Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần bảo hiểm PJICO

Lời mở đầu Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, hành khách càng tăng cao, và để đáp ứng nhu cầu đó số lượng xe cơ giới tham gia giao thông cũng ngày càng tăng. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm như: tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, giá thành vận chuyển thấp..., nhưng trong quá trình hoạt động, xe cơ giới thường gặp rủi ro, tai nạn, gây tổn thất lớn về người và tài sản cho các chủ phương tiện khi tham gia giao thông. Vì vậy, để bảo vệ chủ xe trong thời gian l

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần bảo hiểm PJICO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưu hành, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời và phát triển. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ này là một nhu cầu khách quan nhằm tạo ra sự ổn định về tài chính, từ đó giúp ổn định về cuộc sống, sản xuất kinh doanh cho các chủ phương tiện trong trường hợp không may gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ. Trong thời gian qua mặc dù đã đạt được những kết quả khá cao, nhưng bên cạnh đó một số vấn đề vẫn còn tồn tại cần phải được tiếp tục xem xét, giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này. Xuất phát từ đó, trong thời gian thực tập tại Phòng bảo hiểm khu vực VII thuộc Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO, em đã lựa chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO”. Mục đích của bài viết này là làm rõ một số vấn đề về lý luận, đi sâu vào thực tế triển khai nghiệp vụ này tại PJICO, từ đó đưa ra một số ý kiến nhằm nâng cao kết quả kinh doanh của nghiệp vụ này. Với mục đích trên thì kết cấu bài viết bao gồm: PhầnI : Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Phần II : Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO. Phần III : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Định và các cô chú trong Phòng bảo hiểm khu vực VII, em đã hoàn thành bài viết này.Tuy nhiên, do nhận thức và thời gian thực tế có hạn nên bài viết không tránh khỏi những sai sót và hạn chế. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Chương I Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 1. Sự cần thiết khách quan . Trong quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam, giao thông vận tải đã khẳng định được vai trò “mạch máu kinh tế” của mình, đặc biệt trong những năm gần đây chúng ta đã và đang thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trước đây do trình độ khoa học kỹ thuật chưa phát triển nên việc đi lại của người dân gặp rất nhiều khó khăn do chủng loại và chất lượng các phương tiện tham gia giao thông bị hạn chế. Thêm vào đó, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ còn lạc hậu, quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển chung của đất nước. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật các phương tiện giao thông vận tải cũng ngày một phát triển. Nhiều hình thức vận chuyển đã được sử dụng như; đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, đường bộ... trong đó hình thức giao thông vận tải đường bộ là phổ biến nhất do hình thức này có những ưu điểm nhất định như; cơ động, thuận tiện, dễ điều khiển, giá rẻ... Tuy nhiên, bên cạnh đó sự phát triển của phương tiện giao thông vận tải cũng làm cho các rủi ro xảy ra ngày càng nhiều hơn với quy mô và mức độ ngày càng cao. Đối với bất kỳ quốc gia nào, giao thông đường bộ luôn được coi là khâu trọng tâm cần phải đi trước một bước trong chiến lược phát triển. Nhận thức được điều đó Nhà nước và các cấp các ngành có liên quan đã có sự quan tâm kịp thời đến công tác nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng đường sá cầu cống. Điều này được đánh dấu bằng sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng đường bộ, cụ thể: Sau ngày miền Nam giải phóng, hệ thống giao thông đường bộ cả nước có khoảng trên 48.000km trong đó quốc lộ là 10.629km với khoảng trên 3.000km đường bê tông nhựa, 3.445km láng nhựa, còn lại là mặt đường đá dăm, cấp phối; Và tính đến tháng 10/1999, cả nước có khoảng 204.981km đường bộ, trong đó quốc lộ có 15.360km, 3.800 cầu với tổng chiều dài 103.400m. Đó là một trong những thành quả lớn của chính sách đổi mới nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế như: chất lượng mặt đường chưa đồng đều; phân bố không đều; có nhiều đèo dốc cao, dài, tầm nhìn bị hạn chế... thêm vào đó là tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông đường bộ của các chủ phương tiện tham gia giao thông như trở quá tải, phóng nhanh, vượt ẩu, không làm chủ được tốc độ gây tai nạn. Cùng với quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, số lượng ô tô, xe máy tăng lên không ngừng. Số ô tô, xe máy cả nước quý I/1999 là 5.739.400 xe; đến quý I/2000 con số này là 6.185.977 xe. Đặc biệt trong thời gian qua, mỗi tháng có 545.000 xe đăng ký đưa tổng số phương tiện tham gia giao thông tính đến tháng 6/2002 lên tới 10.555.000 xe và theo ước tính của cơ quan quản lý giao thông thì số lượng xe còn tăng cao hơn nữa đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập FTA. Điều này chứng tỏ sự phát triển của phương tiện giao thông đường bộ ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng. Bên cạnh đó phải kể đến chất lượng của chính các phương tiện giao thông. Trong những năm gần đây thị trường xe máy Việt Nam bị tràn ngập bởi xe Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, xe HonDa đời cũ... chất lượng không đảm bảo nhưng vẫn được tiêu thụ mạnh do giá rẻ. Các loại ô tô có tuổi đời quá cao nhưng do công tác kiểm định chưa được thực hiện chặt chẽ do đó số lượng xe vượt quá niên hạn sử dụng vẫn tiếp tục tham gia giao thông là rất cao. Những điều trên thực sự là mối đe doạ lớn về tính mạng và tài sản của các chủ phương tiện tham gia giao thông nói riêng và toàn xã hội nói chung, Để minh hoạ cho điều này chúng ta xem bảng dưới đây: Bảng 1. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ. Năm Số vụ xảy ra Số người chết Số người bị thương Số vụ Tăng so với năm trước(%) Số người chết Tăng so với năm trước(%) Số người bị thương Tăng so với năm trước(%) 1995 15.376 17,2 5.430 19,7 16.920 29,6 1996 19.075 24 5.581 2,8 21.556 27,4 1997 19.159 0,4 5.680 1,8 21.905 1,6 1998 19.975 4,3 6.067 6,8 22.723 3,7 1999 20.733 3,8 6.670 9,9 23.911 5,2 2000 23.587 13,8 7.061 5,9 24.171 1,1 2001 25.040 6,2 10.477 48,4 29.188 20,8 6 tháng 2002 14.386 - 6.621 - 16.937 - (Nguồn: Tạp chí GTVT số 9/2000;9/2002) Trước tình hình tai nạn giao thông tăng cả về số vụ và số người chết, gây tổn thất không nhỏ về người và tài sản cho các chủ phương tiện tham gia giao thông. Tính chung cả nước, hàng năm thiệt hại về tài sản do tai nạn giao thông lên đến hàng trăm tỷ đồng, nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên đến hàng chục triệu đồng. Đây là một con số không nhỏ đối với các chủ phương tiện. Vì vậy, để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, đảm bảo ổn định tài chính cho các chủ phương tiện tham gia giao thông, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời và được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ hoạt động tại Việt Nam. Đây là biện pháp tốt nhất để bù đắp thiệt hại sau rủi ro. Biện pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở người tham gia đóng góp một khoản tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để hình thành quỹ tài chính bảo hiểm từ đó sẽ bồi thường những thiệt hại về vật chất của bản thân chiếc xe đó khi chúng không may gặp phải rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm. Như vậy, có thể khẳng định rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất quan trọng và cần thiết đối với các chủ xe trong quá trình điều khiển xe của mình, góp phần khắc phục tình trạng khó khăn về mặt tài chính khi không may gặp tai nạn, đồng thời nhanh chóng khôi phục xe về trạng thái ban đầu để tiếp tục hoạt động kinh doanh. 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới . Ngay từ khi ra đời và phát triển, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã khẳng định được vai trò tích cực của mình đối với các chủ xe nói riêng và xã hội nói chung. Điều đó được thể hiện: Một là, Giúp ổn định tình hình tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các chủ phương tiện khi không may rủi ro xảy ra. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nhằm khắc phục những hậu quả do tai nạn bất ngờ gây thiệt hại về vật chất cho đối tượng được bảo hiểm. Thông qua công tác bồi thường nhanh chóng, kịp thời giúp chủ xe khắc phục khó khăn về mặt tài chính và tránh những xáo trộn lớn cho chủ phương tiện, từ đó góp phần giúp cá nhân, tổ chức ổn định đời sống kinh tế, điều kiện sản xuất kinh doanh. Chính sự ổn định của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức sẽ tạo ra sự ổn định chung của toàn xã hội. Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng, đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới công ty bảo hiểm chỉ bồi thường cho những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và trong hạn mức tối đa là số tiền bảo hiểm để tránh trục lợi bảo hiểm từ phía người tham gia, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ xe khi tham gia giao thông, thúc đẩy các chủ xe phải thực hiện đúng các biện pháp an toàn. Hai là, Tăng khả năng tự chủ về mặt tài chính cho người tham gia bảo hiểm. Nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực cả về chất và lượng. Nhà nước không ngừng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh với mục tiêu sinh lời. Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn quyết định sức mạnh và vị thế của doanh nghiệp. Vì vậy, trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng rủi ro xảy ra thì đó quả là một sự lãng phí lớn đối với không chỉ doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội. Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ít phương tiện đã vậy, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này sẽ chiếm tỷ lệ lớn và rất khó xác định trong nguồn vốn kinh doanh. Các hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới sẽ giải quyết các khó khăn kể trên. Công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ tài chính bảo hiểm và quỹ này hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít”. Khi đó thay vì phải tự thành lập riêng một quỹ cho doanh nghiệp thì các chủ phương tiện có thể yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn rất nhiều do các thành viên tham gia bảo hiểm cùng đóng góp. Ba là, Góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất do tai nạn giao thông gây ra. Phí thu được từ các chủ xe tham gia bảo hiểm hình thành quỹ tài chính bảo hiểm. Nguồn quỹ này ngoài mục đích chính là để bồi thường cho các xe khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, còn được sử dụng cho mục đích đề phòng và hạn chế tổn thất. Các công ty bảo hiểm thường xuyên bỏ ra những khoản tiền không nhỏ để đặt các biển báo tại những con đường nguy hiểm, xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, hốc cứu nạn, đặt gương cầu ở những đoạn đèo, dốc nguy hiểm... Ngoài ra công ty còn khuyến khích xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, tuyên truyền luật lệ giao thông để nâng cao ý thức của người điều khiển các phương tiện giao thông. Đặc biệt các công ty còn thực hiện việc giảm phí nếu trong một thời gian nhất định mà xe không gặp phải rủi ro nào. Có thể nói điều này có ý nghĩa xã hội hết sức to lớn. Bốn là, Góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước. Khi đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, trình độ dân trí cao thì con người càng có nhu cầu bảo vệ bản thân, gia đình và tài sản. Triển vọng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất lớn vì xe cơ giới là một trong những tài sản có giá trị của các cá nhân, các tổ chức và nó không chỉ đơn thuần là phương tiện đi lại mà còn là công cụ không thể thiếu khi tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Vì vậy nguồn thu từ nghiệp vụ này không phải là ít, nó góp phần không nhỏ vào việc tăng thu cho Ngân sách Nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Đồng thời Chính Phủ có thể sử dụng Ngân sách Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu đi lại của người dân, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Ngoài ra còn góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động tại địa bàn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động. Như vậy, tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là rất lớn, nó mang ý nghĩa tích cực và nhân đạo sâu sắc. 3. Đặc điểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới . Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới nằm trong hệ thống bảo hiểm thương mại- còn được gọi là bảo hiểm rủi ro. Vì vậy, ngoài những đặc điểm chung của một sản phẩm bảo hiểm thông thường như: là sản phẩm vô hình; là sản phẩm không mong đợi; là sản phẩm có chu trình sản xuất kinh doanh đảo ngược; khó xác định được hiệu quả kinh doanh trong từng chu kỳ; là sản phẩm không được bảo hộ bản quyền. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới còn mang đặc điểm riêng; Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản mang tính tự nguyện, phụ thuộc vào nhu cầu, khả năng thanh toán và lợi ích của chủ xe. Chủ xe tham gia bảo hiểm là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra đối với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Đối tượng bảo hiểm là cụ thể. Khác với loại hình bảo hiểm trách nhiệm có đối tượng bảo hiểm rất trừu tượng, chỉ khi có rủi ro xảy ra mới xác định được đối tượng bảo hiểm. Còn đối tượng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới chính là bản thân chiếc xe đó, có thể là toàn bộ chiếc xe hoặc bộ phận nào đó của chiếc xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ dễ xảy ra hiện tượng trục lợi bảo hiểm vì xe cơ giới hoạt động trên địa bàn rộng lớn và phức tạp nên người tham gia bảo hiểm dễ dàng tạo hiện trường giả hoặc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm chiếm đoạt một số tiền bất hợp pháp từ phía doanh nghiệp bảo hiểm . Khách hàng tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới bao gồm cả cá nhân và tổ chức trong xã hội. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới có xác suất xảy ra rủi ro lớn do xe cơ giới có tính cơ động cao, tính việt giã tốt và nó tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển hành khách và hàng hoá. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới có liên quan và được sự hỗ trợ của một số bộ luật của quốc gia như: luật dân sự, luật giao thông đường bộ, luật kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt các luật liên quan sẽ giúp cho nghiệp vụ này được triển khai dễ dàng và hiệu quả hơn. II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới . 1. Đối tượng bảo hiểm . Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm mang tính tự nguyện bởi vì khi tổn thất xảy ra đối với chiếc xe thì chủ xe sẽ là người phải gánh chịu toàn bộ tổn thất đó. Vì vậy, nếu chủ xe muốn được bảo vệ thì họ sẽ tự tham gia bảo hiểm cho xe của mình. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ của quốc gia. Để xác định xem một phương tiện giao thông có phải là xe cơ giới không, người ta thường xem xét các tiêu thức sau: Xe cơ giới phải được gắn động cơ( khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do súc vật kéo...). Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn( khác với tàu hoả, xe điện...). Xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ cho người điều khiển. Ngoài ra để trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành- Được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe. ở Việt Nam, Bộ Tài Chính có quy định rõ trong Nghị định số 115/97/NĐ- CP ra ngày 17/12/97: Xe cơ giới là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, trừ xe đạp máy. Như vậy, xe cơ giới bao gồm rất nhiều loại khác nhau như xe công nông, xe ô tô trở khách, xe ô tô trở hàng, xe cẩu, xe máy, xe lam... Nhưng nhìn chung xe cơ giới được chia thành 2 loại cơ bản là xe ô tô và xe mô tô. Khi tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới chủ phương tiện nhất định phải tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất xe đối với xe mô tô. Nhưng đối với xe ô tô chủ phương tiện có thể tham gia bảo hiểm từng bộ phận (tổng thành) của chiếc xe. Đứng trên góc độ kinh tế- kỹ thuật, xe ô tô được chia làm 7 tổng thành sau: 1/ Tổng thành động cơ: Bao gồm phần máy, chế hoà khí hoặc bơm cao áp, bơm xăng, bầu lọc khí, lọc dầu, máy phát điện, máy nén khí, két nước, các dụng cụ làm mát, các thiết bị làm cho máy nổ, ly hợp... 2/ Tổng thành hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ, hệ thống dẫn động cơ. 3/ Tổng thành trục trước (cầu trước): bao gồm dầm cầu, trục lắp, hệ thống treo nhíp, may ơ trước, cơ cấu phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu, vi sai, vỏ cầu. 4/ Tổng thành cầu sau: bao gồm vỏ cầu toàn bộ, ruột cầu, vi sai, cụm mayơ sau, cơ cấu phanh, xilanh phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu, trục lắp ngang, hệ thống treo cầu sau, nhíp... 5/ Tổng thành hệ thống lái: bao gồm vô lăng lái, trục tay lái, các đăng dẫn động lái, hộp tay lái, bổ trợ tay lái (nếu có), thanh kéo ngang, thanh kéo dọc. 6/ Tổng thành thân vỏ xe: Có 3 nhóm; Nhóm A: Thân vỏ; Cabin toàn bộ, ca lăng, ca bô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kính, toàn bộ đèn và gương, gạt nước mưa, rưa kính, toàn bộ vỏ kim loại, nhựa hoặc gỗ, các cần đạp và gạt và bàn đạp ga, côn số phanh chân, phanh tay. Nhóm B: Ghế đệm + nội thất: toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc nằm, ngang hoặc dọc của nhà xe và hành khách; các trang thiết bị như máy điều hoà nhiệt độ, quạt, đài, radio casset, đĩa compact... Nhóm C: Sắt si: khung xe, các cơ cấu bám chặt vào khung và tổng bơm phanh, dẫn động phanh chính và phanh tay, dẫn động côn, các bình chứa hơi phanh, bình chứa nguyên liệu, các đường ống và tuy mô dẫn dầu, dẫn hơi, dây dẫn điện... 7/ Tổng thành lốp: các bộ săm lốp hoàn chỉnh của xe (kể cả săm lốp dự phòng). 8/ Ngoài ra, có một số loại xe còn có tổng thành chuyên dùng lắp trên xe để sử dụng theo nhu cầu: cần cẩu nâng, xe cứu hoả, xe cứu thương... Việc phân chia xe thành các tổng thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính khấu hao khi xe bị hư hỏng toàn bộ một tổng thành nào đó. Thực tế, các công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới thường tiến hành bảo hiểm theo hai hình thức: bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe. Vì thông thường tổng thành thân vỏ xe là phần dễ bị tổn thất nhất khi rủi ro xảy ra và thân vỏ chiếm một phần lớn trong cơ cấu giá trị của xe (53,5%). 2. Phạm vi bảo hiểm . Rủi ro, tai nạn gắn với sự lưu hành xe cơ giới rất đa dạng, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Từ những yếu tố khách quan như thời tiết, địa hình, chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ xe, lái xe. Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định pham vi bảo hiểm là rất quan trọng. 2.1. Rủi ro được bảo hiểm . Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm . Nhà bảo hiểm bồi thường cho chủ xe những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp sau đây: Tai nạn do đâm va, lật đổ. Cháy, nổ, bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. Mất cắp toàn bộ xe. Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm. Chi phí bảo vệ xe và kéo xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm . Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường (bao gồm cả chi phí) của công ty bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm . 2.2 Các rủi ro loại trừ. Công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu bồi thường cho những thiệt hại vật chất của xe xảy ra do: Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên thường được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị (kể cả máy thu thanh điều hoà nhiệt độ), săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. Mất cắp bộ phận của xe. Ngoài ra để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật và luật lệ an toàn giao thông hay một số rủi ro đặc biệt khác những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường: Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định trong điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ của liên bộ giao thông vận tải- nội vụ. Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như: Xe không có giấy phép lưu hành. Xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. Xe chở chất cháy, nổ trái phép. Xe trở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định. Xe đi vào đường cấm. Xe đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. Thiệt hại do chiến tranh. Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia trừ khi có thoả thuận riêng. Cần lưu ý rằng, giấy chứng nhận bảo hiểm vẫn còn hiệu lực nhưng chủ xe cũ chuyển quyền sở hữu cho chủ xe mới và đồng thời chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực đối với chủ xe mới. Nhưng nếu chủ xe cũ chỉ chuyển quyền sở hữu mà không chuyển quyền lợi bảo hiểm thì chủ xe cũ sẽ được công ty bảo hiểm hoàn lại phí, đồng thời làm lại thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ yêu cầu. 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm . 3.1 Giá trị bảo hiểm . Giá trị bảo hiểm là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm . Giá trị bảo hiểm là căn cứ quan trọng để lựa chọn số tiền bảo hiểm và là cơ sở bồi thường thiệt hại thực tế cho người tham gia bảo hiểm. Vì vậy việc xác định đúng giá trị bảo hiểm là rất quan trọng nhưng để đánh giá được chính xác thì không phải là đơn giản, cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Trên thực tế, các nhà bảo hiểm thường dựa vào năm sản suất, loại xe, độ cũ mới, thể tích làm việc của xi lanh... để xác định giá trị của xe. Tuy nhiên việc đánh giá các yếu tố này là khá khó khăn, hiệu quả không cao chỉ có những người có chuyên môn mới thực hiện được, có thể dẫn đến tranh cãi, không khách quan. Vì vậy các doanh nghiệp bảo hiểm thường xác định giá trị bảo hiểm căn cứ vào tỷ lệ khấu hao và giá trị ban đầu (giá trị mua mới) của chiếc xe theo công thức sau: GBH = GBĐ - GKH Trong đó: GBH : -giá trị bảo hiểm của chiếc xe. GBĐ : - giá trị ban đầu của chiếc xe, giá trị mua mới. GKH : - giá trị được khấu hao của chiếc xe( theo năm). GKH = GBĐ * tỷ lệ khấu hao * số năm sử dụng - Đối với xe có thời gian sử dụng dưới một năm thì GKH = 0, nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe. - Đối với xe có thời gian sử dụng trên một năm (GKH > 0) nên giá trị bảo hiểm luôn nhỏ hơn giá trị ban đầu của xe. 3.2 Số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là số tiền nhất định được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm do chủ xe yêu cầu và được sự chấp nhận của công ty bảo hiểm . Số tiền bảo hiểm có thể bằng giá trị bảo hiểm (bảo hiểm ngang giá trị) hoặc nhỏ hơn (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị). Trường hợp số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm thì được gọi là bảo hiểm dưới giá trị, trường hợp này khi tổn thất xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường dựa trên cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm . SBT = Giá trị thiệt hại * Trong đó: SBT :là số tiền mà công ty bảo hiểm bồi thường khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra. SBH : là số tiền bảo hiểm . Trường hợp số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm được gọi là bảo hiểm ngang giá trị. Nếu tổn thất xảy ra thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ thiệt hại trong phạm vi bảo hiểm . Trường hợp số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì được gọi là bảo hiểm trên giá trị. Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngay cả khi chủ xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thì khi rủi ro xảy ra công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường tối đa bằng giá trị bảo hiểm . Làm như vậy để tránh hành vi trục lợi bảo hiểm từ phía khách hàng. 4. Phí bảo hiểm . 4.1 Phí bảo hiểm . Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền nhất định mà những người tham gia (chủ xe, lái xe) phải nộp cho nhà bảo hiểm sau khi ký hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia nộp phí theo đúng quy định. Doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới có thể thực hiện bảo hiểm theo biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu do Bộ Tài Chính quy định hoặc có thể thoả thuận với nhau theo biểu phí và mức trách nhiệm cao hơn hoặc phạm vi bảo hiểm rộng hơn- biểu phí và mức trách nhiệm mà doanh nghiệp đã đăng ký với Bộ Tài Chính. 4.2 Phương pháp tính phí bảo hiểm . Việc xác định mức phí bảo hiểm là công tác rất quan trọng trong triển khai bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào, phí bảo hiểm được coi là giá của sản phẩm bảo hiểm, phí bảo hiểm có hợp lý mới thu hút được khách hàng. Đặc biệt nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ phổ biến và được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm Phi Nhân Thọ vì vậy tính cạnh tranh càng trở lên gay gắt. Ngoài việc thu hút khách hàng bằng công tác chăm sóc khách hàng, bồi thường nhanh chóng thì giá cả của sản phẩm bảo hiểm là nhân tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia cụ thể, công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu phí xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại thành các nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, sự khan hiếm của phụ tùng, trọng tải xe. Đối với các loại xe hoạt động không thông dụng như xe kéo Rơmooc, xe trở hàng nặng do mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. Khu vực giữ xe và để xe: trong thực tế không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, một số công ty bảo hiểm khi tính phí bảo hiểm đã dựa trên khu vực để xe và giữ xe rất chặt. Mục đích sử dụng xe: đây là nhân tố quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Với mục đích sử dụng xe khác nhau thì mức độ rủi ro cũng khác nhau. Xe dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì khả năng gặp rủi ro cao hơn rất nhiều so với xe sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc cơ quan hành chính sự nghiệp. Xe lăn bánh trên đường càng nhiều thì rủi ro càng lớn. Tình hình bồi thường tổn thất những năm trước: nếu những năm trước đó tổn thất xảy ra lớn và thường xuyên thì phí bảo hiểm sẽ tăng và ngược lại. Tuổi tác, kinh nghiệm của lái xe, của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm : số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 tuổi do kinh nghiệm cho thấy những lái xe này ít gặp tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên với những lái xe quá lớn tuổi (thường từ 60 trở lên) phải xuất trình giấy chứng nhận sức khoẻ phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm. Ngoài ra để hạn chế tai nạn, công ty bảo hiểm thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra đối với xe của mình (hay còn gọi là mức miễn thường). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn so với các lái xe lớn tuổi. Biểu phí đặc biệt: khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là dựa trên số liệu về bản thân khách hàng đó. Cụ thể: Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm . Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó. Tỷ lệ phí theo quy định của công ty. Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung của công ty thì áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt cao hơn hoặc là bằng mức phí chung tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn hoặc bằng mức tổn thất chung thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. Giảm phí bảo hiểm : Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn xe tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và tăng tỷ lệ giảm giá này cho số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới. Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: = * Hoàn phí bảo hiểm : Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm cho những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: = Phí cả năm * * Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. Nếu chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên, nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm vật chất phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe gồm hai phần: phí thuần (f) và phụ phí (d): P = f + d Thực chất phí thuần chính là số tiền bồi thường bình quân cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm gặp rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm năm thứ i: f = Trong đó: Si: - Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i. Ti: - Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i. Ci: - Số xe hoạt động tham gia bảo hiểm thực tế trong năm thứ i. Phần phụ phí d bao gồm các chi phí như đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý lợi nhuận của công ty bảo hiểm ...Phụ phí thường được xác định bằng một tỷ lệ % nhất định so với tổng phí. Tuy nhiên trên thực tế các công ty bảo hiểm áp dụng một phương pháp tính phí khác dựa trên số tiền bảo hiểm : P = R * SBH Trong đó: R là tỷ lệ phí._. ở nước ta, tỷ lệ phí này là do Bộ Tài Chính đưa ra, các công ty bảo hiểm đều áp dụng mức phí này. Phí bảo hiểm vật chất xe ô tô như sau: Phạm vi bảo hiểm Phí bảo hiểm Bảo hiểm toàn bộ xe 1,5%* giá trị thực tế của xe Bảo hiểm thân vỏ hoặc cabin 2,5* giá trị thực tế của xe*tỷ lệ tổng thành thân vỏ trên toàn bộ xe 5. Hợp đồng bảo hiểm . Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Như vậy, hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một bản cam kết giữa chủ xe với công ty bảo hiểm mà trong đó quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên. Sau khi ký kết hợp đồng công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm để chủ xe dễ dàng lưu giữ và mang theo. Giấy chứng nhận bảo hiểm là hình thức rút gọn của hợp đồng bảo hiểm, là bằng chứng xác nhận hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết, đồng thời chứng nhận chủ xe đã tham gia bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm của nghiệp vụ này thường là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia và tình hình thực tế. Giấy chứng nhận bảo hiểm được cấp cho chủ xe khi đã đóng phí bảo hiểm. Thời hạn hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được thể hiện trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Đối với công ty bảo hiểm . Trách nhiệm của công ty bảo hiểm . Cung cấp cho chủ xe cơ giới quy tắc, biểu phí, ký hợp đồng bảo hiểm và chấp nhận bảo hiểm theo đúng luật định. Hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ xe tham gia bảo hiểm . Công ty bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan tới vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm . Đối với những vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng, doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp chặt chẽ với chủ xe và cơ quan chức năng ngay từ đầu để giải quyết. Trong trường hợp cần thiết, công ty bảo hiểm phải tạm ứng ngay những chi phí cần thiết và hợp lý trong phạm vi trách nhiệm bảo hiểm nhằm khắc phục một cách tốt nhất hậu quả của tai nạn. Khi hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành xét và giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng, kịp thời, trung thực. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm nộp thuế cho Nhà nước. Quyền lợi của công ty bảo hiểm . Công ty bảo hiểm có quyền lợi về mặt kinh tế. Công ty bảo hiểm được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới . Có quyền huỷ bỏ hợp đồng nếu có hiện tượng trục lợi bảo hiểm . Có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do lỗi của người thứ ba gây nên đối với xe của người được bảo hiểm . Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Đối với chủ xe cơ giới. Trách nhiệm của chủ xe cơ giới. Các chủ xe phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ theo đúng thoả thuận của hai bên. Phải áp dụng các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Phải chấp hành đúng luật lệ an toàn giao thông. Xe không đủ điều kiện lưu hành phải báo cáo ngay cho công ty bảo hiểm biết. Phải bảo dưỡng và tiến hành kiểm định xe định kỳ. Chủ xe phải kê khai một cách trung thực và đầy đủ những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm khi muốn tham gia bảo hiểm . Khi tai nạn giao thông xảy ra chủ xe phải có trách nhiệm: Cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, phải bảo vệ hiện trường tai nạn, phải báo ngay cho công an nơi gần nhất và công ty bảo hiểm để phối hợp giải quyết. Trừ khi có lý do chính đáng trong vòng 5 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn phải gửi thông báo tai nạn cho công ty bảo hiểm. Không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến của công ty, trừ trường hợp làm như vậy là cần thiết để đảm bảo an toàn về người và xe hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. Chủ xe phải trung thực thu thập và cung cấp các tài liệu, chứng từ trong hồ sơ yêu cầu bồi thường và tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong quá trình xác minh tính chân thực của các tài liệu, chứng từ đó. Nếu chủ xe không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm trên công ty bảo hiểm có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường. Quyền lợi của chủ xe. Khi xảy ra tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm chủ xe sẽ được bồi thường nhanh chóng, chính xác. Chủ xe có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm . Chủ xe có quyền yêu cầu bổ sung thêm hợp đồng, xác định lại giá trị xe, yêu cầu mở rộng phạm vi bảo hiểm. Chủ xe có quyền huỷ bỏ hợp đồng hoặc đề nghị thay đổi một số điều khoản trong hợp đồng. Khi hợp đồng hết hiệu lực có quyền tái tục hợp đồng. 6. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản nhưng do đặc điểm riêng của xe cơ giới là vận chuyển bằng đường bộ tham gia vào quá trình vận chuyển, hoạt động của xe cơ giới phụ thuộc rất lớn vào địa hình, tình hình thời tiết và chất lượng kỹ thuật của xe nên là một nguồn nguy hiểm cao độ hay nói cách khác khả năng xảy ra tai nạn là rất lớn. Xác suất xảy ra rủi ro cao hơn rất nhiều so với các đối tượng tài sản khác. Vì vậy, khi triển khai nghiệp vụ này, các công ty bảo hiểm đều chú ý đến việc đề phòng tai nạn xảy ra và cách khắc phục hậu quả khi tai nạn xảy ra. Hàng năm các công ty thường tiến hành trích một phần doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới để phục vụ cho công tác này. Nguồn quỹ này được chi cho việc xây dựng hệ thống biển báo, panô áp phích tại những đầu mối giao thông quan trọng, xây dựng đường lánh nạn, gương cầu tại các đường vòng, đèo dốc... Ngoài ra, quỹ này còn được dùng để tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe. Khen thưởng thích đáng cho các đơn vị, cá nhân thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, đây không chỉ là trách nhiệm của công ty bảo hiểm mà còn là trách nhiệm của chính các chủ phương tiện mặc dù họ đã tiến hành mua bảo hiểm vì thực hiện tốt công tác này sẽ làm giảm số vụ tai nạn xảy ra, giảm tỷ lệ bồi thường, giảm phí bảo hiểm ... từ đó mang lại lợi ích cho công ty bảo hiểm, cho bản thân người tham gia bảo hiểm và góp phần làm giảm đáng kể thiệt hại cho xã hội. 7. Giám định và bồi thường. 7.1. Giám định. Giám định là khâu quan trọng nhất trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng. Thông qua khâu này, giám định viên của công ty bảo hiểm sẽ xác định được rủi ro xảy ra có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không và nếu có thì thiệt hại thực tế là bao nhiêu, phần trách nhiệm thuộc về phía công ty bảo hiểm ? Để làm được điều này thì quá trình giám định phải đáp ứng được những yêu cầu sau: Nhanh chóng, kịp thời; nhằm đảm bảo hiện trường còn nguyên vẹn, thu thập được đầy đủ tài liệu cũng như tìm ra được người làm chứng. Tỷ mỉ, chính xác; để đảm bảo trả đủ cho người tham gia đồng thời tránh trả thừa đối với bản thân công ty bảo hiểm . Khách quan, trung thực; tránh trường hợp gian lận, thông đồng giữa cán bộ giám định với chủ xe, lái xe. Công tác giám định phải tuân thủ chặt chẽ quy trình giám định bao gồm các khâu sau: 1/Tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng: Trong bất kỳ hợp đồng bảo hiểm nào cũng đều có những quy định về nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm, trong đó khách hàng có nghĩa vụ thông báo ngay cho công ty bảo hiểm biết khi có rủi ro xảy để công ty bảo hiểm có biện pháp xử lý kịp thời (PJICO quy định là 5 ngày). Khi nhận được thông báo của khách hàng về tai nạn, cán bộ của công ty cần nắm được những thông tin sau: Tên chủ xe và biển số đăng ký của chiếc xe đó. Xe tham gia bảo hiểm khi nào, loại hình bảo hiểm tham gia? Địa điểm xảy ra tai nạn? Đâm va với vật, người hay phương tiện? Có xảy ra thiệt hại với người, tài sản hay người thứ ba không? Số điện thoại hay địa chỉ để công ty liên lạc lại khi cần thiết. Sau khi nắm bắt được tình hình, giám định viên phải đưa ra những nhận định sơ bộ về phạm vi, thiệt hại. 2/ Hướng dẫn xử lý ban đầu. Khi xảy ra tai nạn các chủ xe, lái xe thường rất bối rối, không biết phải làm gì? Vì vậy cán bộ của công ty cần hướng dẫn họ những việc phải làm như: Thực hiện những hoạt động cần thiết và có thể để hạn chế tổn thất xảy ra lớn hơn. Giữ nguyên hiện trường của vụ tai nạn. Giúp đỡ cán bộ điều tra, công an hoàn tất biên bản khám nghiệm hiện trường một cách chính xác. Về phía cán bộ của công ty, khi đánh gia sơ bộ nếu thấy tổn thất là nghiêm trọng thì phải báo cho lãnh đạo của công ty để kịp thời chỉ đạo: Lập phương án giám định: cử ra chuyên viên giám định, đưa ra thời gian giám định. Thông báo và thống nhất với người điều khiển phương tiện về kế hoạch giám định của mình. Nếu vụ tai nạn xảy ra ở địa bàn khác mà công ty không thể trực tiếp tiến hành giám định thì cần có kế hoạch phối hợp với một công ty giám định hoặc một công ty bảo hiểm để thuê họ giám định. Nếu liên quan đến vấn đề chuyên môn, kỹ thuật thì phải nhờ đến giám định viên chuyên nghiệp. 3/ Tiến hành giám định: Đây là khâu cơ bản, quan trọng nhất của quy trình giám định. Cán bộ được cử đi giám định phải chuẩn bị những thứ cần thiết cho công việc giám định, đồng thời phải thông báo cho các bên liên quan có mặt trong khi giám định. Cán bộ giám định kiểm tra tính hợp lệ của các giấy tờ cần thiết như: Giấy chứng nhận bảo hiểm có hiệu lực; đăng ký xe, giấy phép lưu hành xe; giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường; bằng lái xe của người điều khiển phương tiện khi xảy ra tai nạn còn hiệu lực. Chụp ảnh hiện trường: chụp ảnh theo nguyên tắc từ tổng thể đến chi tiết, từ ngoài vào trong. Sau khi xem xét hiện trường, thiệt hại giám định viên phải ghi nhận một cách chính xác trung thực nguyên nhân và mức độ thiệt hại thực tế của đối tượng bảo hiểm . Căn cứ vào hợp đồng bảo hiểm , mức độ lỗi của người điều khiển phương tiện giám định viên xác định thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm . Hướng dẫn chủ xe thực hiện các công việc tiếp theo sau khi giám định như; tiến hành cẩu kéo, bảo vệ tài sản... 4/ Lập biên bản giám định. Lập biên bản giám định nhằm ghi lại những gì mà giám định viên tiến hành, nhận định của giám định viên về nguyên nhân của vụ tai nạn, mức độ lỗi của các chủ xe, mức độ thiệt hại về xe, tài sản, con người. Nếu các bên đồng ý với biên bản giám định thì đó sẽ là cơ sở để tiến hành bồi thường. Còn nếu không phải tiến hành giám định lại. Yêu cầu đối với biên bản giám định: Phải ghi lại tỉ mỉ những gì mà giám định viên thấy. Nội dung phải trung thực, rõ ràng, cụ thể. Số liệu đưa ra phải phù hợp với các tài liệu dẫn chứng. 5/ Xác định số tiền bồi thường trên cơ sở đánh giá thiệt hại trong biên bản giám định. Căn cứ vào giấy chứng nhận bảo hiểm, mức độ thiệt hại thực tế và mức độ lỗi của người tham gia để xác định số tiền bồi thường. Sau khi xác định được thiệt hại mà công ty phải gánh chịu, công ty sẽ thoả thuận với chủ xe về mức đền bù và hình thức thanh toán. Hướng dẫn chủ xe lập giấy yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp tổn thất toàn bộ, công ty bồi thường toàn bộ thì chiếc xe bị tai nạn sẽ thuộc về công ty, công ty có quyền thu hồi chiếc xe. 7.2 Bồi thường. Bồi thường thiệt hại là khâu công việc rất quan trọng trong quy trình triển khai một sản phẩm bảo hiểm. Bởi đây là khâu thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với khách hàng cũng như thể hiện quyền lợi của khách hàng và phản ánh rõ nhất lợi ích của sản phẩm. Vì vậy, yêu cầu của công tác bồi thường là doanh nghiệp phải tiến hành bồi thường nhanh chóng, chính xác cho khách hàng đảm bảo khắc phục thiệt hại về tài chính cho khách hàng nhưng cũng đảm bảo yếu tố chính xác cho bản thân doanh nghiệp tránh các trường hợp trục lợi có thể xảy ra. 7.2.1 Hồ sơ bồi thường bao gồm: Tờ khai tai nạn của chủ xe; Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe; Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn, biên bản giải quyết tai nạn; Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án; Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ ba; Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn. 7.2.2 Nguyên tắc bồi thường. Số tiền bồi thường được cơ quan bảo hiểm tính toán dựa trên cơ sở giá trị thiệt hại thực tế của xe. Công ty bảo hiểm chỉ bồi thường khi chủ xe cung cấp đầy đủ chứng từ hợp lệ. Thông thường việc tính toán số tiền bồi thường cho thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định như sau: (1) Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế. Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế * Tuy nhiên, trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm một số tổng thành nhất định thì số tiền bồi thường được tính dựa trên cơ sở thiệt hại thực tế của tổng thành đó. (2) Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế. Để tránh việc trục lợi bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu người tham gia bảo hiểm cố tình hoặc vô tình tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì số tiền bồi thường cũng chỉ bằng giá trị thiệt hại thực tế và luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế, được gọi là “giá trị thay thế mới”. Khi tổn thất toàn bộ xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng đúng số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp này chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các điều kiện bảo hiểm rất nghiêm ngặt. (3) Trường hợp tổn thất bộ phận. - Nếu xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm bằng hoặc thấp hơn giá trị thực tế thì số tiền bồi thường được tính theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm với giá trị thực tế của xe nhưng bị giới hạn bởi giá trị của bộ phận đó quy đinh trong “Bảng tỷ lệ tổng thành xe”. - Nếu xe được bảo hiểm trên giá trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tai nạn nhưng bị giới hạn bởi giá trị của bộ phận đó quy định trong “ Bảng tỷ lệ tổng thành xe”. - Trong quá trình sửa chữa, khắc phục tổn thất, nếu phải thay thế bộ phận mới thì số tiền bồi thường tối đa của công ty bảo hiểm không vượt quá giá trị thực tế của bộ phận đó ngay trước khi xe bị tổn thất. (4) Trường hợp tổn thất toàn bộ. Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, bị cướp, mất tích sau 60 ngày không tìm lại được, giá trị thiệt hại bằng hoặc trên 80% giá trị thực tế của xe tính theo tỷ lệ tổng thành xe hoặc đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. - Nếu số tiền bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế của xe, thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. - Nếu xe được bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng giá trị thực tế của xe ngay trước khi xe bị tổn thất. - Khi đã bồi thường toàn bộ tổn thất cho chiếc xe đó thì công ty bảo hiểm có quyền thu hồi, thanh lý chiếc xe. Nếu xe bảo hiểm dưới giá trị thực tế thì công ty bảo hiểm sẽ thu hồi giá trị còn lại theo tỷ lệ phần trăm giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của xe. - Đối với trường hợp xe bị mất cắp, mất tích thì chủ xe hoặc lái xe báo ngay cho cơ quan công an, công ty bảo hiểm để lập kế hoạch điều tra xử lý vụ việc. Trong vòng 5 ngày kể từ ngày xe bị mất cắp, mất tích chủ xe phải gửi ngay văn bản cho công ty bảo hiểm.Trong trường hợp quá 2 tháng mà xe bị mất cắp, mất tích không tìm thấy được thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe toàn bộ số tiền bảo hiểm đã ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu sau khi bảo hiểm mà tìm lại được thì công ty bảo hiểm có quyền thu hồi lại chiếc xe đó theo tỷ lệ phần trăm giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của chiếc xe đó. 8.Bảo hiểm trùng. Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất, chiếc xe được bảo hiểm theo hai hay nhiều giấy chứng nhận bảo hiểm thì theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm tài sản, tổng số tiền mà chủ xe nhận được từ các đơn bảo hiểm cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế của chiếc xe đó. Số tiền bồi thường được tính cho mỗi giấy chứng nhận bảo hiểm như sau: = * Trong đó: STBT:là số tiền bồi thường - GCNBH:là giấy chứng nhận bảo hiểm . Chương II Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm pjico I. Một số nét khái quát về công ty cổ phần bảo hiểm PJICO. 1. Sự ra đời và phát triển. 1.1 Sự ra đời. Trên thực tế ở Việt Nam hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hoạt động còn hết sức mới mẻ. Từ năm 1994 trở về trước thị trường bảo hiểm ở Việt Nam vẫn là một thị trường độc quyền- chỉ có một mình Bảo Việt kinh doanh trên thị trường. Khi chúng ta chủ trương mở cửa các công ty bảo hiểm bảo hiểm nước ngoài đã rất quan tâm đến thị trường bảo hiểm của Việt Nam. Trong khi chưa được phép thành lập các chi nhánh ở Việt Nam họ đã sử dụng các văn phòng đại diện tại Việt Nam để làm dịch vụ môi giới, chào bán các sản phẩm bảo hiểm ở nước họ. Để thị trường bảo hiểm Việt Nam trở thành thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cần hoàn thiện ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài, hoà nhập vào sự phát triển sôi động của thị trường bảo hiểm quốc tế, đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng lên mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính Phủ đã ban hành NĐ 100/CP ngày 18/12/1993, đó cũng là lúc kết thúc tình trạng độc quyền của Bảo Việt. Kể từ mốc thời gian đó, ngày càng nhiều công ty bảo hiểm với các hình thức sở hữu khác nhau được thành lập, trong đó có các công ty: - Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long). - Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh). - Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC). - Công ty Cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI). - Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA). Trong bối cảnh đó, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex với tên gọi tiếng anh là : Petrolimex Joit- Stock Insurance Company, viết tắt là PJICO đã được thành lập theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06- TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ Tài Chính, giấy phép thành lập số 1873/GP- UB ngày 8/6/1995 của Uỷ ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Uỷ ban kế hoạch (hiện là Sở kế hoạch đầu tư) thành phố Hà Nội. Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex có trụ sở chính tại 22 Láng Hạ- Hà Nội. Với tổng số vốn góp của công ty là 55 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ là 53 tỷ đồng và tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. PJICO có tám cổ đông lớn, trong đó có 7 thành viên sáng lập và một thành viên tham gia. Đây là công ty cổ phần bảo hiểm đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, với mức vốn góp của các cổ đông như sau: Bảng 2: Danh sách sáng lập viên và số vốn góp. STT Đơn vị Tỷ trọng (%) Vốn góp (triệu đồng) Số cổ phiếu 1 Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex). 51 28050 14025 2 Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 10 5500 2700 3 Công ty tái bảo hiểm quốc gia (Vinare). 8 4400 2200 4 Tổng công ty thép Việt Nam (VSC). 6 3300 1600 5 Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (Matexim) 3 1650 852 6 Công ty điện tử Hà Nội (Hanel). 2 1100 550 7 Công ty TNHH thiết bị an toàn. 0,5 275 138 8 Cá nhân 1,5 10.275 5362 Tổng 100 55000 27500 (Nguồn: Phòng tổ chức- cán bộ) Như vậy, Công ty Cổ phần bảo hiểm PJICO ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời đánh dấu sự mở cửa thực sự của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm . Chuyển đổi một cách cơ bản thị trường bảo hiểm Việt Nam từ độc quyền sang tự do cạnh tranh có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và cũng chính từ đây thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chuyển sang một giai đoạn mới. 1.2 Cơ cấu tổ chức của PJICO. PJICO có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và tuân thủ theo trật tự cơ cấu của một công ty Cổ phần. Đứng đầu là hội đồng cổ đông: Đây là cơ quan quyền lực cao nhất của PJICO bao gồm: - Đại hội đồng thành lập. - Đại hội đồng thường niên. - Đại hội đồng bất thường. **Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý PJICO, do đại hội đồng cổ đông bầu ra và thay mặt cổ đông giữa hai kỳ đại hội, có toàn quyền nhân danh PJICO để quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của PJICO trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. **Tổng giám đốc: do hội đồng quản trị bổ nhiệm và được uỷ nhiệm đầy đủ quyền hạn cần thiết để quản lý, điều hành kinh doanh. Tổng giám đốc PJICO phải là người tốt nghiệp đại học hành chính, kinh tế hoặc tương đương, có kiến thức kinh nghiệm quản lý kinh doanh bảo hiểm và không được kiêm nhiệm bất cứ chức vụ nào tại bất cứ cơ quan, đơn vị kinh tế nào khác. **Giúp việc cho tổng giám đốc là các phó giám đốc, kế toán trưởng. Tổng giám đốc trực tiếp điều hành quản lý các phòng: - Phòng kế toán. - Phòng tổ chức cán bộ. - Phòng đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán. - Ban thanh tra pháp chế. Ngoài ra tổng giám đốc còn quản lý các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các khu vực một cách gián tiếp thông qua phó giám đốc. Văn phòng công ty PJICO gồm có các phòng, ban: - Phòng kế toán: làm nhiệm vụ thanh quyết toán các hợp đồng, quản lý phí bảo hiểm gốc, chi trả tiền bồi thường, tổng hợp số liệu lập báo cáo tài chính, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. - Phòng tổ chức cán bộ: có chức năng quản lý nhân sự trong công ty, quản lý lao động, tiền lương, điều động cán bộ, tuyển cán bộ nhân viên cho công ty. - Phòng đầu tư tín dụng và thị trường chứng khoán: có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, liên doanh ký kết, thực hiện các dự án đầu tư... - Ban thanh tra pháp chế: thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các văn bản pháp quy của Nhà nước liên quan đến hoạt động bảo hiểm, kiểm tra tính chất pháp lý của các hợp đồng bảo hiểm cũng như hồ sơ bồi thường. Ban thanh tra còn kiểm tra các đơn vị trong việc thực hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm và thủ tục thực hiện bồi thường. - Phòng tổng hợp: có chức năng hành chính quản trị và quản lý tài sản của công ty. Phòng tổng hợp mua sắm trang thiết bị tài sản, thiết bị văn phòng cho công ty, in ấn tờ rơi, tổ chức tuyên truyền quảng cáo, tổ chức phục vụ các cuộc họp hội nghị. Phòng tổng hợp còn có nhiệm vụ văn thư, nhận và gửi các công văn đi đến. - Phòng bảo hiểm hàng hải: phòng có nhiệm vụ khai thác các dịch vụ bảo hiểm về xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu, bảo hiểm nhà thầu đóng tầu, bảo hiểm tầu sông, tàu cá. - Phòng bảo hiểm phi hàng hải: thực hiện việc khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm kết hợp con người, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm giáo viên, bảo hiểm bồi thường cho người lao động, bảo hiểm hành khách, khách du lịch. - Phòng bảo hiểm tài sản hoả hoạn: làm nhiệm vụ khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm rủi ro về xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm mọi rủi ro công nghiệp, bảo hiểm máy móc, bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê mướn. - Phòng tái bảo hiểm: thực hiện nhiệm vụ nhận và nhượng tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm . - Phòng giám định bồi thường: có nhiệm vụ thực hiện giám định các tổn thất được bảo hiểm, đánh giá xác định mức độ thiệt hại từ đó quyết định mức bồi thường. - Phòng quản lý nghiệp vụ và thị trường: quản lý tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có của công ty, hướng dẫn và chỉ đạo các đơn vị thực hiện. Phòng còn có nhiệm vụ tìm hiểu và nghiên cứu những nghiệp vụ bảo hiểm mới. Các phòng nghiệp vụ của công ty phụ trách việc triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc quyền hạn quản lý của mình trên một mạng lưới chi nhánh, văn phòng bảo hiểm, đại lý, cộng tác viên trên khắp toàn quốc bao gồm trên 20 chi nhánh, 400 văn phòng đại diện, tổng đại lý và đại lý ở khắp các tỉnh. Riêng trên địa bàn Hà Nội tính đến thời điểm này đã có 7 văn phòng khu vực. Các nghiệp vụ bảo hiểm công ty PJICO triển khai. ỉ Nghiệp vụ bảo hiểm Hàng hải. - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển, đường bộ, đường sông, đường hàng không. - Bảo hiểm thân tàu. - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu. - Bảo hiểm nhà thầu đóng tàu. - Bảo hiểm tàu sông, tàu cá. ỉNghiệp vụ bảo hiểm Phi hàng hải. - Bảo hiểm xe cơ giới. - Bảo hiểm kết hợp con người. - Bảo hiểm học sinh, giáo viên. - Bảo hiểm bồi thường cho người lao động. - Bảo hiểm khách du lịch. - Bảo hiểm hành khách. ỉNghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật và tài sản. - Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng lắp đặt. - Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. - Bảo hiểm máy móc. - Bảo hiểm trách nhiệm. - Bảo hiểm hỗn hợp tài sản cho thuê. ỉNghiệp vụ tái bảo hiểm . - Nhượng và nhận tái bảo hiểm các nghiệp vụ bảo hiểm. Ngoài ra PJICO thực hiện việc giám định kiểm tra, tính toán phân bổ tổn thất, đại lý giám định, xét giải quyết bồi thường và đòi người thứ ba ...theo yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của mọi tổ chức, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh. 2.1 Về kế hoạch kinh doanh chung của công ty. Là một doanh nghiệp trẻ, lại hoạt động dưới mô hình hoàn toàn mới mẻ, tuy không được hưởng bất kỳ ưu đãi nào như các doanh nghiệp cổ phần hoá, công ty PJICO đã tự lực tự cường phát huy hết nội lực của mình để tăng doanh thu. Bảng 3: Doanh thu của công ty PJICO (1997- 2002). Chỉ tiêu Năm Kế hoạch (tỷ đồng) Thực hiện (tỷ đồng) Thưc hiện/ kế hoạch (%) Tốc độ tăng so với năm trước (%) 1997 77,05 99,2 129 - 1998 114,08 117 103 18 1999 134,55 120 89 2,6 2000 138,00 144 104 20 2001 155,00 164,6 106 14 2002 186,20 211,9 114 28,7 ( Nguồn: Phòng tổng hợp ) Như vậy, doanh thu của công ty liên tục tăng, đồng thời công ty thường xuyên đạt vượt mức kế hoạch đặt ra. Để đạt được những thành công đó, ngay sau khi ra đời PJICO đã nhanh chóng triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm, số lượng các nghiệp vụ ngày càng nhiều và đa dạng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm phong phú của khách hàng. Từ chỗ ban đầu công ty hầu như chỉ tiến hành bảo hiểm cho các khách hàng là các cổ đông, đến nay 77% doanh thu của công ty là từ khách hàng ngoài cổ đông. Công ty đã bảo hiểm và đồng bảo hiểm nhiều công trình lớn giá trị hàng triệu đôla Mỹ như khách sạn Hà Nội Daewoo, cao ốc HITC tại Hà Nội, Diamon Plaza tại TP. Hồ Chí Minh, nhiều gói thầu cầu, đường trên Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, đường xuyên á, nhà máy thuỷ điện Sông Hinh, đường dây tải điện Hàm Thuận- Đami, các tàu dầu lớn của Petrolimex, VOSCO đã liên tục tham gia bảo hiểm tại PJICO. Ngoài ra, công ty đã có nhiều cố gắng tập trung khai thác mở rộng mạng lưới khách hàng bằng cách thành lập các chi nhánh, văn phòng bảo hiểm tại khắp các tỉnh thành phố trong cả nước. Đây cũng là một trong những nhân tố làm tăng trưởng doanh thu của công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng đã chú trọng sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư lại cho nền kinh tế thông qua việc cho khách hàng vay tín dụng, đầu tư tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Từ khi thành lập công ty đã từng bước củng cố vị trí, chỗ đứng cũng như uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm. Trong 7 năm hoạt động doanh thu phí bảo hiểm liên tục tăng nhanh và ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân là 39%. Lợi nhuận: Tính đến ngày 31/12/2002 công ty đã tạo ra 72 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế và trên 35 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế. Hàng năm chia lãi cổ tức cho các cổ đông ở mức ổn định bình quân 1,2%/tháng cao gấp 1,5 đến 2 lần lãi suất tiền gửi ngân hàng. Bảo toàn và phát triển vốn: Sự tăng trưởng của PJICO không chỉ thể hiện qua lợi nhuận mà còn thể hiện thông qua sự tích luỹ vốn trong 7 năm hoạt động. Nguồn vốn chủ sở hữu được bảo toàn và phát triển. Vốn kinh doanh không ngừng được bổ sung bằng các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Đến ngày 31/12/2002 số dư quỹ dự phòng trên 85 tỷ và nâng vốn kinh doanh của công ty lên trên 135 tỷ gấp hơn 4 lần vốn góp ban đầu của các cổ đông. Thuế nộp ngân sách: Công ty bảo hiểm PJICO luôn thực hiện đầy đủ và làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách đối với nhà nước. Mặc dù mới được thành lập và cũng không được hưởng ưu đãi nào của Nhà nước nhưng sau 7 năm hoạt động công ty đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước trên 45 tỷ đồng. Đây là một doanh nghiệp mới được thành lập lại hoạt động dưới mô hình công ty cổ phần, tham gia vào lĩnh vực kinh doanh đầy khó khăn, thị trường còn nhỏ. Nhưng với ý thức tự lực tự cường, quyết tâm của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng sự giúp đỡ của các ban ngành PJICO đã không ngừng vươn lên nhằm chiếm giữ thị phần, nâng cao uy tín của mình trên thị trường. Sự ra đời và hoạt động của công ty đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động tại khu vực Hà Nội và tại các địa phương mà công ty mở chi nhánh. 2.2 Về thị phần của công ty. Mặc dù mới hoạt động được hơn 7 năm, bên những doanh nghiệp có bề dày kinh nghiêm như Bảo Việt và hàng loạt các doanh nghiệp bảo hiểm mới được thành lập đã làm cho tình hình cạnh tranh trên thị trường diễn ra ngày càng gay gắt. Tuy nhiên với sự chỉ đạo của HĐQT, của các ban ngành có liên quan, sự ủng hộ hợp tác giúp đỡ nhiệt tình của các cổ đông sáng lập, các khách hàng và đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ nhân viên, công ty đã từng bước phát triển, tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bảng 4: Thị phần thị trường bảo hiểm phi nhân thọ năm 2002. STT Công ty Doanh thu (tỷ đồng) Tăng trưởng (%) Thị phần (%) 1 Bảo Việt 1.240 22,0 40,4 2 Bảo Minh 862 53,8 28,1 3 PVIC 445 193,0 14,5 4 PJICO 176 27,1 5,7 5 Bảo Long 34 30,7 1,1 6 PTI 113 22,0 3,7 7 Các công ty bảo hiểm khác - - 6,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2002) Từ số liệu trên ta thấy, thị phần của PJICO đứng thứ tư chỉ sau: Bảo Việt, Bảo Minh, PVIC. Tuy nhiên tiềm năng của thị trường vẫn còn rất lớn, công ty cần tập trung khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm. 2.3 Về công tác tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo. Để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, công ty PJICO không chỉ tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, các thành phố lớn mà còn triển._.n của doanh thu, bên cạnh đó những khoản chi khác cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển của lợi nhuận. Năm 1997 doanh thu phí đạt được là 7.432 triệu đồng với tổng chi là 6.202 triệu đồng, lợi nhuận của công ty đã thu được là 1.230 triệu đồng. Hiệu quả nghiệp vụ tính theo lợi nhuận và doanh thu là 0,198 và 1,2 điều này có nghĩa là 1 đồng chi phí bỏ ra tạo ra được 1,2 đồng doanh thu và 0,198 đồng lợi nhuận. Năm 1998, doanh thu phí tăng lên là 8.323 triệu đồng nhưng đồng thời tổng chi cũng tăng lên là 7.020 triệu đồng, lợi nhuân công ty thu được là 1.303 triệu đồng. Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ giảm xuống đôi chút còn 0,186 nếu tính theo lợi nhuận và 1,19 nếu tính theo doanh thu. Năm 1999 lợi nhuận giảm xuống còn 1.200 triệu đồng, hiệu quả kinh doanh còn 1,12 nếu tính theo doanh thu và 0,116 nếu tính theo lợi nhuận. Sang năm 2000 lợi nhuận của công ty đã tăng lên là 1.522 triệu đồng nhưng hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này tiếp tục có xu hướng giảm xuống còn 1,11 nếu tính theo doanh thu và 0,109 nếu tính theo lợi nhuận. Đồng thời năm 2001, 2002 lợi nhuận vẫn tiếp tục tăng nhưng hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ vẫn có xu hướng giảm. Sở dĩ hiệu quả kinh doanh theo doanh thu và theo lợi nhuận của nghiệp vụ này có xu hướng ngày càng giảm mặc dù doanh thu và lợi nhuận vẫn tăng đều qua các năm là vì tổng chi của nghiệp vụ có tốc độ tăng cao hơn so với tốc độ tăng của tổng thu và lợi nhuận. Như vậy, dù đã rất cố gắng để tăng doanh thu nhưng do các khoản chi phí phải bỏ ra lớn vì vậy hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ vẫn có xu hướng giảm. Đây không chỉ là khó khăn của riêng PJICO mà là khó khăn chung mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang gặp phải, điều này đòi hỏi PJICO và các doanh nghiệp bảo hiểm khác phải cố gắng rất nhiều để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình. Phần III Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. I. Kiến nghị. 1. Về phía Nhà nước và các ngành có liên quan. ỉNhà nước cần tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm. ỉUỷ ban an toàn giao thông cần đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tai nạn giao thông xảy ra. 2. Về phía công ty PJICO. ỉXây dựng và hoàn thiện hơn nữa quy trình khai thác nghiệp vụ sao cho phù hợp với tình hình thị trường hiện nay. ỉ Công ty cần nâng cao hiệu quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. ỉCông ty cần giám sát chặt chẽ công tác giám định- bồi thường nhằm phát hiện ra những vụ tai nạn không thuộc phạm vi bảo hiểm, phấn đấu giảm tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ này xuống bằng tỷ lệ bồi thường chung của toàn thị trường. ỉHạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại công ty. ỉCông ty cần không ngừng nâng cao doanh thu từ đó mở rộng thị phần của công ty trên thị trường. ỉCông ty cần tăng cường hơn nữa trong việc thực hiện công tác quảng cáo xây dựng hình ảnh của PJICO trong lòng người dân. II. Giải pháp. 1. Đối với Nhà nước và các ngành có liên quan. ỉCùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, thị trường bảo hiểm đang ngày càng trở lên sôi động. Trong một vài năm gần đây, ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm được thành lập tại Việt Nam với đủ mọi hình thức sở hữu. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đòi hỏi tính năng động, linh hoạt cao trong tất cả các khâu công việc, nâng cao thị phần và từng bước chiếm lĩnh thị trường là mục tiêu mà các doanh nghiệp đang vươn tới. Vì vậy, sự cạnh tranh trong lĩnh vực này càng trở lên gay gắt, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh và quản lý của Nhà nước. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm mà đối với toàn xã hội. Vì các công ty bảo hiểm đóng vai trò là các trung gian tài chính, tham gia vào thị trường tài chính thông qua việc cung cấp một nguồn vốn nhất định cho thị trường. Vì vậy đòi hỏi các công ty bảo hiểm phải có sự cạnh tranh lành mạnh. Trên thực tế, hiện nay trong thị trường bảo hiểm đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Điển hình là việc giảm phí tuỳ tiện, chính điều này đã tạo rủi ro cho công tác bồi thường, ảnh hưởng đến lợi ích của chính những người tham gia bảo hiểm, đồng thời gây mất ổn định cho thị trường bảo hiểm. Cụ thể hiện nay đã xảy ra trường hợp bản thân các chủ xe ngoài việc được giảm một tỷ lệ phí nhất định theo quy định do người tham gia bảo hiểm có số lượng đầu xe lớn, mức độ rủi ro thấp... người tham gia bảo hiểm vẫn được nhận “hoa hồng” do các đại lý bảo hiểm hoặc cán bộ khai thác chi trả nhằm thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty mình. Giải pháp cho vấn đề này theo em Nhà nước cần phải có những quy định chặt chẽ về việc xử phạt hành chính đối với những hành vi giảm phí được phát hiện, các quy định này cần được thực thi nghiêm chỉnh chứ không chỉ mang tính hình thức. Tuy nhiên để có thể phát hiện ra hành vi này là điều không phải dễ, đòi hỏi phải có một bộ phận chuyên trách về vấn đề này. ỉĐể hạn chế tai nạn giao thông xảy ra, các ngành có liên quan đặc biệt là uỷ ban an toàn giao thông cần có những hành động và việc làm cụ thể: + Gắn quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông đường bộ với quy hoạch phát triển các phương tiện tham gia giao thông. Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng giao thông tại các thành phố, thị xã, các khu vực kinh tế trọng điểm có đông người qua lại. + Tăng cường các hình thức giáo dục pháp luật, giúp người dân hiểu rõ về an toàn giao thông, coi vấn đề an toàn giao thông là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người. + Hiện nay tồn tại một số lượng lớn các phương tiện tham gia giao thông đã quá hạn sử dụng, đây là nguồn rủi ro lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Phi Nhân Thọ. Vì vậy, các ngành, các cấp cần tăng cường kiểm tra các phương tiện tham gia giao thông, kiên quyết đình chỉ các xe không đảm bảo chất lượng, những trường hợp không có bằng lái.... nhằm hạn chế tai nạn giao thông xảy ra. 2. Đối với công ty PJICO. 2.1 Trong khâu khai thác. ỉKhai thác là khâu đặc biệt quan trọng khi triển khai bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào. Trong khâu này, các cán bộ khai thác, đại lý là người có vai trò quan trọng. Do đó ngay từ đầu công ty cần có kế hoạch tuyển chọn kỹ những người thực sự có năng lực, có trình độ và đồng thời phải là người có tư cách đạo đức tốt. ỉĐại lý, cán bộ khai thác là mạng lưới trung gian nối liền giữa người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm, đem lại dịch vụ bảo hiểm, doanh thu bảo hiểm cho công ty, góp phần giúp công ty phát triển kinh doanh. Vì vậy công ty cần có chính sách hoa hồng thoả đáng từ đó kích thích các cán bộ, đại lý làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn và gắn bó lâu dài với công ty. ỉHiện nay chất lượng đào tạo đại lý tại công ty chưa cao. Vì vậy đã có những trường hợp đại lý chưa hiểu rõ về nghiệp vụ bảo hiểm đã dẫn đến tình trạng một số đại lý giải thích sai cho khách hàng hoặc giải thích không rõ... chính những điều này đã gây khó khăn cho công ty sau này. Do đó công ty cần có những chương trình đào tạo cơ bản giúp cán bộ khai thác, đại lý bảo hiểm của công ty hiểu rõ hơn về những nghiệp vụ mà công ty đang triển khai. ỉCác cán bộ khai thác, các đại lý luôn phải bám sát khách hàng, làm tốt công tác chăm sóc khách hàng sau khi bán bảo hiểm, đặc biệt là những khách hàng truyền thống, những khách hàng lớn, từ đó nâng cao số lượng các hợp đồng được tái tục hàng năm. Đây là công việc rất quan trọng, nếu làm tốt sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí khai thác do chi phí khai thác cho một hợp đồng mới thì lớn hơn rất nhiều so với việc tái tục một hợp đồng cũ. ỉCông ty cần mở rộng hơn nữa mạng lưới kinh doanh vì hiện nay mạng lưới kinh doanh của công ty phần lớn chỉ tập trung tại các thành phố, thị xã, các trung tâm. Do đó công ty cần mở thêm các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các huyện để có thể đưa sản phẩm bảo hiểm của công ty đến với mọi người dân. ỉSử dụng chính sách khuyến khích vật chất đối với các cán bộ khai thác, các đại lý. Cụ thể, công ty đưa ra những chính sách khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ khai thác, những đại lý có những hợp đồng lớn, có doanh thu cao trong năm, từ đó khuyến khích họ phát huy hết năng lực của mình. Bên cạnh đó hàng năm công ty cần thường xuyên tổ chức những đợt thi đua trong toàn công ty vào những dịp đặc biệt nhằm kích thích sự hăng hái của các cán bộ khai thác. ỉCông ty cần tổ chức những khoá học để giúp cán bộ khai thác có những hiểu biết nhất định về xe ôtô. Từ đó giúp họ có những đánh giá chính xác về giá trị xe khi tham gia bảo hiểm. 2.2 Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Làm tốt công tác này sẽ góp phần làm giảm số vụ tai nạn và mức độ thiệt hại khi tai nạn xảy ra. Từ đó góp phần làm giảm chi bồi thường, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ. Để có được điều này công ty cần có những việc làm cụ thể sau: ỉKết hợp với ngành giao thông tổ chức tuyên truyền giúp quần chúng nhân dân hiểu rõ về luật an toàn giao thông và các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông bằng các phương tiện thông tin đại chúng hoặc dưới hình thức panô, áp phích... ỉCông ty cần tăng cường hơn nữa trong việc phối hợp với các ban ngành liên quan để xây dựng thêm các đường lánh nạn, các biển báo tại các mốc giao thông nguy hiểm. ỉTổ chức các cuộc thi lái xe an toàn, giáo dục tập huấn cho các lái xe, phổ biến kinh nghiệm xử lý một số vụ tai nạn điển hình, phương pháp đề phòng hạn chế tổn thất khi tai nạn xảy ra... cho các chủ xe tham gia bảo hiểm tại công ty. ỉCông ty cần có những khen thưởng kịp thời đối với những đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác đề phòng- hạn chế tổn thất. ỉĐối với những tổ chức có số lượng lớn đầu xe tham gia bảo hiểm tại công ty thì công ty có thể trích một phần phí bảo hiểm cho tổ chức đó để họ thực hiện các biện pháp đề phòng- hạn chế tổn thất. 2.3 Công tác giám định- bồi thường. ỉĐể việc bồi thường được thực hiện đúng, chính xác, kịp thời thì công tác giám định cũng phải được thực hiện chính xác. Mà muốn giám định chính xác công ty phải có những giám định viên am hiểu kỹ thuật về xe ôtô để từ đó đánh giá đúng tổn thất khi tai nạn xảy ra. Để làm được điều này trong thời gian tới công ty cần làm tốt những công việc sau: - Công ty phối hợp với các chủ xe và cảnh sát giao thông để nắm bắt kịp thời thông tin khi tai nạn xảy ra. - Giám định viên cần tham gia giám định trực tiếp các vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm nhằm nâng cao tính chính xác khi đánh giá thiệt hại đồng thời có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tổn thất xảy ra thêm. - Trong quá trình tuyển dụng công ty cần tuyển những người là kỹ sư giỏi hoặc những người có trình độ kỹ thuật về xe ôtô. Đặc biệt các giám định viên phải là người có đạo đức nghề nghiệp, đây là yếu tố rất quan trọng giúp công tác giám định được chính xác. - Công ty cần tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng định kỳ hàng năm về kỹ thuật nhằm củng cố và nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn cho các giám định viên, đồng thời giúp họ tiếp cận với sự thay đổi kỹ thuật của xe ôtô. - Công ty cần trang bị thêm những máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác giám định như các phương tiện đi lại, máy ảnh... nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình của công tác giám định. - Bên cạnh đó, do công việc giám định là công việc hết sức vất vả. Các giám định viên thường xuyên phải đi lại và đi vào bất cứ thời điểm nào để có mặt kịp thời tại hiện trường. Vì vậy, công ty cần có những chính sách đãi ngộ thoả đáng cho các giám định viên giúp họ hoàn thành tốt công việc được giao. - Công ty cần có những quy định cụ thể về việc kỷ luật đối với các vi phạm của giám định viên như cấu kết với người tham gia bảo hiểm để tiến hành trục lợi, thực hiện công việc một cách vô trách nhiệm dẫn đến hậu quả xấu cho công ty... Đây là một hành vi rất nguy hiểm đối với công ty vì nó không chỉ gây thiệt hại về tài chính đối với công ty mà nó còn ảnh hưởng không tốt đến uy tín của công ty. ỉNhư đã đề cập ở phần trước, bồi thường là khâu quyết định đến chất lượng của một sản phẩm bảo hiểm. Thông qua công tác bồi thường các chủ xe mới có được niềm tin vào công ty. Giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng, thuận lợi và chính xác giúp người tham gia bảo hiểm thấy được vai trò của bảo hiểm trong việc giải quyết các sự cố, khắc phục hậu quả thiệt hại nhanh chóng. Khi đã có được niềm tin của người tham gia, công ty sẽ rất có lợi trong công tác khai thác từ đó từng bước nâng cao thị phần của công ty, góp phần vào sự thành công hay thất bại của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô nói riêng và của công ty nói chung. Để có được điều đó công ty cần làm tốt công tác sau: - Đơn giản hoá thủ tục bồi thường cho người tham gia, thực hiện công việc nhanh chóng để rút ngắn thời gian bồi thường của nghiệp vụ. - Trong quá trình khai thác cán bộ khai thác cần tư vấn, hướng dẫn khách hàng để họ hiểu và biết được những thủ tục cần thiết khi yêu cầu công ty bồi thường. - Đối với những vụ tai nạn đơn giản, tổn thất nhỏ công ty cần cố gắng thực hiện bồi thường tại chỗ. - Công ty cần có mối quan hệ tốt với một số xưởng sửa chữa ôtô, để việc sửa chữa và phục hồi tình trạng của xe được thực hiện một cách nhanh chóng, đồng thời góp phần loại bỏ những tiêu cực từ phía khách hàng và đảm bảo mức giá hợp lý đối với công ty. 2.4 Về tình trạng trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô. ỉMặc dù trong những năm vừa qua công ty đã phát hiện ra khá nhiều vụ trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô, nhưng có thể khẳng định rằng có nhiều vụ trục lợi chưa được phát hiện, vì các hành vi trục lợi được tiến hành ngày càng tinh vi hơn. Do đó để giảm số vụ trục lợi góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Có thể căn cứ vào một số nghi vấn sau để phát hiện ra sự gian lận của các chủ xe; - Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất nhưng không mang theo xe, không có giấy chứng nhận bảo hiểm cũ, hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm cũ không tham gia bảo hiểm vật chất xe. - Tai nạn xảy ra trong vòng 01 tháng kể từ ngày hết hoặc bắt đầu có hiệu lực bảo hiểm. - Tai nạn xảy ra giải quyết xong mới thông báo cho công ty. - Tai nạn xảy ra vào ban đêm, nơi hoang vắng, không có người chứng kiến hoặc không có nhà dân xung quanh. - Hồ sơ tai nạn có hiện tượng tẩy xoá ngày tai nạn, hiệu lực của bằng lái, giấy phép lưu hành, giấy phép lái xe, nguyên nhân tai nạn... - Xe bị thiệt hại nặng hoặc toàn bộ, tham gia bảo hiểm cao hơn giá trị thực tế thị trường. - Xe bị thiệt hại nặng (cháy, đổ xe xuống vực...) nhưng lái xe hoặc người trên xe không bị thương. ỉTuy nhiên công ty cần có những biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu. Cụ thể công ty cần thực hiện các công việc sau: - Trước khi cấp đơn bảo hiểm vật chất xe phải kiểm tra thực tế xe đặc biệt là khi bán bảo hiểm thân xe cho các xe lẻ, xe tư nhân, xe đăng ký ở địa phương khác. - Phải tổ chức đầu mối quản lý, theo dõi kiểm tra các đại lý thường xuyên. Hợp đồng đại lý phải quy trách nhiệm vật chất trong trường hợp để xảy ra gian lận. Đại lý phải thông báo số giấy chứng nhận bảo hiểm mỗi ngày và thường xuyên quyết toán với công ty. - Cán bộ giám định phải tiến hành điều tra xác minh tai nạn, với mục tiêu là phải xác định đúng ngày xảy ra tai nạn. - Khi nhận được hồ sơ yêu cầu bồi thường của người tham gia cần ; đọc kỹ lời khai của lái xe, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường để phân tích tình huống xảy ra tai nạn; đối chiếu bản gốc các giấy phép lái xe, giấy phép lưu hành; trường hợp hồ sơ không có dấu hiệu sửa chữa thì có thể tìm cách đối chiếu bản gốc hồ sơ tai nạn. - Để tránh xảy ra trường hợp khai tăng số tiền bảo hiểm, công ty cần; + Các giám định viên phải tiến hành giám định trực tiếp trong thời gian sớm nhất có thể. + Phải theo dõi thường xuyên quá trình sửa chữa. + Chú ý công tác nghiệm thu sửa chữa (những bộ phận hư hỏng thực tế đã được sửa chữa, thay thế đúng chủng loại, chất lượng). + Những bộ phận thay thế, thu hồi phải được quản lý chặt chẽ, tránh hiện tượng quay vòng sửa chữa đòi tiền bảo hiểm. 2.5 Một số biện pháp khác. ỉCông ty cần có những chiến dịch quảng cáo sâu rộng hơn nữa về công ty và lợi ích khi tham gia bảo hiểm tại công ty để làm nổi bật hình ảnh của công ty trong tâm trí khách hàng. ỉĐể có thể đứng vững và thắng trong cạnh tranh công ty cần không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ, thoả mãn tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Đây là yếu tố rất quan trọng tạo nên uy tín của công ty. ỉTiếp tục có những đổi mới về chính sách tiền lương, tiền thưởng để nó thực sự là động lực giúp cán bộ công nhân viên hoàn thành xuất sắc công việc được giao. ỉCông ty cần tìm cách để tiết kiệm chi phí mà vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ cao, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO. Trên đây là một số đề xuất mà em rút ra được trong quá trình thực tập tại PJICO. Em tin rằng trong thời gian tới PJICO sẽ có những hướng đi thích hợp để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô, tạo ra thế cạnh tranh vững chắc cho công ty trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Kết luận Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, là nghiệp vụ bảo hiểm tài sản được thực hiện dưới hình thức tự nguyện, đã được triển khai tại PJICO ngay từ những ngày đầu thành lập, và là một trong những nghiệp vụ mang lại doanh thu cao cho công ty. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường cạnh tranh như hiện nay, nghiệp vụ này đã và đang gặp rất nhiều khó khăn. Để có thể tồn tại và đứng vững trên thị trường, bên cạnh sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty cần phải có sự cố gắng ở tất cả các khâu trong quy trình triển khai nghiệp vụ. Quá trình tìm hiểu và phân tích thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO cho ta thấy những kết quả đã đạt được và những mặt còn hạn chế, từ đó đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Định và các cô chú trong Phòng bảo hiểm khu vực VII tạo điều kiện cho em hoàn thành bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện Đỗ Thị Ngọc Lan Tài liệu tham khảo Giáo trình bảo hiểm- Trường ĐHKTQD Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm- Trường ĐHKTQD Tạp chí GTVT- số 5/2000, 1/2001, 12/2001, 8/2002, 9/2002 Tạp chí con số và sự kiện- số 3/2000, 4/2001, 7/2001. Quy tắc bảo hiểm vật chất xe cơ giới- Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành- Học viện Hoàng Gia Anh- Nhà xuất bản Tài Chính. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I. Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3 I. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3 1. Sự cần thiết khách quan 3 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 6 3. Đặc điểm của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 8 II. Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 9 1. Đối tượng bảo hiểm 9 2. Phạm vi bảo hiểm 11 2.1 Rủi ro được bảo hiểm 12 2.2 Các rủi ro loại trừ 12 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 14 3.1 Giá trị bảo hiểm 14 3.2 Số tiền bảo hiểm 15 4. Phí bảo hiểm 15 4.1 Phí bảo hiểm 15 4.2 Phương pháp tính phí bảo hiểm 16 5. Hợp đồng bảo hiểm 19 6. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 22 7. Giám định và bồi thường 23 7.1 Giám định 23 7.2 Bồi thường 26 8. Bảo hiểm trùng 28 Chương II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO 29 I. Một số nét khái quát về công ty cổ phần bảo hiểm PJICO 29 1. Sự ra đời và phát triển 29 1.1 Sự ra đời 29 1.2 Cơ cấu tổ chức của PJICO 32 2. Kết quả hoạt động kinh doanh 35 2.1 Về kế hoạch kinh doanh chung của công ty 35 2.2 Về thị phần của công ty 37 2.3 Về công tác tổ chức, cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo 38 3. Phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới 40 3.1 Những định hướng lớn năm 2003 40 3.2 Các mục tiêu kinh doanh năm 2003 40 3.3 Các nhiệm vụ chủ yếu 41 II. Phân tích thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO 42 1. Công tác khai thác 43 2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 49 3. Công tác giám định và bồi thường 52 3.1 Công tác giám định 52 3.2 Công tác bồi thường 56 4. Tình hình trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại pjico 60 5. Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh 66 5.1 Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả 66 5.2 Phân tích kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO 68 Chương III. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới 71 I. Kiến nghị 71 Về phía Nhà nước và các ngành có liên quan 71 Về phía công ty PJICO 71 II. Giải pháp 71 Đối với Nhà nước và các ngành có liên quan 71 Đối với công ty PJICO 73 2.1 Trong khâu khai thác 72 2.2 Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 74 2.3 Công tác giám định – bồi thường 75 2.4 Về tình trạng trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô 77 2.5 Một số biện pháp khác 78 Kết luận 80 Bảng 2: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Số xe thực tế lưu hành Chiếc 434.574 468.910 495.683 547.504 601.502 825.000 2.Số xe tham gia bảo hiểm tại PJICO Chiếc 2.477 2.745 3.860 5.157 7.601 9.457 3.Tỷ lệ khai thác % 0,57 0,59 0,78 0,94 1,26 1,15 4.Tốc độ phát triển số xe lưu hành % - 107,90 105,71 110,45 109,86 137,16 5.Tốc độ phát triển số xe tham gia bảo hiểm % - 110,82 140,62 133,60 147,39 124,42 6.Doanh thu phí bảo hiểm triệu đồng 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 7.Mức tăng tuyệt đối doanh thu phí bảo hiểm triệu đồng - 891 3.258 3.891 7.330 7.568 8.Chi phí khai thác triệu đồng 272 262 377 496 765 1.014 9.Chi phí khai thác bình quân /1 xe tham gia bảo hiểm đồng/xe 109.810 95.446 97.668 96.179 100.645 107.222 (Nguồn: Phòng quản lý nghiệp vụ công ty PJICO) Bảng 3: Tình hình giải quyết bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Số vụ tai nạn phát sinh trong năm Vụ 716 808 1.000 1.473 2.192 2.777 2.Số vụ tồn đọng năm trước chuyển sang Vụ 3 5 5 4 7 6 3.Số vụ đã bồi thường Vụ 713 807 998 1.468 2.189 2.772 4.Số vụ từ chối bồi thường do gian lận Vụ 1 1 3 2 4 5 5.Số vụ tồn đọng cuối năm Vụ 5 5 4 7 6 6 6.Chi bồi thường Trđ 3.671 4.319 6.272 9.045 14.334 19.036 7.Doanh thu phí bảo hiểm Trđ 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 8.Tỷ lệ bồi thường % 49,39 51,89 54,16 58,46 62,86 62,68 9.Số tiền bồi thường bình quân/1vụ Trđ/vụ 5,149 5,352 6,285 6,161 6,548 6,867 (Nguồn: Phòng giám định- bồi thường của PJICO ) Bảng 4: Tình hình trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1. Số vụ đã bồi thường Vụ 713 807 998 1.468 2.189 2.772 2. Số vụ (xe) gian lận phát hiện Vụ 1 1 3 2 4 5 3. Tỷ lệ số HĐ (xe) tham gia bảo hiểm trục lợi/số HĐ (xe) tham gia % 0,14 0,12 0,30 0,14 0,18 0,18 4. Số tiền bồi thường triệu đồng 3.671 4.319 6.272 9.045 14.334 19.036 5. Số tiền từ chối bồi thường triệu đồng 86 105 275 165 257,5 1.000 6. Số tiền bồi thường bình quân/1vụ triệu đồng 86 105 92 81,5 64,375 200 7. Số vụ nghi ngờ Vụ 9 11 32 21 41 49 8. Tỷ lệ giữa số vụ gian lận/số vụ nghi ngờ % 11,11 9,09 9,38 9,52 9,76 10,20 9. Số tiền ước tính bị trục lợi triệu đồng 270-315 330-363 380-420 370-400 480-500 550-720 (Nguồn: Phòng giám định- bồi thường công ty bảo hiểm PJICO ) Bảng 5: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Tổng phí thu (DT) Triệu đồng 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 2. Tổng chi (TC) Triệu đồng 6.202 7.020 10.381 13.950 20.796 27.488 3. Lợi nhuận (LN) Triệu đồng 1.230 1.303 1.200 1.522 2.006 2.882 4. HDT = DT/TC - 1,2 1,19 1,12 1,11 1,10 1,10 5.HLN =LN/TC - 0,198 0,186 0,116 0,109 0,096 0,105 6.Tốc độ phát triển của LN % - 105,93 92,10 126,83 131,80 147,38 7.Tốc độ phát triển của DT % - 111,19 139,14 133,60 147,38 133,19 8.Tốc độ phát triển của chi phí % - 113,19 147,88 134,38 149,08 132,18 (Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của PJICO) Bảng 6: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Số xe thực tế lưu hành Chiếc 434.574 468.910 495.683 547.504 601.502 825.000 2.Số xe tham gia bảo hiểm tại PJICO Chiếc 2.477 2.745 3.860 5.157 7.601 9.457 3.Tỷ lệ khai thác % 0,57 0,59 0,78 0,94 1,26 1,15 4.Tốc độ phát triển số xe lưu hành % - 107,90 105,71 110,45 109,86 137,16 5.Tốc độ phát triển số xe tham gia bảo hiểm % - 110,82 140,62 133,60 147,39 124,42 6.Doanh thu phí bảo hiểm triệu đồng 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 7.Mức tăng tuyệt đối doanh thu phí bảo hiểm triệu đồng - 891 3.258 3.891 7.330 7.568 8.Chi phí khai thác triệu đồng 272 262 377 496 765 1.014 9.Chi phí khai thác bình quân /1 xe tham gia bảo hiểm đồng/xe 109.810 95.446 97.668 96.179 100.645 107.222 (Nguồn: Phòng quản lý nghiệp vụ công ty PJICO) Bảng 8: Chi đề phòng- hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Số vụ tai nạn phát sinh trong năm Vụ 716 808 1.000 1.473 2.189 2.777 2.Chi cho đề phòng- hạn chế tổn thất triệu đồng 445 517 734 1.008 1.521 2.077 3.Tỷ lệ chi cho đề phòng- hạn chế tổn thất /doanh thu % 5,99 6,21 6,34 6,51 6,67 6,84 4.Tốc độ phát triển của chi đề phòng- hạn chế tổn thất % - 116,18 141,97 137,33 150,89 136,55 5.Tốc độ phát triển của tai nạn % - 112,85 123,76 147,3 148,61 126,86 6.Doanh thu phí bảo hiểm Triệuđồng 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 (Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của PJICO ) Bảng 9: Kết quả công tác giám định nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Số vụ tai nạn phát sinh trong năm Vụ 716 808 1.000 1.473 2.189 2.777 2.Chi phí giám định triệu đồng 68 108 97 153 208 291 3.Doanh thu phí bảo hiểm triệu đồng 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 4.Tỷ lệ chi phí giám định/doanh thu % 0,91 1,3 0,84 0,99 0,91 0,96 5.Chi phí giám định bình quân/1 vụ Đồng /vụ 94.972 133.663 97.000 103.869 95.021 104.789 (Nguồn: Phòng giám định- bồi thường của PJICO ) Bảng 10: Tình hình giải quyết bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Số vụ tai nạn phát sinh trong năm Vụ 716 808 1.000 1.473 2.192 2.777 2.Số vụ tồn đọng năm trước chuyển sang Vụ 3 5 5 4 7 6 3.Số vụ đã bồi thường Vụ 713 807 998 1.468 2.189 2.772 4.Số vụ từ chối bồi thường do gian lận Vụ 1 1 3 2 4 5 5.Số vụ tồn đọng cuối năm Vụ 5 5 4 7 6 6 6.Chi bồi thường Trđ 3.671 4.319 6.272 9.045 14.334 19.036 7.Doanh thu phí bảo hiểm Trđ 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 8.Tỷ lệ bồi thường % 49,39 51,89 54,16 58,46 62,86 62,68 9.Số tiền bồi thường bình quân/1vụ Trđ/vụ 5,149 5,352 6,285 6,161 6,548 6,867 (Nguồn: Phòng giám định- bồi thường của PJICO ) Bảng 11: Tình hình trục lợi bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO . Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1. Số vụ đã bồi thường Vụ 713 807 998 1.468 2.189 2.772 2. Số vụ (xe) gian lận phát hiện Vụ 1 1 3 2 4 5 3. Tỷ lệ số HĐ (xe) tham gia bảo hiểm trục lợi/số HĐ (xe) tham gia % 0,14 0,12 0,30 0,14 0,18 0,18 4. Số tiền bồi thường triệu đồng 3.671 4.319 6.272 9.045 14.334 19.036 5. Số tiền từ chối bồi thường triệu đồng 86 105 275 165 257,5 1.000 6. Số tiền bồi thường bình quân/1vụ triệu đồng 86 105 92 81,5 64,375 200 7. Số vụ nghi ngờ Vụ 9 11 32 21 41 49 8. Tỷ lệ giữa số vụ gian lận/số vụ nghi ngờ % 11,11 9,09 9,38 9,52 9,76 10,20 9. Số tiền ước tính bị trục lợi triệu đồng 270-315 330-363 380-420 370-400 480-500 550-720 (Nguồn: Phòng giám định- bồi thường công ty bảo hiểm PJICO ) Bảng 12: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ôtô tại PJICO. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Tổng phí thu (DT) Triệu đồng 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.370 2. Tổng chi (TC) Triệu đồng 6.202 7.020 10.381 13.950 20.796 27.488 3. Lợi nhuận (LN) Triệu đồng 1.230 1.303 1.200 1.522 2.006 2.882 4. HDT = DT/TC - 1,2 1,19 1,12 1,11 1,10 1,10 5.HLN =LN/TC - 0,198 0,186 0,116 0,109 0,096 0,105 6.Tốc độ phát triển của LN % - 105,93 92,10 126,83 131,80 147,38 7.Tốc độ phát triển của DT % - 111,19 139,14 133,60 147,38 133,19 8.Tốc độ phát triển của chi phí % - 113,19 147,88 134,38 149,08 132,18 (Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của PJICO) Bảng 7: Kết quả kinh doanh một số nghiệp vụ chính tại PJICO. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 2001 2002 1.Bảo hiểm vật chất xe ôtô Tr.đ 7.432 8.323 11.581 15.472 22.802 30.37 % 9,26 8,64 12,01 13,0 16,49 17,28 2.Bảo hiểm TNDS xe cơ giới Tr.đ 6.157 7.345 8.612 10.507 16.448 22190 3.Bảo hiểm hàng hoá nhập Tr.đ 8.583 10.976 12020 18.372 19.999 21.761 4.Bảo hiểm hàng hoá xuất Tr.đ 899 918 1.166 1.691 2.659 2.959 5.Bảo hiểm thân tàu biển Tr.đ 3.091 5.047 6.029 9.545 12010 12.862 6.Bảo hiểm thân tàu sông Tr.đ 1.715 2.193 3.831 3.833 2.763 3.473 7.Bảo hiểm kết hợp con ngời Tr.đ 3.609 3.805 4.105 5.309 5.056 6.451 8.Bảo hiểm học sinh, giáo viên Tr.đ 3.186 4.057 5820 6.239 8.425 9.063 9.Bảo hiểm du lịch và hành khách Tr.đ 1.914 2.571 3.282 991 1.477 2.514 10.Bảo hiểm xây dựng, lắp đặt Tr.đ 3.612 4.867 10.342 14.423 13.429 14.302 11.Bảo hiểm cháy Tr.đ 3.618 4.173 7.243 11.476 12.302 16.927 11.Các nghiệp vụ bảo hiểm khác Tr.đ 36.463 42.078 22.369 21.142 20.929 32.928 Tổng Tr.đ 80.279 96.353 96400 119000 138300 175800 (Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm của PJICO) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0020.doc
Tài liệu liên quan