cấp cơ sở vật chất để giảm bớt chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.
Trình độ quản lý của doanh nghiệp
Nếu doanh nghiệp xây dựng được cơ cấu tổ chức quản lý phù hợp với tỷ lệ chi phí lao động gián tiếp thấp mà vẫn đảm bảo vận hành doanh nghiệp một cách nhịp nhàng sẽ góp phần giảm chi phí quản lý trong giá thành sản phẩm. Chính sách nhập khẩu đúng đắn có thể sẽ mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Ngược lại quyết định thiếu chính xác có thể sẽ gây ra những tổn thất không gì bù đắp nổi. Do đó, nhà quản lý cần có kiến thức về quản trị, nhạy bén để nắm bắt nhu cầu và xu hướng biến động của thị trường, biết huy động và sử dụng tốt các nguồn lực sẵn có để thực hiện mục tiêu, chiến lược doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản lý còn cần biết sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý để kích thích sự sáng tạo của người lao động, sao cho họ đóng góp nhiều hơn vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Thông tin là cơ sở để các nhà quản trị đưa ra các quyết định kinh doanh. Doanh nghiệp nào có được nhiều thông tin chính xác, kịp thời thì khả năng ra quyết định đúng càng cao, nhờ đó doanh nghiệp có thể lập được kế hoạch hay phương án nhập khẩu hiệu quả. Điều cần thiết là doanh nghiệp phải tổ chức hệ thống thu thập và xử lý thông tin một cách khoa học, chính xác, cập nhật về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh v.v... nhằm tăng doanh thu và giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.4 Phương hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Căn cứ vào công thức tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, về cơ bản có ba cách để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.4.1 Tăng doanh thu
Tăng doanh thu chính là tìm cách đẩy mạnh đầu ra cho quy trình kinh doanh. Nói cách khác doanh nghiệp phải tìm ra biện pháp để tiêu thụ được nhiều hàng hóa hơn, hoặc bán được hàng hóa với giá cao hơn. Có nhiều biện pháp mà doanh nghiệp có thể áp dụng để tăng doanh thu như:
- Làm tốt công tác Marketing để nắm bắt đúng nhu cầu của khách hàng, giúp nhiều khách hàng biết đến sản phẩm của mình hơn.
- Kinh doanh các sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp hoặc cung cấp các dịch vụ sau bán hàng để thu hút khách hàng.
- Mở rộng đoạn thị trường mục tiêu của doanh nghiệp
- v.v…
1.2.4.2 Giảm chi phí
Việc giảm chi phí liên quan chủ yếu đến các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp cần tìm ra các biện pháp để loại bỏ những chi phí bất hợp lý hoặc tính toán để cắt giảm tối đa mức chi phí hiện tại. Cách này có thể giúp giá thành sản phẩm của doanh nghiệp thấp hơn trước, thậm chí còn thấp hơn đối thủ cạnh tranh, nhờ đó mà doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng hóa hơn hoặc thu về nhiều lợi nhuận hơn. Một số biện pháp mà doanh nghiệp có thể áp dụng:
- Phân bổ lao động hợp lý
- Đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn
- v.v…
1.2.4.3 Tốc độ tăng doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng chi phí
Nói chung doanh nghiệp thường khó có thể giảm đầu vào mà không làm ảnh hưởng đến giá trị đầu ra và ngược lại. Trong trường hợp này, doanh nghiệp chỉ có thể tìm mọi biện pháp để tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí. Với sản phẩm tốt hơn, kênh phân phối hiệu quả hơn, trình độ lao động cao hơn...thì chi phí kinh doanh sẽ được sử dụng tiết kiệm hơn, sản phẩm có chất lượng tốt và giá thành hạ nên thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Từ những biện pháp có tính định hướng trên, các doanh nghiệp cần phải xem xét để tìm ra biện pháp cụ thể phù hợp với khả năng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình.
1.3 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU XI MĂNG
1.3.1 Sự khan hiếm nguồn lực sản xuất đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Các nguồn lực sử dụng trong sản xuất kinh doanh không phải là vô hạn. Chính vì vậy, nếu sử dụng nguồn lực không hợp lý sẽ dẫn đến sự lãng phí và cạn kiệt nguồn lực. Mọi doanh nghiệp khi bước vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải nghiên cứu, xem xét tính hiệu quả của từng phương án kinh doanh, so sánh và lựa chọn ra phương án mang lại kết quả mong muốn với chi phí thấp nhất. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là để nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực sản xuất có hạn mang lại kết quả tối ưu.
Nguồn lực mà các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu sử dụng là thời gian, lao động, ngoại tệ... Sự khan hiếm các nguồn lực này đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu bằng cách áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào kinh doanh. Việc tiết kiệm nguồn lực giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm.
Trong bối cảnh đất nước ta còn nghèo thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu nhằm sử dung tiết kiệm các nguồn lực đầu vào càng trở nên cần thiết. Điều này giúp tiết kiệm lượng ngoại tệ đổ ra nước ngoài trong khi cán cân thương mại của Việt nam luôn ở tình trạng nhập siêu trong những năm gần đây. Như vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn là lợi ích chung của của quốc gia.
1.3.2 Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay, các doanh nghiệp phải tự đưa ra những quyết định tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mình. Doanh nghiệp càng kinh doanh có hiệu quả thì lợi ích thu được càng lớn. Ngược lại những doanh nghiệp không khai thác tốt các nguồn lực sẽ mất đi khả năng cạnh tranh và không thể đứng vững trên thị trường. Trong hoàn cảnh mà mọi doanh nghiệp đều đặt ra mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tối đa, doanh nghiệp nào không tìm cách vươn lên nâng cao hiệu quả kinh doanh thì đồng nghĩa với việc đã tự loại bỏ mình.
1.3.3 Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động
Hiệu quả kinh doanh được nâng cao thì kết quả thu được ngày càng tăng, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng phát triển, như vậy ngoài việc tạo thêm việc làm mới còn giúp tăng thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp, cải thiện và nâng cao đời sống của họ. Khi được đảm bảo về thu nhập, người lao động sẽ có điều kiện chăm lo cho đời sống bản thân và gia đình, đồng thời có động lực để làm việc hăng say, giúp tăng năng suất lao động, dẫn đến tăng hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
Tóm lại, chương 1 đã làm rõ khái niệm, cách phân loại và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập cũng như xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu khẩu, tạo cơ sở cho việc phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty XNK xi măng ở chương 2. Đồng thời, chương 1 còn đưa ra phương hướng để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập là
Tăng doanh thu
Giảm chi phí
Tốc độ tăng doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng chi phí
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU XI MĂNG
2.1 KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU XI MĂNG
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Tên công ty: Công ty xuất nhập khẩu xi măng
Tên giao dịch quốc tế: Vietnam National Cement Trading Company
Tên viết tắt: VINACIMEX
Trụ sở: 228 đường Lê Duẩn - Đống Đa - Hà Nội
Điện thoại: 04 - 8512424, 04 - 8515953
Fax: 04-8513748
Email: vinacimex@hn.vnn.vn
Công ty xuất nhập khẩu xi măng (sau đây gọi tắt là Công ty) là doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị thành viên của Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam. Công ty được thành lập ngày 01/01/1991 theo Quyết định số 692/BXD-TCLĐ ngày 03/11/1990 của Bộ Xây dựng.
Công ty XNK xi măng là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân theo luật Việt Nam, có con dấu riêng theo mẫu quy định của Pháp luật Việt Nam. Công ty có tài khoản tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng Công thương Việt Nam và ngân hàng INDOVINABANK.
Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty bao gồm:
- Nhập khẩu Vật tư thiết bị phụ tùng và Thiết bị toàn bộ cho ngành xi măng.
- Xuất khẩu xi măng, vật liệu xây dựng.
Theo quyết định của Bộ Xây dựng, công ty có nhiệm vụ và quyền hạn chính như sau:
- Thực hiện chức năng kinh tế đối ngoại của Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam
- Nghiên cứu điều tra, tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước để xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu hàng năm và dài hạn nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất kinh doanh và tiêu thụ của các đơn vị thành viên trong Tổng công ty.
- Tìm hiểu xu hướng phát triển ngành xi măng của các nước trên thế giới, khả năng hợp tác đầu tư với nước ngoài, khả năng nhập khẩu vật tư thiết bị phụ tùng lẻ chuyên ngành và khả năng xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới.
- Thu thập và phổ biến thông tin kinh tế kỹ thuật, thị trường giá cả trên thế giới cho các đơn vị thành viên trong Tổng công ty để tiếp cận với thị trường thế giới.
- Chịu trách nhiệm quản lý tập trung quỹ ngoại tệ của toàn Tổng công ty để thanh toán và sử dụng có hiệu quả theo kế hoạch đã được cấp trên phê duyệt.
- Tuân thủ đúng các chế độ chính sách về quản lý kinh tế, tài chính, xuất nhập khẩu và các quy chế giao dịch đối ngoại do Nhà nước và các Bộ quy định.
- Thực hiện các cam kết trong hợp tác quốc tế thông qua hợp đồng thương mại, thướng xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Khi mới thành lập, Công ty có tổng số vốn ngân sách cấp và vốn tự bổ sung là 6.418.000.000 đ.
Theo đó
+ Vốn ngân sách cấp : 3.151.000.000 đ
+ Vốn Công ty tự bổ sung: 3.267.000.000 đ
Trong đó
+ Vốn cố định : 362.000.000 đ
+ Vốn lưu động : 6.056.000.000 đ
Trước năm 1990, VINACIMEX tiền thân là phòng Xuất nhập khẩu của Tổng công ty xi măng Việt Nam (VNCC) và chịu sự điều hành trực tiếp của Tổng công ty.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước cuối những năm 80 kéo theo sự phát triển mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng đã làm cho nhu cầu xây dựng trong nước ngày càng tăng. Khối lượng công việc ngày càng tăng và phức tạp hơn khiến cho chức năng phòng ban không còn phù hợp nữa. Nhận thức được điều này, VNCC khi đó (nay là Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam -VICEM) được sự cho phép của Bộ Xây dựng đã quyết định thành lập Công ty XNK xi măng.
Ngày 20/11/1998 Hội đồng quản trị Tổng Công ty xi măng Việt Nam có quyết định số 540/XMVN-HĐQT phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty xuất nhập khẩu xi măng Việt Nam.
Sau hơn 15 năm hình thành và phát triển, VINACIMEX đã vượt qua những năm tháng đầy thử thách và đã không ngừng lớn mạnh, trở thành một doanh nghiệp có uy tín cao trong lĩnh vực xuất nhập khẩu xi măng. Từ số vốn hơn 3 tỷ đồng ban đầu được Nhà nước giao, Công ty đã bổ sung tích lũy, đến nay vốn và tài sản của Công ty đã tăng đến hơn 54 tỷ đồng. Lợi nhuận của Công ty trong 10 năm qua đạt trên 10 tỷ đồng. Các khoản nộp vào ngân sách trong hơn 10 năm qua khoảng 1.000 tỷ đồng.
Trong quá trình mở rộng phát triển, Công ty đã thành lập chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 1/4/1991 theo quyết định số 154/BXD-TCLĐ, chi nhánh Hải Phòng vào ngày 15/7/1993 theo quyết định số 333/BXD-TCLĐ và Văn phòng đại diện tại Viên Chăn - Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào theo quyết định số 515/XMVN - HĐQT.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC DỰ ÁN
PHÓ GIÁM ĐỐC KINH DOANH
KẾ TOÁN TRƯỞNG
PHÒNG TỔNG HỢP
PHÒNG THIẾT BỊ PHỤ TÙNG
PHÒNG XMCL
PHÒNG KẾ TOÁN
PHÒNG DỰ ÁN
CHI NHÁNH TP.HCM
CHI NHÁNH HẢI PHÒNG
VP ĐẠI DIỆN VIÊN CHĂN
Nguồn : Tổng hợp từ số liệu của phòng Tổng hợp
Hình 2.1 - Cơ cấu tổ chức công ty XNK xi măng
Giám đốc công ty: là đại diện pháp nhân của Công ty, chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc công ty, Hội đồng quản trị Tổng công ty về việc điều hành hoạt động của Công ty theo quy định của cấp trên và pháp luật hiện hành.
Phó giám đốc công ty: giúp giám đốc điều hành một hay một số lĩnh vực hoạt động của Công ty theo sự phân công hoăc ủy quyền của Giám đốc, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ đươc Giám đốc phân công hoặc ủy quyền.
Kế toán trưởng: giúp Giám đốc Công ty chỉ đạo, tổ chức thực hiện toàn bộ công tác kế toán, thống kê tài chính của Công ty, chấp hành chế độ kế toán và chế độ quản lý kinh tế Nhà nước ban hành.
Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban do Giám đốc công ty quy định.
- Phòng Tổng hợp
+ Lập kế hoạch cho các kỳ, các năm
+ Tham gia theo dõi thực hiện kế hoạch
+ Chịu trách nhiệm tổng hợp và phân tích thông tin phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Giúp Giám đốc Công ty trong việc quản lý tổ chức cán bộ, hành chính, văn thư, thanh tra, bảo vệ của công ty.
- Phòng Kế toán thống kê tài chính
+ Kiểm soát, quản lý toàn bộ tiền vốn, tài sản của Công ty
+ Lập kế hoạch tài chính cho từng thời kỳ
+ Giúp Giám đốc tổ chức công tác thông tin kế toán tài chính theo quy định của Nhà nước
+ Hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra các bộ phận trong Công ty thực hiện đầy đủ chế độ ghi chép ban đầu, chế độ hạch toán và chế độ quản lý kinh tế tài chính.
Các phòng nghiệp vụ
- Phòng Xi măng - Clinker
+ Nghiên cứu thị trường, tìm nguồn hàng từ nước ngoài
+ Tiến hành đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng
+ Làm các thủ tục nhập khẩu xi măng, nguyên vật liệu sản xuất xi măng theo đơn hàng hoặc hợp đồng kinh tế cho các công ty thành viên trực thuộc Tổng Công ty.
+ Làm các thủ tục xuất khẩu xi măng, clinker.
- Phòng Thiết bị phụ tùng
+ Nghiên cứu thị trường, tìm nguồn hàng từ nước ngoài
+ Thương thảo để đi đến ký kết hợp đồng
+ Làm các thủ tục nhập khẩu dây chuyền thiết bị toàn bộ và thiết bị phụ tùng đơn cho các công ty thành viên trực thuộc Tổng Công ty.
+ Tái xuất khẩu.
- Phòng dự án
+ Tham gia lập và quản lý các dự án
+ Tham gia công tác chấm xét thầu các dự án nhà máy xi măng mới của Tổng công ty
+ Tư vấn cho các chủ đầu tư mua sắm vật tư thiết bị cho các dự án xây dựng mới hay nâng cấp nhà máy xi măng.
- Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh
+ Thực hiện các thủ tục giao nhận hàng hóa khi hàng về đến cảng tại khu vực phía Nam
+ Theo dõi lượng hàng nhập cho các đơn vị trong Tổng công ty ở khu vực phía Nam.
- Chi nhánh Hải Phòng
Thực hiện các thủ tục giao nhận hàng hóa ở cảng nhận hàng tại khu vực phía Bắc.
- Văn phòng đại diện tại Lào
Đầu mối giao dịch, phối hợp với các phòng ban nghiệp vụ của Công ty để thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu xi măng, thạch cao.
2.1.3 Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của Công ty XNK xi măng
2.1.3.1 Lĩnh vực kinh doanh
Công ty XNK xi măng kinh doanh trên lĩnh vực xuất nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ sản xuất xi măng. Do đặc thù của ngành xi măng Việt Nam là sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước nên chủ trương của Chính phủ là tạo mọi điều kiện cho các nhà máy sản xuất xi măng hoạt động hết công suất, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước tiến tới xuất khẩu. Tuy nhiên vấn đề là vật tư thiết bị sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu đó. Vì vậy công ty chỉ chuyên nhập khẩu vật tư thiết bị cho các Công ty thành viên của Tổng công ty, hoạt động xuất khẩu hầu như không thực hiện.
Doanh thu của công ty chủ yếu từ việc nhập khẩu các vật tư, thiết bị cho các nhà máy thành viên của Tổng Công ty như: Công ty xi măng Hoàng Thạch, Công ty Cổ phần xi măng Bỉm Sơn, Công ty Cổ phần xi măng Bút Sơn, Công ty Cổ phần xi măng Hà Tiên 2....
Các sản phẩm nhập khẩu chính của Công ty bao gồm:
- Vật tư cho sản xuất xi măng: Giấy Kraft, Thạch cao, Gạch chịu lửa, Clinker
- Thiết bị phụ tùng lẻ cho sản xuất xi măng
- Thiết bị toàn bộ cho sản xuất xi măng
2.1.3.2 Thị trường nhập khẩu
Thị trường nhập khẩu chính của Công ty là các thị trường Đức, Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan.
Bảng 2.1 Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu theo thị trường 2005-2007
Đơn vị: Nghìn USD
STT
Thị trường
2005
2006
2007
Giá trị
Tỷ trọng (%)
Giá trị
Tỷ trọng (%)
Giá trị
Tỷ trọng (%)
1
Đức
12.298,5
20,92%
7046,5
16,39
10.856,5
10,5
2
Thái Lan
473,58
0,81%
2100
4,89
3.025,2
2,92
3
Trung Quốc
2000,96
3,4%
1795,3
4,17
39.732,1
38,4
4
Nhật Bản
15.158,68
25,79
7163
16,66
22.459,7
21,72
5
Đài Loan
11.415,54
19,42
12.377
28,81
0
0
6
Thị trường khác
17.433,32
29,66
12.492,2
29,08
27.355,5
26,46
Tổng
58.780,8
100
42.974,0
100
103.429,0
100
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ phòng nghiệp vụ
Bảng trên cho thấy thị trường nhập khẩu của Công ty khá đa dạng. Tuy vậy thị trường trọng điểm cho những mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu thường xuyên và ổn định hàng năm của VINACIMEX vẫn chưa được xác định. Lấy ví dụ như mặt hàng giấy Kraft, khối lượng nhập khẩu không lớn nhưng lại được nhập từ 6 thị trường khác nhau với mức giá chênh lệch không đáng kể. Còn clinker là mặt hàng được nhập với khối lượng lớn song lại phụ thuộc vào một số ít công ty.
Công ty thường tiến hành nhập khẩu ủy thác cho các nhà máy sản xuất xi măng trong nước. Ngoài vấn đề về giá cả, chất lượng thì một yếu tố tác động không nhỏ tới việc lựa chọn thị trường nhập khẩu của Công ty là yếu tố kỹ thuật. Mỗi nhà máy sử dụng một dây chuyền khác nhau nên để đảm bảo tính đồng bộ cho máy móc thiết bị và kịp thời cung ứng hàng hóa theo đơn hàng, Công ty thường nhập khẩu từ những nhà cung cấp truyền thống đã biết rất rõ về dây chuyền sản xuất đó.
Nhóm hàng vật tư có nhu cầu nhập khẩu thường xuyên và dễ bị ảnh hưởng bởi điều kiện vận chuyển nên Công ty đã lựa chọn chủ yếu nhập khẩu từ Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc vì các thị trường này có lợi thế khoảng cách vận chuyển ngắn. Nhờ đó Công ty tiết kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời hàng hóa được bảo quản tốt hơn. Còn nhóm hàng phụ tùng thiết bị thường được nhập từ các nước có công nghệ tiên tiến như Đức, Nhật Bản.
2.1.3.3 Đặc điểm nhân lực
Hiện nay đội ngũ lao động của công ty gồm 73 người, được bố trí như sau:
Bảng 2.2-Cơ cấu lao động theo bộ phận chức năng
Bộ phận
Cấp lãnh đạo quản lý
Lãnh đạo
Nhân viên
1.Ban giám đốc
3
_
2.Phòng kế toán
1
4
3.Phòng Tổng hợp
2
8
4.Phòng Xi măng clinker
2
5
5.Phòng thiết bị phụ tùng
2
4
6.Phòng dự án
2
4
7.Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh
2
10
8.Chi nhánh Hải Phòng
2
12
9.Văn phòng đại diện Viêng Chăn
2
8
Tổng
18
55
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ phòng Tổng hợp
Cán bộ nhân viên của công ty trình độ hầu hết tốt nghiệp Đại học chuyên ngành ngoại thương, kinh tế, ngoại ngữ... nên có chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhờ đó mọi công việc của công ty đều thực hiện khẩn trương và hiệu quả.
Quản lý nguồn nhân lực
- Mọi quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động được quy định đầy đủ trong bản Nội quy lao động và Thỏa ước lao động tập thể do Công ty ban hành phù hợp với quy định của pháp luật.
- Hàng tháng mỗi phòng ban tự tổ chức kiểm điểm bình bầu và xét thưởng theo tiêu chuẩn ABC
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Hoạt động đào tạo và phát triển nhân lực của Công ty nằm trong kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Tổng Công ty công nghiệp xi măng Việt Nam. Hàng năm các cán bộ nhân viên của công ty sẽ được lựa chọn và cử đi tham dự các khóa học bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ do Trung tâm đào tạo xi măng thuộc VICEM tổ chức. Cụ thể là:
- Đào tạo ban đầu: Các nhân viên mới tuyển dụng được tham gia học lớp nghiệp vụ ngoại thương để đào tạo kỹ năng ban đầu giúp nhân viên làm quen với quy trình hoạt động của công ty.
- Đào tạo thường xuyên: Cán bộ nhân viên tham gia các khóa học phổ biến về Luật, Nghị định của Nhà nước mới ban hành hay các khóa học nâng cao nghiệp vụ nhằm bổ sung, áp dụng kiến thức vào nâng cao hiệu quả công việc
Ngoài ra cán bộ nhân viên được Công ty tạo điều kiện về tài chính và thời gian để tham gia thi tuyển, tự đào tạo nâng cao trình độ phục vụ công việc.
Chế độ đãi ngộ :
Ngoài khoản lương hàng tháng, Công ty còn duy trì chế độ ăn ca với mức 450.000/người/tháng. Mọi nhân viên đều được Công ty đóng bảo hiểm đầy đủ. Hàng năm Công ty đều tổ chức cho cán bộ nhân viên đi tham quan nghỉ mát tới các địa điểm như: Sầm Sơn, Hạ Long, Cửa Lò… để động viên tinh thần làm việc cũng như tăng cường sự gắn kết giữa các thành viên trong Công ty.
2.1.3.4 Đặc điểm về cơ sở vật chất
Hiện tại trụ sở của Công ty XNK xi măng nằm trong trụ sở của Tổng Công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam. Các phòng ban được trang bị đầy đủ các thiết bị văn phòng như điện thoại, máy in, điều hòa nhiệt độ…Theo quy định của Công ty, mọi văn bản đến và đi đều phải được thông qua và lưu trữ tại phòng Tổng hợp. Do vậy phòng Tổng hợp được bố trí thêm 2 máy fax, 1 máy photocopy. Các thiết bị này là mới mua trong 5 năm gần đây nên nhìn chung đang trong tình trạng sử dụng tốt. Công ty cũng có 2 xe ôtô phục vụ cho công tác của cán bộ nhân viên và 7 xe tải phục vụ công tác vận chuyển hàng hóa.
Mọi hoạt động mua sắm vật tư, thiết bị của Công ty tuân thủ theo “Quy chế quản lý mua sắm vật tư, phụ tùng, thiết bị lẻ” của Tổng Công ty công nghiệp xi măng Việt Nam ban hành ngày 4/11/1998. Theo quy định của Quy chế, Công ty muốn mua sắm các hàng hóa có giá trị trên 100 triệu đồng phải có sự phê duyệt của Tổng Công ty và tiến hành theo hình thức đấu thầu hoặc chào hàng cạnh tranh. Công ty XNK xi măng kinh doanh dịch vụ thương mại, chủ yếu mua sắm các trang thiết bị cho văn phòng nên giá trị thường không lớn, vì thế hình thức này nhiều khi không phù hợp vì gây lãng phí về thời gian và tiền bạc.
2.1.3.5 Đặc điểm về tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của Công ty chúng ta sẽ xem xét mức độ hợp lý của cơ cấu vốn.
Bảng 2.3 Cơ cấu vốn của Công ty 2005-2007
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Vốn tự có
60.343,0
59.927,0
60.547,0
Vốn vay
112.958,5
295.535,5
800.000,0
Vốn cố định
5.702,5
5.777,0
7.912,0
Vốn lưu động
167.599,0
349.685,5
852.635,0
Nguồn: Tổng hợp từ Bảng cân đối kế toán 2005,2006,2007
Qua bảng 2.3 có thể rút ra nhận xét là vốn được sử dụng trong kinh doanh nhập khẩu của Công ty chủ yếu là vốn vay, vốn tích lũy từ lợi nhuận tái đầu tư qua các năm tăng lên không đáng kể. Năm 2006 lượng vốn vay tăng gấp đôi so với năm 2005, sang năm 2007 lượng vốn vay đã tăng gấp 6 lần. Việc Công ty huy động ngày càng nhiều vốn cho thấy quy mô kinh doanh ngày càng được mở rộng. Song sự phụ thuộc về vốn có thể khiến Công ty phải đối mặt với nhiều rủi ro không lường trước như làm lỡ mất cơ hội kinh doanh, chi phí lãi vay ngày càng lớn…
Vốn cố định hàng năm tăng là do Công ty đã đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị mới phục vụ quản lý và mua ô tô phục vụ nhu cầu vận chuyển hàng hóa của Công ty. Vốn lưu động cũng tăng mạnh: năm 2005 đạt 168 tỷ đồng, năm 2006 gần 250 tỷ đồng, đặc biệt năm 2007 tăng lên đến 850 tỷ đồng. Lý do của sự biến động này là năm 2007 giá trị lượng hàng nhập khẩu đang trên đường về của Công ty tăng cao.
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU XI MĂNG
2.2.1 Thực trạng kinh doanh nhập khẩu của Công ty
Đế đánh giá một cách khái quát về hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu xi măng, trước hết ta xem xét kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm vừa qua.
Bảng 2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh 2005-2007
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Giá trị
Giá trị
2006/2005 (%)
Giá trị
2007/2006 (%)
Tổng doanh thu
361.040,5
156.086,5
-56,8
177.757,4
13,8
Tổng chi phí
359.407,8
153.566,1
-57,3
175.310,2
14,1
Nộp ngân sách Nhà nước
29.700,0
20.300,0
68,3
47.800,0
161,0
Lợi nhuận sau thuế
1.225,2
1.942,3
58,5
2.447,1
26,0
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo kết quả kinh doanh 2005, 2006, 2007
Nhìn vào bảng 2.4 có thể thấy doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty đã giảm rõ rệt trong vòng 3 năm qua. Do doanh số mặt hàng nhập khẩu trực tiếp năm 2005 của Công ty tương đối cao nên đạt mức doanh thu 361 tỷ đồng. Sang năm 2006 lượng mặt hàng nhập khẩu trực tiếp đều giảm, mặt hàng thiết bị toàn bộ vốn chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng kim ngạch cũng giảm nhiều, khiến doanh thu của Công ty đã giảm mạnh xuống chỉ còn 156 tỷ đồng, giảm 56,8% so với năm trước. Đến năm 2007 doanh thu đạt 177,7 tỷ đồng, tăng 13,8% so với 2006 vì kim ngạch nhập khẩu thiết bị toàn bộ tăng đột biến, nhưng vẫn còn thua xa so với kết quả đạt được của năm 2005.
Mặc dù doanh thu sụt giảm song Công ty vẫn liên tục đạt được sự tăng trưởng về lợi nhuận. Đây là thành quả của những nỗ lực trong việc cắt giảm chi phí kinh doanh của Công ty. So với năm 2005, năm 2006 doanh thu giảm 56,8% còn chi phí giảm 57,3%, kết quả là lợi nhuận năm 2006 tăng 58,5%. Năm 2007 doanh thu tăng 13,8% so với năm 2006 thì chi phí tăng 14,1% làm cho lợi nhuận tăng 26%.
Tuy hàng năm VINACIMEX đóng góp một lượng đáng kể vào ngân sách Nhà nước, song có thể nói lợi nhuận Công ty đạt được vẫn chưa thực sự tương xứng với quy mô nhập khẩu tương đối lớn như hiện nay và đòi hỏi Công ty cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Bảng 2.5 Kim ngạch nhập khẩu theo hình thức nhập khẩu 2005-2007
Đơn vị : Nghìn USD
Kim ngạch
nhập khẩu
2005
2006
2007
Giá trị
%
Giá trị
2006/2005 (%)
Giá trị
2007/2005 (%)
Nhập khẩu trực tiếp
17.252,7
100
7.405,5
-57,1
6.705,9
-9,5
Nhập khẩu ủy thác
41.528,1
100
35.568,5
-14,4
96.723,1
171,9
Tổng
58.780,8
100
42.974,0
-26,9
103.429,0
176,0
Nguồn : Tổng hợp số liệu của phòng nghiệp vụ
Số liệu ở bảng 2.5 cho thấy kim ngạch nhập khẩu của Công ty không ổn định qua các năm. Năm 2005, kim ngạch nhập khẩu của công ty đạt trên 58 triệu đôla Mỹ. Năm 2006 kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt gần 43 triệu đôla Mỹ, giảm 26,9% so với năm 2005. Nguyên nhân là do sau thời kỳ dài sốt xi măng cho xây dựng, thị trường bất động sản bắt đầu đóng băng khiến cho nhu cầu giảm dần. Mặt khác, nhiều nhà máy xi măng mới đi vào hoạt động đã làm tăng khối lượng sản xuất các nguyên liệu đầu vào hoặc tìm được vật tư thay thế. Đến năm 2007 kim ngạch nhập khẩu tăng đột biến lên đến 176% so với năm 2006. Đó là nhờ ngay từ đầu năm, Công ty đã xác định và tập trung nguồn lực nên đã ký kết thành công các hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho các dự án xây dựng nhà máy xi măng mới.
Nguồn : Tổng hợp số liệu của phòng nghiệp vụ
Hình 2.2 Kim ngạch nhập khẩu theo hình thức nhập khẩu 2005-2007
Công ty thường tiến hành nhập khẩu theo đơn đặt hàng của các công ty thành viên thuộc Tổng công ty. Nhập khẩu trực tiếp và nhập khẩu ủy thác là hai hình thức nhập khẩu chủ yếu được áp dụng tại VINACIMEX, trong đó hình thức nhập khẩu ủy thác luôn chiếm tỷ lệ cao.
Hình 2.2 cho thấy kim ngạch nhập khẩu trực tiếp ngày càng giảm qua các năm. Trong năm 2005 kim ngạch nhập khẩu trực tiếp đạt xấp xỉ 17 triệu đôla Mỹ, song năm 2006 giảm xuống chỉ còn 42,9% và đến 2007 thì còn thấp hơn, chỉ bằng 39% so với 2005. Mặc dù nhập khẩu trực tiếp đem lại cho Công ty doanh thu cao hơn nhiều so với nhập khẩu ủy thác, song hình thức này đòi hỏi số vốn rất lớn, hơn nữa công ty lại không thể chủ động đầu ra do chỉ có các nhà máy sản xuất xi măng mới tiêu thụ được mặt hàng nhập khẩu nên Công ty vẫn tiến hành nhập khẩu ủy thác là chính.
Với hình thức nhập khẩu ủy thác thì kim ngạch nhập khẩu được tính bao gồm cả phí ủy thác nhập khẩu và phần giá vốn của khách hàng, nhưng doanh thu từ hoạt động này chỉ được tính từ phần phí ủy thác nhập khẩu. Mức phí ủy thác trung bình Công ty nhận được là 1% giá trị lô hàng nhập khẩu theo giá CIF.
Bảng 2.6-Kim ngạch nhập khẩu theo sản phẩm 200._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33224.doc