Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu

Mục lục * Lời mở đầu Chương I : Đánh giá hiệu quả kinh doanh là công việc quan trọng và tất yếu của doanh nghiệp I. Sự cần thiết của công tác đánh giá hiệu quả kinh doanh 1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh 1 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh 1 3. Một số vấn đề trong đánh giá hiệu quả kinh doanh 3 II. Phương pháp xác định hiệu quả kinh doanh 1. Các phương pháp xác định hiệu quả kinh doanh 4 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh 5 III. Các nhân tố ảnh hư

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng đến hiệu quả kinh doanh 7 1. Các nhân tố khách quan 8 2. Các nhân tố chủ quan 13 Chương II : Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu I. Khái quát về Công ty bánh kẹo Hải Châu 19 1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 19 1.2. Những đặc điểm sản xuất kinh doanh 22 II. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu 26 1. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty vài năm gần đây 26 2. Đánh giá hiệu quả kinh doanh 31 A. ảnh hưởng của các nhân tố khách quan 32 b. ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan 38 Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu 52 I. Một số quan điểm về hiệu quả kinh doanh của Công ty 52 II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh 53 * Kết luận Tài liệu tham khảo Nhận xét của nơi thực tập lời mở đầu K ể từ khi con người sinh ra, các hoạt động của họ ( hoạt động nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng ) luôn luôn diễn ra đều có mục đích và mong muốn của họ là đạt được những kết quả hữu ích từ các hoạt động đó. Tuy nhiên điều được đặt ra ở đây là những kết quả đó được tạo ra từ đâu và mức độ hữu ích của nó đối với chủ thể như thế nào. Đây là vấn đề cần được xem xét bởi vì chính nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Con ngưới luôn quan tâm tới việc làm sao với khả năng hiện có, dưới sự hoạt động của họ sẽ mang lại những kết quả hữu ích nhất. Chính vì thế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, con người không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh mà còn phải đánh giá chất lượng của chính hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Đây chính là vấn đề hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay nền kinh tế nước ta đã có những bước biến đổi mau chóng. Từ một nền kinh tế tập trung bao cấp đã chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Sự chuyển đổi này đã được thực tế những năm qua chứng minh là sáng tạo và đúng đắn. Do đó trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra hàng hoá muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào mà còn là mối quan tâm của bất kỳ xã hội nào, quốc gia nào. Đó là vấn đề bao trùm, xuyên suốt thể hiện chất lượng của toàn bộ hoạt động quản lý kinh tế bởi vì mục đích của quản lý kinh tế là đảm bảo tạo ra kết quả và hiệu quả kinh doanh cao nhất trong mọi quá trình, giai đoạn của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là vấn đề trung tâm của công tác quản lý, là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải nhìn nhận đúng thực trạng của mình, những gì mình đã và chưa làm được, hiệu quả cao hay thấp ... để từ đó có biện pháp phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để có cái nhìn toàn diện về vấn đề này, với những kiến thức lý luận đã học và tình hình hoạt động thực tế của Công ty bánh kẹo Hải Châu, trong đợt thực tập này tôi xin đề cập tới vấn đề "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu ". Chương I : Đánh giá hiệu quả kinh doanh là công việc quan trọng và tất yếu của doanh nghiệp. I. Sự cần thiết của công tác đánh giá hiệu quả kinh doanh 1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp. Nó là sự so sánh giữa kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra để thực hiện hoạt động đó. Nếu kết quả kinh doanh đạt được càng nhiều với chi phí bỏ ra càng ít thì hiệu quả kinh doanh càng cao. Tức là hiệu quả kinh doanh tỷ lệ thuận với kết quả đạt được và tỷ lệ nghịch với chi phí. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh Có thể nói rằng nhiệm vụ trung tâm của công tác quản lý kinh tế là sử dụng một cách có lợi nhất, phân phối hợp lý nhất các nguồn lực vốn và lao động. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, đời sống của người lao động muốn ngày một tốt hơn thì nhất định doanh nghiệp phải biết quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và chi phí của mình. Muốn sử dụng có hiệu quả thì phải xác định và đánh giá những kết quả mình đạt được. Mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp là không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để tăng lợi nhuận của mình. Trong điều kiện nền kinh tế mở và ngày càng hoà nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng đông đảo, nhận thức và nhu cầu của con người ngày càng cao. Điều đó sẽ dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường và sẽ bắt buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải không ngừng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, cải tiến quy trình công nghệ cũng như mẫu mã sản phẩm, đa phương hoá trong dịch vụ. Mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2005 là :" ... ổn định và phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân, thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI ... " ( trích Nghị quyết Đại hội Đảng IX ). Do đó trong những năm tới, mục tiêu tất yếu của các doanh nghiệp là phải không ngừng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần vào sự nghiệp chung của toàn xã hội. Mỗi doanh nghiệp phải xác định mình là một thành phần, một tế bào của nền kinh tế quốc dân. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện quyết định sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, các tổ chức kinh tế đều có quyền bình đẳng về cạnh tranh lẫn nhau. Do đó khả năng cạnh tranh và đứng vững trong tình thế mới thì bắt buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả. Hiệu quả càng cao thì doanh nghiệp càng có khả năng mở rộng sản xuất, có vốn đầu tư và tăng khả năng cạnh tranh. Ngược lại nếu doanh nghiệp hoạt động kém, không có hiệu quả thì nhất định sẽ bị đào thải bằng chính quy luật cạnh tranh của thị trường. Nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần giải quyết mối quan hệ của doanh nghiệp với Nhà nước và người lao động. Bởi vì nâng cao được hiệu quả kinh doanh sẽ thu được lợi nhuận cao, giúp doanh nghiệp làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước và nâng cao quỹ phúc lợi tập thể nhằm cải thiện đời sống cho người lao động, kích thích họ làm việc tốt hơn. Hiệu quả kinh doanh là hai phạm trù kinh tế có mối liên hệ mật thiết với nhau hay nói cách khác đó là hai mặt của một vấn đề. Việc đạt được hiệu quả kinh doanh cao chứng tỏ doanh nghiệp đã thực hiện tốt nguyên tắc tiết kiệm. Hay ta có thể nói doanh nghiệp đã đạt được hiệu quả kinh doanh cao với chi phí thấp. Do vậy muốn tiết kiệm được tối đa chi phí sản xuất kinh doanh thì nhất thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là yêu cầu của nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Yêu cầu này là đơn vị sản xuất kinh doanh được quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phải tự bù đắp chi phí và có lãi, phải tự bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là mục đích cao nhất của các doanh nghiệp. Vì vậy tự trang trải, tự bù đắp chi phí kinh doanh để có lãi là vấn đề cơ bản của kinh doanh theo cơ chế thị trường. Muốn kinh doanh có lợi nhuận cao, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều biện pháp và đặc biệt là phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy mục tiêu phấn đấu của mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội là nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả. Trong đó hiệu quả kinh doanh là biểu hiện trung tâm bởi lẽ hiệu quả chỉ đạt được trên cơ sở năng suất lao động và chất lượng công việc. 3. Một số vấn đề trong đánh giá hiệu quả kinh doanh Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện trong mối quan hệ với hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân. Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội. Đạt được hiệu quả cao với đơn vị mình chưa đủ mà còn phải mang lại hiệu quả cho toàn xã hội ( cả về mặt kinh tế và xã hội ). Khi đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội phải cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kỳ sản xuất kinh doanh không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn tiếp theo. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp không vì những lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Ví dụ như một doanh nghiệp hoạt động không thể coi là có hiệu quả lâu dài được khi xoá bỏ hợp đồng với một khách hàng tín nhiệm để chạy theo một hợp đồng khác mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng không ổn định. Hiệu quả xã hội là một phạm trù trừu tượng hơn hiệu quả kinh tế. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan hệ khăng khít với nhau và đôi khi cũng có những mâu thuẫn. Đối với các doanh nghiệp, tiêu chuẩn của hiệu quả là lợi nhuận. Vấn đề đặt ra ở đây là phải tạo sự thống nhất giữa lợi ích riêng của từng doanh nghiệp với lợi ích chung của toàn xã hội. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp đều cố gắng sử dụng nguồn vốn của mình sao cho có lợi nhuận cao nhất. Do đó thông thường họ ít chú ý đến lợi ích công cộng mà chỉ chăm lo đảm bảo cho thành quả của mình. Vì vậy Nhà nước cần ban hành các chính sách để hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn tới hiệu quả xã hội trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, đảm bảo lợi ích của các đơn vị kinh tế khi họ phục vụ lợi ích công cộng. Các doanh nghiệp khi theo đuổi lợi ích của mình cũng nên nghĩ đến việc phục vụ và bảo vệ lợi ích xã hội. II. Phương pháp xác định hiệu quả kinh doanh : Phương pháp xác định hiệu quả kinh doanh gồm nhiều nội dung lý luận và phương pháp phong phú. Tuỳ từng lĩnh vực vận dụng cụ thể và theo đặc điểm riêng, chúng ta có thể lựa chọn những lý luận và phương pháp phù hợp để thể hiện sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng trong phân tích và xác định hiệu quả kinh doanh. 1. Các phương pháp xác định hiệu quả kinh doanh a. Phương pháp so sánh : Phương pháp này được sử dụng phổ biến nhất trong công tác phân tích hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Đây chính là trường hợp so sánh giữa những chỉ tiêu phản ánh các hiện tượng kinh tế có liên quan mật thiết với nhau trong quá trình phân tích. Tỷ lệ so sánh giữa kết quả kinh doanh với chi phí kinh doanh càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng lớn. b. Phương pháp chi tiết : Để đánh giá chính xác kết quả đạt được, người ta có thể phân tích chi tiết các số liệu theo các biện pháp như phân tích theo bộ phận cấu thành ( Chi tiết vốn cố định theo các loại tài sản cố định ), theo thời gian ( doanh thu chi tiết theo quý, năm ) và theo địa điểm ( năng suất lao động chi tiết theo tổ, đội, phân xưởng sản xuất ). Sau khi chi tiết xong số liệu cần tiến hành tiếp các công việc như xem xét so sánh mức độ đạt được, xác định mức độ ảnh hưởng đến kết quả chung và đánh giá tiến độ thực hiện. c. Phương pháp loại trừ : Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích và xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới đối tượng phân tích bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Ví dụ như khi phân tích nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kinh doanh thì phải loại trừ khả năng ảnh hưởng tiêu cực của nó và phân tích ảnh hưởng tích cực của nó tới các nhân tố khác. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh : Để đánh giá chính xác và hoàn chỉnh hiệu quả kinh doanh người ta thường sử dụng hệ thống chỉ tiêu bao gồm cả chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu chi tiết phản ánh các mặt riêng biệt của nó. Các chỉ tiêu trong hệ thống đó phải có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau và bổ xung cho nhau. * Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra - Chi phí đầu vào. Xác định hiệu quả kinh doanh bằng cách này vừa đơn giản, vừa thuận tiện. Nhưng bên cạnh đó cũng có những nhược điểm như không phản ánh hết chất lượng sản xuất kinh doanh cũng như tiềm năng của công tác nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả đầu ra * Hiệu quả kinh doanh = Chi phí đầu vào Chỉ tiêu này phản ánh sức sản xuất, sức sinh lợi bình quân trong kỳ sản xuất kinh doanh : cứ 1 đồng chi phí bỏ ra sẽ tạo ra được mấy đồng ở đầu ra. Chi phí đầu vào * Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra Chỉ tiêu này phản ánh suất hao phí bình quân trong kỳ sản xuất kinh doanh : để có được 1 đồng ở kết quả đầu ra thì cần phải chi phí mấy đồng ở đầu vào. Lãi * Tỷ suất lãi doanh thu = Doanh thu Chỉ tiêu này cho biết trong tổng số doanh thu thì có bao nhiêu phần là lãi. Lãi * Tỷ suất lãi vốn kinh doanh = Vốn kinh doanh Chỉ tiêu này phản ánh tỷ suất bình quân trong kỳ sản xuất kinh doanh : cứ 1 đồng vốn mà doanh nghiệp bỏ ra thì tạo ra được mấy đồng lãi. Doanh thu * Tốc độ chu chuyển của tổng tài sản = Vốn sản xuất Chỉ tiêu này phản ánh tỷ suất bình quân trong kỳ sản xuất kinh doanh, tài sản đã chu chuyển được mấy vòng. Tốc độ chu chuyển càng nhanh thì doanh thu càng cao, lãi càng lớn. Doanh thu Tốc độ chu chuyển của vốn cố định = Vốn cố định Doanh thu Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động = Vốn lưu động Thời gian để vốn lưu động chu chuyển được 1 vòng hoặc là số vòng chu chuyển của vốn lưu động trong 1 năm gọi là tốc độ chu chuyển của vốn lưu động. Đây là một chỉ tiêu chất lượng được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng của doanh nghiệp. Tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động là tăng số vòng quay của vốn lưu động trong 1 kỳ sản xuất ( thông thường là 1 năm ) hoặc là giảm bớt thời gian của 1 vòng chu chuyển. Nếu tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động, doanh nghiệp có thể tiết kiệm tuyệt đối hoặc tương đối về vốn lưu động. Như vậy công tác đánh giá hiệu quả kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp là công việc quan trọng và tất yếu. Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu của mỗi doanh nghiệp. Do đó công tác đánh giá hiệu quả kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp phải được chuyên môn hoá. Đánh giá hiệu quả kinh doanh để doanh nghiệp có thể biết được mình đang đứng ở đâu trong thị trường, nhờ đó có thể tìm được hướng phát triển sau này, tạo tiền đề cho sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác đánh giá hiệu quả kinh doanh là rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp. Muốn có một cái nhìn vĩ mô đối với vấn đề này, ta hãy xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh : Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Các nhân tố này có thể tác động một cách khách quan hoặc chủ quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng tác động tới hiệu quả kinh doanh theo những hướng và mức độ khác nhau. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh và đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách toàn diện, ta cần hiểu và nắm vững các nhân tố ảnh hưởng đó để có biện pháp phân tích, tìm hiểu quy luật, tìm ra biện pháp khắc phục các ảnh hưởng không có lợi của các nhân tố này tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Các nhân tố khách quan : Đây là những nhân tố có khái niệm rất rộng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trên một bình diện rộng lớn một cách gián tiếp. Đó là các nhân tố như môi trường kinh doanh, thể chế kinh tế của Nhà nước, các yếu tố về tự nhiên và khách hàng. a. Các nhân tố về môi trường kinh doanh : Các nhân tố về mặt kinh tế có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất đối với sự hình thành và hoàn thiện môi trường kinh doanh. Đồng thời các nhân tố này cũng có ảnh hưởng to lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định sẽ làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ cũng tăng nên dẫn đến sức mua các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên và đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng về mọi mặt như chất lượng, số lượng, giá cả ... thì doanh nghiệp đó sẽ thành công và hiệu quả kinh doanh sẽ rất cao. Nhưng bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn vì khi mức sống được nâng cao cũng có nghĩa là chi phí về tiền lương của các doanh nghiệp tăng lên. Điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại nhưng được sản xuất ở những đơn vị có chi phí tiền lương cho sản phẩm thấp hơn. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định chứng tỏ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có hiêụ quả cao, khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn. Do đó họ sẽ đầu tư và phát triển sản xuất với quy mô lớn. Như vậy tư liệu về sản xuất lại tăng, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Và như vậy điều tất yếu sẽ là năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng, điều đó làm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng tăng. Nếu một doanh nghiệp sản xuất sử dụng nguyên vật liệu nhập ngoại thì tỷ giá hối đoái có một ý nghĩa rất quan trọng. Khi nền kinh tế ở một quốc gia bị biến động thì chắc chắn sẽ dẫn tới sự biến động của tỷ giá hối đoái. Điều này không có lợi cho các doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu từ những quốc gia đó vì giá nguyên vật liêụ được tính bằng ngoại tệ tăng cao do tỷ giá hối đoái biến động. Trong khi đó doanh nghiệp phải dùng nội tệ để thanh toán nên rõ ràng sẽ có một khoản chênh lệch khá lớn trong kế hoạch và thực hiện việc mua nguyên vật liệu. Có thể lấy ví dụ như cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á trong năm qua đã làm ảnh hưởng nhiều không những đến nền kinh tế của những nước bị khủng hoảng và cả những nước có liên quan như nước ta là một khách hàng nhập nguyên vật liệu lớn của họ. Cuộc khủng bố nước Mỹ ngày 11 – 9 – 2001 đã làm ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đó là một khó khăn mà chúng ta cần khắc phục và nhất là vụ cháy Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế ITC tại thành phố Hồ Chí Minh đã làm cho thị trường tiền tệ nước ta gặp rất nhiều khó khăn. Do đó giá trị của đồng nội tệ cũng là một nhân tố tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia cũng như với từng doanh nghiệp đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, các doanh nghiệp trong nước sẽ gặp nhiều khó khăn vì khi đó giá bán của hàng hoá hay dịch vụ được tính bằng ngoại tệ sẽ cao hơn những hàng hoá cùng chủng loại được tính bằng nội tệ. Như vậy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị suy giảm rõ rệt. Hơn nữa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu hàng hoá bởi vì giá của chúng rẻ hơn và như vậy cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay ở thị trường trong nước. Ngược lại nếu đồng nội tệ giảm giá thì cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ tăng cả ở thị trường trong nước và thị trường ngoài nước bởi vì khi đó giá bán các hàng hoá của doanh nghiệp giảm đi ít hơn so với đôí thủ cạnh tranh nước ngoài. Như vậy các doanh nghiệp sẽ thu hút được khách hàng, có điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Nếu nền kinh tế có mức lạm phát cao thì các doanh nghiệp sẽ không đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là đầu tư taí sản xuất mở rộng và đầu tư đổi mới vì các doanh nghiệp lo sợ không đảm bảo về mặt hiện vật các tài sản. Lúc đó đồng tiền không tham gia vào hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lợi của đồng tiền là không có. Hơn nữa rủi ro kinh doanh khi có lạm phát cao là rất lớn. b. Các nhân tố về thể chế kinh tế - chính trị của Nhà nước : Một thể chế kinh tế - tài chính, một hệ thống luật pháp rõ ràng, mở rộng và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi và quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, đường lối phát triển kinh tế của nước ta rất rõ ràng. Trong bài phát biểu của Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười tại Hội nghị lần III Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khoá VII, có đề cập tới vấn đề này. Ông nói :" Mục đích cao nhất của dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay là nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, phát triển kinh tế - xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc độc lập tự do Tổ quốc ". Như vậy ta có thể thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đã đặt chính sách phát triển kinh tế lên làm nhiệm vụ hàng đầu của dân tộc. Cụ thể là bằng những chủ trương, chính sách phát triển kinh tế hợp lý, các Bộ luật về kinh tế rất rõ ràng và sắc sảo đã là chỗ dựa pháp lý ở tầng vĩ mô, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có cơ hội kinh doanh tốt, tự nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình để trước hết là hoàn thành trách nhiệm của mình với Nhà nước. Ta có thể lấy ví dụ như các Bộ luật về xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, Luật Doanh Nghiệp, Luật Đầu Tư ... đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tự khẳng định mình. Thuế giá trị gia tăng mới được ban hành đã bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp sản xuất. Bộ luật về xuất nhập khẩu và thuế xuất nhập khẩu là căn cứ pháp lý để doanh nghiệp có thể cộng tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài hoặc tự mình có thể tham gia kinh doanh ở nước ngoài. Luật Doanh Nghiệp và Luật Đầu Tư cho doanh nghiệp thấy được vị trí, trách nhiệm, quyền hạn của mình với nền kinh tế nước nhà ... Như vậy các thể chế kinh tế - tài chính của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác thì định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước quyết định hướng đi chung của các doanh nghiệp, các chính sách phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều khả năng được nâng cao hơn. c. Các nhân tố về tự nhiên : Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có thể tạo ra những thuận lợi cũng như những khó khăn trong việc phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thậm chí cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Lợi thế về yếu tố tự nhiên có thể mang đến kết quả tốt trong kinh doanh. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước và việc phân bố vị trí địa lý của các doanh nghiệp. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện thu hút khách hàng, khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường, giảm các chi phí thương mại phục vụ cho hoạt động sản xuất do giá nguyên vật liệu nội địa rẻ, chi phí vận tải thấp ... Với nhân tố tự nhiên là điều kiện tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong công tác cung ứng các yếu tố đầu vào, sản xuất hàng hoá vật chất đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, hạn chế nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Ngược lại, các nhân tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra khó khăn ngay từ ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng thành công trong kinh doanh sẽ ít hơn. Như vậy nếu có sự " hậu thuẫn " của tự nhiên, cơ hội kinh doanh sẽ có khả năng thành công nhiều hơn, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ có nhiều thuận lợi. Đây có thể gọi là yếu tố " địa lợi " trong hoạt động kinh doanh. d. Các nhân tố về nhu cầu của khách hàng : Khách mua hàng là nhân tố cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bởi vì họ chính là người đã có cảm tình, có nhu cầu với sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra. Họ là người mua sản phẩm, đánh giá chất lượng sản phẩm và cũng là người quyết định lãi hay lỗ cho doanh nghiệp. Phải nói rằng khách hàng có thể là người giúp cho doanh nghiệp thành công khi doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng đúng nhu cầu của họ, đặc biệt là về chất lượng sản phẩm. Nhưng họ cũng có thể là người làm doanh nghiệp thất bại khi doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm không thể đáp ứng được nhu cầu của họ. Trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay thì điều này lại càng chính xác. Do đó doanh nghiệp chỉ thành công và nâng cao được hiệu quả kinh doanh khi sản xuất và kinh doanh một cách trung thực, tạo ra được những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, thực ra khách hàng chỉ chú ý vào sản phẩm khi nó thoả mãn ba điều kiện : chất lượng tốt, mẫu mã đẹp và giá cả hợp lý. Đây chính là những điều kiện cần và đủ để sản phẩm của doanh nghiệp bán chạy trên thị trường. Nếu doanh nghiệp khắc phục khó khăn và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì chắc chắn sẽ có kết quả tốt và việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chắc chăn sẽ thành công. Trên đây là những nhân tố khách quan có ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó ta cũng phải xét đến những nhân tố khác, những nhân tố nằm bên trong nội bộ doanh nghiệp. Đó là những nhân tố chủ quan. 2. Các nhân tố chủ quan : 2.1. Trình độ quản lý của doanh nghiệp : Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn đạt được hiệu quả kinh doanh cao, lãnh đạo cũng như cán bộ và lực lượng trực tiếp sản xuất phải có trình độ chuyên môn, quản lý. Lãnh đạo doanh nghiệp là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, là người vạch ra chiến lược, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Họ phải nắm vững chuyên môn, am hiểu thị trường để có khả năng phân tích, nghiên cứu và dự báo về thị trường, phải có kiến thức về kinh doanh, về pháp luật, về kinh tế và phải có kinh nghiệm để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định và phương án kinh doanh sáng suốt, đúng đắn, biết bố trí cán bộ phù hợp với năng lực của mình . Các thành viên của ban lãnh đạo có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm phân tích, đánh giá năng động, sáng tạo và có mối quan hệ với bên ngoài tốt thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ những lợi ích trước mắt như tăng lợi nhuận, doanh thu mà còn nâng cao uy tín của doanh nghiệp, lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng mang tính chiến lược và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách trực tiếp. Nếu họ làm việc tại doanh nghiệp đã lâu năm thì ngoài việc họ có kinh nghiệm, nắm vững khả năng và năng lực của doanh nghiệp... họ còn gắn bản thân họ với doanh nghiệp, làm việc nhiệt tình hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên nếu họ hoạt động quá lâu trên một cương vị, một lĩnh vực thì cũng dễ dẫn đến sự bảo thủ, trì trệ trong quản lý, không thay đổi kịp với yêu cầu từ bên ngoài. Đây lại là một nguy cơ gây suy yếu cho hoạt động kinh doanh. Các cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý tốt, khả năng ra quyết định chính xác, kịp thời, biết xây dựng ê kíp quản lý và hiểu biết nhiều về thị trường, về kinh doanh sẽ là một lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp. Họ là những người quản lý có đầy nhiệt huyết, làm việc hết mình vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác với những trình độ hiểu biết rộng các kiến thức chuyên môn khác nhau, họ có thể tạo ra nhiều ý tưởng sáng tạo, nhanh nhạy với sự thay đổi, điều này giúp cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thêm vững mạnh. Vai trò của cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp càng trở nên quan trọng khi doanh nghiệp đã đứng vững trên thương trường. Qui mô hoạt động lớn đòi hỏi các cán bộ quản lý cũng có thể ra quyết định, họ là những người điều hành các kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp, vì thế quyết định của họ sẽ sát với thực tế hơn, tính khả thi cao hơn. Khi doanh nghiệp trưởng thành hơn, qui mô mở rộng hơn, nhiều các phòng ban chức năng hơn thì sự sáng tạo, tinh thần đổi mới của các phòng ban sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng lớn của các cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp, những người tạo ra năng lực kinh doanh, tạo ra hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Sự đồng bộ của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp đòi hỏi đến nguồn nhân lực trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh. Đây là lực lượng lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng hoá cho doanh nghiệp. Họ có vai trò to lớn trong việc tạo ra và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Trình độ tay nghề cao và lòng nhiệt tình của lực lượng này sẽ tạo ra được những sản phẩm có chất lượng đảm bảo và góp phần tăng năng suất lao động. Đây là tiền đề để doanh nghiệp hoạt động tốt, nâng cao hiệu quả trong sản xuất và đứng vững trên thị trường. Như vậy, để có thể có được các nhân tố về trình độ quản lý trong doanh nghiệp thì tất cả các thành viên trong doanh nghiệp từ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến lực lượng lao động trực tiếp cần không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt của mình. Doanh nghiệp nên tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ công nhân và có chính sách đãi ngộ công bằng, hợp lý với tất cả mọi người. Doanh nghiệp cần tạo ra niềm tin cho tất cả mọi người để các hoạt động của họ đều vì sự phát triển của doanh nghiệp, vì lợi ích của bản thân họ và lợi ích của doanh nghiệp. 2.2. Vốn và tình trạng tài chính của doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường, người ta thường dùng tiền tệ để đo lường giá trị của các loại tài sản. Tài sản của doanh nghiệp là các tư liệu sản xuất, đối tượng lao động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tổng số tài sản của doanh nghiệp và được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì đều phải dựa vào vốn hay nói cách khacs vốn có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.Đây có thể gọi là hai mặt của một vấn đề. Nếu nguồn vốn của doanh nghiệp lớn sẽ có nhiều khả năng trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vốn là cơ sở để doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và góp phần làm cho tiềm lực tài chính của doanh nghiệp thêm vững mạnh và khi đó việc huy động vốn từ bên ngoài c._.ũng dễ dàng hơn, doanh nghiệp càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của mình. 2.3. Máy móc thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp : Tình trạng hoạt động, kỹ thuật tiên tiến của máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng to lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất, thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất lượng cũng như giá thành sản phẩm. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị máy móc hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến thì sản phẩm của họ chắc chắn có chất lượng cao và giảm được giá thành. Ngược lại sẽ không có doanh nghiệp nào dám khẳng định mình có kết quả sản xuất tốt khi trong tay họ là một hệ thống máy móc cũ kỹ, công nghệ sản xuất lạc hậu bởi vì nếu như vậy thì tất yếu sản phẩm của họ có chất lượng không cao, chi phí sản xuất kinh doanh lớn dẫn đến giá thành sản phẩm cao, khó tiêu thụ trên thị trường và doanh nghiệp sẽ không thể nâng cao được hiệu quả kinh doanh của họ. Ngày nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trở thành sự không ngừng vươn lên của doanh nghiệp về trí tuệ và trình độ công nghệ. Công nghệ sản xuất tiên tiến không những đảm bảo năng suất lao động, chất lượng và giá thành của sản phẩm mà còn có thể xác lập hệ thống tiêu chuẩn mới cho từng ngành kinh tế kỹ thuât. Chẳng hạn như trong công nghệ thông tin hiện nay đang có cuộc cách mạng để xác lập tiêu chuẩn công nghệ truyền và xử lý thông tin qua mạng Internet. Mặt khác khi mà công tác bảo vệ môi trường đang trở thành một vấn đề của toàn xã hội như hiện nay thì các doanh nghiệp sử dụng công nghệ sạch với máy móc thiết bị hiện đại sẽ chắc chắn được ưu tiên và có triển vọng. Như vậy ta có thể thấy rằng máy móc thiết bị và công nghệ tiến tiến sẽ là tiền đề để đi đến thành công trong tiêu thụ sản phẩm, trong kinh doanh và trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4. Giá cả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp : Giá cả là thước đo bằng tiền của giá trị nhưng ta có thể hiểu rằng giá cả là một số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung ứng một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó. Giá cả rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì nó thể hiện kết quả của các khâu kinh doanh, nó có nhiệm vụ bù đắp các khoản chi phí. Đối với người mua, nó là chi phí cho việc thoả mãn nhu cầu về một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó, nó là yếu tố quan trọng trong sự quyết định mua hay không mua hàng hoá. Giá cả là dấu hiệu đáng tin cậy phản ánh tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả, doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại cũng như hiệu quả kinh doanh của chính bản thân mình. Nhưng bên cạnh khái niệm giá cả thì khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng rất đáng được chú ý. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực mà doanh nghiệp có thể tự duy trì vị trí của mình một cách lâu dài và có ý trí trên thị trường, đảm bảo thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là loại thị trường phổ biến trong thực tế. Các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh đều có một vị trí nhất định của nó. Vì thế, nếu một doanh nghiệp tham gia vào thị trường mà không có khả năng cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh yếu thì sẽ không thể tồn tại được. Quá trình duy trì sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải là một quá trình lâu dài nếu không muốn nói là vĩnh viễn như quá trình duy trì sự sống. Không khí xã hội của doanh nghiệp, động cơ cá nhân của các thành viên và chất lượng của những con người tỏ ra là những yếu tố cạnh tranh lâu dài cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các tiêu chuẩn về khả năng tài chính và tình hình tài chính không phải không phải là những tiêu chuẩn được nêu lên trước tiên mà các tiêu chuẩn khác như vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, mức tăng trưởng của doanh nghiệp, khả năng nghiên cứu và đổi mới còn quan trọng hơn. Ngoài ra, việc biết thực hành những sở trường trong môi trường luôn thay đổi, chất lượng hàng hoá, dịch vụ là những tiêu chuẩn rất cần thiết. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh cũng phải nhận thức được hiện tại mình có đạt hiệu quả trong công tác cạnh tranh hay không. Nghĩa là hàng hoá của mình có thể bán được không và về lâu dài việc tiêu thụ hàng hoá có mang lại nhiều lợi nhuận cho mình hay không. Doanh nghiệp phải thường xuyên xem xét mọi yếu tố có ảnh hưởng đến cạnh tranh, những gì mà doanh nghiệp có thể làm được tốt hơn so với các đối thủ. Như vậy nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp cần nâng cao hiệu quả cạnh tranh ở bất kỳ thời điểm nào. Thị phần mà doanh nghiệp chiếm được trên thị trường được coi như là chỉ số tổng hợp đo lường chất lượng cạnh tranh của mình, đo lường kết quả tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.5. Quy mô kinh doanh và uy tín của doanh nghiệp : Một doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, tạo ra càng nhiều sản phẩm thì chi phí cận biên cho sản xuất một đơn vị sản phẩm nhỏ dần và như vậy giá thành đơn vị sản phẩm hạ, giá bán sản phẩm cũng hạ. Nhờ đó sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về mặt giá cả và sản phẩm có lợi thế trong quá trình tiêu thụ, lợi nhuận của doanh nghiệp tăng và hiệu quả kinh doanh được nâng cao. Doanh nghiệp có quy mô kinh doanh lớn có thuận lợi hơn các doanh nghiệp khác có quy mô nhỏ, đặc biệt khi các doanh nghiệp này sản xuất vượt kế hoạch. Uy tín của doanh nghiệp gắn liền với sự tồn tại và phát triển trên thị trường. Doanh nghiệp tạo dựng được uy tín của mình trên thị trường chính là nhờ vào chất lượng sản phẩm họ sản xuất ra hay nói cách khác băng sự chân chính, đạo đức trong kinh doanh của mình. Khi sản phẩm có uy tín với người mua thì qua trình tiêu thụ sản phẩm trở nên dẽ dàng, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về sản phẩm đó so với sản phẩm cùng loại của đối thủ sẽ cao hơn. Uy tín cũng là một yếu tố có ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đến sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại, nâng cao hiệu quả kinh doanh và đánh giá hiệu quả kinh doanh là những việc không thể thiếu trong bất kỳ doanh nghiệp nào. Hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải đúng đắn trong việc chọn phương án kinh doanh, phải thực hiện và kết hợp tốt các khâu trong kinh doanh, phải không ngừng đánh giá, phân tích các nhân tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình. Nếu thực hiện tốt những điều đó chắc chắn doanh nghiệp sẽ thành công trong kinh doanh và hiệu quả kinh doanh được cải thiện là tất yếu. chương II – Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo hải châu I. Khái quát về Công ty Bánh kẹo Hải Châu : 1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty : 1) Thông tin chung về công ty: Tên công ty: Công ty Bánh kẹo Hải Châu Tên giao dịch quốc tế: haichau confectionery company Tên viết tắt : HaiChau.Co. Giám đốc công ty : Nguyễn Thanh Bình Địa chỉ : 15 Phố Mạc Thị Bưởi –Phường Vĩnh Tuy–Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội Diện tích mặt bằng : hiện nay (tính cả phần mở rộng ) : 55.000 m2 trong đó : - nhà xưởng : 23.000 m2 văn phòng : 3.000 m2 kho bãi : 5.000 m2 phục vụ công cộng : 24.000 m2 Điện thoại : 8624806 Fax : 8621520 Email : haichau@fpt.com.vn Vốn pháp định: 21.141.000.000 VND Vốn lưu động: 6.407.000.000 VND Vốn cố định : 14.734.000.000 VND Vốn đầu tư : 28.000.000.000VND 2) Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bánh kẹo Hải Châu: Công ty Bánh kẹo Hải Châu (trước đây là nhà máy mì kẹo Hải Châu, sau là nhà máy mì bánh Hải Châu và đến nay với tên gọi là nhà máy Bánh kẹo Hải Châu ) được thành lập ngày 02-09-1965, là một doanh nghiệp nhà nước và là một đơn vị thuộc Tổng công ty mía đường 1 thuộc Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông Thôn. Công ty được xây dựng với sự trợ giúp của 2 tỉnh Thượng Hải và Quảng Châu(Trung Quốc) về trang thết bị trên cơ sở nhà xưởng, kho tàng cũ của xí nghiệp Bộ Nội Thương để sản xuất bánh kẹo các loại. *Thời kỳ từ 1965 – 1975 : Công ty vừa sản xuất vừa xây dựng và mở rộng sản phẩm chính cửa Công ty là các loại bánh kẹo bích quy, lương khô, các loại kẹo mềm, kẹo cứng và mì nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân Hà Nội và Quốc phòng. Trong thời kỳ này do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên một phần nhà xưởng máy móc thiết bị bị hư hỏng nặng. Năm 1969 do sự điều động của cấp trên nhà máy chuyển giao toàn bộ phân xưởng kẹo sang nhà máy miến Hà Nội, thành lập nhà máy Hải Hà (nay là công ty bánh kẹo Hải Hà). Đầu những năm 1970, quy mô sản xuất của ty được mở rộng ngoài một số thiết bị cũ, Công ty còn được trang bị lắp dặt thêm hai dây chuyền sản xuất mì sợi do Liên Xô (cũ) giúp đỡ và xây dựng. Công ty chuyển từ sự quản lý của Bộ Công Nghiệp nhẹ sang Bộ Lương Thực và Thực Phẩm. *Thời kỳ từ 1975 - 1985: ở thời kỳ này, Công ty khắc phục những thiệt hại trong chiến tranh, từng bước ổn định trong sản xuất. Trong giai đoạn này Công ty có sự biến động lớn trong sản xuất kinh doanh. Năm 1976, Bộ Công Nghiệp do nhập nhà máy sữa Mẫu Sơn và thành lập phân xưởng sấy phun. Năm 1978, Bộ lại điều cho nhà máy 4 dây chuyền sản xuất mì ăn liền, giữa năm 1979 những dây truyền này lại bắt đầu hoạt động. Đến năm 1981 nhà máy lắp đặt 4 lò sản xuất bánh kem xốp. Năm 1982 do khó khăn về nguyên vật liệu, đặc biệt nhà nước thay đổi về nhu cầu lương thực nên phân xưởng mì sợi giải tán. Một số cán bộ, công nhân của nhà máy được điều động đi nơi khác. Thời kỳ này những sản phẩm của nhà máy vẫn là những sản phẩm chiếm vị trí độc quyền ở phía Bắc như: bánh quy kem xốp, sữa đậu nành... Đặc biệt nhà máy đã tận dụng mặt bằng tiến hành mở rộng sản xuất của phân xưởng kem xốp, lắp đặt thêm 6 lò kem xốp, cải tạo dây chuyền mì ăn liền để sản xuất bánh phồng tôm chất lượng cao. *Thời kỳ từ 1992-1996: - Trên đà phát triển, Công ty tiếp tục đầu tư vào chiều sâu đặc biệt là các mặt hàng truyền thống như bánh kẹo các loại, mua sắm thêm thiết bị mới, thay đổi mẫu mẵ mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường cạnh tranh. - Năm 1993 Công ty đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất bánh kem xốp của CHLB Đức. Đây là một dây chuyền sản xuất bánh hiện đại ở VN. - Năm 1994 Công ty lắp đặt thêm một dây chuyền sản xuất bánh kem xốp phủ Sôcôla và các sản phẩm bánh kẹo khác. - Năm 1996 Công ty triển khai dự án liên doanh với Bỉ sản xuất kẹo Sôcôla. Sản phẩm này đã làm phong phú thêm sản phẩm của Công ty trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Cũng trong năm 1996 Công ty đã xây dựng và triển khai lắp đặt thêm hai dây chuyền sản xuất kẹo cứng và kẹo mềm cao cấp với trang thiết bị hiện đại và đồng bộ, chuyển giao công nghệ của CHLB Đức. *Thời kì từ 1997 đến na: - Năm 1998 Công ty đầu tư và mở rộng dây chuyền sản xuất bánh quy Đài Loan lên gấp đôi. Người ta chuyển toàn bộ khu này sang khu mì ăn liền (cũ) của Công ty. - Giữa năm 2001 Công ty đầu tư dây chuyền sản xuất, nâng gấp đôi công suất của dây chuyền sản xuất bánh kem xốp lên. - Cuối năm 2001 Công ty đầu tư thêm dây chuyền sản xuất Sôcôla (công nghệ của Đức).Sau khi nâng cấp công suất bánh kem xốp và sản xuất Sôcôla thì giá trị của tài sản tăng lên gấp đôi. - Năm 2003 Công ty lắp đặt thêm dây chuyền sản xuất bánh mềm. 1.2. Những đặc điểm sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty bánh kẹo Hải Châu : a. Bộ máy quản lý Ban Giám Đốc Phó Giám Đốc Kĩ THUậT Phó Giám Đốc Kinh Doanh Phòng Kỹ thuật Phòngxdcb Phòng Bảo vệ Phòng Tài vụ Phòng tổ chức Phòng KHVT Phòng HCQT VP Đại diện TPĐN Cửa hàng GTSP VP Đại diện TPHCM px Kẹo PX bột canh PX Bánh 1 PX Bánh 2 PX Bánh 3 Các PX khác px Phục vụ Dựa vào sơ đồ trên ta thấy bộ máy quản lý của Công ty bao gồm hai cấp là cấp Công ty và cấp phân xưởng. Cơ cấu tổ chức của nó được bố trí theo cơ cấu trực tuyến - chức năng. Do ưu điểm của cơ cấu này phù hợp với những doanh nghiệp có qui mô vừa nên kết hợp được ưu điểm của cơ cấu trực tuyến và cơ cấu chức năng với nhau. Trong cơ cấu quản lý này, đường quản trị từ trên xuống dưới vẫn tồn tại nhưng ở các cấp doanh nghiệp người ta bố trí xây dựng thêm các điểm chức năng theo các lĩnh vực công tác. Bộ máy tổ chức của Công ty Bánh kẹo Hải Châu bao gồm Ban giám đốc, Bẩy phòng ban chức năng và năm phân xưởng sản xuất. Sau đây là bảng cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty Bánh kẹo Hải Châu năm 2002: Bảng 1: Cơ cấu bộ máy tổ chức Công ty năm 2002 TT Danh mục Số người I Ban Giám đốc 3 II 1 2 3 4 5 6 7 Các phòng ban chức năng Phòng tổ chức Phòng tài chính - kế toán Phòng kỹ thuật Phòng kế hoạch - vật tư Phòng hành chính Phòng bảo vệ Ban xây dựng cơ bản 5 11 6 9 12 6 16 III 1 2 3 4 5 6 Các phân xưởng Phân xưởng bánh I Phân xưởng bánh II Phân xưởng bánh III Phân xưởng kẹo Phân xưởng bột canh Phân xưởng cơ điện 217 65 92 83 127 30 (nguồn phòng: Kế hoạch - Vật tư ) Sau đây là nhiệm vụ của từng cấp quản lý và sản xuất trong Công ty: * Ban Giám đốc : Giám đốc Công ty là người được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý Công ty, là người lãnh đạo cao nhất của Công ty. Giám đốc chỉ đạo trực tiếp các phòng ban chức năng và các phân xưởng sản xuất. Phó Giám đốc kỹ thuật tham mưu trực tiếp cho Giám đốc về các công tác kỹ thuật, bồi dưỡng và nâng cao trình độ của công nhân sản xuất, điều hành kế hoạch tác nghiệp của Công ty, trực tiếp chỉ đạo các công tác của Phòng kỹ thuật, phân xưởng cơ điện và các khâu kỹ thuật của các phân xưởng sản xuất. Phó Giám đốc kinh doanh tham mưu trực tiếp cho Giám đốc về công tác kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. * Phòng tổ chức giúp Ban Giám đốc về các công tác tổ chức bộ máy quản lý và lực lượng lao động toàn Công ty, thay mặt Ban Giám đốc thực hiện các chế độ chính sách với cán bộ công nhân viên và tuyển dụng lao động hợp đồng. * Phòng tài chính - kế toán giúp Ban Giám đốc công tác kế toán thống kê và tình hình tài chính của Công ty. * Phòng kỹ thuật giúp Ban Giám đốc về công tác thiết kế kỹ thuật và tổ chức quản lý các quy trình công nghệ sản xuất, nghiên cứu các mặt hàng mới, quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty. * Phòng kế hoạch - vật tư giúp Ban Giám đốc cung cấp các thông tin kinh tế kịp thời để đáp ứng hạch toán kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, cung ứng vật tư, định giá sản phẩm. * Phòng hành chính giúp Ban Giám đốc về công tác hành chính quản trị, đời sống và y tế của Công ty. * Phòng bảo vệ giúp Ban Giám đốc bảo về tài sản của Công ty, tham gia lực lượng tự vệ và nghĩa vụ quân sự. * Ban xây dựng cơ bản giúp Ban Giám đốc về kế hoạch xây dựng, sửa chữa nhỏ và lắp đặt thiết bị mới của Công ty. * Phân xưởng bánh I sản xuất các loại bánh quy, Phân xưởng bánh II sản xuất các loại bánh kem xốp và phân xưởng bánh III sản xuất bánh quy. Ba phân xưởng này tập trung những dây chuyền sản xuất hiện đại, có hiệu quả cao. Quy trình sản xuất tuy có khác nhau về nguyên liệu đầu vào và một số công đoạn sản xuất phụ nhưng nói chung thì sản xuất các loại bánh đều có nhiều công đoạn giống nhau. * Phân xưởng kẹo sản xuất các loại kẹo gồm hai dây chuyền sản xuất theo quy trình tiên tiến, sản phẩm được đóng gói với mẫu mã đẹp gồm cả kẹo cứng lẫn kẹo mềm. * Phân xưởng bột canh sản xuất các loại bột canh thường và trộn I-ốt gồm hai dây chuyền sản xuất có công nghệ đơn giản, máy móc thô sơ, các công đoạn sản xuất chủ yếu là thủ công. Do vậy công nhân trực tiếp sản xuất ở môi trường có độ độc hại cao. * Phân xưởng cơ điện gồm các công nhân kỹ thuật chuyên sửa chữa và bảo dưởng thiết bị máy móc của Công ty. Như vậy ta có thể thấy cơ cấu tổ chức của Công ty tương đối hoàn thiện. Các bộ phận đảm nhiệm tốt các phần việc của mình và giúp Ban Giám đốc cũng như toàn Công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt hiệu quả cao. b. Sử dụng nguồn nhân lực : Lực lượng lao động của Công ty những năm gần đây dao động trong khoảng 650 - 700 người. Lao động biên chế chủ yếu là lao động gián tiếp, tập trung ở các phòng ban chức năng và lực lượng này đang có xu hướng được tinh giảm gọn nhẹ. Hiện tại nhân viên ở các phòng ban đều có bằng Đại học, trung cấp. Lực lượng lao động trực tiếp chủ yếu tập trung ở các phân xưởng sản xuất. Lực lượng này làm việc theo hợp đồng có thời hạn được ký trực tiếp giữa Giám đốc với người lao động. Thời hạn của hợp đồng thường từ 1 -2 năm. Bậc thợ bình quân của công nhân là 4,5 là tương đối cao. Mỗi quý, mỗi năm Công ty đều tổ chức thi nâng cao tay nghề cho công nhân. Do vậy chất lượng tay nghề của họ ngày càng cao. Người công nhân được nghỉ lễ 8 ngày/năm và nghỉ phép 12 ngày/năm. Đồng thời họ phải thực hiện đóng BHXH và BHYT, được hưởng các chế độ, chính sách BHXH và BHYT theo Luật định. c. Nguồn cung ứng nguyên liệu : Sản xuất bánh kẹo cần một số nguyên liệu chính như bột mỳ, đường kính, dầu ăn, muối và một số hương liệu khác. Các nguyên liệu này được nhập từ nước ngoài và một số có ở thị trường trong nước. Đối với các nguyên liệu nhập từ nước ngoài như bột mỳ, dầu ăn, hương liệu... Công ty phải nhập qua khâu trung gian và chịu ảnh hưởng khá nhiều do sự biến động của thị trường nước ngoài. Đối với một số nguyên liệu mua từ trong nước, Công ty thường mua trực tiếp từ người sản xuất và ký hợp đồng dài hạn với họ. Nguyên liệu trong nước có tính ổn định cao hơn là loại nhập ngoại cho nên Công ty đang nghiên cưú để từng bước thay thế một số nguyên liệu nhập ngoại bằng loại sản xuất trong nước. II. hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu : 1. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong vài năm gần đây: 1.1. Tình hình sản xuất : Hoạt động sản xuất thay đổi theo nhu cầu của thị trường, do đó Công ty bánh kẹo Hải Châu đã lập kế hoạch sản xuất theo khả năng tiêu thụ, theo mức thành phẩm tồn kho và năng lực sản xuất. Nhu cầu của thị trường ngày càng đòi hỏi không những về chất lượng sản phẩm mà còn cả về chủng loại sản phẩm. Vì vậy nắm bắt được tình hình đó, Công ty sản xuất nhiều chủng loại hàng hoá trên một dây chuyền sản xuất. Đây là một công tác khó khăn đặt ra cho Phòng kế hoạch - vật tư và Phó Giám đốc kinh doanh. Họ phải xác định được khả năng tiêu thụ của từng chủng loại hàng hoá để ra kế hoạch sản xuất từng chủng loại sản phẩm đó theo chức năng của từng dây chuyền sản xuất. Đồng thời còn phải xác định số lượng sản xuất tối ưu cho mỗi lần sản xuất sao cho chi phí chuyển lần là thấp nhất. Thực tế thì sản lượng tối thiểu của một lần sản xuất là 1 - 2 ca sản xuất. Ví dụ như Công ty chỉ có hai dây chuyền sản xuất kẹo cứng và kẹo mềm nhưng lại sản xuất ra tất cả các chủng loại kẹo mà Công ty cung ứng trên thị trường như kẹo cứng nhân sôcôla, kẹo mềm sôcôla, kẹo sữa, trái cây, cốm... Điều này đòi hỏi Công ty phải có những kế hoạch sản xuất sáng suốt và hợp lý. Bảng số liệu sau phản ánh tình hình sản xuất chính của Công ty trong vài năm gần đây. Bảng này phản ánh quy mô sản xuất theo chỉ tiêu hiện vật. Theo chỉ tiêu này ta sẽ so sánh và đánh giá được sự thay đổi của quy mô sản xuất của từng phân xưởng và cả từng chủng loại sản phẩm. Đồng thời để so sánh về mặt giá trị, Công ty đã tính giá trị tổng sản lượng hàng hoá sản xuất theo một mức giá cố định, cụ thể là những năm sản xuất sau năm 1999 thì đều lấy giá cố định năm 1999 để so sánh. Bảng 2 : Tình hình sản xuất chính những năm gần đây của Công ty : TT Sản phẩm ĐV Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Bánh quy các loại Tấn 2.228,98 2.873,19 3.019,99 3.890,41 2 Kem xốp các loại - 327,55 583,11 572,77 576,89 3 Bột canh Bột canh thường Bột canh Iốt - - - 2.561,38 2.561,38 - 3.284,77 2.842,00 442,77 4.818,01 2.810,61 2.007,40 5.489,70 2.706,13 2.783,57 4 Kẹo các loại - 303,41 101,59 976,33 1.088,66 5 Mỳ ăn liền - 17,41 28,43 - - 6 Bia Lít 29.681 - - - 7 Rượu chai 6.200 11.435 - - 8 Nước khoáng chai 82.540 5.560 - - (Nguồn phòng Kế hoạch - Vật tư ) Quan sát bảng trên ta có thể nhận thấy rằng sản lượng sản xuất các mặt hàng được thay đổi hàng năm theo những thay đổi của khả năng tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó Công ty còn thay đổi chủng loại mặt hàng kinh doanh, cho ngừng sản xuất một số mặt hàng không có hiệu quả như mỳ ăn liền, bia, rượu, nước khoáng. Sau đây là bảng giá cố định năm 1999. Bảng 3 : Đơn giá cố định năm 1999 của các loại sản phẩm. Đơn vị tính : Bánh, kẹo, bột canh và mỳ ăn liền : đồng/kg. Bia : đồng/lít. Nước khoáng và rượu : đồng/chai. TT Sản phẩm Đơn giá TT Sản phẩm Đơn giá 1 Hương thảo 8.975 9 Kem xốp thỏi 26.000 2 Hướng dương 8.975 10 Kem xốp sôcôla 32.000 3 Lương khô 8.975 11 Kẹo các loại 15.000 4 Hải châu 10.108 12 Bột canh 5.000 5 Quy kem 11.120 13 Mỳ ăn liền 6.000 6 Quy bơ 10.500 14 Bia 3.000 7 Quy hoa quả 12.000 15 Rượu 5.000 8 Kem xốp 18.000 16 Nước khoáng 2.050 (Nguồn phòng Kế hoạch – Vật tư ) Theo đơn giá cố định trên ta có thể tính giá trị tổng sản lượng hàng hoá cho các năm và so sánh được mức tăng. Sau đây là giá trị tổng sản lượng hàng hoá vài năm gần đâycủa công ty: Bảng 4 : Giá trị tổng sản lượng hàng hoá hàng năm của Công ty : Đơn vị tính : Triệu đồng Năm Giá trị tổng sản lượng hàng hoá So với năm trước 1999 44.692,17 95,13% 2000 58.930,58 131,85% 2001 80.209,00 136,10% 2002 92.744,00 115,60% (Nguồn phòng Kinh doanh ) Như vậy nhờ những điều chỉnh hợp lý trong sản xuất, biết phát huy những sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao, mỗi năm giá trị tổng sản lượng hàng hoá của Công ty thêm tăng. Đây là bước tiến bộ được mang lại bởi cung cách quản lý hợp lý, phù hợp với đặc điểm của Công ty và cần được phát huy hơn nữa. 1.2. Tình hình tiêu thụ : Tính đến thời điểm hiện nay, Công ty bánh kẹo Hải Châu sản xuất và tiêu thụ 3 mặt hàng chủ yếu là bánh, kẹo và bột canh các loại. Hoạt động tiêu thụ của Công ty được đảm nhiệm bởi Phó Giám đốc kinh doanh, phòng kinh doanh và phòng kế hoạch - vật tư. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty gần như trải khắp toàn quốc gồm cả ba miền Bắc, Trung và Nam. Bởi do đặc tính đa dạng của sản phẩm và thị trường nên công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty cùng gặp khá nhiều khó khăn. Hiện tạo thị trường chủ yếu của Công ty là thị trường Miền Bắc và Miền Trung, tập trung ở một số Tỉnh thành như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Hưng, Hà Bắc, Lai Châu, Lao Cai, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Ninh Bình, Hà Nam và đặc biệt là thị trường Hà Nội. Hình thức tiêu thụ chủ yếu của Công ty là thông qua hệ thống các đại lý bán lẻ, bán buôn và bán trực tiếp. Hệ thống kênh tiêu thụ của Công ty được thể hiện bằng sơ đồ sau : Người tiêu dùng cuối cùng Người bán lẻ 3 Người bán lẻ 2 Người bán lẻ 1 Đại lý 2 Đại lý 3 Đại lý 1 Công ty Hệ thống kênh tiêu thụ của Công ty chủ trương bán hàng cho các đại lý với khối lượng lớn, sau đó sản phẩm sẽ thông qua thị trường bán lẻ để sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Hình thức bán sản phẩm trực tiếp giúp người tiêu dùng có thể mua trực tiếp các sản phẩm của Công ty ( không qua trung gian ) từ hai cửa hàng tại đường Minh Khai và ngay trước cửa Công ty. Hai cửa hàng này có chức năng giới thiệu sản phẩm kết hợp bán hàng và chào hàng trực tiếp. Ưu điểm của hình thức này đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, đảm bảo sự tiếp xúc chặt chẽ giữa Công ty và người tiêu dùng. Ngoài ra nó còn giúp Công ty hạn chế tối đa sự cạnh tranh của đối thủ ngay trên thị trường nơi Công ty hoạt động. Các thông tin phản hồi từ hình thức này rất chính xác, giúp Công ty chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm thông qua các đại lý bán buôn và bán lẻ là hình thức phổ biến đang được áp dụng ở Công ty. Họ là những đại lý tư nhân và đại lý quốc doanh. Các đại lý tư nhân là các đại lý trung thành nhất của Công ty. Họ giúp Công ty tổ chức đưa sản phẩm vào thị trường thông suốt và nhịp nhàng. Họ mở rộng thị trường và tăng số lượng khách hàng cho Công ty bằng cách cho hưởng một số ưu đãi về giá. Với sự nỗ lực của họ, sản lượng hàng hoá tiêu thụ ngày càng nhiều và thị trường của Công ty được mở rộng. Các đại lý quốc doanh là khách hàng có khả năng tài chính và có thể thanh toán ngay, do đó Công ty đỡ được phần nào khó khăn về tài chính. Mặc dù khối lượng đặt mua không nhiều nhưng họ có hệ thống cửa hàng bán lẻ lớn, hoạt động rộng khắp nên tốc độ tiêu thụ khá nhanh. Năm 1999 Công ty chỉ có 40 đại lý, năm 2000 có 90 đại lý nhưng đến năm 2002 Công ty đã có trên 150 đại lý, trong đó có 50 đại lý quốc doanh, còn lại là các đại lý tư nhân. Con số này chắc chắn còn gia tăng trong năm 2003. Muốn mở một đại lý tiêu thụ cho Công ty, đối tác kinh doanh phải có tư cách pháp nhân ( nếu đối tác là doanh nghiệp nhà nước, cửa hàng quốc doanh ) hoặc có khả năng thế chấp ( nếu đối tác tư nhân ) và đối tác phải có khả năng tiêu thụ được một lượng hàng tối thiểu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là điểm khuyến khích cho các đại lý của Công ty. Riêng các đại lý là tư nhân thì khả năng thế chấp của họ có thể là tài sản hoặc một số tiền nhất định. Khi các doanh nghiệp có đủ yếu tố này, họ sẽ được nhận làm đại lý, được nhập một lượng hàng và tiêu thụ nó trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu không hoàn thành kế hoạch tiêu thụ đó thì đại lý sẽ không được tiếp tục nhập hàng vì hoạt động không đủ hiệu quả. Các đại lý của Công ty được hưởng một số ưu đãi nên số lượng đại lý của Công ty ngày càng nhiều, thị trường tiêu thụ càng được mở rộng, sản lượng tiêu thụ ngày càng cao và hiệu quả kinh doanh sẽ gia tăng nhanh chóng. Sau đây là tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong vài năm gần đây. Bảng 5 : Tình hình tiêu thụ sản phẩm vài năm gần đây : Đơn vị tính: triệu tấn TT Sản phẩm 1999 2000 2001 2002 1 2 3 4 5 6 Bánh quy các loại Kem xốp Lương khô Kẹo các loại Bột canh thường Bột canh Iốt 2.195,79 330,15 346,94 284,78 2.485,51 - 2.865,38 566,77 446,35 113,38 2.898,54 421,83 3.050,44 541,95 624,95 719,62 2.792,07 2.006,15 2.642,24 605,35 1.216,70 1.212,08 2.756,06 2.783,57 (Nguồn phòng Kế hoạch – Vật tư ) Như vậy tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong vài năm gần đây có nhiều bước tiến quan trọng. 2.2. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Hải Châu : Hiệu quả kinh doanh là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là mục tiêu lớn nhất của tất cả các doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty bánh kẹo Hải Châu, ta hãy đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. A. Sự ảnh hưởng của các nhân tố khách quan : Đây là các nhân tố có ảnh hưởng một cách gián tiếp đến hoạt động quá trình sản xuất và hiệu quả kinh doanh của Công ty thông qua môi trường vĩ mô. a. Môi trường vĩ mô của Công ty : Là tập hợp tất cả các nhân tố nằm ở bên ngoài, nó tác động và chi phối mạnh mẽ đến sự tồn tại ,vận hành và phát triển của Công ty đó là: *Môi trường xã hội và dân cư. Công ty bánh kẹo Hải Châu nằm trên đường Mạc Thị Bưởi quận Hai Bà Trưng ở phía Nam Hà Nội, là trung tâm văn hoá - chính trị - kinh tế của cả nước, có tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định. Với dân số 2.8 triệu người, tỷ lệ sinh đẻ vẫn khá ổn định. Tỷ lệ người ở độ tuổi lao động di cư từ nông thôn ra thành phố làm ăn sinh sống ngày càng cao làm cho nhu cầu tiêu dùng tăng lên. Hơn nữa Hà Nội là thủ đô của cả nước, là nơi tập trung các trường đại học nổi tiếng, hội tụ các tầng lớp thanh niên trong cả nước về đây học tập và rèn luyện cũng làm cho mức tiêu dùng ở đây tăng lên. Đây cũng có thể là những cơ hội để Công ty nghiên cứu và nắm bắt các nhu cầu tiêu dùng mở rộng địa bàn kinh doanh, mở rộng mặt hàng kinh doanh, mở rộng mặt hàng kinh doanh. Vì Hà Nội là trung tâm văn hoá kinh tế của cả nước nên có nhiều công ty cùng kinh doanh cùng ngành nghề với Công ty bánh kẹo Hải Châu nên hoạt đông thương mại luôn diễn ra sôi nổi dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao hơn do thu nhập tăng lên, ngoài đòi hỏi hàng hoá có chất lượng tốt thì chất lượng phục vụ cũng phải cao. Điều này vừa là cơ hội vừa là mối đe doạ đối với Công ty. *Môi trường kinh tế: Nền kinh tế nước ta vận hành theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sự quản lý của cả nước đã chủ trương thành lập kỷ cương trật tự cho một cơ chế mới, đồng thời cho ra đời hàng loạt các chính sách phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty, tạo đà cho nền kinh tế phát triển và với chính sách kinh tế mở mà đặc trưng là sự mở rộng đa dạng hoá hoạt động ngoại thương, thu hút dòng đầu tư nước ngoài và sự hội nhập sâu sắc với hệ thống thương mại quốc tế thông qua việc gia nhập ASEAN , APEC ký kết thực hiện nhiều hiệp định song phương và xin gia nhập WTO. Đây là những cơ hội tạo ra các khả năng về nguần lực, vốn, công nghệ giúp doanh nghiệp từng bước phát triển nâng cao sức cạnh tranh. Bên cạnh đó cũng là một thách thức đối với Công ty nhằm tạo ra sự ổn định trong môi trường kinh tế trong và ngoài nước đầy biến đông và cạnh tranh lẫn nhau. Thu nhập của mọi tầng lớp dân cư cũng tăng lên, dẫn đến nhu cầu khả năng thanh toán tăng thêm làm cho sức mua hàng hoá của doanh nghiệp ngày càng lớn. Tuy nhiên vẫn còn một số điều không thuận lợi: Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa ổn định và vững chắc, kết cấu hạ tầng kinh tế chưa cao, tình trạng kinh tế ngầm và kinh doanh phi pháp còn nhiều...do đó số lượng lao động, các chủ thể kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng tăng tạo ra một thị trường sôi động và cạnh tranh ngày một khốc liệt. Đây là mối đe doạ đối với sự tồn tại của Công ty. *Môi trường công nghệ : Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay thì công nghệ càng trở nên quan trọng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Công ty. Đối với các công ty sản xuất kinh doanh thì họ rất coi trọng các trang thiết bị sản xuất như các dây chuyền sản xuất, công nghệ chế biến bởi vậy để tồn tại và giành chiến thắng trong kinh doanh thì Công ty phải luôn đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao năng suất và công suất kinh doanh mức tiêu hao năng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9466.doc
Tài liệu liên quan