Chương I
Một số vấn đề về hiệu quả huy động
nguồn vốn tại ngân hàng thương mại
1.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm nguồn vốn của NHTM.
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập và huy động được dùng để cho vay đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thực chất nguồn vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gử
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quận Hai Bà Trưng Hà Nội (80tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ trong ngân hàng để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu nhập. Và vì vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Kết cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm các nguồn vốn cơ bản: nguồn vốn nhận tiền gửi, vốn đi vay và nguồn vốn chủ sở hữu.
1.1.2. Khoản mục nguồn vốn của NHTM
1.1.2.1. Tiền gửi:
Tiền gửi là khoản mục nợ chủ yếu trong các ngân hàng, nó phản ánh các khoản tiền mà khách hàng (doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh doanh) gửi vào ngân hàng với mục đích giao dịch hoặc với mục tiêu lợi nhuận.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng, thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Lịch sử phát triển hoạt động ngân hàng cho thấy hình thức ban đầu của hoạt động nhận tiền gửi là hình thức giữ và bảo quản hộ tài sản cho khách. Những người nhận giữ hộ tài sản (sau này phát triển gọi là ngân hàng) đảm bảo trả lại chính tài sản của khách gửi, vì vậy họ không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay từ những tài sản mà họ giữ hộ mà họ chỉ thu được phí bảo quản từ người gửi, còn họ cho vay dựa vào vốn tự có. Trong quá trình phát triển các nhà giữ hộ tài sản nhận thấy rằng thường ngày không có những đợt rút tài sản đột xuất quá lớn mà những người đến gửi mới xấp xỉ với những người đến rút và người đến gửi cũng không đòi hỏi phải nhận được đúng tài sản hay đồng tiền vàng mà họ đã gửi trước đó mà chỉ quan tâm đến tổng số tiền mà họ đã gửi và số tiền họ nhận được. Trên cơ sở đó mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền gửi của khách hàng để cấp tín dụng và thu lợi tức. Khoản lợi tức này một phần trang trải chi phí giao dịch, một phần trả lãi cho người gửi tiền và phần còn lại chính là lợi nhuận nhận tiền gửi. Trong quá trình hoạt động, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nghiệp vụ nhận tiền gửi ngày càng phát triển và mở rộng trở thành phong phú và đa dạng hơn. Người gửi tiền không chỉ đơn giản để bảo quản tài sản mà còn nhằm mục đích thu được lợi tức hay các lợi ích khác mà ngân hàng cung cấp. Ngày nay, hoạt động ngân hàng phát triền, ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ vừa là nơi cung cấp nguồn vốn, đồng thời cũng là nơi tiếp nhận các nguồn vốn nhàn rỗi từ khách hàng. Các hoạt động này được thực hiện thông qua một số công cụ và nghiệp vụ của ngân hàng. Các nghiệp vụ của ngân hàng ngày càng trở lên đa dạng, người gửi tiền ngày càng hưởng được nhiều lợi ích từ các nghiệp vụ đó lên hoạt động nhận tiền gửi ngày càng trở lên đa dạng và phong phú.
Hoạt động nhận tiền gửi dù có đa dạng và phức tạp xong có thể tập hợp vào hai trường hợp. Trước hết khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nhằm hưởng được lợi ích từ các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, hay khách hàng gửi tiền chỉ với mục đích thu được lợi tức mà ngân hàng phải trả cho khách hàng. Dù tiền gửi thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp trên thì nguồn vốn mà ngân hàng huy động được thông qua nhận tiền gửi của khách hàng đều không thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, mà ngân hàng chỉ có quyền được sử dụng làm nguồn vốn kinh doanh thích ứng. Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng, nhưng khách hàng có thể nhận lại dưới các hình thức khác nhau như khoản tiền mà họ gửi vào ngân hàng, tiền lãi hay các lợi ích mà ngân hàng cung cấp. Vốn huy động từ hoạt động nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng xong đây lại là nguồn vốn thường xuyên có sự biến động và ngân hàng không chủ động mà quyền chủ động thuộc về khách hàng. Vì vậy khi sử dụng nguồn vốn này ngân hàng phải có dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán khi khách hàng yêu cầu. ở nhiều nước ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi.
Tiền gửi thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các nhu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá khả năng hiệu quả trong quản lý ngân hàng.
a. Tiền gửi giao dịch (các khoản tiền gửi có thể phát séc).
Tiền gửi giao dịch là khoản tiền mà doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi ở NHTM để sử dụng với mục đích là thanh toán, chi trả.
Đặc điểm của loại tiền gửi này là lãi suất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức chi phí thấp. Yêu cầu của ngân hàng là chủ tài khoản phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức các lệnh rút tiền cho một cá nhân hay bên thứ 3, được chỉ rõ người thụ hưởng. Tiền gửi có thể phát séc là một tài sản có đối với người gửi vì đó là một phần của cải của người gửi. Còn đối với ngân hàng đó là một tài sản nợ vì người gửi tiền có thể rút khỏi tài khoản của họ và ngân hàng phải có nghĩa vụ thanh toán
Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi: Đây là loại tiền gửi do các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng không phải để hưởng lãi mà coi ngân hàng là thủ quỹ của doanh nghiệp. Bằng cách này họ có thể rút ra vào bất kỳ lúc nào theo mục đích thanh toán của họ. Đối với người gửi tiền đây là loại tài sản có tính lỏng cao bởi khách hàng có thể nhận lại tiền khi nào họ có nhu cầu nhưng đối với ngân hàng thì đây là nguồn vốn có tính bị động nhất. Ngân hàng không biết khi nào khách hàng rút tiền nên không dám sử dụng hết số tiền này để đầu tư cho vay mà luôn phải có khoản dự trữ để có thể thanh toán kịp thời cho khách hàng khi có yêu cầu. Đây là nguồn vốn có chi phí trả lãi thấp nhất của ngân hàng song chi phí khác lại cao hơn như chi phí giao dịch, chi phí cung cấp dịch vụ cho khách hàng kèm theo. Để thu hút được nguồn vốn này, đối với doanh nghiệp ngoài khoản tiền gửi sử dụng séc, ngân hàng có thể cung ứng tiện nghi khác bằng cách mở cho họ những tài khoản vãng lai, là tài khoản theo đó ngân hàng cho doanh nghiệp vay một khoản tiền nhất định và ngược lại doanh nghiệp cam kết chuyển những số tiền thu được vào tài khoản này để trừ nợ. Sự cam kết hỗ trợ giữa ngân hàng và doanh nghiệp đưa đến kết quả ngân hàng ứng cho doanh nghiệp một khoản tiền hoặc cho phép doanh nghiệp lấy tiền ra quá một mức nhất định số tiền có của doanh nghiệp trong tài khoản vãng lai. Nhờ tài khoản vãng lai, các doanh nghiệp vay tiền tương đối dễ dàng, đồng thời các ngân hàng theo dõi sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, còn với ngân hàng đã tạo ra được ký thác, tăng cường số tiền gửi của doanh nghiệp. Trước thập niên 70 hầu hết các NHTW đều cấm các NHTM trả lãi suất cho tiền gửi không kỳ hạn. Nguyên nhân là để hạn chế các NHTM dùng tiền gửi không kỳ hạn đầu tư hoặc cho vay vào những thương vị có thời gian cố định. NHTW sợ rằng nếu cho phép các NHTM trả lãi suất cho các khoản gửi không kỳ hạn sự cạnh tranh để thu hút tiền gửi giữa các ngân hàng sẽ dẫn đến việc lãi suất được trả sẽ nâng cao. Khi ngân hàng phải trả lãi suất cao cho tiền gửi không kỳ hạn, họ buộc phải tìm cách dùng tiền gửi này cho vay nhằm kiếm được lợi nhuận, bù đắp cho tiền lãi cao phải trả để tránh thiệt hại. Việc cho vay có thời hạn bằng những khoản tiền gửi không kỳ hạn và người gửi có quyền rút ra bất cứ lúc nào là một điều rất mạo hiểm. Bởi vì nếu có nhiều người gửi tiền cùng lúc viết séc rút tiền, trong khi tiền của họ ngân hàng đã cho vay và chưa đến hạn thu hồi thì dự trữ ở đây có ý nghĩa rất quan trọng. Tình trạng kẹt thanh toán và mất khả năng trả nợ rất dễ xảy ra và tác động lan truyền rất nhanh. Do vậy, NHTM luôn luôn phải có dự trữ cao để chi trả cho những tờ séc của tiền gửi không kỳ hạn. Từ năm 1980 trở đi mặc dù tiền gửi không kỳ hạn đã được phép trả lãi suất nhưng do lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm cao hơn đã chiến thắng sự tiện lợi của việc dùng séc và hơn nữa là sự ra đời của tài khoản NOW.
Tiền gửi giao dịch hưởng lãi ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX. NOW là sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm NOW là tài khoản rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản rút tiền hưởng lãi do vậy nó yêu cầu khách hàng phải thông báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên NOW được sử dụng như là một tài khoản phát séc để chi trả cho mua hàng hóa và dịch vụ.
Tài khoản NOW chỉ thích hợp với những giao dịch nhr dành cho khu vực không kinh doanh như: các cá nhân, hộ gia đình, công nhân viên chức, đơn vị kinh doanh nhỏ, đây là những bộ phận có thu nhập vừa phải, việc chuyển tiền từ tài khoản tiết kiệm lãi suất cao sang tài khoản séc cho chi tiêu của họ không ảnh hưởng nhiều đến ngân hàng cũng như tình hình dự trữ của nó. Tuy nhiên đối với những giao dịch lớn việc chuyển tiền một cách tự động sẽ gây ảnh hưởng rất nặng nề đến dự trữ và khả năng chi trả của NHTM. Những khoản tiền gửi tiết kiệm là những khoản tiền gửi định kỳ luôn luôn được cân đối bằng những khoản đâù tư có thời hạn bên tài sản có. Những thao tác rút tiền bất ngờ như tài khoản NOW với những khoản tiền lớn, dễ đẩy các NHTM đến chỗ khó có khả năng thanh toán.
Do đặc điểm không ổn định của tài khoản NOW khi có những giao dịch lớn gây tác động đến các ngân hàng nên ngày nay các ngân hàng khôg tập trung nhiều vào việc thu hút nguồn vốn này.
Sự ra đời của 2 loại tài khoản giao dịch hưởng lãi quan trọng là tài khoản tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản "super NOW".
Hai loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh toán cho các giao dịch mua hàng hóa thông qua việc thực hiện hành séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần hay vài tháng và ngân hàng có thể trả trước mức lãi suất ở mức đủ lớn để nắm giữ tiền gửi của khách hàng.
Super - NOW (SNW) ra đời gần như cùng thời gian với MMDA nhưng tài khoản này chỉ có thể nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Ngân hàng áp dụng mức lãi suất đối với SNW thấp hơn so với MMDA vì SNW có thể được phát hành thường xuyên hơn.
b. Tiền gửi phi giao dịch.
Tiền gửi phi giao dịch là các tài khoản tiền gửi của khách hàng trong đó không vì các mục tiêu thanh toán và chi trả mà vì các mục tiêu kinh doanh để hưởng lãi.
Tiền gửi phi giao dịch là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, người gửi được quyền hưởng lãi nhưng không được quyền phát séc thanh toán từ tài khoản này.
Tiền gửi phi giao dịch không được rút khi chưa đến hạn. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh thu hút tiền gửi, các NHTM cho phép những người gửi rút tiền khi có nhu cầu nhưng chỉ được hưởng lãi suất tính như tiền gửi giao dịch. Nhìn chung mức lãi suất của tiền gửi phi giao dịch cao hơn so với tiền gửi giao dịch và đây là nguồn huy động chủ yếu của ngân hàng.
Tài khoản tiền gửi tiết kiệm:
Tài khoản tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn giành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu tài chính được dự tính trong tương lai. Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm), trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm.
Lãi suất áp dụng cho loại tiền này cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch. Trong khi chi phí trả lãi cao, chi phí duy trì và quản lý đối với tài khoản tiết kiệm nói chung thấp. Cũng như đối với tài khoản tiền gửi phi giao dịch, các công cụ thu hút tiền gửi tiết kiệm đã được ngân hàng thu hút trong nhiều thập kỷ.
+ Tiết kiệm lập sổ được cung cấp cho khách hàng là gia đình với giá trị nhỏ và có đặc quyền rút vốn không bị hạn chế.
+ Tài khoản tiết kiệm thông báo trong đó thông qua việc truy nhập trên máy tính khách hàng sẽ nhận được các bản thống kê thể hiện số tiền gửi, lệnh rút tiền, lãi và tài khoản số dư hàng tháng.
Tài khoản tiền gửi kỳ hạn:
Từ nhiều năm nay, những người giàu có và các doanh nghiệp được cung cấp tài khoản gửi kỳ hạn trả lãi suất cố định với kỳ hạn xác định.
Gần đây tiền gửi kỳ hạn được phát hành với lãi suất thay thế định kỳ. Tiền gửi loại này có kỳ hạn tối thiểu là 7 ngày và không được rút trước thời hạn. Tiền gửi kỳ hạn rất đa dạng về chủng loại, từ chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (negotiable CDs) tới tiền gửi giáng sinh, tiền gửi cho đi nghỉ...
Chứng chỉ tiền gửi phân làm 2 loại: có thể chuyển nhượng (có thể trao đổi trước mãn hạn) và loại không thể chuyển nhượng.
* Ngoài ra tiền gửi phi giao dịch còn bao gồm tài khoản tiền hưu trí cá nhân được cung cấp bởi các ngân hàng, các tổ chức tiết kiệm, các Công ty môi giới, Công ty bảo hiểm và quỹ tương trợ hoặc bởi chủ doanh nghiệp với những kế hoạch và phân chia lãi hay lương hưu hợp pháp.
* Một bộ phận tương đối lớn là tiền gửi của các cơ quan chính quyền. Ví dụ khi một trường học phát hành trái phiếu sẽ được gửi vào tài khoản của nó ở ngân hàng địa phương.
* Các ngân hàng lớn cũng sử dụng mạng lưới chi nhánh tại nước ngoài trong hoạt động huy động tiền gửi và lưu giữ số tiền nhận được từ nước ngoài dưới tên gọi tiền gửi tại các chi nhánh nước ngoài.
1.1.2.2. Các khoản vay:
Ngân hàng thương mại chủ yếu cho vay bằng nguồn vốn nhận tiền gửi, song không phải lúc nào nguồn vốn đó cũng đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng, nhiều khi cả tiền thanh toán cho khách hàng. Trước tình huống như vậy, ngân hàng thương mại không thể chờ có người đến gửi tiền để sử dụng nguồn vốn ấy được. Bởi nếu ngân hàng không thanh toán kịp thời cho khách hàng thì ngân hàng sẽ mất uy tín và bị phạt theo luật định hay cơ hội đầu tư, cho vay sẽ qua đi. Để giải quyết khó khăn đó, ngân hàng thương mại có thể chủ động đi vay để đáp ứng nhu cầu về vốn trước mắt, ngân hàng thương mại có thể đi vay từ ngân hàng trung ương, từ các tổ chức tín dụng hoặc vay của các tổ chức kinh tế, dân cư thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu… Nguồn vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng nhưng nó thực sự cần thiết bởi ngân hàng thương mại luôn cố gắng cho vay tới mức tối đa có thể tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy, dù không mong muốn song ngân hàng khó tránh khỏ những lúc thiếu tiền mặt chi trả hay không đáp ứng nhu cầu hợp lý của khách hàng.
a. Vay từ ngân hàng trung ương: Ngân hàng trung ương với đặc điểm là ngân hàng của các ngân hàng, là người cho vay sau cùng đối với các ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng trung ương cho phép một ngân hàng thương mại thành lập, thông thường nó được hưởng quyền vay tiền tại ngân hàng trung ương khi thiếu hụt dự trữ hay thiếu vỗn. Khi ngân hàng thương mại thiếu tiền mặt không đáp ứng được thanh khoản, ngân hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu phạt cao hay thấp như thế nào cũng phải cho ngân hàng thương mại vay để tránh những cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra. Thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu này, ngân hàng trung ương có thể điều tiết được lượng cung tiền cho nền kinh tế. Khi ngân hàng trung ương muốn mở rộng cung tiền, ngân hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu thấp khuyến khích các ngân hàng thương mại vay để mở rộng cung tiền đối với nền kinh tế, qua đó ngân hàng trung ương đã mở rộng cung tiền. Ngược lại khi muốn thắt chặt cung tiền, ngân hàng trung ương áp dụng mức lãi suất chiết khấu cao làm cho ngân hàng thương mại không dám mở rộng cho vay mà luôn phải có lượng dự trữ thích hợp để tránh phải vay ngân hàng trung ương với lãi suất cao. Hơn nữa để đảm bảo tính điều tiết của ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại vay ngắn hạn và có tài sản đảm bảo vì chỉ như vậy ngân hàng trung ương mới có phản ứng nhanh nhạy trước những rối loạn trong hệ thống tiền tệ bằng việc thay đổi lãi suất.
ở Việt Nam hiện nay ngân hàng Nhà nước cho vay đối với các ngân hàng thương mại dưới các hình thức sau:
* Cho vay chiết khấu và tái chiết khấu trái phiếu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng thương mại đã cho các khách hàng vay chưa đáo hạn và các thương phiếu.
* Cho vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
* Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: đây là hình thức tài trợ vốn theo kế hoạch và chỉ phân phối cho các ngân hàng thương mại quốc doanh.
Do vậy ngân hàng trung ương có lãi suất phụ thuộc nhiều vào chính sách tiền tệ, vì vậy để hoạt động hiệu quả ngân hàng thương mại phải xem xét lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương trong từng thời kỳ để có kế hoạch sử dụng vốn có hiệu quả, ngân hàng thương mại nên giảm dự trữ để mở rộng tín dụng khi lãi suất chiết khấu thấp, ngược lại phải đảm bảo dự trữ để hạn chế vay ngân hàng trung ương khi ngân hàng trung ương áp dụng lãi suất chiết khấu cao.
b. Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn vốn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác nhau trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng có dự trữ vượt yêu cầu có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh toán. Như vậy nguồn vốn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và cho nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho nguồn vốn vay mượn từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản, ngân hàng chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay, khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
c. Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
Để giải quyết những thiếu hụt về dự trữ hay khó khăn về than toán, ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương hay vay các tổ chức tín dụng. Song đối với những nhu cầu vốn có kế hoạch trước, ngân hàng thương mại có thể phát hành các loại kỳ phiếu hay trái phiếu để huy động nguồn vốn đáp ứng được nhu cầu vốn theo kế hoạch cả về quy mô cũng như thời hạn của nguồn vốn. Kỳ phiếu và trái phiếu đều là công cụ nợ mà ngân hàng thường phát hành ra nhằm mục đích huy động thêm nguồn vốn đáp ứng những nhu cầu vốn mà ngân hàng đã có kế hoạch từ trước. Những nguồn vốn này cũng tương tự như chứng chỉ tiền gửi, người sở hữu kỳ phiếu và trái phiếu chỉ được nhận lại tiền ở ngân hàng phát hành khi đến hạn mà không được rút sớm như tiền gửi có kỳ hạn. Kỳ phiếu là công cụ nợ ngắn hạn, trái phiếu là công cụ nợ trung và dài hạn của ngân hàng và khi ngân hàng thương mại muốn phát hành những công cụ thường phải được sự nhất trí của ngân hàng trung ương hay của Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
1.1.2.3. Nguồn vốn chủ sở hữu.
Cũng như hầu hết các doanh nghiệp khác, để thành lập và đi vào hoạt động, chủ sở hữu ngân hàng thương mại phải bỏ ra vốn đầu tư ban đầu và được ghi vào điều lệ doanh nghiệp (vốn điều lệ). Vốn điều lệ của ngân hàng thương mại phải lớn hơn hoặc bằng mức vốn tối thiểu mà luật quy định (vốn pháp định). Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng thương mại được hình thành do tích chất sở hữu của ngân hàng quy định. Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước (ngân hàng thương mại quốc doanh) có vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp, vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu, ngân hàng thương mại liên doanh có vốn điều lệ do các bên tham gia liên doanh đóng góp.
Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng phải không nhỏ hơn vốn pháp định, ở Việt Nam mức vốn pháp định do ngân hàng Nhà nước quy định, nhưng mỗi ngân hàng thương mại có số vốn điều lệ khác nhau tuỳ thuộc chủ sở hữu ngân hàng, quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng đó. Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng thương mại có thể thay đổi trong quá trình hoạt động, thường nó được bổ sung và tăng dần dưới các hình thức như được ngân sách Nhà nước cấp bổ sung đối với ngân hàng thương mại quốc doanh, huy động thêm vốn từ các cổ đông bằng cách phát hành thêm cổ phiếu đối với ngân hàng thương mại cổ phần hay bổ sung nguồn vốn từ lợi nhuận hay các quỹ đã được trích lập. Vốn điều lệ của ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của ngân hàng và ngân hàng có toàn quyền sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật. Nguồn vốn này chủ yếu được ngân hàng sử dụng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị, góp vốn liên doanh, mua sắm cổ phần, cho vay hay cho các hoạt động khác của ngân hàng.
Ngoài vốn điều lệ, trong quá trình hoạt động và tồn tại, ngân hàng thương mại còn trích lập các quỹ dự trữ theo quy định của pháp luật như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ bảo toàn vốn, quỹ dự trữ đặc biệt, quỹ đầu tư phát triển… hình thành nên nguồn vốn tích luỹ của ngân hàng. Vốn tích luỹ, vốn điều lệ và phần lợi nhuận chưa chia được ngân hàng sử dụng làm nguồn vốn kinh doanh đều là nguồn vốn tự có của ngân hàng thuộc chủ sở hữu của ngân hàng.
Nguồn vốn tự có của ngân hàng thương mại mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng, nhưng đây là nguồn vốn quan trọng vì nó cho thấy được thực lực về tài chính cũng như quy mô của ngân hàng, là nguồn vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng tạo cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Vốn tự có của ngân hàng thương mại là điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng cho việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng, vì vậy quy mô vốn tự có là các yếu tố quyết định quy mô huy động nguồn vốn tài sản có. Vốn tự có không chỉ được xem như sự đảm bảo thanh toán cho người gửi tiền khi phá sản mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ bằng cách cung cấp một khoản tài sản dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe doạ bởi sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động được. Vốn tự có của ngân hàng thương mại đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn tự có giúp trang trang trải thua lỗ về tài chính cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Vốn tự có càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng thương mại càng mạnh khi tình hình kinh tế - chính trị và tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua những giai đoạn khó khăn. Hơn nữa nó còn tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại đa dạng hoá các hoạt động ngân hàng qua đó có thể phân tán rủi ro và có được cơ hội tạo ra lợi nhuận càng lớn.
Vốn tự có là nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng thương mại song đối với nhà quản lý ngân hàng, không phải vốn tự có càng lớn càng tốt vì vốn tự có quá lớn sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có thấp. Ngược lại, nếu vốn tự có của ngân hàng thương mại nhỏ sẽ làm trở ngại đến hoạt động của ngân hàng. Vì vậy xác định vốn tự có ở mức nào là hợp lý là vấn đề mà các nhà quản lý và điều hành ngân hàng luôn phải đặt ra. Thực tế hiện nay chưa có sự thống nhất về mức vốn tự có thích hợp cho các ngân hàng thương mại của các nhà chuyên môn, các nhà quản lý bởi mức vốn tự có của mỗi ngân hàng còn phụ thuộc nhiều yếu tố như tình hình kinh tế - chính trị, công nghệ ngân hàng… Theo thoả ước Basel vào cuối năm 1993, hệ số vốn tự có so với tổng tài sản có dựa trên cơ sở rủi ro của ngân hàng thương mại phải đạt ở mức 8%. Mức vốn tự có của mỗi ngân hàng thương mại là mục tiêu của những động lực khác nhau, xuất phát từ sự phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế với xu hướng cạnh tranh ngày càng bình đẳng trong khuôn khổ pháp lý. Vì vậy để có được mức vốn tự có thích hợp, các nhà quản lý và điều hành phải phân tích nhiều yếu tố để đạt được sự hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu ngân hàng và lợi ích của khách hàng. Các nhà quản lý điều hành ngân hàng phải dựa trên cơ sở các quy định của luật pháp, tình hình kinh tế - chính trị, thực trạng công nghệ ngân hàng và tình hình hoạt động của ngân hàng để xác định mức vốn tự có đảm bảo khả năng thanh toán đối với khách hàng cũng như đạt được tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có phù hợp.
1.1.2.4. Các nguồn khác:
a. Nguồn uỷ thác.
NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác gửi ngân hàng và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng.
Ví dụ: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cho vay uỷ thác hộ cho Nhà nước đối với một số dự án trồng rừng với nguồn ngân sách hoặc nguồn ODA. Theo hợp đồng giữa các bên, các nguồn vốn trên được chuyển về NHNo & PTNT, để từ đó để chuyển tải đến địa điểm đã được xác định trước. Rất nhiều các tổ chức kinh tế, xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới ngân hàng dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng.
b. Nguồn trong thanh toán:
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C...) có thể hình thành nguồn trong thanh toán.
c. Nguồn khác:
Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả.
Trên đây là các nguồn vốn cơ bản trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là ngân hàng thương mại quốc doanh, nguồn vốn hoạt động theo điều lệ bao gồm vốn điều lệ, nguồn vốn huy động, vốn đi vay, vốn uỷ thác và các loại vốn khác được hình thành trong hoạt động kinh doanh được sử dụng theo quy định của ngân hàng Nhà nước. Trong đó nguồn vốn huy động là tài sản của chủ sở hữu, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được quyền sử dụng và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi. Nguồn vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi giao dịch, phi giao dịch của dân cư, các tổ chức tín dụng, kinh tế - xã hội trong nước và ngoài nước.
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu.
1.2 Vai trò của nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1 Nguồn vốn là cơ sở nền tảng để NHTM hoạt động kinh doanh
Như đã biết, nguồn vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh tế. Đối với ngân hàng, nguồn vốn còn là nền tảng để tiến hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn, nguồn vốn không còn là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của NHTM, trực tiếp quyết định quy mô hoạt động tín dụng, năng lực thanh toán và các hoạt động khác của ngân hàng. Như vậy những ngân hàng có nguồn vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh.
1.2.2 Quyết định khả năng cạnh tranh của NHTM
Những NHTM có quy mô lớn, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên cao cũng như trang thiết bị phương tiện kỹ thuật hiện đại là tiền đề quan trọng cho việc huy động nguồn vốn. Đồng thời nguồn vốn là nhân tố quan trọng tác động đến việc mở rộng hay thu hẹp hoạt động tín dụng hay các hoạt động khác.
Một nguồn vốn huy động dồi dào sẽ tạo cho ngân hàng cơ hội mở rộng kinh doanh, đadạng hoá các hình thức dịch vụ, không để lỡ các cơ hội đầu tư và kết quả là ngân hàng sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng, tạo thêm vốn cũng như tăng sức cạnh tranh cho NHTM trên thị trường.
1.2.3 Quyết định quy mô hoạt động kinh doanh của NHTM
Thực tế đã chứng minh, những ngân hàng có nguồn vốn lớn, thường có khoản mục đầu tư và cho vay đa dạng hơn rất nhiều, so với những ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Thật vậy, trong khi các NHTM lớn có thể cho vay tại thị trường trong nước thậm chí là cả thị trường quốc tế thì các NHTM nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, thường là các thị trường khu vực, thị trường địa phương. Hơn nữa, do nguồn vốn hạn hẹp nên các NHTM nhỏ sẽ không phản ứng nhanh nhạy trước những tình huống biến động về lãi suất thị trường, từ đó tác động đến khả năng vốn của NHTM dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ mở rộng thị trường tín dụng, tăng đều khả năng thanh toán và dịch vụ ngân hàng.
1.3. Hiệu quả huy động nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Quan niệm hiệu quả huy động nguồn vốn
Thật không đơn giản khi đưa ra một định nghĩa chính xác về hiệu quả huy động nguồn vốn.
Hiệu quả là cái đích mà mỗi chủ thể, thành phần kinh tế khi tham gia hoạt động kinh doanh đều phải hướng tới vì hiệu quả chính là nhân tố cầu thành lợi nhuận cuối cùng. Ngân hàng muốn thu được lợi nhuận cao, tạo được vị thế, uy tín trên thị trường thì hoạt động của ngân hàng phải có hiệu quả
Một trong những hoạt động mà ngân hàng đòi hỏi phải có hiệu quả là huy động nguồn vốn của ngân hàng.
Chúng ta đã bhiết huy động nguồn vốn có vai trò lớn không những cho bản thân Ngân hàng mà còn cho xã hội
Đối với xã hội: Nhằm thực hiện công cuộc đổi mới xã hội, xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần phải có nguồn vốn lớn làm tiền đề vật chất để xây dựng cơ sở kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, vừa để phục vụ sản xuất kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội, từ đó có khả năng ổn định tiền tệ, nâng cao mức sống của nhân dân.
Đối với ngân hàng nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh và nâgn cao sức cạnh tranh trên thị trường, đồng thời tăng lợi nhuận cho Ngân hàng.
Để đạt được điều đó, thì Ngân hàng cần phải huy động nguồn vốn phù hợp có hiệu quả. Vậy huy động nguồn vốn có hiệu quả với ngân hàng như thế nào?
Trước hết, huy động nguồn vốn phải xuất phát từ thực tế nhu cầu kinh doanh của ngân hàng, vừa đủ về số lượng. Nếu huy động nguồn vốn được ít thì Ngân hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu khách hàng, không đa dạng hoá các loại hình kinh doanh, không mở rộng cạnh tranh và sẽ bị mất khách hàng. Còn nếu huy động nguồn vốn quá nhiều mà không sử dụng hết thì vốn sẽ bị "đóng băng" khiến lợi nhuận bị sụt giảm. Đồng thời huy động nguồn vốn phải có sự ổn định về thời gian để tránh rủi ro về mặt thanh toán.
Tiếp đến,._. cơ cấu nguồn vốn huy động phải hợp lý tránh tình trạng thiếu nguồn vốn này, thừa nguồn vốn kia
Bên cạnh đó, việc tối thiểu các chi phí huy động cũng là một vấn đề cần phải quan tâm đặc biệt. Ngân hàng huy động nguồn vốn phải đảm bảo huy động sao cho chi phí huy động thấp nhất phù hợp với chi phí sử dụng vốn có thể được.
Nói tóm lại, huy động nguồn vốn có hiệu quả là huy động nguồn vốn ổn định, vừa đủ, hợp lý, đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động nguồn vốn của Ngân hàng.
Hiệu quả huy động nguồn vốn được đánh giá theo nhiều khía cạnh khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động nguồn vốn dưới góc độ một nhà ngân hàng.
1.3.2.1. KHối lượng nguồn vốn lớn tăng trưởng với độ ổn định cao.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng phải có sự tăng trưởng ổn định về số lượng để thoả mãn nhu cầu tín dụng, thanh toán cũng như các hoạt động kinh doanh khác ngày càng tăng của ngân hàng, nói cách khác, là đáp ứng được yêu cầu xã hội, đồng thời giúp Ngân hàng có thể duy trì, mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Tuy nhiên, nguồn vốn huy động được phải luôn ổn định về mặt thời gian. Vì nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn nhưng lại không ổn định, thường xuyên có khả năng một lượng tiền lớn bị rút ra thì lượng vốn dành cho vay và đầu tư sẽ không lớn. Như vậy, hiệu quả huy động nguồn vốn sẽ không cao, ngân hàng thường xuyên đối đầu với vấn đề thanh khoản. kết quả trong nhiều trường hợp ngân hàng sẽ phải gặp rủi ro lớn là mất khách hàng. Ngược lại, nếu nguồn vốn huy động được ổn định thì ngân hàng có thể yên tâm sử dụng số tiền đó vào các hoạt động chắc chắn, lâu dài và thu được lợi nhuận cao.
Một yếu tố quan trọng cần nghiên cứu khác là cơ cấu nguồn vốn. Sự biến động về cơ cấu nguồn vốn sẽ kéo theo biến đổi trong cơ cấu cho vay, đầu tư ... và kéo theo lợi nhuận, rủi ro của hoạt động kinh doanh.
Do đó, khi nghiên cứu hai yếu tố trên cần kết hợp với yếu tố này để có được những đánh giá chính xác đưa ra những giải pháp chủ động trong huy động nguồn vốn.
Tóm lại: Nguồn vốn có được đánh giá là tăng trưởng và ổn định hay không còn tuỳ thuộc vào mức độ tưang giảm nguồn vốn huy động và số lợng nguồn vốn huy động. Và nếu nguồn vốn tăng đều qua các năm, đạt mục tiêu đề ra, có độ gia tăng đều đặn sẽ là nguồn vốn tăng trưởng ổn định.
1.3.2.2. Cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn
Nguồn vốn huy động của NHTM lớn và tăng trưởng đồng đều chưa đủ để đánh giá tính hiệu quả của huy động nguồn vốn. Hoạt động huy động vốn của NHTM không thể tách rời với hoạt động sử dụng vốn và hoạt động sử dụng vốn là mục tiêu của hoạt động huy động nguồn vốn. Danh mục đầu tư của NHTM khá đa dạng mà mỗi loại đầu tư lại có những đặc điểm riêng trong đó kỳ hạn đầu tư hay loại tiền là những đặc điểm quan trọng gắn chặt với cơ cấu của nguồn vốn.
Nguồn vốn của NHTM có xuất xứ từ nhiều nguồn gốc với các kỳ hạn khác nhau như vốn tự có, vốn huy động từ nghiệp vụ nhận tiền gửi, vốn đi vay... Nguồn vốn có nhiều xuất xứ và kỳ hạn khác nhau là cơ sở về tính đa dạng của nguồn vốn. Song nhìn chung tính tự chủ của NHTM đối với mỗi nguồn vốn lại có quan hệ tỷ lệ thuận với chi phí trả lãi để có được quyền sử dụng nguồn vốn đó. Để có lợi nhuận cao, NHTM luôn mong muốn dùng nguồn vốn có chi phí thấp để đầu tư hay cho vay đối với những lĩnh vực có lợi tức cao như dùng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên NHTM không thể vì mục tiêu lợi nhuận mà làm như vậy, bởi như thế ngân hàng dễ gặp khó khăn khi thanh toán cho khách hàng. Những nguồn vốn có chi phí thấp thì ngân hàng ít được chủ động bởi tínhlỏng của nó đối với khách hàng lớn, khách hàng chủ động hơn trong việc rút tiền trong khi đó những khoản đầu tư hay cho vay có lợi tức cao của ngânhàng là những tài sản có tính lỏng thấp, ngân hàng sẽ khó khăn trong việc chuyển tài sản có thành tiền mặt. Hơn nữa, khi cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn không phù hợp với cấu trúc kỳ hạn của danh mục đầu tư hay cho vay, ngân hàng cũng dễ gặp rủi ro do thay đổi lãi suất. Chẳng hạn khiNHTM dùng nguồn vốn ngắn hạn là những tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất để cho vay trung và dài hạn là những tài sản có ít nhạy cảm với lãi suất tăng, trong khi đó lợi tức thu được từ những tài sản có lãi suất không thay đổi đáng kể làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm, thậm chí bị lỗ do chi phí huy động vốn lớn hơn lợi tức thu được từ cho vay hay đầu tư. Chính vì những lý do đó mà NHTM luôn phải duy trì cơ cấu nguồn vốn phù hợp với danh mục đầu tư hay cho vay của mình về kỳ hạn. Ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ nhất định nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn để hạn chế những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải.
Bên cạnh đó, loại tiền cũng là một đặc điểm quan trọng khi xem xét tính hiệu quả của hoạt động huy động vốn về cơ cấu nguồn vốn. NHTM huy động vốn cũng như cho vay không chỉ bằng nội tệ mvà bằng cả ngoại tệ. Để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động, ngân hàng phải đảm bảo tính phù hợp giữa cơ cấu nguồn vốn nội - ngoại tệ với nhu cầu sử dụng vốn. Nếu nguồn vốn nội -ngoại tệ mất cân đối, ngân hàng dễ gặp phải những rủi ro, đặc biệt là rủi ro về tỷ giá. Chẳng hạn khi ngân hàng huy động ngoại tệ không đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngoại tệ, ngân hàng dùng vốn nội tệ mua ngoại tệ để cho vay, lúc này hoạt động ngân hàng dễ gặp rủi ro do tỷ giá giảm. Để hạn chế rủi ro tỷ giá này, các ngân hàng phải cố gắng duy trì cơ cấu vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn nội -ngoại tệ.
Tóm lại, một doanh nghiệp cũng như nền kinh tế muốn phát triển và tăng trưởng thì cần phải có vốn đầu tư, nhưng như thế chưa đủ mà phải quản lý sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để có hiệu quả, đảm bảo sự tăng trưởng thật vững chắc. Hay nói cách khác, huy động nguồn vốn để đầu tư là điều kiện cần, quản lý sử dụng nguồn vốn là điều kiện đủ để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng trưởng ổn định và vững chắc.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc huy động nguồn vốn phải dựa trên cơ sở nhu cầu đầu tư và huy động nguồn vốn phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của các thành phần kinh tế. Huy độngnguồn vốn phải gắn liền với việc sử dụng vốn có hiệu quả, sao cho nguồn vốn huy động được sử dụng một cách cân đối, đúng mục đích đầu tư có hiệu quả góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo toàn đồng vốn đầu tư, bảo đảm có lợi ích cho cả người gửi tiền và Ngân hàng. Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là cách tạo vốn và phát triển vốn một cách vững chắc nhất.
1.3.2.3. Chi phí huy động nguồn vốn
Chi phí huy động nguồn vốn là một trong những yếu tố quan trọng đánh giá tính hiệu quả của hoạt động huy động nguồn vốn. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn nên hoạt động huy động nguồn vốn được xem như hoạt động mua sắm các yếu tố đầu vào, vì vậy giảm chi phí huy động nguồn vốn là một trong những mục tiêu mà nhà quản lý ngân hàng đặt ra. Nếu chi phí huy động nguồn vốn thấp sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại có khả năng tăng được lợi nhuận hay mở rộng quy mô đầu tư và cho vay. Tuy nhiên, chi phí huy động nguồn vốn lại phụ thộc vào lãi suất trong những thời kỳ, nên khi đánh giá hiệu quả huy động nguồn vốn của ngân hàng thương mại, chúng ta không so sánh chi phí huy động giữa các thời kỳmà chúng ta nên so sánh chi phí huy động vốn với với lợi tức cho vay hay đầu tư từ nguồn vốn huy động hay so với chi phí huy động nguồn vốn bình quân trên thị trường. Huy động nguồn vốn chỉ đạt được hiệu quả khi lãi suất huy động bình quân thấp hơn lãi suất bình quân trên thị trường, đồng thời để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền thì lãi suất huy động phải là lãi suất dương tức lãi suất cao hơn tỷ lệ lạm phát.
Như vậy để huy động nguồn vốn đạt hiệu quả thì quy môhuy động vốn lớn và tăng trưởng đều đặn qua các năm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn có hiệu quả, quy mô và cơ cấu nguồn vốn phù hợp với quy mô sử dụng vốn, chi phí huy động vốn thấp.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
1.4.1 Nhân tố khách quan.
1.4.1.1 Hành lang pháp lý:
Hành lang pháp lý ảnh hưởng đến hiệu quả huy động nguồn vốn tại NHTM. Có những bộ luật tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: luật các tổ chức tín dụng, luật NHNN ... Những luật này quy định tỉ lệ huy động nguồn vốn của ngân hàng so với vốn tự có, quy định việc phát hành so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay của một NHTM đối với một khách hàng...
Có những bộ luật tác động gián tiếp đến hoạt động của ngân hàng như luật đầu tư nước ngoài. Hoặc quy định các NHTM không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng hoặc giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do ngân hàng Nhà nước đưa ra và chỉ được xê dịnh trong biên độ nhất định và NHNN cho phép.
Bên cạnh những bộ luật đó chính sách tiền tệ của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu nguồn vốn của NHTM. Tuỳ thuộc vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ mà sự ảnh hưởng của nó đến cơ cấu nguồn vốn của NHTM khác nhau. Chẳng hạn, để hạn chế lạm phát Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM có thể huy động được nhiều vốn từ nguồn tiền gửi. Hay khi NHNN tăng lãi suất chiết khấu sẽ làm hạn chế việc NHTM vay NHNN. Điều đó làm cho tỷ trọng của nguồn vay trong cơ cấu nguồn vốn giảm.
1.4.1.2 Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.
Nếu nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển nó sẽ tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường tốt để ngân hàng có thể huy động từ các nguồn nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách thu hút tiền gửi hoặc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu. Các nguồn này thường ổn định và huy động với chi phí không cao. Mặt khác, khi nền kinh tế ở trong tình trạng trì trệ, sản xuất bị kìm hãm, lạm phát gia tăng sẽ gây ảnh hưởng xấu đến quá trình tạo vốn, ảnh hưởng đến cơ cấu và chất lượng nguồn vốn. Cụ thể là: tỷ lệ lạm phát cao làm cho đồng tiền mất giá, khi đó người dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng mà họ sẽ dùng tiền để mua hàng hóa dự trữ. Điều đó làm giảm khoản mục tiền gửi của NHTM. Hơn nữa, trong tình trạng toàn bộ nền kinh tế gặp khó khăn, để huy động được vốn ngân hàng phải bỏ ra chi phí cao hơn, nguồn huy động được lại không ổn định, do đó nguồn vốn mà ngân hàng huy động được là kém chất lượng, hiệu quả không cao.
1.4.1.3. Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người dân.
Tập quán tiêu dùng của người dân cũng ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn NHTM. Nếu ở những vùng dân cư người dân quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ là chính thì việc huy động tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, ở những vùng mà người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, do đó tiền gửi của ngân hàng sẽ tăng lên. Ngoài ra ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng của người dân cũng tăng, điều đó tạo điều kiện để ngân hàng có thể huy động vốn từ nguồn tiền gửi thanh toán. Nguồn này thường có chi phí huy động thấp.
1.4.2 Nhân tố chủ quan.
1.4.2.1 Hình thức huy động.
Để thu hút tối đa các nguồn trong nền kinh tế thì NHTM phải đa dạng hóa các hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ huy động và các nguồn huy động được cũng phong phú hơn. Ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm trong đó đưa ra nhiều thời gian khác nhau cho các loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn.
1.4.2.2 Hình thức cho vay.
Nếu hình thức cho vay của ngân hàng càng mở rộng ví dụ như không chỉ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà còn mở rộng ra các hình thức như cho vay hợp vốn, liên doanh, liên kết mua bán các khoản nợ thì buộc ngân hàng phải tìm cách huy động các nguồn để tài trợ cho hoạt động của chính bản thân ngân hàng và phải huy động như thế nào cho phù hợp. Ví dụ: Khi ngân hàng cho vay chủ yếu là trung và dài hạn thì phải tìm cách huy động nguồn vốn trung và dài hạn cứ không được dùng nguồn vay ngắn hạn để cho vay dài hạn. Điều đó làm cho tỷ trọng vốn cho vay dài hạn tăng lên, ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn của NHTM.
1.4.2.3 Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng.
Nếu ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực, quản lý tốt về mặt dân sự thì trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình ngân hàng sự đoán được rủi ro xảy ra, dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không, nắm bắt được những biến dổi của thị trường một cách nhanh chóng để có thể tư vấn cho khách hàng của mình nên đầu tư vào đâu để có hiệu quả cao nhất.
Từ đó thu hút được khách hàng làm cho môi trường đầu tư của ngân hàng ngày càng mở rộng. Mặt khác, do quản lý tốt nên trong quá trình hoạt động, ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, từ đó có điều kiện thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền. Hoặc khi ngân hàng làm dịch vụ chứng khoán, do phán đoán, thu thập và xử lý thông tin tốt nên khi mua bán chứng khoán ngân hàng dễ thành công, thu hút khách hàng đến uỷ thác ngân hàng kinh doanh hộ chứng khoán. Khi đó ngân hàng có thể sử dụng được số tiền mà khách hàng ký gửi nhờ ngân hàng mua hộ chứng khoán mà chưa sử dụng đến.
1.4.2.4 Lãi suất huy động .
Bất kỳ một cá nhân hay một tổ chức kinh tế nào cũng muốn tham khảo khi gửi tiền vào ngân hàng chính là lãi suất. Vì vậy chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng nhất trong số các chính sách bổ trợ cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Ngân hàng sử dụng hệ thống chính sách ls như một công cụ quan trọng trong việc huy động và thay đổi quy mô của nguồn vốn. Có thể nói lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quy mô nguồn vốn thu hút vào ngân hàng, đặc biệt là quy mô tiền gửi.
Tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu, và nhiều nhân tố khác.
Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Ngoài ra lãi suất huy động của ngân hàng phụ thuột một số yếu tố như: thời gian đáo hạn của khoản tiền gửi, khả năng chuyển hoá giữa các kỳ hạn, mức rủi ro và lợi nhuận mang lại từ các khoản đầu tư khác, lãi suất cho vay mà ngân hàng áp dụng đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân, các quy định của Nhà nước…
Ngoài mức lãi suất, các hình thức trả lãi như: trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ cũng tác động đến người gửi tiền.
Mức lãi suất càng cao thì càng hấp dẫn người gửi tiền, nhưng với mức lãi suất huy động cao thì lãi suất cho vay cũng phải cao tương ứng thì ngân hàng mới có lợi nhuận. Do vậy khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể ngân hàng phải tính đến chi phí huy động nguồn vốn của mình và mặt bằng lãi suất huy động của ngân hàng mình so với ngân hàng khác.
1.4.2.5 Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn.
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần với những trung tâm thương mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động của các ngân hàng thường được thể hiện thông qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm. Khi công chúng có tiền nhàn rỗi, họ thường đưa ra quầy tiết kiệm gần nhà họ nhất để gửi. Mạng lưới huy động rộng rãi sẽ tạo điều kiện thu hút tiền gửi của nhân dân.
1.4.2.6 Vị trí và uy tín của ngân hàng:
Vị trí của ngân hàng ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả huy động nguồn vốn của ngân hàng. Nếu ngân hàng ở những vị trí giao thông thuận lợi, trung tâm kinh tế, tập trung nhiều dân cư có thu nhập cao ổn định, thì sẽ có điều kiện thu hút khách hàng đến giao dịch nhiều.
Uy tín của ngan hàng rất quan trọng, với một ngân hàng càng lớn, hoạt động lâu năm và có uy tín trên thị trường thì sẽ càng hấp dẫn khách hàng đến giao dịch vào ngân hàng, vì khi gửi tiền họ sẽ tin tưởng, an tâm khoản tiền mà họ đã gửi vào ngân hàng.
Chương II: Thực trạng huy động nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát Triển NôNg Thôn quận hai bà trưng Hà Nội
2.1 Khái quát về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn quận Hai Bà trưng - Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
Tiềm lực kinh tế mạnh là yếu tố hết sức quan trọng để thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm đưa nước ta bắt nhịp cùng với tốc độ phát triển của khu vực và các nước trên thế giới. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến việc ban hành các chính sách kinh tế nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Sau hơn mười năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể và ngày càng bắt nhịp với cơ chế thị trường. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như lạm phát, công ăn việc làm, trình độ dân trí, mức sống… được cải thiện là yếu tố thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Hơn nữa, cùng với những bước tiến đó, môi trường chính trị ngày càng ổn định, đặc biệt là hệ thống pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh bình đẳng và đạt hiệu quả hơn.
Nông nghiệp là lĩnh vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam, phát triển cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, nông nghiệp nông thôn đã đạt được những thành công lớn. Từ một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu thứ hai trên thế giới. Chúng ta đã được thị trường thế giới nhìn nhận không chỉ là một nơi cung cấp lương thực về số lượng mà còn là nơi cung cấp những mặt hàng có chất lượng cao. Để làm được điều đó Chính phủ cùng các ban ngành phải nỗ lực trang bị cho nông dân kiến thức, trang thiết bị và vốn. NHNo&PTNT Việt Nam có vị trí quan trọng trong tiến trình đó.
Trước những nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, nhu cầu sử dụng vốn và các dịch vụ Ngân hàng của các doanh nghiệp và dân cư cũng ngày càng tăng. Đồng thời, nhằm mục tiêu mở rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hoá các nghiệp vụ Ngân hàng, nâng cao hơn nữa uy tín và hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, NHNo&PTNT đã không ngừng thành lập các chi nhánh mới rộng khắp trên cả nước, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng…
NHNo&PTNT Hà Nội ra đời cùng với quyết định số 69- QĐNHNN tháng 8 năm 1988 chuyển hệ thống Ngân hàng Việt nam từ 1 cấp thành 2 cấp và thành lập 4 NHTM quốc doanh trên cơ sở các phòng tín dụng trước đây ở NHNN Việt Nam.
NHNo&PTNT Hà Nội là một Ngân hàng vừa làm nhiệm vụ quản lý, vừa làm nhiệm vụ kinh doanh. Từ 8/1988 NHNo&PTNT Hà Nội làm nhiệm vụ quản lý về nghiệp vụ Ngân hàng với 12 chi nhánh Ngân hàng cấp huyện (tức là Ngân hàng cấp 3) của thành phố Hà Nội lúc đó là NHNo&PTNT Ba Vì, Phúc Thọ, Sơn Tây, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm và Thanh Trì. Đồng thời tổ chức hoạt động kinh doanh tại trụ sở số 2- Lạc Trung- Hà Nội. Đến tháng 9 năm 1991 Quốc hội khoá IX đã phân định ranh giới các tỉnh thành phố, 7 huyện ngoại thành Hà Nội đã được tách chuyển về các tỉnh khác, trong đó 6 huyện về tỉnh Hà Tây đó là: Ba Vì, Phúc Thọ, Sơn Tây, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và huyện Mê Linh chuyển về tỉnh Vĩnh Phúc. Như vậy lúc này hoạt động quản lý của NHNo&PTNT Hà Nội đã bị thu hẹp lại, tập trung nhiều vào các địa bàn nội thành và khu vực xung quanh khác có sản xuất công nghiệp phát triển.
Trên cơ sở nhiệm vụ quản lý, NHNo&PTNT Hà Nội đã nhanh chóng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình trên địa bàn các Quận nội thành bằng việc mở ra 6 chi nhánh NHNo&PTNT cấp 4 đó là: Chợ Hôm, Hoàn kiếm, Thanh Xuân, Giảng Võ, , Cầu Giấy và Tây Hồ. Các chi nhánh Ngân hàng cấp 4 này hoạt động như một phòng giao dịch của NHNo&PTNT Thành phố.
Nhận thấy địa điểm trên đường Ngô Thì Nhậm quận Hai Bà Trưng có khá nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh như: Là trung tâm buôn bán của quận và của thành phố; khu vực dân cư đông đúc... Ngày 27/07/1994 Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Thành phố Hà Nội đã quyết định thành lập thêm chi nhánh mới: Đó là chi nhánh Ngân hàng khu vực Chợ Hôm trực thuộc NHNo&PTNT Hà nội và hiện nay là NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng.
Khi ra đời với tên gọi chi nhánh NHNo khu vực Chợ Hôm và là Ngân hàng cấp IV với tổng số cán bộ công nhân viên là 20 người đựơc chia thành 2 phòng: Phòng Tín dụng và Phòng Kế toán. Nhưng để đưa chất lượng hoạt động Ngân hàng ngày một cao, đồng thời nâng cao vị thế và uy tín của Ngân hàng trên địa bàn, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Thủ đô nói riêng và cả nền kinh tế cả nước nói chung, sau một thời gian 3 năm hoạt động kinh doanh có hiệu quả kinh tế, Giám đốc NHNo&PTNT Hà Nội đã quyết định chuyển Ngân hàng từ cấp IV lên cấp III với tên gọi: NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Ngay từ khi ra đời, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã được phép thực hiện mọi hoạt động Ngân hàng như: Tín dụng, thanh toán trong và ngoài nước, tham gia các hoạt động mua bán bằng ngoại tệ.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của các phòng ban trong NHNo & PTNT quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
2.1.2.1 Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng kinh doanh
Phòng Tổ chức - Hành chính
Phòng kế toán và kho quỹ
Phòng bảo vệ
Các phòng giao dịch
Quan hệ giao dịch ngân hàng
Huy động nguồn vốn nội tệ
Huy động nguồn vốn ngoại tệ
Cho vay (DN) DNNN, DNTN
Cho vay cầm cố giấy tờ có giá
Thanh toán quốc tế, kế hoạch
2.1.2.2. Chức năng chính của các phòng ban
- Phòng kế toán - kho quỹ:
Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam.
Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu - chi tài chính, quỹ lương. Quản lý và sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam.
Tổng hợp lưu trữ hồ sơ tài liệu về hạch toán, kế toán, quyết toán và các báo cáo theo quy định.
Thực hiện các khoản nộp ngân sách Nhà nước, chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định, quản lý và sử dụng thiết bị thông tin, điện toán phục vụ kinh doanh theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam.
Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc chi nhánh đề ra.
- Phòng kinh doanh
Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng, phân loại khách hàng, đề xuất chính sách, ưu đãi đối với từng loại khách hàng, mở rộng tín dụng theo kế hoạch đề ra, lựa chọn biện pháp cho vay có hiệu quả và an toàn; thẩm định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo uỷ quyền, thẩm định các dự án, hoàn thiện các hồ sơ trình ngân hàng theo phân cấp.
Tiếp nhận và thực hiện các chương trình dự án thuộc nguồn vốn trong và ngoài nước.
Xây dựng và thực hiện các mô hình thí điểm, theo dõi đánh giá, tổng kết, sơ kết.
Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn để xác định nguyên nhân và có biện pháp đề xuất giúp lãnh đạo chi nhánh chỉ đạo kiểm tra hoạt động tín dụng.
Tổng hợp báo cáo, kiểm tra chuyên đề theo quy định.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Ban giám đốc giao.
- Phòng Tổ chức hành chính
Phòng này có chức năng quản lý về mặt nhân sự, từ việc sắp xếp bố trí đến việc quản lý hồ sơ của cán bộ công nhân viên, tổ chức đào tạo, hoạt động tiền lương, chế độ bảo hiểm - xã hội, bảo hiểm hưu trí, quản lý công tác hành chính quản trị, thi đua khen thưởng….
2.1.2.3 Tình hình hoạt động kinh doanh.
NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội là một đơn vị hạch toán phụ thuộc NHNo&PTNT Hà Nội có chức năng kinh doanh đa năng về tiền tệ- tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng trên địa bàn Thủ đô nhằm phát triển kinh tế- xã hội góp phần công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Để tồn tại, phát triển và không ngừng vươn lên trong kinh doanh, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã thực thi các chính sách tiền tệ- tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng một cách uyển chuyển linh hoạt và có hiệu quả.
Dư nợ cho vay của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội không ngừng tăng lên qua các năm, tập trung chủ yếu cho vay các DNNN làm ăn có hiệu quả như: Công ty cơ giới và xây lắp 12, Công ty xây dựng và tư vấn thiết kế, Công ty vàng bạc đá quý Hà nội...và tập trung cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNTN, Công ty TNHH), hộ sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay cầm cố giấy tờ có giá. NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã góp phần tích cực trong việc xây dựng công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Nếu như tính đến 31/12/2000 dư nợ của Ngân hàng mới chỉ là 61,5 tỷ đồng, thì đến ngày 31/12/2003 dư nợ đã đạt 110 tỷ đồng, tăng gấp hơn 1,78 lần .
Năm 2003, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã từng bước nâng dần lãi suất cho vay đối với các DNNN từ 0,72% đến 0,75 %, đối với các Công ty TNHH, DNTN, Hộ sản suất... duy trì lãi suất cho vay từ 0,8% đến 0,85%. Đồng thời chú trọng khâu thẩm định cho vay, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Từng bước chọn lọc các khách hàng làm ăn có hiệu quả, có uy tín. Hàng quý, 6 tháng phân loại khách hàng theo công văn 1963– NHNo&PTNT Việt nam.
NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội là một trong số các Ngân hàng dẫn đầu về nguồn vốn huy động, không những đáp ứng đủ nhu cầu vốn kinh doanh tại địa phương, mà còn có một lượng vốn “thừa” điều chuyển lên NHNo&PTNT Hà Nội, góp phần điều hoà vốn trong toàn hệ thống.
Nguồn vốn huy động tăng trưởng qua các năm là thành công và là thế mạnh trong cạnh tranh của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Nếu so sánh với 2000 nguồn vốn chỉ có 236,780 tỷ đồng, thì đến 31/12/2003 nguồn vốn đã tăng trưởng lên tới 580.400 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2,45 lần, đạt 99,1% so với kế hoạch đề ra. Để đạt được kết quả này, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội được sự quan tâm của Ban giám đốc, các phòng ban NHNo&PTNT Hà Nội có sự điều chỉnh lãi suất kỳ phiếu linh hoạt, mềm dẻo để thu hút vốn. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội mở rộng mạng lưới bằng việc hỗ trợ mở thêm 1 bàn tiết kiệm số 14 Phố Lò đúc. Quỹ tiết kiệm này được mở là nơi tập trung đông dân cư, một điểm thu hút vốn lớn. Mặt khác, đó còn là một sự cố gắng lớn của tập thể ban giám đốc và toàn thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng đã nỗ lực hết mình vì nhiệm vụ chung. Thể hiện, NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã chú trọng mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch, tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ rơi... và mở nhiều hình thức huy động vốn.
Hiệu quả công tác huy động vốn không chỉ tính riêng phần chênh lệch lãi suất giữa lãi suất điều chuyển vốn của NHNo&PTNT cấp trên với lãi suất bình quân trong huy động vốn tại địa phương, mà còn phải tính đến hiệu quả kinh tế toàn ngành và hiệu quả toàn xã hội trong việc sử dụng vốn thừa đó để phát triển kinh tế- góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Bảng 1. Tổng hợp nguồn vốn và dư nợ của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Đơn vị tính: Triệu đồng.
STT
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
I
Tổng nguồn vốn.
236.780
304.922
555.166
580.400
1
Tiền gửi tổ chức tín dụng trong nước
1.980
2.929
31.919
41.494
2
Tiền gửi tổ chức kinh tế.
44.330
54.513
77.830
80.206
* Nội tệ.
14.800
26.993
49.444
51.651
* Ngoại tệ.
29.530
27.520
28.386
28.555
3
Tiền gửi tiết kiệm.
102.470
139.480
188.614
254.697
* Nội tệ.
14.000
31.000
50.000
80.000
* Ngoại tệ.
88.470
108.480
138.614
174.697
4
Phát hành giấy tờ có giá.
88.000
108.000
256.803
205.003
* Ngắn hạn.
600
600
1.746
1.543
* Dài hạn.
87.400
107.400
255.057
203.460
II
Tổng dư nợ cho vay.
61.500
67.000
87.000
130.000
1
Dư nợ ngắn hạn.
57.000
63.000
69.000
114.500
* DNNN.
51.000
44.000
35.000
0
* DNTN, Công ty TNHH.
3.900
8.000
19.600
16.500
* Hộ sản xuất, thành phần khác.
2.100
11.000
14.400
98.000
2
Dư nợ trung - dài hạn.
4.500
4.000
18.000
15.500
* DNNN.
3.100
2.300
15.500
1.805
* DNTN, Công ty TNHH.
300
0
0
0
* Hộ sản xuất, thành phần khác.
1.100
1.700
2.500
13.695
(Trích từ hồ sơ quyết toán của Ngân hàng)
Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2003 là 130 tỷ đồng. Trong đó:
- Dư nợ cho vay đối với DNNN chiếm 1,38%/Tổng dư nợ.
- Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNTN, Công ty TNHH) chiếm 12,69%/Tổng dư nợ.
- Dư nợ cho vay hộ sản xuất và thành phần khác chiếm 85,92%/Tổng dư nợ.
Vốn tín dụng NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã thực sự góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và dân cư phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực vật tư nông nghiệp, lương thực, phân bón, cà phê, chế biến tiêu thụ sản phẩm nông lâm nghiệp, xuất nhập khẩu...
Công tác kho quỹ và kế toán: Luôn đảm bảo tuyệt đối an toàn tài sản không để xảy ra nhầm lẫn, mất mát trong khi thu, chi và vận chuyển trên đường đi. Kết quả thu được 471 tỷ đồng, chi 464 tỷ đồng. Các chị em ngân quỹ làm việc nhiệt tình, có trách nhiệm cao được khách hàng tin tưởng
Kế toán giám sát chặt chẽ trong khâu quản lý tài sản nói chung và tiền mặt nói riêng, luôn phải đảm bảo đúng theo các chế độ quản lý: Đối với cán bộ kiểm ngân phải đảm bảo đúng nguyên tắc, quy trình thu chi và luân chuyển chứng từ. Tác phong của nhân viên giao dịch nhiệt tình, vui vẻ, văn minh, lịch sự. Đối với công tác quyết toán đã hoàn thành tốt chính xác và kịp thời.
Các dịch vụ Ngân hàng ngày càng hoàn thiện và phát triển mang lại lợi ích kinh tế cho Ngân hàng và cho toàn xã hội như: Tài trợ các hoạt động xuất nhập khẩu, bảo lãnh, kinh doanh mua bán ngoại tệ, chuyển tiền trong phạm vi toàn quốc, tư vấn, dịch vụ kiều hối, thu đổi ngoại tệ... Nhận vốn và thực hiện uỷ thác tài trợ đầu tư của Ngân hàng thế giới (WB).
Nói chung, toàn thể cán bộ công nhân viên NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội dưới sự lãnh đạo của chi bộ, lãnh đạo và tổ chức đoàn thể đã có sự đoàn kết nhất trí, yên tâm công tác, vựơt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.2. Thực trạng huy động nguồn vốn tại NHNo & PTNT quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
2.2.1. Tình hình huy động nguồn vốn tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội.
2.2.1.1. Quy mô và cơ cấu ngồn vốn huy động.
a. Quy mô nguồn vốn huy động.
Quy mô, nguồn vốn huy động được thể hiện trong bảng số liệu sau:
Bảng 2: Biến động nguồn vốn huy động từ 2000 đến 2004
Năm
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
Tổng nguồn vốn huy động
236.786
304.922
555.166
5._. cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh.
3.3. một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn tại NHN0&PTNT quận hai bà trưng Hà Nội
3.3.1. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
Để cải thiện được cơ cấu nguồn vốn huy động, nâng dần tỷ trọng nguồn vốn trung dài hạn và ngoại tệ, đồng thời thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để mở rộng quy mô nguồn vốn kinh doanh, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải đa dạn hoá các hình thức huy động nguồn vốn để đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các đối tượng gửi tiền, nhất là các đối tượng khách hàng có nguồn vốn trung - dài hạn và ngoại tệ. Mỗi đối tượng gửi tiền có những đặc điểm khác nhau nên để thoả mãn tốt được nhu cầu của khách hàng chi nhánh cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động nguồn vốn. Để đa dạng các hình thức huy động nguồn vốn, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải đa dạng hoá kỳ hạn gửi tiền cũng như phát triển các công cụ huy động nguồn vốn, đặc biệt là các hình thức huy động nguồn vốn có khả năng khai thác tốt nguồn vốn trung - dài hạn và ngoại tệ.
Phát triển các công cụ huy động nguồn vốn: Thực tế hiện nay chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội huy động nguồn vốn chủ yếu thông qua các công cụ tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền tiết kiệm và phát hành kỳ phiếu- trái phiếu. Những công cụ huy động nguồn vốn mà chi nhánh đang sử dụng nói chung còn thiếu những kỳ hạn dài, tiền gửi nội tệ của các tổ chức, cá nhân chủ yếu có kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống trong khi huy động kỳ phiếu chỉ mới dừng lại ở nguồn vốn nội tệ có kỳ hạn 13 tháng trở xuống. Trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội khôn những phải phát triển những công cụ huy động nguồn vốn hiện có như kéo dài kỳ hạn gửi tiền để huy động vốn trung - dài hạn, phát hành kỳ phiếu huy động ngoại tệ mà còn phải nhanh chóng áp dụng những công cụ huy động mới như chứng chỉ tiền gửi, thẻ thanh toán… nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi. Để khuyến khích dân cư mở tài khoản cá nhân, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng phương tiện này như giảm bớt những thủ tục hành chính không cần thiết, cho phép khách hàng có thu nhập ổn định (cán bộ công nhân viên của các đơn vị trả lương qua tài khoản) sử dụng tài khoản vơí một hạn mức số dư nợ nhất định với lãi suất ưu đãi, tạo điều kiện cho khách hàng phát hành séc. Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cũng cần nhanh chóng triển khai và phát triển hình thức thanh toán thẻ, thẻ tín dụng….
Đa dạng hoá kỳ hạn gửi tiền và hình thức gửi tiền: Các đối tượng gửi tiền có các nguồn vốn nhàn rỗi với các thời gian khác nhau, vì vậy để thu hút được các nguồn vốn này chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải đa dạng hơn nữa về kỳ hạn gửi tiền vì hiện tại chi nhánh còn ít kỳ hạn cho khách hàng lựa chọn. Tuy nhiên chi nhánh cũng không nên chia kỳ hạn quá nhỏ bởi như thế gây khó khăn cho ngân hàng trong kế hoạch hoá cũng như làm tăng chi phí giao dịch và xử lý nghiệp vụ. Vì vậy đa dạng hoá kỳ hạn gửi tiền là giải pháp dễ thực hiện song chi nhánh phải tính hiệu quả của nó. Khi phân chia kỳ hạn gửi tiền, chi nhánh cần phải chú ý về tính khả dụng của nguồn vốn (tỷ lệ nguồn vốn có thể cho vay sau khi trừ khoản dự trữ bắt buộc), tính chất trung và dài hạn bởi chỉ có một tỷ lệ vốn ngắn hạn được cho vay trung và dài hạn… Từ thực thế hiện nay, chi nhánh nên phát triển thêm tiền gửi có kỳ hạn dài như tiền gửi có kỳ hạn 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng chứ không nên chia nhỏ hơn nữa tiền gửi ngắn hạn bởi cách chia kỳ hạn 1-3-6-9-12 thán g như hiện nay đã đáp ứng được sự đa dạng đối với khách hàng có nguồn vốn ngắn hạn. Về đa đa dạng hoá hình thức gửi tiền, hiện chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội chủ yếu áp dụng hai hình thức là gửi tiền trả lãi trước và trả lãi sau khi hết kỳ hạn, đây là những hình thức đơn giản mà ngân hàng dễ áp dụng và tính toán lãi suất song không thoả mãn được nhu cầu đa dạng của người gửi tiền. Vì vậy trong thời gian tới chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần phải nghiên cứu đưa vào áp dụng những hình thức gửi tiền và trả lãi khác. Một số hình thức gửi tiền và trả lãi mà chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội có thể đưa vào vận dụng để tăng cường khai thác nguồn vốn trung - dài hạn như:
- Tiền gửi lãi định kỳ nhiều lần hay trả gốc và lãi theo niên kim đối với những khoản tiền lớn có kỳ hạn dài. Hình thức này phù hợp với những người có khoản tiền tiết kiệm lớn phục vụ cho tiêu dùng tương lai (như cán bộ hưu trí, sinh viên, học sinh…). Đối với ngân hàng, khi áp dụng hình thức này sẽ mở rộng được nguồn vốn trung và dài hạn do thu hút được những khách hàng tuy có thu nhập không cao hay không có thu nhập nhưng có khoản tiền tiết kiệm để đảm bảo chi tiêu trong tương lai.
- Tiền tiết kiệm gửi góp là hình thức mà người gửi có thể gửi những khoản tiền gửi theo định kỳ. Đây là hình thức được áp dụng phù hợp đối với những người có thu nhập khá và đều đặn có nhu cầu tiết kiệm cho những khoản chi tiêu lớn sau này, đặc biệt là đối với các cán bộ, công nhân viên chức.
- Tiết kiệm có mục đích, với hình thức này khách hàng gửi tiền tiết kiệm tích luỹ liên tục trong thời gian với một số tiền tối thiểu nhất định thì được ngân hàng cho vay ưu đãi để mua sắm tài sản và lấy tài sản mới mua thế chấp làm vật đảo đảm cho khoản vay. Chẳng hạn hiện nay để mua căn nhà với những cán bộ trẻ là tương đối khó khăn, để tạo điều kiện chi nhánh có thể cho phép khách hàng có thu nhập ổn định sau 5 năm gửi tiền liên tục và đủ 60-70% gía trị căn nhà định mua, sau khi cán bộ tín dụng thẩm định sẽ cho phép vay khoản còn thiếu để mua và lấy căn nhà mới mua làm tài sản đảm bảo cho khoản vay. Với hình thức huy động này vừa tạo điều kiện cho khách hàng mua sắm những tài sản có giá trị lớn, vừa tạo điều kiện cho ngân hàng huy động được nguồn vốn trung - dài hạn, đồng thời có khả năng mở rộng đầu tư tín dụng trong tương lai.
- Hình thức tiết kiệm trung dài hạn có đảm bảo theo tỷ lệ lạm phát: Hiện nay nguồn vốn huy động trung và dài hạn còn chiếm tỷ trọng thấp không chỉ ở chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội mà ở hầu hết các ngân hàng thương mại nói chung. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là do người dân sợ tỷ lệ lạm phát cao làm mất giá khoản tiết kiệm của họ. Vì vậy để tăng cường nguồn vốn trung - dài hạn, chi nhánh có thể vận dụng hình thức này theo tỷ lệ lạm phát hàng năm do cơ quan công bố. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức tiết kiệm có đảm bảo theo tỷ lệ lạm phát, chi nhánh cần phải nghiên cứu để xác định mức lãi suất phù hợp vì trong trường hợp này chi nhánh dễ gặp rủi ro do tỷ lệ lạm phát tăng cao.
- Hình thức tiết kiệm bằng vàng: Đây cũng là hình thức huy động nguồn vốn trung- dài hạn có hiệu quả bởi hiện nay còn khá nhiều người tích trữ vàng. Để tận dụng huy động nguồn vốn này chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội có thể nhận tiền gửi tiết kiệm bằng vàng, cho phép khách hàng nhận và gửi tiền theo giá vàng trên thị trường (giá vàng của Công ty vàng bạc đá quý Nhà nước ). Với hình thức này sẽ thu hút được một lượng nguồn vốn đáng kể, nhất là nguồn vốn trung - dài hạn có hiệu quả bởi khách hàng không những vừa đảm bảo cất trữ an toàn bằng vàng (tiền theo giá vàng), vừa được hưởng lãi suất. Tuy nhiên hình thức tiết kiệm này cũng như hình thức tiết kiệm đảm bảo theo tỷ lệ lạm phát, ngân hàng dễ gặp rủi ro về giá vàng nên đòi hỏi ngân hàng phải xác định được mức lãi suất phù hợp để bù đắp rủi ro.
- Phát triển kỳ phiếu- trái phiếu với kỳ hạn, mệnh giá và loại tiền đa dạng, tăng tính lỏng cho kỳ phiếu và trái phiếu. Nguồn vốn mà chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội huy động thông qua phát hành kỳ phiếu- trái phiếu trong thời gian qua chưa lớn và chỉ huy động nguồn vốn nội tệ , để phát huy công cụ này ngân hàng phải tăng tính lỏng cho loại giấy tờ có giá này để thu hút khách hàng. Hiện nay các loại giấy tờ có giá trị do chi nhánh phát hành hầu như không được chuyển nhượng trên thị trường nên để tạo tính lỏng, chi nhánh nên áp dụng nghiệp vụ chiết khấu đảm bảo lợi ích cho khách hàng khi cần rút tiền trước khi đến hạn. Vơí nghiệp vụ chiết khấu sẽ tạo thuận lợi cho khách hàng khi rút trước hạn mà không phải thế chấp để vay tiền với lãi suất cao.
3.3.2. Không ngừng hoàn thiện các tiện ích về công nghệ Ngân hàng để phục vụ người gửi tiền.
Đẩy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, chủ động hội nhập những công nghệ thông tin hiện đại để đổi mới công nghệ thông tin Ngân hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ưu tiên phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm dịch vụ mới có sức cạnh tranh phục vụ khách hàng trong lĩnh vực tiền tệ trong nước và ngoài nước. Ngân hàng cần phải từng bước đổi mới công nghệ thanh toán, đa dạng hoá các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, không ngừng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiến tới hiện đại hoá các hoạt động Ngân hàng, đảm bảo cho khâu thanh toán nhanh, chính xác, tiện lợi với mức phí rẻ nhất. Để đa dạng hoá các hình thức thanh toán, các Ngân hàng có thể sử dụng:
- Hình thành hệ thống Ngân hàng tự động sử dụng hệ thống máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng trực tiếp giao dịch, hoạt động suốt ngày.
- Hệ thống giao dịch tại Ngân hàng chủ là các dịch vụ Ngân hàng bán lẻ, phát triển dịch vụ Ngân hàng tại nhà, Ngân hàng qua điện thoại, Ngân hàng qua dịch vụ Internet, Ngân hàng không có chủ và Ngân hàng giao dịch hoàn toàn bằng hệ thống máy móc tự động,...
- Phát triển hệ thống phát hành và thanh toán thẻ các loại, đa dạng hoá các loại thẻ phát hành như: Thẻ nội địa, thẻ ghi nợ, thẻ liên kết,...
- Nối mạng thanh toán bù trừ liên Ngân hàng qua trung tâm thanh toán của NHNN và thanh toán bù trừ giữa các hệ thống NHTM với nhau.
Việc phát triển công nghệ hiện đại phải bao gồm cả việc cải tiến quy trình công nghệ, các sản phẩm tín dụng, dịch vụ Ngân hàng, xây dựng, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán quốc tế, đồng thời ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thông tin vào hoạt động Ngân hàng, áp dụng hệ thống thông tin đa phương để quản trị điều hành đáp ứng yêu cầu hoạt động của Ngân hàng hiện đại.
3.3.3. Mở rộng mạng lưới và thời gian giao dịch.
Mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh để tiếp cận thị trường, chiếm lĩnh thị trường, để gần với dân cư, với khách hàng. Đây là giải pháp quan trọng để phát triển hoạt động kinh doanh và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng.
Để tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh đủ sức cạnh tranh với các NHTM khác trên địa bàn Thủ đô và chuẩn bị thực hiện các dịch vụ Ngân hàng hiện đại. NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần mở rộng mạng lưới kinh doanh theo hướng sau:
* Mở ngay từ 3 đến 5 bàn tiết kiệm (hoặc phòng giao dịch) trên địa bàn Quận tại các khu vực đông dân cư, trung tâm kinh tế- thương mại- du lịch... sau đó phát triển dần lên.
* Các bàn tiết kiệm (phòng giao dịch) có nhiệm vụ chính là huy động vốn tiền gửi trong dân cư và thực hiện tất cả các dịch vụ Ngân hàng khác. Tại các điểm này cũng là nơi đặt các máy ATM và các máy thanh toán thẻ sau này.
Sau khi các bàn tiết kiệm đã đi vào hoạt động có hiệu quả, Ngân hàng sẽ chuyển bàn tiết kiệm sang thành phòng giao dịch có thể làm các nhiệm vụ: Cho vay cầm cố tài sản (cho vay chiết khấu, giấy tờ có giá), điều tra khách hàng trong khu vực, nắm bắt thông tin thị trường... từ đó định kỳ báo cáo Ngân hàng cấp trên tổng hợp xử lý kịp thời.
Để thực hiện được giải pháp này cần phải có một khoản tài chính nhất định để xây dựng- mua sắm trụ sở- văn phòng giao dịch, trang bị thiết bị phương tiện làm việc, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nghiệp vụ và tất yếu ảnh hưởng đến biên chế số lao động của Ngân hàng. Hiện nay NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội có đầy đủ điều kiện để thực hiện giải pháp này. Tuy nhiên cần phải tính đến hiệu quả về kinh tế- xã hội khi mở thêm một bàn tiết kiệm.
Nói đến thời gian giao dịch, đã từ lâu Ngân hàng Việt Nam với thói quen làm việc theo giờ hành chính (8h/24h) là một hạn chế lớn trong cơ chế thị trường hiện nay. Bởi vì NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- thanh toán và đối tượng phục vụ của NHTM rất rộng lớn bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư thuộc các thành phần kinh tế xã hội. Nhu cầu về dịch vụ Ngân hàng không thể chỉ đáp ứng trong 8h hành chính mà ngày càng đòi hỏi các NHTM phải mở cửa giao dịch phục vụ khách hàng 24h/24h kể cả ngày nghỉ, lễ, ngày chủ nhật.
NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp và dân cư trên địa bàn Thủ đô thì việc thay đổi thời gian làm việc cho phù hợp là một đòi hỏi bức xúc hiện nay.
Trước mắt cần tăng thời gian giao dịch với khách hàng để huy động vốn tiền gửi dân cư và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng khác 12h/ngày (kể cả ngày lễ và chủ nhật) và có thể chia làm 2 ca.
Ca 1: Từ 07h00 đến 12h00
Ca 2: Từ 13h00 đến 18h00
Tiến tới thực hiện 18h/ ngày rồi 24h/ngày ở một số dịch vụ cần thiết và thông qua hệ thống thiết bị điện tử tin học hiện đại như dịch vụ Phone Banking...
Để thực hiện được giải pháp này là sự thay đổi lớn trong nếp nghĩ cách làm của cán bộ nhân viên Ngân hàng và hàng loạt thay đổi trong chỉ đạo điều hành tổ chức hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
Trong thời gian trước mắt cần làm chọn điểm ở một số bộ phận nghiệp vụ nhất định để đạt hiệu quả cao.
3.3.4. Hoàn thiện chính sách khách hàng.
Không như các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động Ngân hàng thì quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng mang tính thường xuyên và lâu dài. Khả năng tồn tại, phát triển của Ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào chữ “ Tín” đối với khách hàng. Điều đó khẳng định rằng xây dựng và hoàn thiện chính sách khách hàng là một giải pháp quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Đặc biệt trong công tác huy động vốn thì đặc điểm khách hàng là doanh nghiệp hay dân cư đều tác động đến công tác huy động vốn, tuy nhiên trong từng loại khách hàng, chẳng hạn như dân cư thì nhu cầu cũng không giống nhau mà nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tâm lý, trình độ văn hoá, thu nhập cá nhân... Do đó có một chính sách khách hàng hấp dẫn để đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng khách hàng là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của Ngân hàng, để có thể nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Chính sách khách hàng hợp lý là chính sách đem lại sự bình đẳng, lợi ích cho cả hai phía khách hàng và Ngân hàng.
Một trong những nội dung quan trọng của chính sách khách hàng trong công tác huy động nguồn vốn là tìm kiếm khách hàng, nghiên cứu đặc điểm, khả năng, động cơ và đặc biệt là nhu cầu của họ. Sau đó phân nhóm, phân loại khách hàng để có thể dễ dàng đáp ứng nhu cầu của từng nhóm khách hàng.
Trước hết cần có chính sách đối với người gửi tiền vào Ngân hàng thường xuyên hoặc số dư tiền gửi cao:
- Được miễn phí sử dụng các dịch vụ Ngân hàng.
- Cung cấp thông tin cho khách hàng định kỳ về các vấn đề liên quan đến tiền tệ- tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
- Có chính sách động viên, khuyến khích bằng vật chất như: Tặng quà và thiếp chúc mừng vào ngày tết cổ truyền dân tộc, ngày sinh nhật của khách hàng,... Qua đó kết hợp thông tin quảng cáo các hoạt động kinh doanh dịch vụ của Ngân hàng.
3.3.5. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng.
Đào tạo và đào tạo lại là thực hiện phương châm “Học- học nữa- học mãi” vô cùng quý giá của nhân loại.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên Ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT nói riêng là đòi hỏi bức xúc và cấp bách hiện nay, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ mọi mặt, trình độ quản lý điều hành, kiến thức kinh tế thị trường- cạnh tranh, trình độ kỹ năng giao tiếp với khách hàng (bán hàng và mua hàng). Đặc biệt là các kiến thức về Ngân hàng hiện đại và thị trường chứng khoán...
Để thực hiện giải pháp này NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội cần triển khai các bước sau:
* Trước hết cần phân loại cán bộ để đào tạo cho đúng người đúng việc:
- Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động kinh doanh Ngân hàng cần đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ và trình độ tổ chức quản lý điều hành khoa học hiện đại và hiệu quả. Trang bị các kiến thức mới về kinh doanh, tổ chức điều hành, khoa học kỹ thuật công nghệ mới, các kiến thức về cạnh tranh cơ chế thị trường, về thị trường chứng khoán và Ngân hàng hiện đại... để đảm đương nhiệm vụ quản lý điều hành kinh doanh Ngân hàng trong giai đoạn mới.
- Đối với cán bộ kinh doanh (cán bộ tín dụng) là đội quân tiên phong của NHTM cần chú trọng đào tạo và thường xuyên nâng cao kỹ năng nghiệp vụ Ngân hàng, kỹ năng nghiệp vụ kế toán- tài chính doanh nghiệp, am hiểu thị trường hàng hoá- thị trường tài chính tiền tệ, nhạy bén trong kinh doanh nhất là kỹ năng nắm bắt khách hàng, thẩm tra thẩm định sản xuất kinh doanh của khách hàng... để trình cấp trên cấp tín dụng hoặc đầu tư có hiệu quả- an toàn vốn, tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng trong kinh doanh.
- Đối với cán bộ nhân viên Ngân hàng trực tiếp giao dịch với khách hàng tại quầy (thường là cán bộ kế toán, cán bộ kiểm ngân...): Đây là lực lượng cực kỳ quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nhất là trong huy động vốn tiền gửi dân cư và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng.
- Đội ngũ cán bộ này ngoài việc đào tạo và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng thiết bị công nghệ tin học Ngân hàng, thành thạo và am hiểu đặc tính nội dung các tiện ích của các sản phẩm- dịch vụ Ngân hàng để giới thiệu, hướng dẫn khách hàng... cần thiết phải được trang bị kiến thức trong giao tiếp khách hàng, tác phong phục vụ khách hàng phải thật văn minh, lịch sự và có trách nhiệm trong kinh doanh.
* Ngoài việc phân loại cán bộ theo chuyên môn nghiệp vụ và công việc để đào tạo cần phải tổ chức sắp xếp cán bộ khoa học hợp lý trên cơ sở phát huy thế mạnh năng khiếu từng người để kích thích động viên sáng kiến cá nhân kết hợp sức mạnh và trí tuệ tập thể để thống nhất tập trung hoàn thành mục đích kinh doanh và định hướng phát triển.
* Ngày nay học tập ngoại ngữ, vận hành sử dụng máy vi tính trên mạng và các thiết bị công nghệ Ngân hàng khác là trách nhiệm của tất cả các cán bộ nhân viên Ngân hàng.
Phương pháp đào tạo tuỳ theo yêu cầu công việc, khả năng điều kiện và từng thời kỳ khác nhau. Có thể sử dụng phương pháp sau:
- Động viên cán bộ nhân viên Ngân hàng tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức kinh tế- xã hội khác.
- Từng Ngân hàng cơ sở tiến hành học tập và đào tạo nghiệp vụ theo từng chuyên đề. Mỗi khi có một sản phẩm- dịch vụ Ngân hàng mới cần được quán triệt đến từng cán bộ nhân viên cho thành thạo để đủ sức thuyết phục khách hàng.
- Cử cán bộ đi học tại các trung tâm đào tạo, các trường đại học, học viện,... để được trang bị các kiến thức khoa học mới.
- Tổ chức các đoàn cán bộ đi học tập tại các NHTM khác trong nước như: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và có đủ điều kiện thì đi học tập tại Ngân hàng nước ngoài.
3.3.6. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý.
Lãi suất là một trong những công cụ rất quan trọng trong hệ thống chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước để điều hành lưu thông tiền tệ và điều tiết sự phát triển của nền kinh tế. Nếu sử dụng đòn bẩy lãi suất một cách đúng đắn phù hợp với cơ chế thị trường thì nó sẽ phát huy tích cực thúc đẩy sản xuất hàng hoá lưu thông và phát triển.
Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, để công cụ lãi suất phát huy được vai trò tác dụng của mình trong cơ chế thị trường. Chính sách lãi suất cần chỉ đạo theo hướng sau:
- Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn, đảm bảo cho NHTM kinh doanh có lãi (thực hiện chính sách lãi suất thực dương).
- Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến, nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt.
- Lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến, có như thế mới khuyến khích được tiết kiệm, tránh được tích luỹ vàng và ngoại tệ.
- Về nguyên tắc phải đảm bảo lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, lãi suất tiền gửi kỳ hạn dài cao hơn lãi suất tiền gửi kỳ hạn ngắn.
3.3.7. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng.
Phương thức thanh toán trong các tầng lớp dân cư hiện nay phổ biến là thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp trao tay. Lượng giao dịch thanh toán của dân cư qua Ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp. Do vậy để tăng lượng thanh toán qua Ngân hàng, từ đó tăng số dư tiền gửi thanh toán đòi hỏi Ngân hàng phải đa dạng hoá các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng:
- Phát hành séc thanh toán cá nhân có bảo đảm chi trả của Ngân hàng. Đây là sản phẩm thanh toán đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện hiện nay, mức thu nhập của một bộ phận dân cư đã được nâng cao, nhu cầu giao dịch thanh toán cá nhân ngày càng tăng đòi hỏi ngành Ngân hàng cần nhanh chóng đưa vào áp dụng séc thanh toán cá nhân có đảm bảo chi trả của NHTM. Từ một bộ phận dân cư sử dụng séc thanh toán (có bảo chi cả sổ séc với mức khống chế không quá một số tiền nhất định trên mỗi tờ séc) trao tay ngay sẽ có ảnh hưởng lan rộng và kích thích nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng của bộ phận dân cư khác.
- Triển khai dịch vụ thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM: Hiện nay, đã có 2 NHTM trong nước (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, NHTM cổ phần á Châu) đưa vào sử dụng thẻ tín dụng nội địa tại các Thành phố lớn. Hình thức thanh toán bước đầu đã phát huy hiệu quả. Thời gian tới với ưu thế về mạng lưới phân bố rộng trên khắp toàn quốc của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, chúng ta cần khẩn trương triển khai dịch vụ thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động ATM, có như vậy sẽ thu hút thêm nhiều bộ phận dân cư sử dụng các phương tiện thanh toán của Ngân hàng.
- Thực hiện dịch vụ chi trả tiền lương cán bộ công nhân viên qua Ngân hàng. Hiện nay tại một số doanh nghiệp trả lương cao cho nhân viên có xuất hiện nhu cầu: Doanh nghiệp nhờ NHTM trích tài khoản tiền gửi trả lương hộ cho công nhân viên theo danh sách; công nhân viên có nhu cầu để dành một phần tiền lương gửi ở tài khoản cá nhân; công nhân viên có nhu cầu thanh toán một số khoản chi phí điện, nước, bảo hiểm... theo định kỳ NHTM có thể tiếp cận các doanh nghiệp để thực hiện các dịch vụ này, tạo thói quen sử dụng các dịch vụ của NHTM.
- Phát triển nghiệp vụ cho vay đời sống, tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản tiền lương. Sau khi Chính phủ có chủ trương kích cầu tiêu dùng, ngành Ngân hàng đã triển khai mạnh nghiệp vụ cho vay phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên và đã thu được những kết quả rất khả quan góp phần “xã hội hoá” công tác Ngân hàng. Tuy nhiên, cần gắn nghiệp vụ cho vay phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên với việc tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản cá nhân nhằm quản lý nguồn thu nợ tốt hơn, đồng thời cung cấp tài khoản cá nhân cho cán bộ công nhân viên sử dụng trong các giao dịch hàng ngày.
3.3.8. Mở rộng tiếp thị và quảng cáo.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thấy tràn ngập quảng cáo về hàng tiêu dùng, còn quảng cáo của Ngân hàng thì lại rất ít, chỉ khi nào cần thu hút vốn thì mới quảng cáo nhiều. Trong khi đó sự hiểu biết về Ngân hàng của người dân là nhân tố cần thiết tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa người dân và Ngân hàng, do vậy Ngân hàng cần phải làm cho người dân hiểu thông qua nhiều con đường khác nhau:
- Thông tin quảng cáo qua các phương tiện truyền thông đại chúng như: Phát thanh, truyền hình,...
- Thông tin quảng cáo trên sách báo, hội họp,...
- Thông tin quảng cáo trên các tạp chí của ngành như: Tạp chí Ngân hàng, thời báo Ngân hàng,...
Công tác thông tin tuyên truyền phải làm cho mọi người dân hiểu rằng gửi tiền vào Ngân hàng là cách tích luỹ tài sản tốt nhất hiện nay, bởi vì:
Thứ nhất: Gửi tiền vào Ngân hàng là một cách tích luỹ tài sản có lợi ích kinh tế qua việc nhận lãi từ Ngân hàng trả.
Thứ hai: Gửi tiền vào Ngân hàng là hình thức bảo quản tài sản an toàn nhất. Bởi lẽ nếu khách hàng không gửi tiền vào Ngân hàng mà mua vàng hoặc ngoại tệ để cất trữ tại nhà có thể bị mất cắp, hoả hoạn,... Ngân hàng với hệ thống kho tàng kiên cố được bảo vệ nghiêm ngặt, là địa chỉ tin cậy để người dân gửi tài sản tích luỹ chưa sử dụng.
Thứ ba: Khơi dậy trong người dân ý thức tiết kiệm, đặc biệt là tiết kiệm những khoản chi có tính chất xa hoa lãng phí, không thiết thực. Qua công tác tuyên truyền tiếp thị phải làm cho người dân thấy được việc gửi tiền vào Ngân hàng còn là yêu nước, góp phần làm cho đất nước giàu mạnh.
Kết luận
Công tác huy động vốn của NHTM có vai trò rất quan trọng không chỉ trong hoạt động bản thân Ngân hàng nói riêng mà còn trong phạm vi của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng, công tác huy động vốn là hoạt động đầu vào có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nhờ có công tác huy động vốn mà Ngân hàng có vốn để cung ứng vốn cho nền kinh tế thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
NHNo&PTNT là một trong những Ngân hàng tiên phong, có vị trí quan trọng góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội là một chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn, vừa đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh của chi nhánh, lại vừa góp phần điều hoà vốn trong toàn hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
Với “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội ”, Tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới và hoàn thiện hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội nói riêng và hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp với kết cấu 3 chương đã hoàn thành những nhiệm vụ:
Phân tích tổng hợp đánh giá vai trò, hiệu quả của công tác huy động vốn đối với hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
Phân tích thực trạng huy động vốn trong 3 năm 2000- 2002. Chuyên đề đã phân tích đánh gía thực tế các phương thức huy động vốn hiện tại, tìm ra những ưu nhược điểm của các phương thức huy động vốn, phân tích cơ cấu các loại nguồn vốn huy động, nêu ra những thách thức tồn tại và hạn chế trong công tác huy động vốn của NHNo & PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội. Qua đó tác giả đã đưa ra các giải pháp khắc phục và một số kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam, NHNN, Nhà nước, Chính phủ.
Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn và một số kiến nghị trong chuyên đề đã đề cập là hoàn toàn khả thi và có điều kiện thực hiện:
1. Giải pháp đối với nguồn vốn huy động từ dân cư.
2. Giải pháp đối với nguồn vốn huy động từ doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
3. Giải pháp đối với tiền gửi các tổ chức tín dụng.
4. Các giải pháp tổng thể.
* Không ngừng hoàn thiện các tiện ích về công nghệ Ngân hàng để phục vụ người gửi tiền.
* Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
* Mở rộng mạng lưới và thời gian giao dịch.
* Hoàn thiện chính sách khách hàng.
* Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ Ngân hàng.
* Mở rộng tín dụng và đầu tư sinh lời trên cơ sở an toàn vốn và hiệu quả cao
* Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý.
* Mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng.
* Mở rộng công tác tiếp thị và quảng cáo.
* Giải pháp về quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh.
Nghiên cứu “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng” là vấn đề rộng lớn bao trùm các hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và là một trong những vấn đề đang được quan tâm. Vì vậy chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều hạn chế nhất định. Tác giả chuyên đề rất mong nhận được nhiều sự chỉ dẫn đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện và có giá trị thực tiễn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, các anh chị trong NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội đã nhiệt tình chỉ bảo truyền đạt những kinh nghệm thực tiễn quý báu và cung cấp số liệu để bài viết thêm sinh động. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Thảo, giáo viên khoa Ngân hàng Tài chính trường Đại học kinh tế quốc dân đã giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu cho đến khi đề tài được hoàn thiện, đồng thời em cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học kinh tế quốc dân là người trang bi cho em những kiến thức cơ bản về chuyên môn, những kinh nghiệm về cuộc sống xã hội, giúp em tự tin hơn để bước vào đời.
Tài liệu tham khảo
1. Tiền và hoạt động Ngân hàng- NXB chính trị quốc gia 1996- TS. Lê Vĩnh Doanh
2. Lý thuyết tài chính tiền tệ- NXB thống kê năm 1998- PTS. Nguyễn Ngọc Hùng.
3. Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao- Học viện Ngân hàng năm 1999- TS. Tô Ngọc Hưng.
4. MARKETING trong Ngân hàng- NXB thống kê- Hà Nội 1996- PGS.PTS. Phạm Ngọc Phong.
5. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại- NXB chính trí quốc gia Hà Nội 1997- Davit Cox.
6. Ngân hàng thương mại- NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1993- Edward Reed.
7. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Luật tổ chức tín dụng- NXB chính trị quốc gia 1998.
8. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam- NXB pháp lý 1990.
9. Tạp chí Ngân hàng số 6, 10 năm 2000; Số 1, 2, 3, 6 năm 2001.
10. Hồ sơ quyết toán năm 2000, 2001, 2002 của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
11. Báo cáo tổng kết năm 2000, 2001, 2002 của NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
12. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 1996- 2000, Kế hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2005.
13. Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước- NHNN Việt Nam- Năm 1997.
14. Đề án chiến lược nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2000- 2010, tháng 11/2000.
15. Kế hoạch triển khai đề án cơ cấu lại NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2001- 2005, tháng 11/2001.
16. Đề án phát triển kinh doanh giai đoạn 2001- 2005 tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
17. Kế hoạch kinh doanh năm 2003 tại NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng Hà Nội.
Table of Contents
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH396.doc