Lời nói đầu
Với bất kỳ một doanh nghiêp nào, vốn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động kinh doanh. Đối với Ngân hàng thương mại (NHTM) – tổ chức kinh doanh ngoại tệ – mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay từ số tiền huy động được và làm các dịch vụ ngân hàng thì vai trò của nguồn vốn càng trở nên quan trọng. Quy mô, cơ cấu, và các đạc tính của nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của một NHTM, bao gồm quy mô, cơ cấu, thời
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn tài sản và khẳ năng cung ứng dịch vụ, từ đó quyết định khẳ năng sinh lời.
Trong khi chưa khai thác được số lượng tiền nhàn rỗi trong các ngân hàng, tổ chức kinh tế và dân cư, nhiều ngân hàng vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn vay, kể cả vốn vay của các ngân hàng nước ngoài, để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng tài sản, vì vậy chi phí nguồn vốn cao, sự ổn định và hiệu quả kinh doanh thấp và chưa phát huy nội lực để phát triển một cách vững chắc. Các NHTM Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn trung và dài hạn cho nhu cầu đầu tư. Việc thu hút nguồn vốn với chi phí cao, sự ổn định thấp và không phù hợp với sử dụng vốn về quy mô, kết cấu làm hạn chế khẳ năng sinh lời, đồng thời đặt ngân hàng trước rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, và hơn thế có thể mất ổn định trong toàn bộ hệ thống tài chính như nhiều quốc gia từng lâm vào. Do vậy, yêu cầu tăng cường huy động vốn có mức chi phí hợp lý và ổn định cao được đặt ra hết sức cấp thiết đối với NHTM Việt Nam nói chung, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNO&PTNT) tỉnh Vĩnh Phuc nói riêng.
Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc trải qua nhiều năm đã đạt tăng trưởng đáng kể trong mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh nhưng thực tiễn đang đạt ra những thách thức mới ở phía trước. Do ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội địa phương, những kho khăn từ môi trường kinh tế vĩ mô, từ nội tại của mình và cạnh tranh ngày cang gia tăng bởi thêm hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng về huy động vốn như Bảo hiểm, Quỹ hỗ trợ phát triển, bưu điện huy động tiền gửi tiết kiệm, Kho bạc huy động trái phiếu … Mặt khác, trần lãi suất cho vay ngày càng giảm thấp và những đặc điểm riêng có của mình thì hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc cần áp dụng những giải pháp thích ứng.
Nhận thức rõ tính cấp thiết của vốn, với ý thức trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc, em chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc”
Ngoài Lời nói đầu và kết luận, nội dung chính của chuyên đề được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn và kế toán huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ huy động vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ huy động vốn và tác kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng song thời gian thực tập có hạn và vốn kiến thức còn hạn hẹp nên chuyên đề chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I
Lý luận cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn và kế toán huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.1. Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ huy động vốn
1.1.1. Khái niệm và vai trò của NHTM
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính ra đời dựa trên cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa và dựa trên sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng, các khu vực. Ngân hàng dược coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường, một động lực cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò như trên, Ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy mỗi nước đều xây dựng những khung pháp lý quy định giới hạn hoạt động của mỗi Ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có quan niệm và mô hình tổ chức Ngân hàng khác nhau. Thông thường người ta dựa vào tính chất, mục đích đối tượng hoạt động của nó trên thị trường tài chính.
ở Việt Nam NHTM được hiểu là: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu tư, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu... và làm phương tiện thanh toán”.
Trong nền kinh tế NHTM giữ một vai trò rất quan trọng:
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân, tức là mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thế đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời được giải pháp ra từ quá trình sản xuất và lưu thông, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy động được, các Ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng phạm vi sản xuất, công nghệ, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng lao động, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng đáp ứng vốn cho doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian thanh toán cho các tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội. Tổ chức công tác thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sưc thực sự là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại thực hiện việc điều hoà các luồng tiền, tích tụ và phân phối cho các ngành. Với những nội dung hoạt động như vậy, Nhà nước đã sử dụng Ngân hàng thương mại như là một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với hệ thống tài chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính mỗi nước phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ ngân hàng khác. Ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng thông qua các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các Ngân hàng nước ngoài. Hệ thống Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của hệ thống tài chính thế giới.
1.1.2. Khái niệm về nguồn vốn của Ngân hàng thương mại.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư, hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Về thực chất, thì nguồn vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng. Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triền.
1.1.3. Tính chất và vai trò của công tác huy động vốn
1.1.3.1. Tính chất của nguồn vốn huy động.
Vốn huy động là khoản tiền tệ được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền ký thác và vay của các tổ chức tín dụng khác. Các khoản tiền này không thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng, nhưng Ngân hàng được quyền sử dụng và phải hoàn trả cho chủ sở hữu trong một thời gian nhất định. Như vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh Ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả cho khách hàng.
Vốn huy động có vai trò lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, vì trong cơ cấu nguồn vốn thì vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn thường từ 70%-80%, vốn huy động có quyết định đến chi phí đầu vào của Ngân hàng vì vốn này chiếm tỷ trọng cao và có nhiều kỳ hạn với lãi suất khác nhau, muốn làm kinh doanh phải chú ý đến huy động vốn tại chỗ của Ngân hàng và chi phí đầu vào đó cũng chính là nguyên tắc quản lý vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Vốn huy động còn quyết định hoàn toàn đến vị thế khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường.
1.1.3.2. Vai trò của công tác huy đông vốn.
* Góp phần tiết kiệm chi phí xã hội, tạo những điều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức xã hội.
Quá trình huy động vốn của Ngân hàng chính là quá trình tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong xã hội, sau đó cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất, đầu tư và phát triển kinh tế. Như vậy, huy động vốn kịp thời đã tiết kiệm thời gian, chi phí nguồn lực, đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, những người tiết kiệm thu thêm được một phần lãi từ tiền gửi của mình, tức đồng tiền của họ từ chổ dư thừa đã có khả năng sinh lời. Ngược lại, những người thiếu vốn thì có vốn kịp thời cho sản xuất, tăng lợi nhuận.
* Huy động vốn làm gia tăng vốn trong nước, kích thích huy động vốn nước ngoài.
Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy động trong nước còn nguồn vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó vốn trong nước là yếu tố quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng.
Vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước thể hiện:
- Thứ nhất, tạo tính chủ động trong quá trình huy động vốn, chi phí huy động vốn thấp, hiệu quả kinh tế đối với xã hội cao.
- Thứ hai, tạo các điều kiện thuận lợi để hấp thụ và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
- Thứ ba, hình thành và tạo lập sức mạnh hồi sinh cho nền kinh tế, hạn chế các tiêu cực phát sinh về kinh tế -xã hội do đầu tư nước ngoài mang lại. Nhờ vậy tính độc lập tự chủ của đất nước được bảo đảm, tránh lệ thuộc nước ngoài do quan hệ vay mượn.
Xét về bản chất, huy động vốn của các Ngân hàng thương mại là trực tiếp làm cho qui mô tích luỹ trong nước ngày càng tăng, chuyển tối đa nguồn vốn đang nhàn rổi thành nguồn vốn hữu ích có khả năng sinh lời. Còn huy động vốn nước ngoài có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện kinh tế của nước ta còn nghèo, thiếu vốn mà nhu cầu đầu tư phát triển lại cao.
Đặc biệt các NHTM còn có khả năng tính toán các điều kiện và lợi ích cho vay trả, khả năng quản lý có hiệu quả vốn vay và vai trò quản lý ngoại tệ để thực hiện chính sách ngoại hối của một quốc gia.
* Huy động vốn góp phần thực hiện chính sách tài chính và chính sách tiền tệ quốc gia.
Hoạt động huy động vốn qua Ngân hàng góp phần kiềm chế và kiểm soát mức lạm phát thông qua việc điều chỉnh lượng tiền tham gia vào quá trình lưu thông, ổn định giá trị đồng tiền. Chẳng hạn: Ngân hàng luôn là nơi cung cấp một lượng vốn tín dụng lớn, tạm ứng các khoản chi tiêu và đầu tư của chính phủ cho các dự án về sản xuất kinh doanh và những dự án thực hiện chính sách xã hội, bù đắp những sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách thông qua hình thức vay nợ giữa ngân sách với Ngân hàng.
* Huy động vốn quyết định sự tồn tại của các Ngân hàng thương mại.
ở nước ta hiện nay, thị phần hoạt động của tín dụng chiếm khoảng 80%. Con số này khá cao chứng tỏ hoạt động tín dụng là chủ yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng thương mại. Mà muốn có hoạt động tín dụng phải có vốn, muốn có vốn phải huy động vốn và chủ yếu từ nền kinh tế. Như vậy huy động vốn phải là bước khởi đầu quan trọng nhất để có được bước khởi động tiếp theo trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng. Qua quá trình huy động vốn, Ngân hàng sẽ có vốn để cho vay và thu lợi nhuận, góp phần thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
1.1.4. Các hình thức huy động vốn.
Ngân hàng thương mại muốn có tiền để đem đầu tư hoặc cho vay, thì trước tiên Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định và ổn định. Trong khi đó lượng vốn tự có là rất ít, muốn có một lượng vốn lớn hơn thì hầu hết các Ngân hàng phải đi huy động vốn. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng được thực hịên dưới hình thức sau :
1.1.4.1. Căn cứ theo thời gian huy động vốn.
- Huy động ngắn hạn: đặc điểm của hình thức này là chíêm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn huy động, được sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống), lãi suất thường thấp .
- Huy động trung hạn: loại vốn này có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng, ngân hàng chủ yếu sử dụng cho doanh nghiệp vay khoản tín dụng trung hạn.
- Huy động dài hạn: hình thức huy động này chiếm tỷ trọng nhỏ, đây là khoản vay mà Ngân hàng huy động lớn trên 60 tháng, chi phí cho việc huy động này là cao hơn so với 2 hình thức trước, nguồn này Ngân hàng thường dùng để cho vay dài hạn như đầu tư xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất kinh doanh ...
1.1.4.2 Căn cứ vào đối tượng huy động vốn.
- Huy động vốn từ dân cư: Vốn này có nguồn gốc từ những khoản dự phòng cho tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì các khoản dự phòng cũng tăng lên. Nắm bắt được quy luật này, Ngân hàng thương mại đã sử dụng nghiệp vụ huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu kinh tế và thu được lợi nhuận .
- Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp: Các doanh nghịêp do nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên các đơn vị này thường gửi một khối lượng tiền lớn vào Ngân hàng để hưởng tiện ích thanh toán. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, quan hệ với các đối tượng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản thanh tóan nên luôn tồn tại một số dư nhất định trên tài khoản của Ngân hàng. Nguồn này được Ngân hàng huy động, có chi phí thấp và sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung dài hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp .
- Huy động từ các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác: Vốn này nhằm để giải quyết tình trạng thiếu vốn của Ngân hàng. Vốn vay này bao gồm : vay Ngân hàng Trung Ương và các tổ chức tín dụng .
Theo quy định, ở Việt Nam vốn vay giữa hai Ngân hàng được thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng, vốn cho vay phải được đảm bảo bằng hình thức thế chấp hoặc cầm cố bằng tài sản đi vay; tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại Ngân hàng Trung Ương, các chứng từ có giá khác. Trong trường hợp, các Ngân hàng thương mại đã vay mượn lẫn nhau nhưng vẫn thiếu vốn, mất khả năng thanh toán thì Ngân hàng thương mại có thể vay Ngân hàng Trung Ương thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá. Ngân hàng Trung Ương bằng việc cho vay để bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn theo kế hoạch đã phân phối cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh; tái chíêt khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc mà các tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay chưa đáo hạn.
1.1.4.3. Căn cứ vào công cụ huy động vốn.
- Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát séc).
Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ ba bằng cách phát hành séc. Đặc điểm quan trọng đối với người gửi là: chuyển nhượng dễ dàng, mục đích giao dịch là chính, thường được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không vì mục đích kiếm lãi. Đối với Ngân hàng chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì cũng rất nhỏ ). Số dư của loại tiền này phụ thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của Ngân hàng trong việc dự đoán về biến động của thị trường tiền tệ. Ngân hàng thường sử dụng hai loại tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai.
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ sở hưũ của nó có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi.
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản thường được sử dụng cho các tổ chức kinh tế, nó có thể có số dư bên có hoặc bên nợ. Dư bên có phản ánh số tìên hiện có trong tài khoản của khách hàng, ngược lại với số dư bên nợ phản ánh số tín dụng Ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi suất hai bên đều do hai bên thoả thuận.
Tìên gửi không kỳ hạn có chi phí huy động thấp, song có tính ổn định thấp. Nếu thu hút được lượng khách hàng lớn, đảm bảo luôn có một số dư ổn định, Ngân hàng có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc mua bán các chứng khoán có tính linh hoạt cao như kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc.
- Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm:
Nếu tiền gửi không kỳ hạn số dư tăng giảm phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm lại phụ thuộc vào lãi suất trả lãi.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ sở hữu có quỳên rút ra theo thời hạn đã thoả thuận với Ngân hàng, mục đích chính của loại tiền gửi này là hưởng lãi chứ không phải vì hưởng các tiện ích trong thanh toán. Đặc trưng của loại tiền gửi này là không dùng thanh toán, hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này đối với Ngân hàng rất cao vì nó có kỳ hạn rõ ràng. Chi phí về nguồn vốn cho loại tiền gửi này đối với Ngân hàng cao hơn tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm: Đối với Ngân hàng thương mại, tiền gửi tiết kiệm là công cụ huy động vốn có từ lâu. Vốn huy động từ các khoản tiền tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tìên gửi của Ngân hàng. Loại tiền gửi này thường chia thành :
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đối với loại này, chủ sở hữu có thể rút ra bất kỳ lúc nào mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn, ưu điểm hơn tiền gửi giao dịch là số dư này ít biến động, Ngân hàng thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Nguyên tắc của loại tiền này là một khi khách hàng gửi tiền vào loại tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc lẫn lãi ) trừ khi đã đến hạn rút tiền. Tuy nhiên yếu tố cạnh tranh thu hút tiền gửi, một số Ngân hàng thương mại vẫn cho phép Ngân hàng rút tiền trước thời hạn nhưng một phần tiền lãi đã được khấu trừ .
- Huy động vốn qua phát hành các công cụ nợ:
Đây là nguồn vốn Ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Trong nhiều trường hợp thiếu vốn, Ngân hàng sử dụng phương pháp này để huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển nhượng các giấy tờ có giá trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu.
Trái phiếu là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ khách hàng của nhà Ngân hàng với cam kết sẽ thanh toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai.Việc phát hành trái phiếu của Ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ thống, mục đích chủ yếu để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn .
Kỳ phiếu Ngân hàng là một giấy nhận nợ ngắn hạn do Ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của một Ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu Ngân hàng được phát hành theo từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có mục đích, phát hành dựa trên tình hình nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của Ngân hàng. Loại này có ưu điểm vốn huy động được khá linh hoạt, có tính lỏng cao, dễ dàng chuyển đổi sang tiền hoặc các hình thức khác; mệnh giá, loại tiền sử dụng, phương thức trả lãi đa dạng đáp ứng nhu cầu của người mua. Lãi suất của kỳ phiếu thường ổn định và hấp dẫn.
1.1.4.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn.
Chất lượng huy động vốn của Ngân hàng chỉ có thể được cải thiện khi phân tích ảnh hưởng của các nhân tố có liên quan theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nhóm nhân tố ảnh hưởng có thể chia ra làm hai loại:
Những nhân tố khách quan.
Nền kinh tế là một hệ thống gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng và tác động lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực còn lại. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại được coi như một chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, sự tác động ổn định hay bất ổn định, tăng nhanh hay chậm chạp của nền kinh tế đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của Ngân hàng. Rõ ràng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của Ngân hàng luôn gắn với môi trừơng kinh doanh. Môi trường này gồm
* Pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Việc huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì vậy mà hoạt động của Ngân hàng cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, đôi khi còn chặt chẽ hơn cả đối với doanh nghịêp. Trên thực tế Ngân hàng chịu sự tác động của rất nhiều chính sách, các quy định của chính phủ, Ngân hàng Trung Ương ; đó là Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh tế, Luật dân sự … Do sự ràng buộc về pháp luật, nghiệp vụ huy động vốn chắc chắn sẽ thay đổi và quy mô, hiệu quả của công tác huy động vốn cũng bị tác động. Cụ thể chính sách tiền tệ, chính sách lãi suất, tín dụng ... thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất lượng nguồn vốn .
* Điều kiện kinh tế - xã hội.
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn định. Sự ổn định về chính trị hay chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ đến quan hệ vốn của Ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Nếu một nước có nền an ninh ổn định thì kinh tế sẽ phát triển dẫn đến thu nhập của người dân cao, họ sẽ đem gửi nhiều tiền vào Ngân hàng không những đối với người trong nước mà còn cả người nước ngoài.
Đây là yếu tố khách quan đối với Ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung việc mở rộng và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế. Trong đó nguồn huy động của Ngân hàng thương mại, cụ thể trong nền kinh tế nếu kinh tế tăng trưởng cao thì mới có tích luỹ trong các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế và dân cư, do đó nguồn tiền gửi, nguồn tiết kiệm tăng nhanh trong thời kỳ này. Ngược lại, nếu nền kinh tế bị suy thoái thì lượng tiền gửi, tiền tiết kiệm sẽ giảm xuống,
Mặt khác khi nền kinh tế phát triển và ổn định kiến thức của người dân nâng lên, việc nắm giữ tiền trong dân cư giảm xuống, mọi hoạt động giao dịch của khách hàng đều thông qua Ngân hàng. Đây cũng là yếu tố làm cho nguồn huy động được tăng lên.
Lạm phát là yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến Ngân hàng rất lớn đến công tác huy động vốn Ngân hàng, người dân gửi tiền vào Ngân hàng hy vọng họ sẽ thu được khoản lãi nhất định. Lạm phát cao hoặc biến động mạnh có thể làm trượt giá đồng tiền thì họ sẽ chuyển các tài sản của họ dưới dạng tiền gửi thành các hình thái khác do đó nó có tác động mạnh đến việc huy động vốn của Ngân hàng.
Những nhân tố chủ quan.
* Chính sách lãi suất cạnh tranh.
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền gốc mà người gửi tiền nhận được từ Ngân hàng, hay là phần vay phải trả cho Ngân hàng về khoản vốn vay. Lãi suất là giá cả của khoản tiền mà người mua phải trả cho người bán. Do vậy người bán luôn muốn bán với giá cao, còn người mua cũng luôn muốn mua với giá thấp. Như vậy người dân có có nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng thì cái đầu tiên phải là lãi suất của Ngân hàng đó so với Ngân hàng khác.Tuy lãi suất huy động không đóng vai trò quyết định nhưng với một lãi suất huy động cao thì bao giờ cũng tạo được sự quan tâm đối với khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tín dụng này sang một Công ty hoặc một tổ chức tín dụng khác.
Tuy vậy cạnh tranh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Một Ngân hàng nếu không bị khống chế bởi lãi suất huy động “trần” và lãi suất cho vay “sàn” của NHTW, thì cũng bị khống chế bởi chính lợi nhuận và sự tồn tại của Ngân hàng.
* Các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng.
Để phát huy được hết khả năng của các khoản tiền gửi, Ngân hàng đã ra một phạm vi dịch vụ cho vay rộng lớn cùng với sự phát triển không ngừng mạng lưới cung cấp các dịch vụ và nới rộng các chức năng khác của mình để đáp ứng các nhu cầu dịch vụ phụ trợ của khách hàng chẳng hạn dịch vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng, ký phát thư bảo lãnh, chuyển đổi tiền tệ từ loại này sang loại khác, bố trí thời gian tiếp khác phù hợp.... Hoạt động Ngân hàng là kinh doanh kiếm lời và cạnh tranh ngày càng tăng giữa các Ngân hàng với nhau. Bởi cạnh tranh tăng lên, nên hoạt động Ngân hàng vấp phải khó khăn ngày càng nhiều trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Nguyên nhân đó khiến các Ngân hàng không ngừng tìm tòi những hình thức dịch vụ mới nhằm mở rộng kinh doanh. Một Ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các Ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng là cạnh tranh không có giới hạn. Trong nền kinh tế hiện đại, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng con đường này.
Hình thức huy động vốn cũng là một yếu tố ảnh hưởng : Do mục tiêu của người gửi tiền của những người gửi tiền là khác nhau, nên việc thoả mãn nhu cầu đa dạng của họ đòi hỏi Ngân hàng phải có hình thức huy động vốn thích hợp tuỳ vào từng thời điểm, địa điểm, từng nhóm khách hàng … Một Ngân hàng sẽ có lợi thế hơn so với Ngân hàng khác khi nó có các hình thức huy động vốn phong phú, linh hoạt...
* Chính sách khách hàng.
Trong công tác khách hàng, Ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều loại để có cách thức đối xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, được Ngân hàng tín nhiệm, thì Ngân hàng sẽ có một chính sách ưu đãi về lãi suất, kỳ hạn của món vay, cũng như thực hiện việc xét thưởng đối tác, có như vậy Ngân hàng mới có khả năng thu hút khách hàng và tăng nhanh khả năng hoạt động vốn của mình. Để xây dựng được chiến lược khách hàng đúng đắn thì Ngân hàng cần tìm hiểu động cơ thói quen mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở thông tin của khách hàng Ngân hàng có thể đưa ra một hệ thống chính sách và biện pháp để có được quy mô và chất lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống chính sách có thể gồm:
Chính sách về giá cả lãi suất tiền gửi: tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ hay còn gọi là chính sách giá cả các sản phẩm và dịch vụ tài chính .
Chính sách trong phục vụ giao tiếp.
* Công nghệ Ngân hàng.
Trong cạnh tranh, các Ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ, bởi lẽ, các dịch vụ, đặc biệt các dịch vụ về chuyên môn Ngân hàng sẽ được đa dạng, chất lượng ngày càng tốt hơn, đảm bảo các loại dịch vụ được cung ứng nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Tất nhiên với công nghệ Ngân hàng tiên tiến sẽ giúp Ngân hàng phục vụ được khách hàng một cách tốt hơn, chỗ đứng của Ngân hàng đó trên thị trường sẽ vững vàng hơn thì sẽ có nhiều khách hàng biến đến Ngân hàng đó (công nghệ cao có khả năng giúp cho Ngân hàng đó có khả năng thanh toán nhanh, thủ tục ít rườm rà). Điều này cũng làm cho khả năng huy động vốn của Ngân hàng cũng dễ dàng hơn.
* Chính sách cán bộ.
Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm, được bố trí công việc phù hợp với năng lực, đoàn kết thân thiện, luôn luôn là nền tảng của sự thành công. Nói chung, người ta đều mong muốn giao dịch kinh doanh với một hãng bề thế với các nhân viên dễ mến lịch sự và có kiến thức.
* Chính sách tiếp thị.
Là sản phẩm của cạnh tranh và hệ quả của sự nghiên cứu tìm tòi các dịch vụ mới - các Ngân hàng trở nên quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực tiếp thị (Marketing). Tiếp thị không đơn giản chỉ là vấn đề bán ra một sản phẩm nào đó, mà đây là cả một quá trình phát hiện, tìm kiếm khách hàng để tạo ra những sản phẩm thích hợp cho họ, thuyết phục họ “mua” chúng thay vào việc “mua” những sản phẩm có chức năng tương tự do ngời khác cung cấp. Một trong những biện pháp thuyết phục mà các Ngân hàng hiện đang làm đó là quảng cáo. Trong hoạt động Ngân hàng hiện đại, quảng cáo được chú ý và có một chi phí nhất định dành cho công tác này.
* Uy tín của Ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động mỗi Ngân hàng sẽ tạo cho mình một hình ảnh riêng trong lòng khách hàng. Một Ngân hàng lớn có uy tín trong nhiều năm sẽ có lợi thế trong huy động vốn so với Ngân hàng khác. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp Ngân hàng có được sự ổn định khối lượng huy động vốn và tiết kiệm chi phí huy động. Thậm chí trong điều kiện lãi suất huy động vốn thấp hơn chút những người gửi tiền vẫn lựa chọn Ngân hàng có uy tín để gửi mà tìm những nơi trả hấp dẫn hơn vì họ tin rằng đồng vốn của mình tuyệt đối an toàn.
1.1.5. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng nghiệp vụ huy động vốn
1.1.5.1 Sự gia tăng ổn định của vốn huy động:
* Khối lượng và cơ cấu vốn hiện tại.
Không thể nói đến hiệu quả huy động vốn cao nếu việc huy động vốn không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh. Khối lượng vốn ._.phải đạt một qui mô nhất định theo kế hoạch huy động của Ngân hàng. Đồng thời cơ cấu vốn cần hợp lý thể hiện ở tỷ lệ giữa vốn huy động ngắn hạn với dài hạn, giữa vốn nội tệ với vốn ngoại tệ, tỷ lệ vốn huy động/ vốn tự có = 20 lần, tỷ lệ vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn là 25%.
* Sự tăng trưởng của vốn huy động về số lượng và thời gian:
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng về số lượng để có thể thoả mãn các nhu cầu về khối lượng vốn cho tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của Ngân hàng. Đồng thời vốn huy động phải có sự ổn định về mặt thời gian. Nếu Ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn nhưng không ổn định, thường xuyên có khả năng một dòng tiền lớn bị rút ra, Ngân hàng luôn phải đối đầu với vấn đề thanh toán thì lượng vốn dành cho vay và đầu tư sẽ không lớn, như vậy hiệu quả huy động vốn sẽ là không cao. Ngược lại, nếu nguồn vốn huy động ổn định Ngân hàng sẽ yên tâm sử dụng phần lớn số vốn đó vào các hoạt động có thu nhập cao.
Nguồn vốn tăng đều qua các năm, đạt mục tiêu đề ra và có độ gia tăng đều đặn là nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
* Cơ cấu nguồn vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn
Sự biến đổi về cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro của hoạt động kinh doanh. Xu hướng biến đổi cơ cấu vốn huy động phải đáp ứng được nhu cầu sử dụng trong tương lai về cho vay ngắn hạn, trung dài hạn, cho vay nội tệ và ngoại tệ…
1.1.5.2 Tiết kiệm chi phí lãi và chi phí khác về huy động
* Lãi suất huy động:
Lãi suất luôn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của tất cả các chủ thể kinh tế. Người gửi tiền muốn một lãi suất cao để đồng tiền gửi của mình thu về nhiều tiền lãi. Người vay tiền lại muốn một lãi suất thấp để tiết kiệm chi phí sản suất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Là trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, Ngân hàng phải tìm cách dung hoà lợi ích của tất cả các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi nhuận cho Ngân hàng. Vì vậy trong huy động vốn, mỗi Ngân hàng đều cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một lãi suất được chấp nhận trên thị trường. Chi phí huy động vốn thường được đánh giá chủ yếu bởi mức lãi suất huy động từng nguồn; lãi suất huy động bình quân, tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn; chênh lệch đầu vào đầu ra. Các nguồn huy động của Ngân hàng có mức lãi suất, kỳ hạn, qui mô khác nhau mà trong thực tế khi cho vay không phân biệt rạch ròi là từ nguồn nào do đó Ngân hàng phải tính mức lãi suất bình quân để đảm bảo được chênh lệch giữa hai lãi suất đầu ra và đầu vào dương.
Mặt khác cùng với một mức chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng hoá trong lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết. Sự đa dạng hoá lãi suất làm tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà Ngân hàng đặt ra. Nếu chính sách lãi suất mà đúng đắn, Ngân hàng sẽ tối hiệu hoá được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch về nguồn vốn.
* Chi phí khác:
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất, trong quá trình huy động vốn Ngân hàng còn phải chịu một số chi phí khác như chi phí tiền lương cho nhân viên tham gia công tác huy động vốn, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ sở vật chất, chi phí giao dịch, quảng cáo…
Nếu Ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn vì nó không khuyến khích người dân gửi tiền vào và không cạnh tranh được với các Ngân hàng khác có lãi suất cao hơn. Do đó việc giảm chi phí huy động bằng cách giảm lãi suất là rất khó mà Ngân hàng phải tìm cách giảm thiểu được các chi phí khác nêu trên.
1.1.5.3. Độ đa dạng các hình thức huy động:
* Số lượng các công cụ huy động:
Tuỳ theo đặc điểm kinh doanh mà mỗi Ngân hàng áp dụng một hệ thống các công cụ khác nhau trong quá trình huy động vốn. Số lượng các công cụ này tuỳ thuộc và cũng là một yếu tố phản ánh năng lực của một Ngân hàng. Chỉ những Ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú, có trình độ nhân viên cao, có năng lực quản lý tốt mới có điều kiện phát triển nhiều loại công cụ huy động vốn khác nhau.
* Sự đa dạng về kỳ hạn và các loại tiền tệ sử dụng:
Đó là khả năng huy động các nguồn vốn với các kỳ hạn khác nhau, trong đó có cả nội tệ và ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý. Nhờ đó Ngân hàng đạt được cơ cấu về kỳ hạn và loại tiền mong muốn để đáp ứng được tối đa các nhu cầu sử dụng vốn tránh tình trạng thừa vốn ngắn hạn trong khi thiếu vốn trung dài hạn, thừa vốn nội tệ nhng lại thiếu vốn ngoại tệ.
1.1.5.4. Một số chỉ tiêu khác:
Ngoài các chỉ tiêu chính trên, hiệu quả công tác huy động vốn còn được đánh giá qua một số chỉ tiêu sau:
Mức độ hoạt động của vốn huy động: được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn. Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến một thì càng tốt (trong điều kiện vẫn đảm bảo các giới hạn an toàn trong hoạt động kinh doanh), điều này thể hiện nguồn vốn huy động được sử dụng tối đa.
Mức độ thuận tiện cho khách hàng: Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền, rút tiền, các dịch vụ kèm theo của Ngân hàng… tiết kiệm được thời gian và chi phí cho khách hàng.
Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định.
Một số chỉ tiêu khác như số lượng vốn bị rút trước hạn, kỳ hạn thực tế của nguồn vốn…
Trên đây là một số chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn. Tuy nhiên, một chỉ tiêu thì không thể phản ánh đầy đủ được, ta phải kết hợp nhiều chỉ tiêu thì mới đánh giá đúng và thực chất hiệu quả công tác huy động vốn tại một Ngân hàng thương mại.
1.2. Kế toán huy động vốn.
1.2.1. Nhiệm vụ, yêu cầu của kế toán huy động vốn.
1.2.1.1 Nhiệm vụ :
Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế toán, theo chuẩn mực và chế độ kế toán
Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp thanh toán nợ, kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản, phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán.
Phân tích thông tin, số liệu kế toán, tham mưu đề xuất các giải pháo phục vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.
Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Yêu cầu
Phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Phản ánh kịp thời, đúng thời gian quy định thông tin, số liệu kế toán.
Phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác thông tin, số liệu kế toán
Phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc nội dụng và gía trị của nghiệp vụ kinh tế, tài chính.
Thông tin, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi phát sinh đến khi kết húc hoạt động kinh tế, tài chính, từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động của đơn vị kế toán, số liệu kế toán phản ánh kỳ này phải kế tiếp theo số liệu kế toán của kỳ trước.
Phân loại, sắp xếp thông tin, số liệu kế toán theo trình tự, có hệ thống và có thể so sánh được.
1.2.2. Tài khoản sử dụng trong kế toán huy động vốn.
- Tài khoản 421: Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng VNĐ.
- Tài khoản 422: Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng ngoại tệ.
- Tài khoản 423: Tiền gửi tiết tiệm bằng VNĐ.
- Tài khoản 424: Tiền gửi tiết tiệm bằng ngoại tệ và vàng.
- Tài khoản 425: Tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng VNĐ
- Tài khoản 426: Tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng ngoại tệ.
- Tài khoản 427: Tiền ký quỹ bằng VNĐ.
- Tài khoản 428: Tiền ký quỹ bằng ngoại tệ.
- Tài khoản 431: Mệnh giá giấy tờ có giá bằng VNĐ.
- Tài khoản 432: Chiết khấu giấy tờ có giá bằng VNĐ.
- Tài khoản 433: Phụ trội giấy tờ có giá bằng VNĐ.
- Tài khoản 434: Mệnh giá giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và vàng.
- Tài khoản 435: Chiết khấu giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và vàng.
- Tài khoản 436: Phụ trội giấy tờ có giá bằng ngoai tệ và vàng.
- Tài khoản 80: Chi phí hoạt động tín dụng.
- Tài khoản 1011: Tiền mặt tại đơn vị.
- Tài khoản 1031: Tiền ngoại tệ tại đơn vị.
1.2.3. Chứng từ sử dụng:
Nhóm chứng từ sử dụng cho nghiệp vụ huy động vốn khá phong phú bao gồm:
- Chứng từ tiền mặt: giấy nộp tiền, giấy lĩnh tiền, séc tiền mặt...
- Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt: séc chuyển khoản, séc bảo chi, ủy nhiệm chi...
- Các loại kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
- Các loại sổ tiết kiệm.
Các chứng từ này có liên quan đến việc nộp và lĩnh tiền từ tài khoản khách hàng nên phải đảm bảo tính pháp lý cao, không sử dụng lẫn lộn các loại chứng từ. Một số loại phải bảo quan theo chế độ bảo quản chứng từ có giá trị như các loại séc, các loại thẻ, phiếu tiết kiệm, các loại kỳ phiếu, trái phiếu.
1.2.4. Kế toán các hình thức huy động vốn.
1.2.4.1. Kế toán tiền gửỉ thanh toán.
Sau khi tài khoản Tiền guẻi được thiết lập, chủ tàI khoản sử dụng tàI khoản của minh để nộp tiền, lĩnh tiền theo mục đích đã dịnh.
1.2.4.1.1. Kế toán nhận tiền gửi:
Có hai cách nộp tiền vào tài khoản là nộp bằng tiền mặt và nộp bằng chuyển khoản (thanh toán không dùng tiền mặt)
- Kế toán nhận tiền gửi bằng tiền mặt : Người gửi tiền lập giấy nộp tiền kèm tiền mặt nộp vào ngân hàng. Căn cứ vào chứng từ thu tiền mặt sau khi đã thu đủ tiền, kế toán vào sổ kế toán chi tiết hoăc nhập dữ kiệu vào máy tính:
Hạch toán: Nợ : TK Tiền mặt (1011)
Có : TK Tiền gửi của người gửi tiền
- Kế toán nhận tiền gửi bằng chuyển khoản: Ngân hàng nhận tiền gửi bằng chuyển khoản trên cơ sở các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như: Bảng kê nộp Séc chuyển khoản, Séc bảo chi, Bảng kê thanh toán thư tín dụng, Uỷ nhiệm chi (UNC), Uỷ nhiệm thu (UNT). Căn cứ vào các chứng từ này, kế toán kiểm soát và vào sổ kế toán chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính.
Hạch toán: Nợ : - TK Tiền gửi của ngườ chi trả
(nếu thanh toán cùng ngân hàng)
- Hoặc TK thanh toán vốn giữa các ngân hàng
( nếu thanh toán khác ngân hàng)
Có : TK Tiền gửi của người thụ hưởng
1.2.4.1.2 Kế toán chi trả tiền gửi thanh toán:
- Chi trả bàng tiền mặt: Chủ tài khoản phát hành Séc tiền mặt gửi tại ngân hàng để lĩnh tiền mặt từ tài khoản thanh toán. Khi nhận Séc, kế toán phảI kiểm soát tính hợp lệ, hợp pháp của chứng từ, kiểm soát số dư tài khoản, hạn mức thấu chi ( nếu áp dụng thấu chi tài khoản), vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính, làm thủ tục chi tiền cho người có tên ghi trên tờ Séc.
Hạc toán: Có : TK Tiền mặt (1011)
Nợ : Tk Tiền gửi thanh toán
- Chi trả bằng chuyển khoản: Chủ tài khoản sử dụng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như : UNC, Séc chuyển khoản, Séc bảo chi… để trích tài khoản của mình chuyển trả cho người bán hoặc UNT trích tài khoản của người mua chuyển vào tài khoản của người bán.
Kế toán kiểm soát chứng từ, vào sổ tài khoản chi tiết hoặc nhập số liệu vào máy tính.
Hạch toán:
Nợ : TK Tiền gửi thanh toán của chủ tài khoản (người chi trả)
Có : - TK Tiền gửi thanh toán của người thụ hưởng
( nếu thanh toán cùng ngân hàng)
- Hoặc TK thanh toán vốn giữa các ngân hàng
( nếu thanh toán khác ngân hàng)
Trường hợp chủ tài khoản trích tiền từ tài khoản Tiền gửi thanh toán để chuyển đến một ngân hàng khác ( thanh toán khác ngân hàng ) thì ngân hàng thu lệ phí chuyển tiền và thuế giá trị gia tăng (GTGT) theo số tiền chuyển.
Hạch toán: Nợ : TK Tiền gửi thanh toán của chủ tài khoản
Có : - TK Thuế GTGT phải nộp
- TK Thu nhập / phí chuyển tiền
12.4.1.3 Kế toán trả lãi tài khoản tiền gửi thanh toán
Hàng tháng (vào ngày cuối thấng), kế toán tính và trả lãi các tài khoản tiền gửi thanh toán. Số lãi này được nhập vào tài khoản của chủ tài khoản (lãi nhập gốc – lãi kép).
Lãi được tính theo phương pháp tích số:
Số tiền lãi
Trong tháng = Tổng tích số tính lãi trong tháng x Lãi suất tháng
30 ngày
Trong đó:
Tổng tích số lãi trong tháng = S Số dư có Tài x Số ngày dư có
Khoản thanh toán thực tế trong tháng
Việc tính lãi được tiến hành trên bảng kê số dư để tính tích số, bảng này kiêm chứng từ hạch toán thu lãi.
Bảng kê số dư tính lãi do các thanh toán viên giữ tài khoản Tiền gửi của khách hàng lập. Trường hợp đã áp dụng chương trình tính lãi thì bảng kê này do máy tính lập.
Hạch toán: Nợ : TK chi phí chi trả lãi tiền gửi
Có : TK Tiền gửi thanh toán của khách hàng
1.2.4.2 Kế toán tiền gửi có kỳ hạn
1.2.4.2.1 Kế toán nhận tiền gửi:
- Căn cứ vào giấy nộp tiền, kế toán vào sổ chi tiết hoặc nhập dữ liệu vào máy tính. Hạch toán:
Nợ : TK Tiền mặt
Có : TK Tiền gửi có kỳ hạn theo hai trường hợp:
- TK Tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng
- TK Tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên
- Khách hàng trích tài khoản Tiền gửi không kỳ hạn chuyển sang tài khoản Tiền gửi có kỳ hạn. Căc cứ UNC kế toán ghi:
Nợ : TK Tiền gửi không kỳ hạn
Có : TK Tiền gửi có kỳ hạn
1.2.4.2.2 Kế toán chi trả tiền gửi:
Khác với tài khoản Tiền gửi không kỳ hạn, khi khách hàng rút tiền ở tài khoản Tiền gửi có kỳ hạn phải rút trọn số tiền của kỳ hạn.
- Khách hàng rút tiền mặt: Khách hàng lập giấy lĩnh tiền mặt, kế toán căn cứ giấy lĩnh tiền ghi:
Nợ : TK Tiền gửi có kỳ hạn thích hợp
Có : TK Tiền mặt
- Khách hàng chuyển vào tài khoản Tiền gửi không kỳ hạn: Khách hàng làm giấy đề nghị chuyển tiền từ tài khoản Tiền gửi có kỳ hạn sang tài khoản Tiền gửi không kỳ hạn. Căn cứ vào giấy đề nghị của khách hàng, kế toán lập chứng từ, hạch toán:
Nợ : TK Tiền gửi có kỳ hạn thích hợp
Có : TK Tiền gửi không kỳ hạn
1.2.4.2.3 Kế toán trả lãi tiền gửi có kỳ hạn:
Việc trả lãi Tiền gửi có kỳ hạn cho người gửi tiền được thực hiện khi đáo hạn. Tuy nhiên, để phản ánh đều đặn số chi trả lãi trong mọt thời gian của kỳ hạn thì hàng tháng ngân hàng tiến hành tính lãi và hạch toán vào tài khoản “ Tiền lãi cộng dồn dự trả “. Khi đáo hạn người gửi tiền rút gốc, kế toán hạch toán trả lãi cho khách hàng từ tài khoản “ Tiền lãi cộng dồn dự trả “.
Lãi tiền gửi có kỳ hạn được tính theo phương thức thu theo món ( lãi đơn): Tiền lãi = Số tiền gửi vào x Thời gian gửi x Lãi xuất tiền gửi
Sau khi tính lãi được số lãi phải trả, kế toán lập chứng từ, hạch toán:
Nợ : TK chi phí trả lãi
Có : TK Tiền lãi cộng dồn dự trả
Khi khách hàng đến lĩnh lãi ( cùng gốc), kế toán lập phiếu chi, hạch toán: Nợ TK Tiền lãi cộng dồn dự trả
Có TK Tiền mặt ( Hoặc TK Tiền gửi không kỳ hạn)
1.2.4.3 Kế toán Tiền gủi tiết kiệm:
1.2.4.3.1 Kế toán tiền gửi tiết kiệm
- Khi khách hàng gửi tiền: Người gửi tiền viết giấy nộp tiền, căn cứ vào giấy nộp tiền kế toán ghi:
Nợ : TK Tiền mặt
Có : TK Tiền gửi tiết kiệm thích hợp
- Khi khách hàng lĩnh tiền: Người lĩnh tiền viết giấy lĩnh tiền mặt, căn cứ giấy lĩnh tiền mặt kế toán ghi:
Nợ : TK Tiền gửi tiết kiệm thích hợp
Có : TK Tiền mặt
1.2.4.3.2 Kế toán trả lãi tiền gửi tiết kiệm
- Trả lãi bằng tiền mặt cho người gửi : Kế toán Quỹ tiết kiệm lập phiếu chi, ghi:
Nợ : TK Chi phí / chi trả lãi tiết kiệm
Có : TK Tiền mặt
- Trả lãi nhập gốc: Kế toán lập phiếu chuyển khoản, ghi:
Nợ : TK Chi phí / chi trả lãi tiết kiệm
Có : TK Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
- Trả lãi hạch toán vào tài khoản Tiền lãi cộng dồn dự trả: Kế toán lập phiếu chuyển khoản, ghi:
Nợ : TK Chi phí / chi trả lãi tiết kiệm
Có : TK Tiền lãi cộng dồn dự trả
Khi người gửi tiền đến lĩnh lãi, kế toán lập phiếu ghi:
Nợ : TK Tiền lãi cộng dồn dự trả
Có : TK Tiền mặt
1.2.4.4 Kế toán phát hành giấy tờ có giá
1.2.4.4.1 Kế toán phát hành GTCG theo mệnh giá
a. Kế toán phát hành GTCG trả lãi sau
Khi phát hành, khách hàng phải trả tiền để mua giấy tờ có giá theo mệnh giá, để khi đáo hạn khách hàng sẽ nhận được Số tiền = Mệnh giá + Lãi nắm giữ GTCG
* Giai đoạn phát hành
Ngân hàng bán GTCG cho khách hàng, có thể nhận bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Hạch toán:
Nợ : - TK thích hợp
Có : - TK mệnh giá GTCG
*. Hàng tháng, kế toán tính lãi và hạch toán vào tài khoản “ Tiền lãi cộng dồn dự trả”:
Nợ : TK Chi trả lãi phát hành GTCG
Có : TK Lãi phải trả về phát hành GTCG
*. Giai đoạn thanh toán GTCG
Các loại giấy tờ có giá được thanh toán khi hết kỳ hạn gửi. Khi khách hàng đến lĩnh tiền, kế toán làm thủ tục tất toán sổ kỳ phiếu, trái phiếu của khách hàng để lưu vào tập nhạt ký chứng từ, Hạch toán:
- Trả gốc: Căn cứ giấy lĩnh tiền, kế toán ghi:
Nợ : TK mệnh giá GTCG
Có : TK Thích hợp
- Trả lãi: Nợ : TK Lãi phải trả về phát hành GTCG
Có : TK Thích hợp
b. Kế toán phát hành GTCG trả lãi trước
* Giai đoạn phát hành
Khách hàng trả tiền mua giấy tờ có giá theo Số tiền = Mệnh giá - Lãi cho ngân hàng có thể bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Kế toán hạch toán :
Nợ : - TK Thích hợp
Nợ : - TK Chi phí chờ phân bổ
Có : - TK mệnh giá GTCG
* Hàng tháng, kế toán phân bổ số lãi vào tài khoản chi phí :
Hạch toán :
Nợ : TK Chi trả lãi phát hành GTCG
Có : TK Chi phí chờ phân bổ
* Giai đoạn thanh toán GTCG
Căn cứ vào giấy lĩnh tiền, kế toán ghi :
Nợ : TK Kỳ mệnh giá GTCG
Có : TK Thích hợp
1.2.4.4.3 Kế toán phát hành giấy tờ có giá có chiết khấu
a . Loại trả lãi trước :
Khoản lãi này cùng với khoản chiết khấu được khấu trừ vào mệnh giá GTCG, người mua GTCG chỉ phải nộp số tiền chênh lệch.
Số tiền trả lãi được hạch toán vào tài khoản chi phí chờ phân bổ, từng định kỳ sẽ phân bổ vào TK 803 cùng với khoản chiết khấu trong kỳ.
* Tại thời điểm phát hành GTCG
Nợ : TK thích hợp
Nợ : TK chiết khấu GTCG
Nợ : TK chi phí chờ phân bổ
Có : TK mệnh giá GTCG
* Hàng tháng phân bổ lãi và khoản chiết khấu trong kỳ
Nợ : TK chi trả lãi phát hành GTCG
Có : TK chi phí chờ phân bổ
Có : TK chiết khấu GTCG
b. Loại trả lãi sau : Hàng tháng phải hạch toán dự trả lãi trong kỳ cùng với phân bổ chiết khấu trong kỳ. Khi thanh toán GTCG sẽ trả lãi cho khách hàng cùng gốc.
* Tại thời điểm phát hành GTCG
Nợ : TK thích hợp
Nợ : TK chiết khấu GTCG
Có : TK mệnh giá GTCG
* Hàng tháng phân bổ lãi và khoản chiết khấu
Nợ : TK chi trả lãi phát hành GTCG
Có : TK lãi phải trả về phát hành GTCG
Có : TK chiết khấu GTCG
* Đến hạn thanh toán GTCG
Nợ : TK mệnh giá GTCG
Nợ : TK lãi phải trả về phát hành GTCG
Có : TK thích hợp
1.2.4.4.4 Kế toán phát hành giấy tờ có giá có phụ trội
a. Loại trả lãi trước :
* Kế toán tại thời điểm phát hành GTCG
Nợ : TK thích hợp
Nợ : TK chi phí chờ phân bổ
Có : TK phụ trội GTCG
Có : TK mệnh giá GTCG
* Hàng tháng phân bổ lãi theo định kỳ vào TK chi phí
Nợ : TK trả lãi phát hành GTCG
Có : TK chi phí chờ phân bổ
Đồng thời kế toán phân bổ khoản phụ trội trong kỳ
Nợ : TK phụ trội GTCG
Có : TK trả lãi phát hành GTCG
* Kế toán thanh toán GTCG có phụ trội
Nợ : TK mệnh giá GTCG
Có : TK thích hợp
b. Loại trả lãi sau :
* Kế toán tại thời điểm phát hành GTCG
Nợ : TK thích hợp
Có : TK phụ trội GTCG
Có : TK mệnh giá GTCG
* Kế toán phân bổ khoản phụ trội trong kỳ
Nợ : TK phụ trội GTCG
Có : TK trả lãi phát hành GTCG
Kế toán dự trả lãi trong kỳ
Nợ : TK trả lãi phát hành GTCG
Có : TK lãi phải thu về phát hành GTCG
* Kế toán trả lãi cho khách hàng khi đến hạn thanh toán
Nợ : TK mệnh giá GTCG
Nợ : TK lãi phải trả về phát hành GTCG
Có : TK thích hợp
Tóm lại, chương 1 đã nêu khái quat lý luận về hoạt động kinh doanh của NHTM, về nguồn huy động – Nguồn vốn chủ yếu sử dụng trong kinh doanh của NHTM. Những trình bầy trong chương này chỉ rõ vốn huy động có vai trò cực kỳ quan trọng, nó quyết định quy mô kinh doanh, tới năng lực cạnh tranh, tới khả năng thanh toán của Ngân hàng và do vậy góp phần không nhỏ vào sự tồn tại phát triển của Ngân hàng. Những nhận thức, lý luận trong chương 1 làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực trạng ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG II : Thực trạng nghiệp vụ huy động vốn và kế toán huy động Vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tỉnh Vĩnh phúc
2.1. Cơ cấu tổ chức hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc:
2.1.1. Lịch sử ra đời và cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo& PTNT Tỉnh vĩnh Phúc:
Chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập sau khi tách tỉnh Vĩnh Phú thành Vĩnh Phúc và Phú Thọ năm 1997. Ban đầu đi vào hoạt động các trang bị về cơ sở hạ tầng, phòng giao dịch hoàn toàn thiếu thốn và chủ yếu là đi thuê địa điểm. Nhờ sự nỗ lực của toàn bộ cán bộ ngân hàng cũng như sự quan tâm của các cấp lãnh đạo các cấp các ngành đến nay ngân hàng NHNo&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc đã không ngừng lớn mạnh với cơ sở hạ tầng đầy đủ, các phòng giao dịch rộng khắp, lượng khách hàng càng ngày càng tăng nhất là trong đó có rất nhiều khách hàng truyền thống.
Hiện nay chi nhánh NHNo&PTNT có trụ sở chính tại đường Kim ngọc phường Liên Bảo thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài ra còn có nhiều phòng giao dịch phân bổ khắp thành phố Vĩnh Yên và vùng lân cận.
Ngân hàng hiên nay bao gồm 69 cán bộ, với mô hình tổ chức bao gồm :
Ban giám đốc 4 người; phòng kế hoạch 2 người; phòng tổ chức 3 người; phòng tín dụng 10 người; phòng kế toán tài chính – ngân quỹ 17 người; phòng hành chính 13 người; phòng thẩm định 1 người; phòng thanh toán quốc tế 4 người; phòng vi tính 4 người; tổ kiểm tra 11 người.
2.1.2. Tình hình kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
2.1.2.1. Thuận lợi.
Tốc độ phát triển kinh tế năm 2006 của tỉnh Vĩnh Phúc đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng 18%, là mức tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm gần đây. Giá trị SX công nghiệp mở rộng tăng 22,5%, trong đó riêng công nghiệp tăng 24,6%, dịch vụ tăng 8,5%, nông lâm thủy sản tăng 2,6%. Kim ngạch xuất khẩu tăng 12,5%. Kim ngạch nhập khẩu tăng 11,7%. Vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tăng 14,2% đạt giá trị 24.900 tỷ đồng. Thu ngân sách Nhà nước tăng 1,7%.
Trong lĩnh vực Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách mới, nhiều văn bản pháp quy được ban hành theo hướng mở rộng quyền tự chủ và chịu trách nhiệm của NHTM.
Ngân hàng NHNO&PTNT Việt Nam thường xuyên nắm chắc tình hình, bám sát cơ sở, quan tâm chỉ đạo chặt chẽ, đưa ra nhiều giải pháp tương đối cụ thể, phù hợp với thực tế phát triển kinh doanh trên địa bàn các thành phố.
Sau hơn mười năm hoạt động Chi nhánh NHNO&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo dựng được uy tính và lòng tin với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
2.1.2.2. Khó khăn.
Cạnh tranh giữa các Chi nhánh trong và ngoài hệ thống tiếp tục gay gắt cả về mạng lưới, lãi suất, công nghệ và lao động:
Các NHTM đồng loạt mở rộng mạng lưới hoạt động, ngay từ đầu năm có ngân hàng tăng lãi suất huy động cao hơn cho vay, thể hiện cạnh tranh không lành mạnh.
Hàng loạt ngân hàng có tiềm lực về tài chính, lao động đã nhanh chóng đổi mới công nghệ đưa ra nhiều tiện ích mới, mặc dù bước đầu sẽ thua lỗ.
Tuy vậy, nhờ sự quyết tâm của HĐQT, ban TGĐ, các phòng ban; Sự ủng hộ nhiệt tình của cấp ủy, chính quyền địa phương; Sự chia sẻ cảm thông của các chi nhánh làn anh làn chị trong và ngoài hệ thống; Cùng sự nỗ lực của cán bộ nhân viên chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc với tinh thần vừa làm vừa học, khắc phục khó khăn, từng bước đưa hoạt động kinh doanh dần ổn định và bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định để khẳng định mình trên thương trường.
Có thể nói năm 2006 là năm mà chi nhánh tiếp tục đạt được mức tăng trưởng khá trong kinh doanh, ổn định về đời sống, phục vụ tốt cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc.
2.1.3. Tình hình hoạt động của chi nhánh NHNo& PTNT tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong hơn mười năm hoạt động, vừa qua chi nhánh đã không ngừng phát triển và trở thành một trong những chi nhánh hoạt động có hiệu quả. Với mục tiêu trở thành một chi nhánh vững mạnh, chi nhánh đã tiến hành nhiều biện pháp để xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh.
Hoạt động chủ yếu của Chi nhánh đó là tìm kiếm khách hàng mới bằng việc thu hút nhiều loại khách hàng: Từ dân cư, doanh nghiệp, tổng công ty... cụ thể đến 31/12/06 đã có 162 doanh nghiệp có quan hệ giao dịch với chi nhánh, trong đó có 57 doanh nghiệp nhà nước, 95 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 9 tổ chức đoàn thể khác. Trong khách hàng của Chi nhánh có nhiều Tổng công ty 90 - 91 thuộc mọi thành phần kinh tế đang hoạt động có hiệu quả. Cùng với đó là việc đa dạng các hình thức huy động vốn, cho vay và thanh toán quốc tế (không nhiều), nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng đến với Ngân hàng.
Tuy nhiên, để cho kinh tế ngoài quốc doanh của tỉnh có bước phát triển mới, các cấp ngành phải có chính sách rõ ràng, nhất là thủ tục cấp phép và ưu tiên cơ sở hạ tầng. Cấp uỷ chính quyền càn dành nhiều thời gian hơn nữa tới sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh.
Nhìn chung uy tín và niềm tin của khách hàng với Chi nhánh đã được nâng lên một bước rõ rệt, nhiều khách hàng lớn đã chủ động chọn Chi nhánh là Ngân hàng phục vụ chính.
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn được xem là một trong những hoạt động quan trọng đối với Ngân hàng Thương mại nói chung và Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh phúc nói riêng. Trong hơn mười năm qua, cùng với sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh cùng với sự chỉ đạo của Ngân hàng cấp trên, Chi nhánh đã tiến hành đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và lãi xuất. Do vậy, nguồn vốn huy động được của Chi nhánh đã tăng trưởng mạnh sau hơn mười năm hoạt động. Nguồn huy động của Chi nhánh chủ yếu dưới các hình thức:
- Tiền gửi của tổ chức kinh tế, dân cư.
- Phát hành các công cụ nợ như: Kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Chênh lệch
Tuyệt đối
Tương đối
Tổng nguồn vốn huy động
1.273.600
2.036.000
+ 762.400
+ 59,86%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Chi nhánh NHNO&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc năm 2005 – 2006)
Sau hơn mười năm đi vào hoạt động, Chi nhánh đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua công tác huy động vốn có hiệu quả cao, đã đáp ứng được phần nào nhu cầu về vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, Chi nhánh đã nâng cao được hiệu quả của công tác huy động vốn. So với năm 2005 thì tốc độ tăng trưởng trong năm 2006 đạt 59,86%. So với chỉ tiêu được giao trong đề án phát triển kinh doanh trong địa bàn, tốc độ tăng trưởng về nguồn vốn đạt 407% .
Bằng các biện pháp, chính sách cụ thể, nguồn vốn của Chi nhánh ngày càng tăng với khối lượng vốn năm sau cao hơn hẳn năm trước. Trong hai năm hoạt động tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đã không ngừng tăng trưởng với cơ cấu phong phú, hình thức huy động ngày càng đa dạng. Đến cuối năm 2006, thì tổng nguồn vốn huy động được là 2.036.000 triệu đồng tăng 59.86% so với năm 2005. Kết quả này đã góp phần không nhỏ vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận cũng như thị phần hoạt động của Chi nhánh.
Như vậy, trong hai năm qua công tác huy động vốn của Chi nhánh đã đạt được những kết quả khá tốt đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về lãi suất huy động giữa các ngân hàng hiện nay.
Đây có thể coi là thành công trong công tác quản lý và sử dụng hiệu quả các công cụ nợ, cũng như việc huy động vốn nhàn rỗi trên thị trường dể đưa vào đầu tư một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư của thị trường hiện nay.
2.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Chi nhánh là hoạt động cho vay. Lợi nhuận mang lại từ hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ cao. Nguồn vốn huy động chủ yếu cho các thành phần kinh tế, phần vốn không sử dụng hết thường được ngân hàng điều chuyển để điều hoà cho các chi nhánh khác thiếu vốn. Sau đây là kết quả hoạt động cho vay trong hai năm vừa qua của Chi nhánh NHNO&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc:
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn tại Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Chênh lệch
Tuyệt đối
Tương đối
Tổng dư nợ
200.000
644.000
444.000
222%
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc năm 2005 – 2006)
Từ thực tế trên ta thấy việc sử dụng vốn tại Chi nhánh tăng khá cao, mức tăng về cho vay đạt 444.000 triệu đồng, tương ứng với tốc độ tăng trưởng về cho vay năm 2006 đạt 222% so với năm 2005. So với chỉ tiêu đề án phát triển kinh doanh trên địa bàn về tốc độ tăng trưởng về dư nợ đạt 214.6%. Điều này chứng tỏ khả năng và tiềm lực trong công tác sử dụng hiệu quả và tối đa nguồn vốn huy động được để cho vay với nền kinh tế mà dư nợ cho vay ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (chiếm tới 51.6% tổng dư nợ vào năm 2006), các loại hình doanh nghiệp khác chiếm tới 42.8% tổng dư nợ, phần còn lại là cho vay hộ sản xuất và tư nhân cá thể.
Chất lượng tín dụng tại Chi nhánh tính đến thời điểm này được coi là tương đối tốt, chưa phát sinh nợ quá hạn. Đây có thể coi là tín hiệu tốt của thị trường với công tác cho vay của ngân hàng đồng thời cũng là cơ sở để
Chi nhánh phát huy hơn nữa công tác huy động vốn nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu vốn với nền kinh tế.
Trong kết cấu nguồn vốn huy động của Ngân hàng thì nguồn vốn dài hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao gần 40% tổng vốn huy động. Đây là một điều kiện tương đối thuận lợi để từ đó Ngân hàng có thể tăng số lượng dư nợ trung và dài hạn. Tuy nhiên để tăng số dư nợ trung và dài hạn thì chi nhánh và cán bộ tín dụng cần tăng cường hoạt động thẩm định chặt chẽ các dự án cần sử dụng vốn trung và dài hạn.
2.2. Thực trạng kế toán huy động vốn tại Chi nhánh Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2.1. Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.1.1. Công tác huy động vốn
a . Cơ cấu nguồn vốn hoạt động của Chi nhánh.
Với mục tiêu phát triển bền vững, Chi nhánh NHNO&PTNT Tỉnh Vĩnh Phúc đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn khác nhau nhằm tạo cho nguồn vốn tăng trưởng ổn định. Hiện nay Chi nhánh đã và đang thực hiện tốt công tác huy động vốn. Nguồn vốn huy động của Chi nhánh chủ yếu bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi khác.
Kết cấu nguồn vốn huy động tại Chi nhánh có sự biến động tăng giảm theo từng năm do nhiều nguyên nhân khác nhau, điều này được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHN._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5574.doc