Tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX (PJICO): ... Ebook Nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX (PJICO)
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX (PJICO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ BẢO HIỂM
Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH DOANH CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX (PJICO)
Giáo viên hướng dẫn : TS. Mạc Văn Tiến
Sinh viên thực hiện : Bùi Thị Thùy Trang
Lớp : Bảo hiểm 44A
Cơ quan thực tập : Công ty cổ phần bảo hiểm PJICO
Phòng Bảo hiểm khu vực 1
Số 1 Khâm Thiên, Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước cơ sở hạ tầng mà cụ thể là hệ thống giao thông đường bộ ở nước ta đã được nâng cấp khá rõ rệt nhưng nhìn chung chất lượng vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều tuyến đường kém chất lượng và ngày càng xuống cấp ngiêm trọng, số đầu xe cơ giới tham gia giao thông tăng nhanh tuy nhiên có rất nhiều loại xe không đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, lái xe chưa thực sự coi trọng luật an toàn giao thông, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông chưa thật tốt… Bên cạnh đó nhu cầu đi lại của dân cư cũng như đòi hỏi của nền kinh tế lại gia tăng đáng kể. Sự tham gia của xe cơ giới vào việc vận chuyển một khối lượng khổng lồ hàng hóa và người đã góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế đất nước. Xuất phát từ những lý do trên mà nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cần thiết phải được triển khai sâu rộng hơn nữa. Theo thống kê, số xe tham gia bảo hiểm TNDS có tăng lên qua các năm nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng của xe lưu hành, điều này chính là cơ hội và cũng là thách thức đặt ra cho các Doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đòi hỏi các DNBH phải biết nắm bắt cơ hội, nỗ lực cạnh tranh nhằm nâng cao thị phần đối với nghiệp vụ bảo hiểm này. Làm được điều này các DNBH không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình từ đó nâng cao hình ảnh cũng như uy tín của DN mà còn góp phần ổn định xã hội vì đây là một nghiệp vụ có tính xã hội rất cao. Cùng với các DNBH phi nhân thọ khác trên thị trường, Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX(PJICO) đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này từ rất sớm và đây cũng là một nghiệp vụ chủ yếu tạo doanh thu cho Công ty. Là một DN còn non trẻ và ra đời trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường bảo hiểm tuy nhiên PJICO đã dần khẳng định vị trí của mình nhưng để tồn tại và phát triển một cách bền vững đòi hỏi PJICO phải có những đổi mới nhằm nâng cao chất lượng các sản phẩm bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng.
Từ những lý do trên cùng với mong muốn được nghiên cứu sâu hơn về thực tiễn triển khai, tiềm năng, kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong quá trình hoạt động tôi quyết định chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty cổ phần bảo hiểm PETROLIMEX(PJICO)”. Sau thời gian tìm hiểu, học hỏi cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của các Cán bộ chuyên môn của Phòng bảo hiểm PJICO – khu vựcI nơi tôi thực tập đã cung cấp cho tôi những số liệu thực tế cần thiết phục vụ cho Báo cáo, bên cạnh đó cũng phải kể đến sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo- Tiến sỹ Mạc Văn Tiến đã giúp tôi hoàn thành Báo cáo này. Nhờ đó, những kiến thức cơ bản tôi đã được học ở trường đã được củng cố cộng với những kinh nghiệm thực tế tích lũy được tôi tin rằng đó là hành trang vô cùng quý giá sẽ giúp ích cho tôi rất nhiều trong công tác sau này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA
Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Đặc điểm chung của hoạt động vận tải xe cơ giới trong giao thông đường bộ ở Việt Nam
Giao thông vận tải là một ngành giữ vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đó là một ngành kinh tế kỹ thuật có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hầu hết các ngành khác trong các lĩnh vực như kinh tế, kỹ thuật, an ninh quốc phòng… Giao thông vận tải là một bộ phận của kiến trúc hạ tầng kinh tế, không thể phủ nhận giao thông vận tải chính là cầu nối của các mối quan hệ buôn bán, giao lưu kinh tế giữa các ngành, các vùng, các khu vực trên đất nước, giữa quốc gia này với các quốc gia khác trên thế giới. Nhờ có đặc điểm này, giao thông vận tải đã góp phần phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư trong nước cũng như quốc tế, phục vụ nhu cầu đi lại của dân cư. Bên cạnh đó giao thông vận tải còn có một ý nghĩa xã hội to lớn đó là thúc đẩy giao lưu văn hóa trong và ngoài nước, tạo điều kiện nâng cao dân trí, thúc đẩy sự phát triển và gìn giữ truyền thống văn hóa dân tộc, đẩy mạnh sự ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và những tiến bộ của nhân loại… Có thể khẳng định rằng giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, trong những năm gần đây giao thông vận tải ở nước ta đã có sự phát triển vượt bậc với những hình thức vận chuyển ngày càng phong phú như vận chuyển bằng đường bộ (là loại hình vận chuyển chủ yếu), bằng đường sắt, đường thủy, đường hàng không… Các phương tiện vận tải cũng ngày càng nhiều và đa dạng về chủng loại, kích cỡ, từ việc sử dụng các phương tiện vận tải thô sơ bằng sức người, bằng súc vật… đến nay các phương tiện vận tải đã hầu hết được cơ giới hóa và được trang bị hiện đại hơn trước rất nhiều bên cạnh đó các máy móc tối tân kỹ thuật cao đã được đưa vào sử dụng.
Nhìn lại nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây chúng ta có thể nhận thấy rất nhiều những khó khăn,trở ngại phải đối mặt, thu nhập của các tầng lớp dân cư chưa cao và không đồng đều khiến chúng ta chưa thể sử dụng hoàn toàn các phương tiện hiện đại nhất là đối với giao thông đường bộ- một loại hình giao thông có sự tham gia chủ yếu của người dân. Một trong những đặc điểm nổi bật của giao thông đường bộ ở nước ta đó là việc sử dụng đa dạng và phong phú các loại xe cơ giới từ thô sơ đến hiện đại. Điều này chính là một tiềm năng mang nhiều nguy hiểm gây ra tai nạn đe doạ tính mạng và tài sản con người. Qua những tác dụng mà giao thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng mang lại chúng ta không thể phủ nhận những ưu điểm của nó đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Với một lượng xe lưu thông lớn, mật độ dày đặc, tính cơ động cao và vô cùng linh hoạt đã đem lại những thuận lợi lớn cho sản xuất và lưu thông hàng hóa. Vì vậy, vận chuyển bằng đường bộ do các phương tiện cơ giới thực hiện là rất tiện lợi và tiết kiệm chi phí, phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta và thu nhập của đại đa số các tầng lớp dân cư hiện nay.
Tuy vậy thực tế cho thấy, bên cạnh những ưu thế mà giao thông đường bộ mang lại thì mặt trái của nó cũng thật đáng kể. Đó chính là mức độ nguy hiểm lớn, khả năng gây tai nạn cao do các đầu xe quá dày đặc và đa dạng và chủng loại, chất lượng lại rất kém. Thêm vào đó, tình trạng đường xá ngày càng xuống cấp và chưa được đầu tư tu sửa kịp thời; trách nhiệm, trình độ nhận thức cũng như trình độ điều khiển của lái xe còn yếu… cũng là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ tai nạn đáng tiếc xảy ra. Hầu hết các vụ tai nạn giao thông xảy ra là do lái xe thiếu hiểu biết và không tôn trọng luật an toàn giao thông, lái xe trong tình trạng say xỉn, không làm chủ được tốc độ, phóng nhanh vượt ẩu… Bên cạnh đó còn do một số nguyên nhân khách quan như thời tiết, địa hình, cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém…
Hiện nay mạng lưới giao thông đường bộ ở nước ta vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần được giải quyết. Theo thống kê năm 2003 cả nước có 296035 km đường bộ thì chỉ có 50.38% được rải nhựa nhưng chất lượng nhiều đoạn đường vẫn còn thấp và ngày càng xuống cấp, điều này thể hiện rất rõ sự yếu kém của cơ sở hạ tầng giao thông của nước ta. Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội đã có hơn 90,000 ôtô các loại, trên 130,000 xe máy cùng hàng nghìn các phương tiện cơ giới khác và con số ngày đã và đang không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng. Về địa hình, nước ta có 3/4 diện tích là đồi núi, cả nước có 106 con đèo từ Nam ra Bắc và có những đèo đặc biệt nguy hiểm như dốc Cun(Hòa Bình), đèo Hải Vân, đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo An Khê, đèo Măng Giang… do địa hình hẹp, núi cao, vực sâu, tầm nhìn bị che khuất, thêm vào đó là khí hậu khắc nghiệt, ở những đoạn đường hiểm trở thường có sương mù dày đặc… cũng là những nguyên nhân dẫn đến các vụ tai nạn.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không thể không kể đến một nguyên nhân đó là do cơ chế thị trường bùng nổ, nền kinh tế tăng trưởng cao hàng loạt các loại xe tư nhân được đưa vào tham gia giao thông nhưng lại được điều khiển bởi những lái xe chưa qua các khóa đào tạo chính thức, thậm chí chưa có giấy phép lái xe, xe không có giấy phép lưu hành… Do nhu cầu lái xe cấp bách, những người lái xe được tuyển chọn phần lớn là những người trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm trong việc xử lý các tình huống khi tham gia giao thông, mặt khác nhiều lái xe còn thiếu ý thức, vô trách nhiệm, lái xe trong tình trạng say xỉn, buồn ngủ…, xe vượt quá tải trọng cho phép, đi quá tốc độ quy định… vì vậy tai nạn vẫn thường xuyên xảy ra và có xu hướng ngày càng gia tăng. Do nhu cầu vận tải là rất lớn nên hiện nay các phương tiện giao thông ở Việt Nam được huy động triệt để, vì vậy tình trạng xe cũ, quá hạn sử dụng, không đảm bảo an toàn vẫn tham gia giao thông là điều không thể tránh khỏi. Một điểm quan trọng khác không thể không đề cập đó là các thiết bị an toàn kỹ thuật xe bao gồm phanh, lốp, hộp số, các trục…, các thiết bị này gắn bó chặt chẽ với xe, giúp lái xe xử lý mọi tình huống nguy cấp. Tuy nhiên, do có sự cạnh tranh giữa các chủ xe nhằm giảm chi phí mà không ít xe kém chất lượng, không qua kiểm định vẫn được lưu hành.
2. Sự cần thiết khách quan của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Nhu cầu được an toàn, được bảo vệ là nhu cầu chính đáng của mỗi con người. Trong cuộc sống con người luôn mong muốn được bình an vô sự nhưng thực tế cho thấy những rủi ro, tai nạn bất ngờ vẫn luôn rình rập đe dọa, và có thể xảy ra bất cứ lúc nào ngoài ý muốn của con người. Những rủi ro đó có thể do thiên tai như động đất, núi lửa, sấm sét, bão lụt, đất lở… nhưng cũng có thể do con người gây ra như khủng bố, chiến tranh, đình công, bạo loạn, ô nhiễm phóng xạ hay tai nạn giao thông… làm thiệt hại không nhỏ đến tính mạng và tài sản của con người và xã hội.
Sự phát triển của ngành giao thông vận tải một mặt đem lại sự thuận tiện, chi phí thấp, đáp ứng nhu cầu đi lại của đông đảo dân cư Việt Nam hiện nay nhưng mặt khác, do đặc điểm xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ có tính cơ động cao nên rủi ro gây tai nạn là rất lớn. Tại Việt Nam, tai nạn giao thông luôn là vấn đề bức xúc, nó xảy ra hàng ngày, hàng giờ đe dọa tính mạng và tài sản của người dân. Theo số liệu thống kê của cục cảnh sát đường bộ năm 2002 xảy ra 38,675 vụ tai nạn làm chết 7,532 người, bị thương 37,250 người, năm 2003 xảy ra 41,923 vụ làm chết 8,092 người(tăng 7.43%), bị thương 39,875 người(tăng 7.03%). Những nguyên nhân gây tai nạn cũng được cục cảnh sát giao thông thống kê một cách khá đầy đủ và chi tiết: có 29% số vụ tai nạn do vượt quá tốc độ quy định, 25% do vượt ẩu, 8% do lái xe trong tình trạng say rượu, 38% do các nguyên nhân khác. Đối tượng gây tai nạn gồm: 27.9% ôtô các loại, 60.8% do môtô, xe máy gây ra, 4.5% do người đi xe đạp, xe thô sơ và 6.8% là các đối tượng khác.
Thực tế cho thấy, cùng với sự gia tăng của các vụ tai nạn thì việc giải quyết hậu quả để lại là một vấn đề hết sức phức tạp. Thông thường, khi tai nạn giao thông xảy ra, người bị nạn không chỉ bị thiệt hại về tài sản, sức khỏe thậm chí cả tính mạng mà còn những hậu quả nặng nề về tâm lý một cách lâu dài. Tính mạng con người là vô giá không thể tính toán, đo lường bằng tiền bạc và do vậy cũng khó có thể đánh giá thiệt hại về sức khỏe của con người một cách chính xác. Vì vậy, việc đền bù một phần nào những thiệt hại bằng tài chính tạo điều kiện cho nạn nhân hay gia đình họ khắc phục những khó khăn là một việc nên làm và có ý nghĩa xã hội hết sức to lớn. Tuy nhiên, khi gặp tai nạn chủ xe sẽ gặp phải những khó khăn nhất định về mặt tài chính thậm chí có trường hợp không đủ khả năng bồi thường. Vì vậy một điều dễ nhận thấy là lợi ích của nạn nhân trong vụ tai nạn không được đảm bảo gây ảnh hưởng xấu tới cuộc sống của bản thân nạn nhân và gia đình họ và do đó gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Vấn đề đặt ra là phải có những biện pháp thích hợp để giải quyết trường hợp này và đó phải là những nỗ lực tích cực của Nhà nước và của toàn xã hội. Vậy làm thế nào để có nguồn tài chính sẵn sàng cho việc giải quyết hậu quả của những vụ tai nạn giao thông? Đó là mối quan tâm lo lắng không chỉ của Nhà nước, các chủ xe mà còn là mối quan tâm của bản thân những người bị thiệt hại cũng như những người tham gia giao thông nói chung. Mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ mình bằng cách tiết kiệm, dự trữ hiện vật, lập các quỹ tài chính dự phòng… tuy nhiên những biện pháp đó chỉ có tác dụng nhất định, khả năng thực hiện không cao mà lại không đủ trang trải mỗi khi có tai nạn lớn xảy ra. Những quỹ dự trữ của Nhà nước cũng không thể đáp ứng đủ cho tất cả những tổn thất xảy ra. Và vì vậy, biện pháp hữu hiệu nhất chính là các Công ty bảo hiểm- “ tấm lá chắn cuối cùng của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp trong xã hội”.
Xuất phát từ thực tế trên, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời đã đáp ứng kịp thời nhu cầu này của xã hội. Việc thành lập các quỹ bảo hiểm dựa trên sự đóng góp từ những số tiền nhỏ của chủ xe cho các Công ty bảo hiểm. Khi tai nạn giao thông xảy ra, các Công ty bảo hiểm sẽ thay mặt chủ xe giải quyết bồi thường cho người bị nạn theo đúng các quy định của pháp luật. Như vậy lợi ích của người bị thiệt hại đã được bảo đảm thông qua việc bảo đảm khả năng thực hiện trách nhiệm của các chủ xe gây tai nạn, góp phần thực hiện tốt kỷ cương pháp luật, ổn định xã hội.
3. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Trên thế giới, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng được ra đời từ rất sớm. Tại các nước phát triển, người ta đã rất quen thuộc với thuật ngữ “bảo hiểm” và coi đó là yếu tố thiết yếu của cuộc sống. Mặc dù là một ngành còn non trẻ ở Việt Nam nhưng từ khi ra đời đến nay bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm TNDS nói riêng đã mang lại những tác dụng to lớn, cụ thể những tác dụng này được thể hiện ở những điểm sau:
Thông qua công tác bồi thường, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đã nhanh chóng khắc phục những khó khăn về tài chính, sức khỏe cho người bị nạn, giúp các chủ xe thoát khỏi gánh nặng về vật chất và tinh thần, đảm bảo quyền lợi cho người bị nạn cũng như thực thi trách nhiệm của chủ phương tiện gây tai nạn.
Qua công tác giám định, bồi thường sau mỗi vụ tai nạn, Công ty bảo hiểm sẽ thống kê được các rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro đó, từ đó đề ra các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất một cách có hiệu quả nhất giảm bớt đáng kể những hậu quả do tai nạn giao thông gây ra, giảm bớt thiệt hại cho toàn xã hội. Đây cũng là hoạt động thể hiện phương châm “ phòng bệnh hơn chữa bệnh” của bảo hiểm. Công tác này được tiến hành do các công ty bảo hiểm kết hợp với các ban, ngành có liên quan như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an… đã giúp đời sống của người dân và toàn xã hội ổn định hơn.
Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới còn giúp chủ xe, lái xe ý thức được trách nhiệm của mình khi điều khiển xe cơ giới.
Nghiệp vụ này ra đời không những làm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc thu thuế. Nguồn quỹ từ thuế thu là nguồn tài chính chủ yếu dùng để chi trả, bồi thường, đồng thời cũng để nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, xây dựng các biển báo, đường lánh nạn…
Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba còn góp phần xoa dịu sự căng thẳng giữa các bên trong vụ tai nạn, đây là mục đích mang tính chất nhân văn của nghiệp vụ này, nó thể hiện vai trò trung gian hòa giải có tính chất pháp lý của Công ty bảo hiểm.
Từ những tác dụng nêu trên, với tư cách là một nghiệp vụ bảo hiểm , bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội, nó thể hiện tính nhân đạo và nhân văn cao cả.
Quá trình hình thành và tính chất bắt buộc của nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ở Việt Nam
1. Quá trình phát triển của nghiệp vụ
Ở Việt Nam, bảo hiểm nói chung là một ngành được ra đời khá muộn so với thế giới tuy vậy xét một cách toàn diện thì bảo hiểm TNDS được coi là một nghiệp vụ truyền thống. Ngay từ năm 1965, nghiệp vụ này đã được triển khai ở hầu hết các tỉnh phía Nam theo sắc lệnh của Chính phủ ngụy quyền Sài Gòn. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới cũng đã được triển khai ở thành phố Hồ Chí Minh theo tập quán cũ, đến năm 1979 được mở rộng ở hầu hết các tỉnh phía Nam và đến năm 1980 đã được phát triển mở rộng trên phạm vi cả nước. Từ năm 1980 đến 1987 nghiệp vụ này được triển khai dưới hình thức tự nguyện. Tuy nhiên trong quá trình triển khai nó đã bộc lộ nhiều khuyết điểm cần khắc phục, một số chủ xe chưa nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo hiểm nên còn lẩn tránh không tham gia, trong khi đó bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới là một vấn đề mang tính xã hội sâu sắc. Vì vậy, việc tham gia bảo hiểm không chỉ là quyền lợi mà còn là trách nhiêm của mỗi chủ xe. Để nâng cao trách nhiệm của chủ xe và bảo vệ lợi ích của các nạn nhân, ngày 10/3/1998 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định30/HĐBT về chế độ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba dưới hình thức bắt buộc. Đây là hình thức bắt buộc theo luật định đối với tất cả các loại xe chạy trên đường bộ bằng động cơ của chính nó(trừ xe đạp máy).
Nghị định 30/HĐBT ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hoạt động của nghiệp vụ, tạo điều kiện phát triển nghiệp vụ, giúp các Công ty bảo hiểm phát huy tốt quy luật “số đông bù số ít”, từ đó đem lại lợi ích cho cả Công ty bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm.
2. Những lý do thể hiện sự bắt buộc
Trong cuộc sống mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật cho từng hành vi ứng xử của mình. Nhìn chung, khi một người gây thiệt hại cho người khác do sự bất cẩn của mình thì phải chịu trách nhiệm trước những thiệt hại đó. Cũng vì vậy mà sự bắt buộc trong bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới là một tất yếu và được xuất phát từ những lý do sau đây.
Thứ nhất, công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước ta đang trên đà phát triển kéo theo đó là sự tăng tiến không ngừng của các loại phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên, với điều kiện đường xá, điều kiện kỹ thuật của xe và ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn chưa cao như hiện nay thì tai nạn giao thông vẫn thường xuyên xảy ra là điều tất yếu. Do vậy, để hạn chế bớt nguy cơ xảy ra tai nạn và thực hiện được các mục tiêu xã hội, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới phải được quy định bắt buộc đối với mọi cá nhân tham gia giao thông.
Thứ hai, xuất phát từ mong muốn của bản thân các chủ xe là mong muốn có một sự bảo đảm về mặt tài chính để giải quyết được các hậu quả do tai nạn giao thông gây ra từ đó giảm bớt gánh nặng về mặt tài chính cho bản thân mình.
Thứ ba, khi xảy ra tai nạn, trên thực tế nhiều trường hợp khó xác định lỗi thuộc về bên nào, mức độ lỗi chính xác của các bênhững. Do vậy, để giải quyết một cách đúng đắn cần phải có thời gian để điều tra xem xét, trong thời gian đó những thiệt hại về vật chất và tinh thần cần phải được bù đắp một cách kịp thời cho người bị thiệt hại, chính vì vậy việc thực hiện bắt buộc này sẽ giúp cho các bên trong vụ tai nạn được đền bù ngay trong thời gian chờ cơ quan chức năng giải quyết.
Thứ tư, trong nhiều trường hợp người gây tai nạn bỏ trốn hay không đủ khả năng tài chính để bồi thường cho nạn nhân thì việc việc bồi thường là không thể thực hiện được.
Thứ năm, việc thực hiện bắt buộc sẽ giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt các đầu xe lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam, thống kê đầy đủ các vụ tai nạn đã xảy ra và nguyên nhân của nó từ đó có biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất cho phù hợp.
Bảo hiểm TN nói chung và bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng, ngoài việc nhằm đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm, còn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, NĐ30/HĐBT đã bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Để chế độ bảo hiểm bắt buộc thực sự đi vào đời sống xã hội và khắc phục những tồn tại trên, ngày 17/12/1997 Chính phủ ban hành Nghị định 115/NĐ- CP bổ sung cho NĐ30, Nghị định này có những điều khoản quy định chi tiết hơn về trách nhiệm của các cơ quan, các bộ, ban, ngành có liên quan, mở rộng phạm vi bắt buộc không chỉ đối với người thứ ba mà còn đối với cả hành khách trên xe và đặc biệt quy định địa vị pháp lý của Công ty bảo hiểm trong tố tụng dân sự.
Có thể nói tiến hành bắt buộc bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba là một việc làm có ý nghĩa nhân đạo cao cả nhằm mục đích khắc phục những khó khăn của các bên tham gia giao thông khi không may xảy ra tai nạn, đồng thời cũng nhờ đó mà nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm của các chủ xe và lái xe, thúc đẩy việc thực hiện nghiêm chỉnh luật an toàn giao thông, tăng cường công tác phòng ngừa, hạn chế rủi ro từ đó mang lại sự an toàn cho xã hội.
III. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
1. Đối tượng của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại diện cho một tập thể. Công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Như vậy, đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba khi xe lưu hành gây tai nạn.
Chủ xe là người có quyền sở hữu xe, là người đứng tên trong giấy đăng ký xe, trong giấy phép lưu hành. Chủ xe có thể là người trực tiếp điều khiển xe nhưng cũng có thể là người được chủ xe giao quyền sử dụng như những người làm công ăn lương, theo hợp đồng thuê mướn…
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu hành xe gây ra tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm:
Điều kiện thứ nhất: Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ ba.
Điều kiện thứ hai: Chủ xe, lái xe phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định khác của Nhà nước…
Điều kiện thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe, lái xe với những thiệt hại của người thứ ba.
Điều kiện thứ tư: Chủ xe, lái xe phải có lỗi.
Trên thực tế, chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện thứ nhất, thứ hai và thứ ba là phát sinh TNDS đối với người thứ ba của chủ xe, lái xe. Nếu thiếu một trong ba điều kiện đó TNDS của chủ xe sẽ không phát sinh và do đó sẽ không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc không, vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do nguồn nguy hiểm cao độ mà không hoàn toàn do lỗi của chủ xe hay lái xe.
Cần lưu ý rằng, bên thứ ba trong bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn nhưng loại trừ:
Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe.
Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái…
Hành khách, những người có mặt trên xe.
Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên.
Trong bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, khi xảy ra tai nạn gây thiệt hại cho người thứ ba thì người được Công ty bảo hiểm bồi thường chính là chủ xe hoặc người đại diện cho chủ xe được pháp luật công nhận.
2. Phạm vi bảo hiểm
2.1 Rủi ro được bảo hiểm
Công ty bảo hiểm nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của Công ty bảo hiểm bao gồm:
Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khỏe của bên thứ ba;
Thiệt hại về tài sản, hàng hóa… của bên thứ ba;
Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc làm giảm thu nhập;
Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm( kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả);
Những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
Tùy thuộc vào tình hình thực tế và theo yêu cầu của người được bảo hiểm mà Công ty bảo hiểm có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm cho những rủi ro khác theo như thỏa thuận giữa các bên, những đảm bảo bổ sung kéo theo một khoản phí đóng thêm của người được bảo hiểm.
2.2 Rủi ro loại trừ
Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của vụ tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau:
Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ.
Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông đường bộ như:
Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường;
Lái xe không có bằng lái hoặc bi tịch thu, bằng không hợp lệ;
Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như rượu, bia, ma túy…
Lái xe chở chất cháy, nổ trái phép
Xe sử dụng để tập lái, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa;
Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải;
Xe không có hệ thống lái bên phải;
Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh.
Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thỏa thuận khác.
Ngoài ra, Công ty bảo hiểm cũng không chụi trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đã quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
3. Phí bảo hiểm
3.1 Bản chất của phí bảo hiểm
Về bản chất, phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải nộp cho nhà bảo hiểm để hình thành một quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo phạm vi bảo hiểm. Có thể coi phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm nên có thể tăng, giảm tùy thuộc vào tình hình cung-cầu, tình hình cạnh tranh trên thị trường. Việc xác định mức phí hợp lý là rất khó khăn,bởi phí bảo hiểm là nguồn thu chủ yếu của Công ty bảo hiểm nên mức phí thu được tối thiểu phải thỏa mãn các nhu cầu chi cho bồi thường tổn thất. Cùng với sự phát triển mạnh của cơ chế thị trường mở cửa làm gia tăng các Công ty bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, việc đưa ra mức phí thích hợp là vấn đề mang tính chiến lược và rất khó khăn.
Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba các Công ty bảo hiểm áp dụng biểu phí mà Bộ Tài Chính đưa ra, các Công ty cạnh tranh với nhau thông qua chất lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng hay các điều kiện bổ sung…
3.2 Phương pháp tính phí
Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượng đầu phương tiện của mình. Mặt khác, các phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất gây ra tai nạn khác nhau nên phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện). Phí bảo hiểm tính cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là:
P = f + d (1)
Trong đó:
P – Phí bảo hiểm / đầu phương tiện
f – Phí thuần
d – Phụ phí ( được quy định là tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng phí bảo hiểm)
Phí thuần được xác định theo công thức:
(2)
Trong đó:
: Là số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i
: Là số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn trong năm i
: Là số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm i
n : Số năm thống kê
Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó.
Đây là cách tính phí bảo hiểm cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmooc, xe chở hàng nặng… thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Ở Việt Nam hiện nay thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản.
Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm), thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được xác định như sau:
ngắn hạn
=
năm X Số tháng hoạt động
12 tháng
(3)
Hoặc:
ngắn hạn
=
năm X Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng (4)
3.3 Đóng phí và hoàn phí
Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của chủ phương tiện. Tùy theo số lượng phương tiện, Công ty bảo hiểm sẽ quy định thời gian, số lần nộp và mức phí tương ứng có xét giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm (tối đa thường giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy định sẽ bị phạt, ví dụ:
+ Chậm từ 01 đến 02 tháng phải nộp thêm 100% mức phí cơ bản.
+ Chậm từ 02 đến 04 tháng nộp thêm 200% mức phí cơ bản.
+ Hoặc có thể hủy hợp đồng bảo hiểm.
Trường hợp đã đóng phí (tham gia bảo hiểm) cả năm, nhưng vào một thời điểm nào đó phương tiện không hoạt động nữa hoặc chuyển quyền sở hữu mà không chuyển quyền bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm (làm tròn tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có khiếu nại và được bảo hiểm bồi thường.
Số phí hoàn lại được xác định như sau:
hoàn lại
=
năm X Số tháng không hoạt động
12 tháng
(5)
4. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là hạn mức trách nhiệm ghi trong hợp đồng bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm mà chủ xe được cấp. Số tiền bảo hiểm là giới hạn cao nhất mà Công ty bảo hiểm thay mặt chủ xe bồi thường cho phía nạn nhân hay bồi hoàn cho chủ xe (trong trường hợp chủ xe trực tiếp bồi thường cho người bị nạn), đồng thời đây cũng là căn cứ để việc bồi thường được khách quan, tránh việc bồi thường sai sót, tùy tiện.
Ở nước ta, Bộ Tài Chính đã quy định hạn mức trách nhiệm tối thiểu bắt buộc cho mọi chủ xe ở mức 30,000,000 VND đối với người và 30,000,000 VND đối với tài sản / vụ tai nạn. Tuy nhiên, các ch._.ủ xe có thể yêu cầu mức trách nhiệm thỏa thuận cao hơn tùy theo nhu cầu và khả năng tài chính của mình và như vậy, mức phí mà họ phải nộp sẽ cao hơn.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, trách nhiệm được định ra về người và về tài sản là hoàn toàn độc lập với nhau và được tính riêng cho từng vụ tai nạn, tức là không được coongj dồn hay tính bù trừ giữa trách nhiệm về tài sản và về người. Mặt khác, Công ty bảo hiểm cũng không bồi thường vượt quá hạn mức trách nhiệm cho từng vụ.
5. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia
5.1 Trách nhiệm và quyền lợi của chủ xe
Trách nhiệm của chủ xe
Kê khai đầy đủ, trung thực các nội dung trong hợp đồng bảo hiểm.
Chủ xe phải có trách nhiệm đề phòng, hạn chế tổn thất.
Phải trung thực trong việc thu thập, cung cấp tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường.
Trường hợp thay đổi mục đích sử dụng xe phải thông báo cho Công ty bảo hiểm để điều chỉnh phí cho hợp lý.
Khi xe xảy ra tai nạn chủ xe phải có những biện pháp cứu chữa kịp thời, hạn chế ở mức thấp nhất những thiệt hại về người và của, đồng thời phải báo ngay cho Công ty bảo hiểm.
Nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn.
Quyền lợi của chủ xe
Chủ xe có quyền yêu cầu Công ty bảo hiểm bổ sung hay sửa đổi hợp đồng, hoặc đề nghị mở rộng phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm.
Khi tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm chủ xe được Công ty bảo hiểm bồi thường tùy thuộc vào mức độ thiệt hại và mức độ lỗi của chủ xe.
Chủ xe có quyền yêu cầu bồi thường trong vòng 06 tháng kể từ khi xảy ra tai nạn trừ trường hợp do các nguyên nhân khách quan hay bất khả kháng theo quy định của pháp luật.
Chủ xe có quyền khiếu nại Công ty bảo hiểm trong trường hợp bồi thường không thỏa đáng hoặc không bồi thường mà không thông bảo lý do.
Thời hạn bồi thường của Công ty bảo hiểm là 15 ngày từ khi nhận được hồ sơ yêu cầu bồi thường đầy đủ, hợp lệ và không được kéo dài quá 30 ngày. Thời hạn khiếu nại đòi bồi thường của chủ xe là 03 tháng kể từ khi Công ty bảo hiểm bồi thường hoặc từ chối bồi thường, quá thời hạn đó mọi khiếu nại sẽ không còn giá trị.
5.2 Trách nhiệm và quyền lợi của Công ty bảo hiểm
Trách nhiệm của Công ty bảo hiểm
Cung cấp các thông tin, quy tắc bảo hiểm, biểu phí, hạn mức trách nhiệm bảo hiểm có liên quan tới bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
Hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để chủ xe tham gia bảo hiểm.
Sửa đổi, bổ sung hồ sơ cho người tham gia bảo hiểm.
Khi hồ sơ đầy đủ, hợp lệ phải tiến hành xét giải quyết bồi thường kịp thời, nhanh chóng, chính xác theo quy định.
Quyền lợi của Công ty bảo hiểm
Có quyền thu phí từ người tham gia bảo hiểm và toàn quyền sử dụng phí đó theo mục đích của mình.
Có quyền yêu cầu bên tham gia khai báo trung thực và đầy đủ các thông tin liên quan tới việc ký kết hợp đồng.
Có quyền phạt những khách hàng vi phạm hợp đồng và tố cáo trước pháp luật những người có ý định trục lợi bảo hiểm.
6. Công tác khai thác
Khai thác là một khâu tối quan trọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ, nó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Nếu số lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm không đủ lớn, quy luật số đông bù số ít trong bảo hiểm sẽ không được đảm bảo thì Công ty bảo hiểm sẽ bị thua lỗ. Công tác khai thác là công tác chính của Phòng kinh doanh, các văn phòng khu vực, các chi nhánh và các đại lý của các Công ty bảo hiểm.
Để làm tốt công tác này đòi hỏi sự năng động và nhanh nhạy của cán bộ nhân viên phòng kinh doanh. Họ phải luôn nỗ lực trong việc tìm kiếm nguồn khách hàng có nhu cầu tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này, các đối tượng này thông thường là các công ty vận tải, các cơ quan đơn vị, bệnh viện, trường học…
Việc xây dựng mạng lưới đại lý rộng khắp cũng góp một phần quan trọng vào thành công của công tác khai thác. Hệ thống đại lý khai thác rất hiệu quả nguồn khách hàng nhỏ lẻ, những khách hàng không nằm trong các cơ quan đơn vị mà nằm rải rác trong dân cư nhờ tận dụng được những mối quan hệ có sẵn.
Ngoài ra, để khâu khai thác triển khai thành công cũng cần có sự hỗ trợ đắc lực của các công tác khác như tuyên truyền, quảng cáo, khuếch trương thương hiệu… Những công tác này giúp cho mọi người hiểu biết hơn về công ty, về các sản phẩm của công ty nói chung và sản phẩm bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng. Đồng thời nó cũng giúp nâng cao nhận thức của người dân về sản phẩm bảo hiểm này nhờ đó đánh thức nhu cầu tham gia bảo hiểm của khách hàng. Khi khách hàng đã có nhu cầu mua bảo hiểm thì mức phí bảo hiểm (giá cả sản phẩm bảo hiểm) hợp lý sẽ giúp khách hàng ra quyết định mua nhanh chóng, vì vậy công tác tính phí và xây dựng biểu phí cũng góp phần gia tăng lượng khách hàng tham gia bảo hiểm.
7. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất
Đề phòng hạn chế tổn thất là việc mà Công ty bảo hiểm áp dụng những biện pháp nhằm giảm thiểu những rủi ro tổn thất có thể xảy ra với khách hàng. Trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba công tác đề phòng hạn chế tổn thất có ảnh hưởng lớn tới kết quả kinh doanh của công ty. Nhìn chung, đối với mỗi Công ty bảo hiểm công tác đề phòng hạn chế tổn thất thường bao gồm:
Đầu tư xây dựng các biển báo, chỉ dẫn giao thông, xây dựng những đoạn đường lánh nạn ở những nơi có địa hình hiểm trở, đèo dốc nguy hiểm giúp chủ xe chủ động phòng tránh những nguy hiểm có thể xảy ra.
Tổ chức các khóa tập huấn cho chủ xe, lái xe về luật lệ an toàn giao thông, giúp họ hiểu và chấp hành đúng luật giao thông khi tham gia giao thông.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, đề nghị xử phạt nghiêm đối với những trường hợp cố tình vi phạm luật an toàn giao thông.
8. Công tác giám định, bồi thường
8.1 Công tác giám định
Giám định tổn thất là việc xác định thiệt hại thực tế của đối tượng tham gia bảo hiểm khi rủi ro tổn thất xảy ra. Căn cứ vào biên bản giám định Công ty bảo hiểm sẽ xét giải quyết bồi thường trực tiếp cho đối tượng tham gia bảo hiểm. Có thể nói đây là một khâu hết sức quan trọng, nó liên quan trực tiếp tới việc nhanh chóng khắc phục khó khăn, đảm bảo quyền lợi của người bị nạn và cả người tham gia bảo hiểm. Việc giám định phải đảm bảo tính chính xác, khách quan và trung thực.
Để thực hiện tốt công tác này, khi có tai nạn xảy ra, Công ty bảo hiểm phải nhanh chóng cử ngay nhân viên giám định đến hiện trường, tổ chức tiến hành giám định, xác định mức thiệt hại thực tế của bên thứ ba, xác định mức độ lỗi của các bên trong vụ tai nạn. Công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định trước sự chứng kiến của chủ xe, người thứ ba hoặc đại diện hợp pháp của các bên có liên quan để xác định nguyên nhân, mức độ thiệt hại do tai nạn gây ra. Trong trường hợp chủ xe không thống nhất với kết quả giám định của Công ty bảo hiểm hai bên sẽ thỏa thuận thuê giám định viên độc lập, kết luận của giám định viên độc lập sẽ được coi là kết quả cuối cùng. Một điều cần lưu ý là nếu kết luận của giám định viên độc lập khác với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì Công ty bảo hiểm sẽ phải chịu phí giám định, còn nếu kết luận của giám định viên độc lập trùng với kết luận của giám định viên bảo hiểm thì chủ xe sẽ phải chịu phí giám định. Trường hợp đặc biệt, nếu Công ty bảo hiểm không thể thực hiện được việc lập biên bản giám định thì có thể căn cứ vào biên bản, kết luận các cơ quan chức năng có thẩm quyền như công an, bệnh viện… để xác định mức độ thiệt hại.
Các bước trong quá trình giám định
B1: Nhận thông tin
Khi xảy ra tai nạn chủ xe phải thông báo cho Công ty bảo hiểm các thông tin như: số xe, chủ xe, thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn; nơi cấp giấy chứng nhận bảo hiểm; tình hình giải quyết sơ bộ của chủ xe và cơ quan chức năng.
B2: Hướng dẫn xử lý ban đầu
Sau khi tiếp nhận thông tin, tùy vào tình hình phòng giám định bồi thường sẽ yêu cầu chủ xe:
+ Thực hiện những hoạt động cần thiết hạn chế thiệt hại phát sinh.
+ Bảo vệ hiện trường
+ Báo cho cảnh sát giao thông để giải quyết tai nạn đúng luật
Lập phương án giám định
B3: Tiến hành giám định
Chuẩn bị các tài liệu, phương tiện cần thiết cho công tác giám định, báo cho các bên liên quan có mặt đầy đủ
Ghi nhận chính xác, trung thực nguyên nhân, mức độ thiệt hại
Nếu có những vấn đề đặc biệt vượt quá khả năng thì phải thông tin xin ý kiến của lãnh đạo
Xác định mức độ thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm
Hướng dẫn chủ xe thực hiện các công việc tiếp theo như tiến hành cẩu kéo, bảo vệ tài sản, thu thập giấy tờ…
B4: Lập biên bản giám định
Nội dung của biên bản phải thể hiện tính trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể sự kiện bảo hiểm.
8.2 Công tác bồi thường
Đây là công tác khá quan trọng của mỗi Công ty bảo hiểm, chất lượng của công tác này có ảnh hưởng trực tiếp tới uy tín, hình ảnh của Công ty, nếu làm tốt công tác này uy tín, hình ảnh của công ty sẽ được nâng cao nhờ đó không những giữ được khách hàng truyền thống mà còn thu hút khách hàng mới, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị phần…
Khi tai nạn xảy ra, chủ xe (lái xe) phải gửi hồ sơ khiếu nại bồi thường cho Công ty bảo hiểm, trong hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau:
Giấy chứng nhận bảo hiểm;
Biên bản khám nghiệm hiện trường;
Tờ khai tai nạn của chủ xe;
Bản kết luận điều tra tai nạn (nếu có);
Biên bản hòa giải (trong trường hợp có hòa giải);
Quyết định của tòa án ( nếu có);
Các chứng từ liên quan đến thiệt hại của người thứ ba, bao gồm: thiệt hại về con người, thiệt hại về tài sản. Các chứng từ phải hợp lệ.
Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường, Công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định để xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba và bồi thường tổn thất.
Thiệt hại của bên thứ ba bao gồm:
Thiệt hại về tài sản bao gồm: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại; thiệt hại liên quan đến việc sử dụng tài sản và các chi phí hợp lý để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
Thiệt hại về tài sản lưu động được xác định theo giá trị thực tế (giá thị trường) tại thời điểm tổn thất còn đối với tài sản cố định, khi xác định giá trị thiệt hại phải tính đến khấu hao. Cụ thể:
Giá trị thiệt hại = Giá mua mới (nguyên giá) - Mức khấu hao
Thiệt hại về con người bao gồm thiệt hại về sức khỏe và thiệt hại về tính mạng.
Thiệt hại về sức khỏe bao gồm:
+ Các chi phí hợp lý cho công việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút như: chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác (thuốc men, dịch truyền, chi phí chiếu chụp X-quang…).
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân (nếu có theo yêu cầu của bác sỹ trong trường hợp bệnh nhân nguy kịch) và khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
+ Khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người đó.
+ Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa mức thu nhập trước và sau khi điều trị do tai nạn của người thứ ba.
+ Thu nhập bị mất được xác định trong trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú do hậu quả của tai nạn. Nếu không xác định được mức thu nhập này, sẽ căn cứ vào mức lương tối thiểu hiện hành. Khoản thiệt hại về thu nhập này không bao gồm những thu nhập do làm ăn phi pháp mà có.
+ Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần.
Thiệt hại về tính mạng của người thứ ba bao gồm:
+ Chi phí hợp lý cho người chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết (xác định tương tự như ở phần thiệt hại về sức khỏe).
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí do thủ tục sẽ không được thanh toán).
+ Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ, chồng, con cái… đặc biệt trong trường hợp người thứ ba là lao động chính trong gia đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác định tùy theo quy định của mỗi quốc gia, tuy nhiên sẽ được tăng thêm nếu hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn.
Như vậy, toàn bộ thiệt hại của bên thứ ba:
Thiệt hại thực tế của bên thứ ba
=
Thiệt hại về tài sản
+
Thiệt hại về con người
Việc xác định số tiền bồi thường được dựa trên hai yếu tố, đó là:
Thiệt hại thực tế của bên thứ ba;
Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn.
Số tiền bồi thường
=
Lỗi của chủ xe
X
Thiệt hại của bên thứ ba
Trên thực tế, nếu người thứ ba là người không có thu nhập từ lao động (trẻ em chưa đến tuổi lao động, người tàn tật không có khả năng lao động…); hoặc có thu nhập thấp (thuộc các đối tượng chính sách của Nhà nước) bị chết, nhưng gia đình nạn nhân không được hưởng các khoản mất, giảm thu nhập do khi còn sống người này không phải nuôi dưỡng người khác… thì một khoản bồi thường sẽ được trả trên tinh thần nhân đạo.
Trong trường hợp có cả lỗi của người khác gây thiệt hại cho bên thứ ba thì:
Số tiền bồi thường
=
[Lỗi của chủ xe
+
Lỗi khác]
X
Thiệt hại của bên thứ ba
Sau khi bồi thường, Công ty bảo hiểm được quyền đòi lại người khác số thiệt hại do họ gây ra theo mức độ lỗi của họ. Cần nhắc lại rằng, công ty bảo hiểm bồi thường theo thiệt hại thực tế nhưng số tiền bồi thường tối đa không vượt quá mức giới hạn trách nhiểm của bảo hiểm.
Quy trình bồi thường
B1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường
Cán bộ bồi thường tiếp nhận hồ sơ khiếu nại đòi bồi thường của chủ xe do giám định viên chuyển đến, kiểm tra sơ bộ các chứng từ cơ bản của hồ sơ và vào sổ khiếu nại.
B2. Phân loại, kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ
Cán bộ bồi thường kiểm tra lại toàn bộ các tài liệu các hồ sơ khiếu nại, trường hợp chưa đủ tài liệu chứng minh tổn thất cán bộ bồi thường yêu cầu giám định viên cung cấp thên những tài liệu cần thiết theo đúng quy định.
B3. Tính toán, lập tờ trình bồi thường
Cán bộ bồi thường phải thực hiện các công việc sau:
Nghiên cứu kỹ hướng dẫn bồi thường để tính toán đúng, đủ và chính xác số tiền bồi thường.
Trên cơ sở tài liệu chứng minh thiệt hại và nguyên nhân gây tai nạn cán bộ bồi thường sẽ tính toán tiền bồi thường.
Xem xét, kiểm tra phương án khắc phục hậu quả, đề xuất các phương án giải quyết, sửa chữa xe bị tai nạn, giải quyết hàng hóa hư hỏng…
B4. Trình duyệt bồi thường
Phòng bồi thường trình lãnh đạo duyệt bồi thường. Tờ trình duyệt bồi thường bao gồm các nội dung sau:
Tên chủ phương tiện tham gia bảo hiểm.
Đơn bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
Tóm tắt sự kiện bảo hiểm.
Xác nhận của phòng kế toán hội sổ.
Đóng góp ý kiến của các phòng có liên quan.
B5. Thông báo bồi thường
Hồ sơ bồi thường được lãnh đạo công ty duyệt, phòng bồi thường sẽ gửi thông báo chấp nhận bồi thường cho khách hàng, sau đó kế toán sẽ làm thủ tục trả tiền bồi thường cho khách hàng theo đúng quy định.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO
I. Vài nét về công ty cổ phần bảo hiểm PJICO
1. Sự ra đời và phát triển của công ty
Trong Báo Cáo tổng hợp tôi đã trình bày rất kỹ về nội dung này, tuy nhiên để bản Báo Cáo chuyên đề được hệ thống tôi xin điểm qua một số nét chính như sau.
Công ty bảo hiểm Petrolimex (PJICO) được thành lập vào năm 1995 và có trụ sở chính tầng 3, tòa nhà 105, Láng Hạ, Hà Nội. Tổng vốn đầu tư ban đầu của Công ty là 55 tỷ VND, trong đó vốn điều lệ là 53 tỷ VND và tiền ký quỹ là 2 tỷ VND. PJICO có 7 thành viên sáng lập và 1 thành viên tham gia.
Về loại hình doanh nghiệp PJICO là công ty Cổ phần thuộc sở hữu của các cổ đông, có tư cách pháp nhân, tự chủ về mặt tài chính và hạch toán độc lập. Công ty có thời hạn hoạt động 25 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động, hết thời hạn trên nếu muốn tiếp tục hoạt động kinh doanh thì phải xin gia hạn thêm.
Là một Công ty bảo hiểm còn rất trẻ nhưng mới chỉ qua chục năm hoạt động công ty đã đạt được những kết quả rất khả quan trong hoạt động kinh doanh và ngày càng củng cố hơn nữa vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam vốn đã có rất nhiều cạnh tranh. Đã có hàng trăm ngàn lượt khách hàng tham gia bảo hiểm tại PJICO trong đó có cả những doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua việc giải quyết kịp thời và thỏa đáng hàng chục ngàn vụ bồi thường, công ty đã góp phần ổn định tài chính, khôi phục sản xuất kinh doanh cho khách hàng của mình. Bên cạnh việc thành công trong kinh doanh bảo hiểm gốc, công ty đã triển khai hiệu quả hoạt động tái bảo hiểm, qua đó thiết lập được mối quan hệ rộng rãi với nhiều Công ty bảo hiểm khác như Vinare, Munichre, Lloy’s… Thông qua các mối quan hệ này công ty đã tăng khả năng nhận bảo hiểm cho những công trình có giá trị lớn thêm vào đó, các khách hàng lớn đã tham gia bảo hiểm tại PJICO như trung tâm thương mại DEAHA, trung tâm thương mại quốc tế HITC…
Hiện nay PJCO đã chính thức gia nhập hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và tiếp tục được đánh giá là một trong những Công ty bảo hiểm hoạt động tốt, có khả năng tài chính ổn định và vững mạnh. Từ khi thành lập đến nay thị phần của công ty không ngừng được củng cố và mở rộng. Theo thống kê, năm 2004 công ty chiếm 13.30% thị phần trên thị trường bảo hiểm Việt Nam (theo nguồn của công ty cổ phần bảo hiểm PJICO) và xếp thứ ba về khả năng nắm giữ thị phần.
Nhìn chung, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam đang có sự đổi mới rất mạnh mẽ với sự tham gia của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và cả nước ngoài. Tình hình đó đặt PJICO trước những khó khăn và thách thức rất lớn và để tồn tại và ngày càng phát triển thì PJICO phải đặt ra cho mình những mục tiêu cụ thể và thực hiện mục tiêu đó bằng tất cả sự nỗ lực của mình.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới công ty
2.1 Tác động tích cực
Tồn tại và phát triển trong một nền kinh tế mở và có sức tăng trưởng mạnh mẽ như Việt Nam có rất nhiều nhân tố thuận lợi tạo điều kiện cho PJICO, tuy nhiên ở đây tôi xin đề cập đến một số nhân tố cơ bản sau:
Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục trăng trưởng ổn định và đạt mức cao nhất từ năm 1996 đến nay, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư sản xuất kinh doanh khu vực trong nước và nước ngoài đều có những bước khởi sắc là những cơ hội để các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng tận dụng để phát triển.
Bảo hiểm ngày càng trở thành một ngành kinh tế có vai trò cao đối với xã hội và vì vậy ngày càng được Nhà nước quan tâm phát triển thông qua việc hoàn thiện hành lang pháp lý, hạch định các chiến lược hay có những chính sách ưu tiên, khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm…
Công ty tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của hội đồng quản trị, sự hỗ trợ tích cực của các cổ đông sáng lập trong quá trình hoạt động.
Nội bộ công ty đoàn kết thống nhất, tập trung vào công việc, tập thể người lao động trong công ty ngày càng lớn mạnh và trưởng thành.
2.2 Những nhân tố khó khăn trong quá trình hoạt động
Sự kiện khủng bố 11/9/2001 đã đi qua từ lâu nhưng hậu quả của nó để lại là rất nặng nề, cùng với đó là cuộc chiến tranh Iraq, dịch bệnh SARS, dịch cúm gia cầm lây lan trên phạm vi toàn thế giới, sự mất giá của đồng Đôla Mỹ, giá vàng thế giới leo thang kỷ lục trong vòng 25 năm trở lại đây… vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường bảo hiểm thế giới cũng như thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn về cơ cấu thành phần, kéo theo đó là mức độ cạnh tranh cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn làm gia tăng chi phí khai thác, chi phí bán hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm. Thêm vào đó là sự xuất hiện của hàng loạt các Công ty bảo hiểm mới, các công ty môi giới bảo hiểm trong và ngoài nước với tiềm lực vững mạnh cũng là những nguyên nhân gây nên sức ép cạnh tranh ngày càng lớn.
II. Thực trạng triển khai nghiệp vụ
Với tư cách là một nghiệp vụ có tính chiến lược và truyền thống của công ty, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba đã và đang mang lại những kết quả khả quan cho công ty. Số lượng đầu xe cơ giới tham gia bảo hiểm ngày càng nhiều, hạn mức trách nhiệm đa dạng tạo ra nguồn thu ngày càng tăng. Các khâu được thực hiện trong quá trình triển khai nghiệp vụ đang dần được hoàn thiện một cách rất đầy đủ và bài bản. Hình ảnh và uy tín của công ty ngày càng được nâng cao trong mắt người tham gia bảo hiểm, các đối tác cũng như các đối thủ cạnh tranh. Để tìm hiểu kỹ hơn về những kết qua thu được và cả những gì còn tồn tại trong suốt quá trình triển khai nghiệp vụ chúng ta cùng đi sâu phân tích tình hình hoạt động của từng khâu nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác
Công tác khai thác là khâu đầu tiên tối quan trọng trong quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm nói chung, do đó nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của việc kinh doanh nghiệp vụ đó. Thực chất của khâu khai thác là sự vận động, tuyên truyền cho các đối tượng tham gia mà cụ thể là các chủ xe cơ giới đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS thấy được sự cần thiết, tác dụng cũng như tính bắt buộc của nghiệp vụ để từ đó đi đến ký kết hợp đồng BH TNDS cho bản thân hoặc cho lái xe mà mình thuê trong quá trình vận hành xe. Với những lý do đã đề cập ở trên thì khâu khai thác không chỉ có ý nghĩa đối với kết quả hoạt động của riêng nghiệp vụ mà còn ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh chung của toàn Công ty.
Công tác khai thác tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO
Xuất phát từ phương châm “lấy chữ tín làm đầu, coi lợi ích của khách là trên hết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng phục vụ khách hàng”, kết hợp với sự đánh giá cao tầm quan trọng của công tác khai thác, PJICO đã đề ra khẩu hiệu cho hoạt động khai thác, đó là: “năng động, tích cực, khoa học, nhanh và tôn trọng lợi ích của khách hàng cũng như cộng tác viên. Công ty đã không ngừng mở rộng địa bàn khai thác, đạt các văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước, hàng trăm tổng đại lý được mở ở các khu vực đông dân cư thuận tiện cho việc tư vấn và bán bảo hiểm để thực hiện khâu khai thác được tốt nhất, triệt để nhất nhằm “bám sát” khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận và tham gia bảo hiểm tại công ty. Bên cạnh đó công ty cũng đã phối hợp với các cơ quan hành chính như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài chính, ngành thuế, công an, cảnh sát… cùng tiến hành triển khai nghiệp vụ.
Kết quả thực tế triển khai công tác khai thác của PJICO trong 5 năm giai đoạn 2001-2005 được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Tình hính khai thác nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại PJICO
Năm
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
Tốc độ phát triển
(%)
Tốc độ phát triển
(%)
Tốc độ phát triển
(%)
Tốc độ phát triển
(%)
Số xe thực tế lưu hành
- Ôtô
- Xe máy
(Chiếc)
7,403,074
635,026
6,768,048
8,309,211
671,532
7,637,679
112.24
105.74
112.84
9,429,292
705,476
8,723,826
113.48
105.05
114.20
10,573,073
847,291
9,725,782
112.13
120.10
111.48
11,791,207
972,816
10,818,391
111.52
114.81
111.23
Số xe tham gia BH
- Ôtô
- Xe máy
(Chiếc)
47,379
22,168
25,211
55,672
26,431
29,241
117.5
119.2
115.9
70,719
28,306
42,413
127.03
107.10
145.04
95,470
30,506
64,964
135.00
107.77
153.17
115,967
33,014
82,953
121.47
108.22
127.69
Tỷ lệ xe tham gia BH
- Ôtô
- Xe máy
(%)
0.64
3.50
0.37
0.67
3.90
0.38
104.68
111.43
102.15
0.75
4.01
0.48
111.9
102.8
126.3
0.93
3.60
0.67
124.00
89.77
138.58
0.98
3.39
0.76
105.37
94.17
113.43
Doanh thu phí BH
- Ôtô
- Xe máy
(triệu đ)
7,784.9
6,650.4
1,134.5
9,245.1
7,929.3
1,315.8
118.7
119.2
115.9
10,400.4
8,491.8
1,908.6
112.50
107.10
145.05
11,912.7
10,326.3
1,586.4
114.54
121.60
83.31
13,892.9
12,011.1
1,881.8
116.62
116.31
118.62
Số lượng đại lý
134
186
138.8
235
126.3
254
108.1
301
118.5
Nguồn:Báo cáo phòng Tổng hợp PJICO
Số liệu bảng trên cho ta thấy số lượng xe cơ giới tham gia giao thông liên tục tăng qua các năm và song song với đó là số lượng xe tham gia bảo hiểm cũng tăng đều qua các năm. Ta có thể nhận thấy một cách cụ thể như sau: Năm 2001, số lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm tại PJICO là 47,379 xe, chiếm 0.64% số lượng xe lưu hành trên toàn quốc, đến năm 2002 con số này đã tăng lên là 55,672 xe tăng 17.5% so với năm 2001 và chiếm 0.67% số lượng xe lưu hành trên toàn quốc, trong đó xe ôtô là 26,431 xe, tăng 19.2% và xe máy là 29,241 xe, tăng 15.9% so với năm 2001. Năm 2003, số xe cơ giới tham gia bảo hiểm tại công ty là 70,719xe tăng 27.03% so với năm 2002, trong đó ôtô là 28,306 tăng 7.1%, xe máy là 42,413 xe và tăng 45.04%. Ở đây có sự khác biệt rất lớn giữa sự tăng của ôtô và tốc độ tăng của xe máy, sở dĩ có sự khác biệt này là do các chủ xe máy đã ý thức hơn về tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo hiểm này và họ đã tham gia một cách khá đầy đủ, một nguyên nhân nữa khiến cho sự tham gia bảo hiểm của xe máy có sự nhảy vọt là công ty đã có sự đầu tư đúng mức cho hoạt động tuyên truyền quảng cáo và có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trong việc kiểm tra kiểm soát sự chấp hành luật lệ an toàn giao thông của các chủ xe. Sang đến năm 2004, số lượng xe tham gia bảo hiểm là 95,470 chiếm 0.93% số xe lưu hành, trong đó ôtô là 30,506 xe tăng 7.77% và xe máy là 64,964 xe tăng 53.17% so với năm 2003. Số lượng cả ôtô và xe máy đều gia tăng trong năm này là do có sự chỉ đạo của chính phủ về việc tăng cường tham gia bảo hiểm đối với nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba, bên cạnh đó tính chất bắt buộc của nghiệp vụ này đã được phổ biến rộng rãi trong dân cư. Và năm cuối cùng mà chúng ta nghiên cứu trong bảng này là năm 2005, trong năm này số lượng xe tham gia bảo hiểm tại PJICO đã tăng lên đến con số 115,967 xe, chiếm 0.98% số xe lưu hành và con số này tăng so với năm 2004 là 21.47%, trong đó ôtô là 33,014 xe, tăng 8.22% và xe máy là 82,953 xe, tăng 27.69% so với năm 2004. Tuy nhiên qua bảng ta cũng nhận thấy tỷ lệ ôtô tham gia bảo hiểm chỉ chiếm 94,17% so với năm 2004, phải chăng nhu cầu tham gia bảo hiểm của các chủ xe ôtô đang giảm đi? Để có câu trả lời chính xác chúng ta cần xem xét hoạt động của PJICO trong những năm tiếp theo, tuy vậy trước mắt PJICO nên tập trung vào các biện pháp nhằm kích cầu, thu hút thêm nữa khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty.
Song song với việc gia tăng của số lượng các xe tham gia bảo hiểm tại công ty chúng ta không thể không nhìn nhận sự tăng trưởng của doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ này. Ta cùng xem xét một cách cụ thể như sau: Doanh thu phí ngiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xr cơ giới năm 2001 đạt 7,784.9 (triệu đ), trong đó ôtô chiếm 6,650.4(triệu đ) và xe máy là 1,134.5(triệu đ). Năm 2002 doanh thu phí nghiệp vụ đạt 9,245.19(triệu đ), trong đó ôtô đạt 7,929.3(triệu đ), tăng 19.2% và xe máy đạt 1,315.8(triệu đ), tăng 15.9% so với năm 2001. Có thể nhận thấy đây là sự gia tăng đột biến của doanh thu phí và có được sự gia tăng đột biến này cần phải ghi nhận sự nỗ lực, tận tâm với công việc và một sự phấn đấu cao của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty. Ngoài ra phải kể đến sự gia tăng số lượng đại lý của công ty, số lượng đại lý đạt 186, tăng 38.8% so với con số 134 của năm 2001. Việc mở rộng mạng lưới đại lý đã mang lại kết quả khai thác cao cho công ty, nhờ vậy số lượng xe tham gia bảo hiểm tại công ty đã tăng lên đáng kể. Năm 2003 doanh thu phí là 10,400.4(triệu đ), tăng 12.5% so với năm 2003 trong đó sự tham gia bảo hiểm của ôtô mang lại 8,491.8(triệu đ) doanh thu và xe máy mang lại 1,908.6(triệu đ) doanh thu, đặc biệt doanh thu phí nghiệp vụ của xe máy đã tăng 45.05% so với năm 2002. Sang đến năm 2004 ta nhận thấy doanh thu phí là 11,912.7(triệu đ), tăng 14.54% trong đó ôtô là 10,326.3(triệu đ), tăng 21.60% và xe máy là 1,586.4(triệu đ), giảm 16.69% so với năm 2003, sự giảm sút này có thể xuất phát từ những nguyên nhân như đã nêu ở trên. Cuối cùng là năm 2005, doanh thu phí đạt 13,892.9(triệu đ), tăng 16.62% trong đó doanh thu từ ôtô đạt 12,011.1(triệu đ), tăng 16.31% và doanh thu từ xe máy đạt 1,881.8(triệu đ), tăng 18.62% so với năm 2004. Có thể thấy rằng sự gia tăng về doanh thu phí nói chung và doanh thu phí từ ôtô và xe máy là tương đối đồng đều. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ này là:
PJICO đã thực hiện việc áp dụng biểu phí mới với các hạn mức trách nhiệm khác nhau do đó làm gia tăng sự lựa chọn cho khách hàng, bên cạnh đó các chủ phương tiện có xu hướng càng ngày càng tham gia bảo hiểm với số tiền lớn, hạn mức trách nhiệm cao hơn.
Công tác triển khai bảo hiểm ngày càng được mở rộng với việc gia tăng của hàng loạt các đại lý, cộng tác viên… Mạng lưới hoạt động được mở rộng đã tạo thuận lợi cho các chủ xe rất nhiều khi có nhu cầu tham gia bảo hiểm tại công ty.
Một lý do nữa đó là do chất lượng phục vụ, chăm sóc khách hàng của PJICO ngày càng được nâng cao. Công ty đã làm rất tốt tất cả các khâu đặc biệt là khâu giám định, giải quyết bồi thường tạo tâm lý an tâm, thoải mái cho khách hàng khi không may họ gặp những biến cố. Chính nhờ đó mà năng lực cạnh tranh của công ty cũng được nâng cao, thương hiệu PJICO được khẳng định và là lựa chọn đầu tiên của khách hàng khi có nhu cầu tham gia bảo hiểm.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty với sức trẻ và lòng nhiệt tình hăng say làm việc đã mang lại hiệu quả kinh tế rất cao cho công ty, đặc biệt lực lượng đại lý được đào tạo bài bản và lợi ích kinh tế gắn liền với kết quả khai thác mà họ đạt được do vậy mà doanh thu phí của PJICO luôn tăng đều qua các năm.
Bảng 2: Tình hình thực hiện kế hoạch thu phí BH TNDS tại PJICO
Năm
Số xe tham gia BH
(chiếc)
Phí BH kế hoạch
(triệu đ)
Phí BH thực thu
(triệu đ)
Tỷ lệ hoàn thành KH(%)
2001
47,379
6,913
7,784.9
112.6
2002
55,672
8,170
9,245.1
113.1
2003
70,719
8,550
10,400.4
121.6
2004
95,470
9,016
11,912.7
132.1
2005
115,967
9,932
13,892.9
139.8
Nguồn: BC tổng hợp của PJICO
Nhìn một cách tổng quát qua bảng 2 ta nhận thấy trong 5 năm qua PJICO luôn phấn đấu vượt kế hoạch doanh thu mà hội đồng quản trị và ban giám đốc đề ra. Năm 2001 doanh thu đạt 7,784.9 triệu đ, đạt 112.6% kế hoạch đạt ra và đã vượt kế hoạch 871.9 triệu đ. Năm 2002 công ty thu được 9,245.1 triệu đ phí BH đạt 113.1%b kế hoạch mà cụ thể vượt kế hoạch 1,075.1 triệu đ. Một điều dễ nhận thấy là công ty luôn vượt kế hoạch đề ra trên 10%, như năm 2003 vượt kế hoạch 21.6%, năm 2004 32.1%, năm 2005 là 39.8%. Có được kết quả này là do công ty đã nắm bắt kịp thời những quy định của chính phủ về chế độ BH TNDS bắt buộc và đã thực hiện rất tốt khâu khai thác, lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm tại công ty đã tăng vọt đặc biệt là số xe máy. Điều này thể hiện._.thu thì đến năm 2005 hiệu quả theo lợi nhuận đã tăng lên 0.48 tức 1 đồng chi phí bỏ ra đã đem lại 0.48 đồng lợi nhuận, đây là một con số đáng nể mà không phải doanh nghiệp BH nào cũng có thể đạt được.
Trên đây là những nét tổng quan nhất về tất cả các hoạt động trong các khâu, các lĩnh vực của nghiệp vụ BH TNSD của chủ xe cơ giới với người thứ ba và kết quả kinh doanh nghiệp vụ trong những năm gần đây. Kết thúc phần này chúng ta có thể kết luận về cơ bản nghiệp vụ đã được công ty triển khai khá tốt, mang lại hiệu quả kinh doanh cao với tỷ suất lợi nhuận hàng năm đều trên 10%. Hy vọng rằng kết quả này sẽ được công ty phát huy một cách tích cực hơn nữa trong những năm tiếp theo.
CHƯƠNG BA: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Một số vấn đề còn tồn tại của công ty
Trong quá trình hoạt động nói chung và quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng công ty cũng còn có những tồn tại, thiếu sót cần phải sửa chữa. Một trong những khó khăn lớn nhất đối PJICO là công ty còn non trẻ, mới đi vào hoạt động được khoảnh 10 năm, đây là một con số rất khiêm tốn so với các đại gia khác trên thị trường bảo hiểm, đặc biệt là Bảo Việt với trên 30 năm tồn tại và phát triển và đã có mặt tại tất cả các tỉnh và thành phố; Bảo Minh tuy cũng mới được thành lập nhưng đã có được cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ từ bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh chuyển sang với hơn 20 năm kinh nghiệm và nguồn khách hàng quen thuộc; và còn một số doanh nghiệp bảo hiểm khác với những lợi thế đáng kể. Do đó, PJICO gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các công ty này đặc biệt là trong việc tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm của mình. Thêm vào đó là tính độc quyền nhà nước trong thị trường bảo hiểm Việt Nam từ trước đến nay nên tạo cho khách hàng thói quen sử dụng sản phẩm bảo hiểm của PJICO là rất khó khăn.
Hiểu biết của người dân cũng như của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và tác dụng và trách nhiệm phải tham gia bảo hiểm TNDS là rất thấp, quan niệm “cuộc sống không có bảo hiểm như cầu thang không có tay vịn” chưa thực sự được người dân quan tâm và thấu hiểu.
Mạng lưới của PJICO chưa phủ rộng khắp cả nước, hiện nay công ty mới chỉ có 11 văn phòng đại diện ở khu vực Hà Nội- trung tâm văn hóa và kinh tế của cả nước, các chi nhánh của công ty cũng chỉ mới được đặt ở các tỉnh, thành phố lớn nên chưa khai thác được triệt để thị trường đầy tiềm năng ở trong nước.
Công tác tuyên truyền, quảng cáo chưa được thực hiện một cách sâu rộng, mạng lưới khai thác chưa được nhiều người biết đến do đó các nghiệp vụ, các sản phẩm mà công ty triển khai chưa được đón nhận một cách rộng rãi.
Mức phí mà công ty áp dụng đôi khi còn quá cao đối với một số chủ xe khiến họ e ngại không tham gia nhất là các chủ xe ôtô thường có mức phí cao.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty có trình độ chuyên môn cao, trẻ tuổi và năng động nhưng lại thiếu kinh nghiệm. Lực lượng đại lý và cộng tác viên khai thác còn yếu, tính chuyên nghiệp chưa cao, trình độ nghiệp vụ còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ tới khâu khai thác của công ty.
Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa các ngành công an, giao thông với công ty bảo hiểm chưa được thực hiện chặt chẽ, việc kiểm tra giấy chứng nhận bảo hiểm và phạt cảnh cáo nhiều khi bị buông lỏng làm cho của chủ xe coi thường pháp luật, hiệu lực chế độ bắt buộc tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe kém hiệu quả đặc biệt là trong cách quản lý xe môtô ở nước ta còn lỏng lẻo, chỉ cần chủ xe mua xe có giấy tờ hợp lệ là đủ, không cần sang tên đổi chủ, không cần khám xe định kỳ hàng năm vẫn đủ điều kiện lưu hành.
Ngoài ra còn một số hạn chế ở khâu giám định, bồi thường. Các khâu này đôi khi còn thiếu chính xác, chậm trẽ, thủ tục hồ sơ rắc rối… làm ảnh hưởng tới niềm tin của khách hàng đối với công ty.
Đội ngũ cán bộ khai thác của công ty còn mỏng, trong quá trình khai thác chưa làm tốt công tác giải thích, tuyên truyền một cách rõ ràng các điều kiện, phạm vi bảo hiểm… cho người tham gia bảo hiểm được rõ do vậy đã gây khó khăn, khúc mắc cho việc giải quyết sau này.
Một số vấn đề có thể đề cập ở đây là: ngoài khoản chi hoa hồng cho đại lý, cộng tác viên để tiến trình khai thác nhanh chóng đạt hiệu quả công ty cần thực hiện một số công tác khác để khuyếch trương hình ảnh của mình như chi cho hội nghị khách hàng, hội nghị tổng kết nhưng những khoản chi này là rất ít. Vì vậy công ty cần xem xét lại để có sự đổi mới trong những năm tiếp theo.
II. Mục tiêu và phương hướng triển khai nghiệp vụ này trong thời gian tới
Để phát huy kết quả kinh doanh mà nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đã đạt được trong những năm vừa qua và nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, công ty đã đề ra một số mục tiêu và phương hướng hoạt động dự kiến trong thời gian tới:
Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức, không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, xây dựng mạng lưới đại lý và cộng tác viên đầy đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp ứng tốt nhất nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. Bên cạnh đó, phát huy tính năng động, sáng tạo của toàn bộ cán bộ công nhân viên nhằm hoàn thành kế hoạch kinh doanh đã đặt ra, bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước.
Hoàn thiện các quy tắc, điều khoản, biểu phí phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước.
Phối hợp với các công ty bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm nhằm xây dựng một thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển mở rộng, cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ đúng pháp luật.
Bổ sung và xây dựng những nguyên tắc, điều lệ hoạt động, quản lý tổ chức phù hợp với mô hình là công ty cổ phần trên cơ sở các văn bản pháp quy của Nhà nước.
Xây dựng chính sách khách hàng tốt đồng thời xây dựng phương án đầu tư từ phí bảo hiểm thu được trên cơ sở bảo toàn vốn và có lãi.
Tiếp tục phát huy khả năng và những ưu thế của mình với mục tiêu nâng cao chất lượng bảo hiểm, phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu của đông đảo khách hàng, đặc biệt là những khách hàng tham gia bảo hiểm với giá trị lớn; tiếp thị những sản phẩm bảo hiểm mới như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm rủi ro trong kinh doanh, bảo hiểm chất lượng sản phẩm… từ đó đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm của công ty.
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại PJICO
Trong điều kiện cạnh tranh và đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường, sự chậm đổi mới, dậm chân tại chỗ của bất kỳ một doanh nghiệp thuộc bất kỳ loại hình kinh doanh nào cũng được coi là sự tụt hậu và thất bại. Chính vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, tìm tòi, sáng tạo con đường đi cho riêng mình, khắc phục các hạn chế, phát huy những ưu điểm của mình để thích nghi với tình hình mới.
Đối với một doanh nghiệp trẻ như PJICO, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba không chỉ có ý nghĩa mang lại một nguồn doanh thu đáng kể hàng năm mà còn có mục đích xã hội rất to lớn góp phần tạo sự an toàn cho xã hội và mang lại lợi ích cho người tham gia bảo hiểm. Để khai thác một cách hiệu quả nhất nghiệp vụ này đòi hỏi ngoài việc Nhà nước phải đưa ra bộ luật bảo hiểm hoàn thiện nhằm tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động thì việc tìm kiếm những giải pháp tốt nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm này là rất cần thiết. Với suy nghĩ đó, sau một thời gian thực tập tại văn phòng khu vực I của PJICO song song với quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ bảo hiểm này và được sự giúp đỡ của các cán bộ trong văn phòng tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO.
1. Công tác khai thác
Như trên đã đề cập rất cụ thể tầm quan trọng của công tác khai thác nhưng ở đây tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng khai thác là “điều kiện cần” quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Do vậy, để phát huy những kết quả đã đạt được, công tác khai thác nghiệp vụ này tại công ty cần phải được tiếp tục tăng cường và củng cố. Để tăng số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm tại PJICO công ty nên kết hợp tính bắt buộc của nghiệp vụ này với các biện pháp khác để các chủ xe tham gia tự nguyện hơn. Phải làm sao cho khách hàng khi cầm tấm thẻ bảo hiểm không chỉ vì nghĩa vụ mà còn ý thức được quyền lợi của mình trong tấm thẻ đó. Nói chung về lâu dài, công ty phải làm cho chủ xe tham gia bảo hiểm một cách tự nguyện, coi đó là nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt cũng như sản xuất kinh doanh.
Để đạt được mục tiêu lâu dài đó nhằm đẩy mạnh công tác khai thác công ty cần lưu ý tới một số vấn đề sau:
1.1 Đẩy mạnh hoạt động Marrketing, xúc tiến bán hàng, giới thiệu sản phẩm và hình ảnh của công ty
Công tác tuyên truyền, quảng cáo trong quần chúng nhân dân là một công tác vô cùng quan trọng. Đây là giải pháp cơ bản để đạt được kết quả cao trong khâu khai thác. Việc tuyên truyền quảng cáo có thể được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, tạp chí, biển báo, radio, vô tuyến truyền hình… Việc tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên, dễ hiểu, giải thích rõ tác dụng và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm và cần phải được diễn giải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu vì những thuật ngữ chuyên ngành thường rất xa lạ đối với người dân. Bên cạnh đó việc tuyên truyền quảng cáo cần được thực hiện đa dạng về hình thức, ngoài những hình thức nêu trên thì việc tuyên truyền cũng mang lại tác dụng rất lớn thông qua các phóng sự nói về sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới trên đài truyền hình, đài phát thanh của trung ương và các đài địa phương… Ngoài ra có thể thực hiện thông qua hội nghị khách hàng, các cuộc thi tìm hiểu và bảo hiểm nói chung và BH TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng trong các cơ quan, doanh nghiệp đặc biệt là trong các trường học từ đó giáo dục cho học sinh, sinh viên- những người được coi là đội ngũ tri thức trẻ của đất nước, thấy được tác dụng to lớn của loại hình BH này và việc tham gia còn thể hiện trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và trình độ văn minh của đất nước.
Thực tế hiện nay chi phí mà công ty dành cho tuyên truyền quảng cáo chưa nhiều, các chương trình quảng cáo chưa thực sự tạo được ấn tượng cho khách hàng vì vậy công ty cần phải chú trọng hơn nữa vào khâu này bằng việc tăng cường đầu tư cho công tác tạo hiệu quả cao và tích cực trong thời gian tới.
1.2 Xây dựng và quản lý hệ thống đại lý có hiệu quả
Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được lực lượng đại lý hùng hậu, có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi thực tế đặt ra. Hiện nay, công ty đã xây dựng được các chi nhánh ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… và các văn phòng đại diện trên khắp địa bàn Hà Nội và hệ thống đại lý, cộng tác viên rộng khắp. Tính tới thời điểm này PJICO đã có 54 chi nhánh, hàng trăm tổng đại lý và hàng ngàn cộng tác viên trên toàn quốc. Tuy nhiên, với một ngành kinh doanh thiên về xã hội và lấy nguyên tắc số đông bù số ít làm cơ sở như ngành bảo hiểm thì mạng lưới này có thể nói là còn thưa thớt, do đó trong thời gian trước mắt công ty nên giữ vững mối quan hệ với các bạn hàng cũ, chủ động tìm kiếm bạn hàng mới, tập trung đầu tư mở rộng mạng lưới chi nhánh, văn phòng đại diện tại các tỉnh thành trên cả nước để gần gũi khách hàng hơn nữa nhằm khai thác triệt để thị trường bảo hiểm còn rất nhiều tiềm năng này. Đồng thời mở các lớp nghiệp vụ, các lớp tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, cộng tác viên để đáp ứng yêu cầu thực tế hiện nay bởi công việc của nhân viên khai thác bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc ký hợp đồng và thu phí bảo hiểm mà họ còn là những tư vấn viên luôn bên cạnh giúp đỡ, chăm sóc khách hàng, hướng dẫn, giải thích cho họ hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới của và điều này thể hiện chất lượng dịch vụ của công ty. Với nghiệp vụ bảo hiểm này thì mức phí mà các công ty đưa ra là như nhau theo biểu phí mà Bộ Tài Chính ban hành, vì vậy các công ty cạnh tranh với nhau bằng chất lượng dịch vụ mà cụ thể là chất lượng hoạt động của mạng lưới đại lý, cộng tác viên của công ty.
Công ty phải thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động của các đại lý bằng các hình thức khác nhau như với tư cách là người mua BH đưa ra các tình huống để xem xét phản ứng của đại lý từ đó rút ra kinh nghiệm, hướng dẫn đại lý xử sự với khách hàng, mang đến sự thỏa mãn cho khách hàng như thế mới có thể hy vọng vào sự trở lại của khách hàng.
Công ty cũng nên có chính sách thưởng, phạt đúng đắn đối với cán bộ, công nhân viên trong công ty: ai làm tốt, đạt doanh thu cao thì được thưởng, ai làm sai hoặc gây thiệt hại thì phải bị phạt theo các mức độ nặng nhẹ khác nhau; thực hiện hình thức khoán doanh thu theo tháng cho mỗi cán bộ nhân viên khai thác và tính trả lương theo doanh thu phải hợp lý, công bằng. Bên cạnh đó, công ty cần phải có biện pháp khuyến khích các chi nhánh, văn phòng, đại lý… thúc đẩy họ làm việc tích cức và có hiệu quả từ đó nâng cao doanh thu.
Đa dạng hóa sản phẩm
PJICO nên kết hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm khác tư vấn, kiến nghị với Bộ tài chính trong việc đưa ra biểu phí phù hợp với sự đa dạng của các chủng loại xe hiện nay và phù hợp với những nhu cầu khác nhau của từng đối tượng khách hàng, cũng cần phải thống kê lại những thiệt hại thực tế do tai nạn gây ra về tính mạng, tài sản và sức khỏe con người để đưa ra hạn mức trách nhiệm theo tỷ lệ phù hợp. Mặt khác, công ty nên cử cán bộ khai thác gặp gỡ những khách hàng lớn để chào phí và thu phí, giải thích cặn kẽ về nghiệp vụ giúp khách hàng nhanh chóng ra quyết định. Công ty cũng nên linh hoạt trong việc thu phí tùy theo điều kiện của khách hàng, với những hợp đồng lớn, khách hàng chưa có điều kiện nộp phí ngay một lần thì có thể thu làm nhiều lần, với những khách hàng truyền thống hay những khách hàng có tỷ lệ xảy ra rủi ro không cao công ty nên có chính sách ưu đãi khi ký kết hợp đồng như giảm phí, gia tăng các quyền lợi bổ sung…
Là một công ty bảo hiểm với các cổ đông là các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty lớn và đây là nguồn khách hàng vô cùng quý giá vì vậy công ty cần phải tận dụng khai thác triệt để tạo nguồn thu đáng kể.
Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý
Việc xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý, khoa học là rất cần thiết, cụ thể công ty nên chia khách hàng thành nhiều loại để tiện cho việc khai thác, tập trung khai thác khách hàng quan trọng và có chính sách ưu đãi hợp lý đối với từng loại khách hàng.
Phối hợp với các ngành chức năng trong công tác khai thác
Đây cũng là một công việc khá quan trọng đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của công ty, việc phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng như: cảnh sát giao thông, sở giao thông công chính, cục thuế, các trạm đăng kiểm… chủ xe cơ giới với người thứ ba về việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Trên thực tế, PJICO đã triển khai công tác này tại một số tỉnh thành và đã đem lại hiệu quả ban đầu rất khả quan, việc làm này cần được nhanh chóng nhân rộng ở một số tỉnh thành khác nhằm cạnh tranh với các công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt, Bảo Minh… là những công ty đang triển khai tốt công tác này. Công ty nên cung cấp, hướng dẫn các cơ quan chức năng các văn bản pháp lý có liên quan đến chế độ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba, khi mối quan hệ giữa công ty và các cơ quan này trở nên mật thiết công ty có thể đề nghị được phép “dán tem” bảo hiểm phương tiện. Đây là một giải pháp hữu hiệu không chỉ đối với công ty mà còn thuận tiện cho các cơ quan chức năng trong việc nhận diện xe nào đã tham gia bảo hiểm, từ đó việc kiểm tra sẽ dễ dàng cho cả hai phía.
Đồng thời phải phối hợp với ngành cảnh sát giao thông để thống kê một cách chính xác, đầy đủ số lượng xe cơ giới lưu hành và cụ thể là số các chủ xe có xe đang hoạt động, đó là những địa chỉ tốt để cán bộ khai thác xuống tận cơ sở tuyên truyền, vận động các chủ xe tham gia bảo hiểm TNDS tại công ty. Đây là việc làm cần thiết để mở rộng thị phần và giúp các chủ xe thực hiện tốt quy định của Nhà nước.
Mở rộng mối quan hệ với các cơ quan thông tin đại chúng đặc biệt là Đài truyền hình trung ương, Đài truyền hình địa phương, Đài phát thanh, các tòa soạn báo… nhằm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng này tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu rộng rãi ra công chúng về công ty và nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba mà công ty đang triển khai.
2. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất có vị trí khá quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty mà còn ảnh hưởng đến sự an toàn của toàn xã hội, chính vì vậy công tác này cần được sự quan tâm chú ý của ban lãnh đạo công ty. Muốn đạt hiệu quả cao trong quá trình thực hiện công tác này công ty cần chú ý một số vấn đề sau:
Đề xuất, kiến nghị với ngành giao thông vận tải, giao thông công chính thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc sửa sang đường xá, cầu cống…; phối hợp xây dựng các biển báo, panô, áp phích tại các đầu mối giao thông quan trọng, những đoạn đường vòng, những đoạn đường có nhiều chướng ngại vật dễ xảy ra tai nạn; cùng tham gia với ngành giao thông vận tải xây dựng các gương cầu, đường lánh nạn… tại những nơi có địa hình nguy hiểm giúp lái xe sử lý trong những trường hợp nguy cấp. Việc làm này cần phải được chú trọng và duy trì thường xuyên vì nó mang lại hiệu quả rất cao và chi phí bỏ ra để thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với chi phí bồi thường cho các vụ tai nạn khi chưa có các biện pháp đề phòng này. Không chỉ vậy, việc làm này còn mang tính xã hội rất lớn, nó giúp giảm chi ngân sách Nhà nước đồng thời tạo được hình ảnh tốt đẹp của công ty trong lòng người dân từ đó khuyến khích họ tham gia bảo hiểm tích cực hơn nữa.
Định kỳ hàng năm tiến hành tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe đề cao trách nhiệm của lái xe, phụ xe trong việc đảm bảo an toàn giao thông, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật của phương tiện giao thông khi lưu hành, giáo dục, nhắc nhở lái xe, phụ xe tuyệt đối không vi phạm luật lệ an toàn giao thông khi xe đang hoạt động.
Phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan và các chủ xe để khen thưởng, động viên và hỗ trợ kịp thời đối với các đơn vị thực hiện tốt công tác đề phòng, hạn chế tổn thất.
Tập hợp, thống kê các vụ tai nạn giao thông xảy ra trong từng năm theo nhiều tiêu chí khác nhau như về loại phương tiện, địa bàn hoạt động, nguyên nhân gây ra tai nạn… từ đó có hướng ngiên cứu tìm ra những biện pháp để đề phòng, hạn chế tổn thất phù hợp.
Thường xuyên đánh giá hiệu quả công tác đề phòng, hạn chế tổn thất, tránh việc kém hiệu quả trong việc chi phí cho đề phòng hạn chế tổn thất.
3. Công tác giám định bồi thường
Một nguyên nhân làm tồn đọng các hồ sơ tai nạn, giải quyết bồi thường không chính xác, thiếu kịp thời là khi tai nạn xảy ra không được giám định ngay. Việc xác định thiệt hại thực tế phụ thuộc nhiều vào hồ sơ giải quyết tai nạn của công an và những tài liệu đó đôi khi được lập rất sơ sài, không đủ căn cứ để tính toán bồi thường gây mất nhiều thời gian cho việc kết thúc hồ sơ tai nạn. Vì vậy, đây là một khâu hết sức quan trọng trong hoạt động của mỗi công ty bảo hiểm nói chung, nó cũng thể hiện chất lượng dịch vụ và uy tín của công ty đối với khách hàng. Nếu công tác này được thực hiện tốt- bồi thường nhanh chóng, chính xác và thỏa đáng, sẽ tạo được ấn tượng tốt về hình ảnh của công ty trong con mắt khách hàng và điều này đã trực tiếp làm tăng sức cạnh tranh của công ty, từ đó giúp công ty gia tăng lượng khách hàng, mở rộng thị phần, tăng doanh thu. Chất lượng của công tác này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh chung của công ty vì vậy công ty cần chú trọng đầu tư đúng mức và để giải quyết tốt những vấn đề đã nêu ở trên trong thời gian tới công ty cần tập trung vào một số biện pháp sau.
3.1 Nâng cao chất lượng cán bộ giám định
Đội ngũ cán bộ giám định là lực lượng nòng cốt trong khâu này. Công ty phải sàng lọc các cán bộ giám định đúng tiêu chuẩn như năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức… Nhân viên giám định phải được đào tạo chuyên nghiệp sâu rộng về chuyên môn nghiệp vụ. Các rủi ro dẫn đến tổn thất rất đa dạng và phức tạp, mặt khác các chủng loại xe cơ giới lưu hành hiện nay cũng rất phong phú, giá trị thực tế của các loại xe cũng rất khác nhau vì vậy đòi hỏi nhân viên giám định phải luôn cập nhật giá cả các loại xe và mức khấu hao quy định để đánh giá những tổn thất về mặt vật chất của bên thứ ba một cách chính xác. Tuy nhiên có một khó khăn khác mà các công ty bảo hiểm thường gặp phải trong đó có PJICO là việc đánh giá những thiệt hại đối với tính mạng và tình trạng sức khỏe của con người. Việc đánh giá thiệt hại để quy ra tiền bồi thường là rất khó khăn vì tính mạng và sức khỏe của con người là vô giá, không thể đo lường bằng bất cứ một công cụ tài chính nào. Xuất phát từ lý do đó công ty cần xây dựng bảng tỷ lệ bồi thường hợp lý, chinhs xác giúp cho công tác bồi thường được thuận lợi hơn. Đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay trình độ hiểu biết về pháp luật của người dân còn rất hạn chế do vậy cán bộ bảo hiểm nói chung và cán bộ giám định nói riêng phải có những hiểu biết cần thiết về pháp luật, phải tổng quan được nội dung của các văn bản pháp lý theo một trình tự nhất định để dễ dàng giải quyết hồ sơ bồi thường một cách nhanh gọn, bỏ qua các thủ tục rườm rà, không cần thiết.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ giám định của PJICO cả tuổi đời và tuổi nghề đều còn rất trẻ do đó công ty cần khuyến khích họ nâng cao kinh nghiệm, khả năng của mình để đáp ứng với yêu cầu thực tế đặt ra ngày càng cấp thiết. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải bồi dưỡng, bổ sung các cán bộ am hiểu về luật giao thông, hiểu biết về kỹ thuật ôtô, xe máy… để đảm bảo cho việc giám định được chính xác, các vụ tai nạn xảy ra được giải quyết một cách kịp thời, tránh tình trạng quá chạy theo doanh thu mà không quan tâm thực hiện tốt công tác bồi thường.
3.2 Phối hợp với các ngành chức năng trong công tác giám định
Việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng cũng là một công việc khá quan trọng nhằm thực hiện tốt công tác giám định bồi thường. Công tác giám định cần phải được tiến hành nhanh chóng ngay sau khi tai nạn xảy ra để đảm bảo tính chính xác, tránh tình trạng chủ xe và người bị nạn thông đồng lập chứng từ giả với mục đích gian lận, trục lợi bảo hiểm.
Cần thiết phải phối hợp với các cơ quan chức năng để xây dựng hồ sơ nhưng không nên phụ thuộc quá nhiều vào hồ sơ của công an mà nhất thiết phải có sự chủ động của cán bộ giám định và có thông qua thương lượng bồi thường. Nếu làm được như vậy sẽ gây ảnh hưởng tốt tới khách hàng và thông qua hoạt động bồi thường uy tín và hình ảnh của công ty ngày càng được củng cố, tạo kết quả tốt cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
3.3 Xây dựng và củng cố cơ sở vật chất, hệ thống thông tin liên lạc
Công ty cần xây dựng, củng cố và nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng và hệ thống thông tin liên lạc thông suốt giữa tổng công ty với các văn phòng đại diện, đại lý, chi nhánh và ngay cả các nhân viên của công ty cũng cần phải được trang bị những phương tiện tối thiểu trong những trường hợp cần thiết. Đặc biệt đối với cán bộ giám định, họ là những đối tượng cần được trang bị hệ thống máy móc, các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại và hoàn thiện hơn. Có như vậy mới thu nhận và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và kịp thời, tạo thuận lợi cho việc giải quyết bồi thường cũng như tận dụng được những thời cơ tốt.
3.4 Các thủ tục phải được giải quyết nhanh chóng và theo đúng quy định của pháp luật
Thủ tục giải quyết bồi thường cần ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu khi hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục giấy tờ cần thiết trong quá trình giải quyết bồi thường, tránh cho khách hàng phải đi lại nhiều lần, tạo tâm lý thoải mái cho họ khi nhận tiền bồi thường với mục đích bù đắp kịp thời những tổn thất và xoa dịu gánh nặng tâm lý của khách hàng khi không may gặp phải rủi ro.
Đối với những khách hàng truyền thống, khi họ gặp tai nạn ngoài phạm vi bảo hiểm, công ty không có trách nhiệm phải bồi thường thì công ty cũng nên hỗ trợ cho khách hàng một phần nào đó nhằm mục đích giảm bớt một phần gánh nặng tài chính cho khách hàng, đồng thời việc làm này cũng có tác dụng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa công ty với khách hàng, giúp công ty giữ chân được khách hàng cũ và còn thu hút thêm được khách hàng mới cho mình.
3.5 Xây dựng quy trình bồi thường, phân cấp bồi thường cho các văn phòng và các đơn vị trực thuộc
Nên xây dựng quy trình bồi thường, thủ tục bồi thường rõ ràng để cán bộ giải quyết bồi thường có thể áp dụng những quy trình, thủ tục đó để giải quyết bồi thường một cách khoa học và nhanh chóng. Cần phân cấp việc bồi thường cho các chi nhánh, các văn phòng đại diện có chức năng kinh doanh nhằm giảm bớt phần nào khối lượng công việc của phòng giám định giải quyết bồi thường; cần quy định đối với những tổn thất có số tiền bồi thường nhỏ thì nên để cho phòng kinh doanh trực tiếp giải quyết bồi thường cho nhanh chóng, kịp thời vì phòng này là phòng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và trực tiếp chăm sóc khách hàng; đối với những tổn thất có số tiền bồi thường lớn, tính chất nghiêm trọng cao cần phải có sự giám định chính xác, chặt chẽ thì nên để cho phòng giám định bồi thường giải quyết. Việc làm này đã được các văn phòng khu vực của công ty thực hiện khá tốt và nó nên được duy trì và phát huy hơn nữa.
4. Một số công tác khác
4.1 Tăng cường công tác đào tạo cán bộ, công nhân viên trong công ty. Cần tăng cường công tác đào tạo tại chỗ mà chủ yếu là tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, văn phòng đại diện, các đại lý và cộng tác viên… để đáp ứng yêu cầu mới đặt ra ngày càng cấp thiết của công việc. Trong việc tuyển dụng cán bộ công ty cũng nên chú ý tới trình độ chuyên môn, năng lực làm việc hay khả năng giao tiếp… là những phẩm chất rất cần thiết đối với một cán bộ bảo hiểm, để từ đó thiết lập một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao.
4.2 Tăng cường công tác quản lý. Công ty cần tăng cường công tác quản lý, thực hiện quy chế giám sát, kiểm tra chặt chẽ đối với các đơn vị, cá nhân trong toàn công ty đặc biệt là trong vấn đề chi tiêu tài chính.
4.3 Chấn chỉnh hoạt động đại lý. Việc giám sát, chấn chỉnh hoạt động của các đại lý, cộng tác viên là rất cần thiết, việc làm này phải được thực hiện theo quy định của Bộ tài chính, phải sàng lọc được những đại lý làm việc thực sự có hiệu quả.
4.4 Tăng cường giáo dục về tư tưởng và tác phong của người cán bộ. Công tác này là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là đối với ngành bảo hiểm nói riêng. Việc giáo dục về tư tưởng tác phong cho người cán bộ không chỉ đảm bảo có được một đội ngũ cán bộ “sạch” theo đúng nghĩa mà còn góp phần không nhỏ nâng cao vị thế cũng như hình ảnh của công ty.
LỜI KẾT
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng mạnh cùng với đó là sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các xe cơ giới tham gia giao thông, tuy nhiên có một nghịch lý là tỷ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới vẫn còn ở mức thấp. Điều này nói lên rằng thị trường tiềm năng của nghiệp vụ bảo hiểm này là rất lớn cũng như cơ hội đạt ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ này phát triển. Mặt khác, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp BH trên thị trường nhằm mở rộng thị phần, thu hút đông đảo khách hàng tham gia đạt ra cho mỗi doanh nghiệp một vấn đề bức xúc là làm sao hoàn thiện sản phẩm của mình, tạo nên sự khác biệt , đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy là từ khi triển khai nghiệp vụ BH này ở Việt Nam nói riêng và trên thể giới nói chung thì tác dụng mà nó mang lại là không thể phủ nhận. Nó đã góp phần to lớn vào sự ổn định của toàn xã hội cũng như mỗi doanh nghiệp, mỗi gia đình và bản thân mỗi cá nhân. Không chỉ vậy, nếu xét trên tầm kinh tế vĩ mô, nghiệp vụ bảo hiểm này còn giúp giảm chi cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện để đầu tư vào các lĩnh vực khác góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình tìm hiểu về tình hình triển khai thực tế của nghiệp vụ trong những năm qua ở công ty cổ phần BH PJICO có thể nhận thấy dưới sự chỉ đạo sáng suốt và sát sao của ban lãnh đạo công ty cũng như những cố gắng không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, bằng sức trẻ, sự năng động sáng tạo trong công tác đã từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba nói riêng. Mặc dù vậy, để phát huy tốt hơn nữa kết quả này đòi hỏi công ty phải có những biện pháp tích cực nhằm khắc phục những khó khăn mà công ty đang gặp phải.
Với những kết quả khả quan đã đạt được cùng với những ưu thế vượt trội của mình chúng ta cùng hy vọng và tin rằng trong những năm tiếp theo PJICO sẽ không ngừng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba nói riêng bằng việc phát huy những tiềm năng sẵn có, tận dụng những cơ hội thuận lợi để phấn đấu, tự khẳng định mình và có một vị thế ngày càng vững chắc trên thị trường BH Việt Nam cũng như có một vị thế xứng đáng trong con mắt khách hàng, đối tác và bạn hàng.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tài chính của PJICO trong các năm 2001 - 2005
Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999
Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm - bộ môn Kinh tế Bảo Hiểm, Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm - bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Luật Kinh doanh Bảo hiểm và các văn bản pháp luật có liên quan
Tạp chí Bảo hiểm
Tạp chí Giao thông vận tải 2001 – 2005
Thời báo Kinh tế Việt Nam 2003 – 2005
Và các tài liệu khác
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36327.doc