Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Chương Dương

Chương 1 kháI quát về ngân hàng thương mại và hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.1 Ngân hàng thương mại và sự cần thiết phải huy động vốn. 1.1.1 Định nghĩa về ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế. Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Công thương - Chi nhánh Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường tài chính, và đôi khi kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Ví dụ: Theo luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác, số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay theo Luật Ngân hàng của ấn Độ năm 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”…Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó tùy thuộc tập quán, pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận ra: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác-tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của Ngân hàng. Việt Nam, với việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước ta quan niệm ( Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam ban hành 02/ 1997/ QH 10) : “Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.” Hiện nay ở Việt Nam có các loại hình Ngân hàng sau: - Ngân hàng thương mại quốc doanh. - Ngân hàng thương mại cổ phần - Ngân hàng liên doanh - Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài - Ngân hàng đầu tư - Ngân hàng phát triển - Ngân hàng chính sách - Ngân hàng hợp tác 1.1.2 Khái quát về các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xen lẫn nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.1.2.1 Nghiệp vụ huy động vốn. Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau: - Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp gửi vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình gửi vào Ngân hàng với mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi đó. - Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. - Nghịêp vụ đi vay: Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên nhằm mục đích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo… - Nghiệp vụ huy động vốn khác: Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. 1.1.2.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn. Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp vụ sử dụng vốn có các nghiệp vụ cụ thể sau: - Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng như khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra. - Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. NHTM đi vay để cho vay, do đó việc cho vay được hay không là vấn đề mà mọi NHTM đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận từ hoạt động cho vay này chiếm tới 60-70% trong tổng lợi nhuận của NHTM. - Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM tín dùng số vốn huy động được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế – xã hội để đầu tư vào nền kinh tế dưới các hình thức như: hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường… và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó. 1.1.2.3 Nghiệp vụ trung gian khác. Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên Ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ khác như: - Dịch vụ trong thanh toán: có thể nói Ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng hóa và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được Ngân hàng thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác. - Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản. - Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản: giữ hộ vàng, tiền; cho thuê két sắt, bảo mật. 1.1.3 Sự cần thiết phải huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Với tư cách là một trung gian tài chính, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, NHTM luôn tìm cách tối đa hóa lợi nhuận, kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay để cho vay. Do đó có thể nói nguồn vốn là nền tảng cơ bản của bất kỳ một NHTM nào. Vốn chính là thứ nguyên liệu quan trọng không thể thiếu được của các NHTM để tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh. Với một nguồn vốn lớn và hợp lý trong cơ cấu, Ngân hàng có khả năng cung cấp các loại hình tín dụng và dịch vụ Ngân hàng tốt nhất đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trong khi chức năng của Ngân hàng là “đi vay để cho vay” thi cùng với công tác sử dụng vốn, công tác huy động vốn để tạo nguồn cho Ngân hàng là nghiệp vụ quan trọng chi phối, ảnh hưởng tới các nghiệp vụ khác, nó giữ vai trò duy trì và phát triển các hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Vì huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Như vậy, nguồn vốn quyết định qui mô mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của các NHTM. 1.2 Vốn và nguồn vốn huy động của Ngân hàng thương mại. 1.2.1 Định nghĩa về vốn và nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính với các chức năng cơ bản là: trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Để thực hiện được các chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả và có lợi nhuận thì đòi hỏi NHTM phải có một lượng vốn hoạt động nhất định. Các nhà kinh tế đã đưa ra khái niệm về vốn của NHTM như sau: “ Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do bản thân NHTM tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác” Khái niệm trên đã nói đầy đủ những thành phần tạo nên vốn của NHTM. Về thực chất vốn của NHTM là bao gồm các nguồn tiền tệ của chính bản thân Ngân hàng và của những người có vốn tạm thời nhàn rỗi. Nhờ việc có được nguồn vốn, các Ngân hàng có thể tiến hành kinh doanh: cho vay, bảo lãnh, cho thuê…Nói chung vốn của Ngân hàng bị chi phối toàn bộ và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM. 1.2.2 Kết cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Vốn của NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu. Vốn huy động. Vốn đi vay - Vốn khác Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng và đều có những tác động nhất định đến hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.2.2.1 Vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu (VCSH) là một nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng, thành phần của nó được quy định cho từng loại hình Ngân hàng, theo loại hình hoạt động và tư cách pháp lí. Nguồn vốn này chiếm tỉ trọng nhỏ ( chỉ từ 5 – 8%) trong tổng nguồn vốn hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng nhưng nó lại là nguồn vốn rất quan trọng vì dựa vào đó người ta đánh giá được thực lực, qui mô của Ngân hàng và đó cũng chính là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng. 1.2.2.2 Vốn huy động. Vốn huy động là yếu tố không thể thiếu của NHTM. Vốn huy động có đặc điểm: Chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng nguồn. Có tính ổn định cao. Hiệu suất sử dụng lớn Nền tảng của vốn huy động càng lớn thì tiềm năng cho vay càng lớn và thông qua đó khả năng sinh lời của Ngân hàng cũng vì thế mà tăng lên. 1.2.2.3 Vốn đi vay. Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các Ngân hàng cũng phải đi vay để đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc…Các Ngân hàng có thể vay ở NHNN, các tổ chức tín dụng khác hay vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu)…vốn đi vay chiếm một tỉ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. 1.2.2.4 Vốn khác. Ngoài những nguồn huy động trên, Ngân hàng còn có thể thực hiện huy động thông qua cá nguồn ủy thác (như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư và quản lý). Nguồn trong thanh toán và các khoản phải trả khác. Những nguồn này đã góp phần quan trọng vào thị trường nguồn của Ngân hàng, giúp Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ và hoạt động kinh doanh dễ dàng hơn. 1.2.3 Cân đối giữa vốn và nhu cầu sử dụng vốn. Việc cân đối giữa vốn và nhu cầu sử dụng vốn là một hoạt động hết sức quan trọng của Ngân hàng. Một Ngân hàng không chỉ hoạt động tốt nếu không thực hiện tốt công tác này. Với số tiền huy động được Ngân hàng thường chỉ sử dụng từ 60 đến 70% vào hoạt động cho vay. Nguyên nhân vì tiền cho vay có tính lỏng kém hơn các tài khản khác của Ngân hàng, khả năng thu hồi lại khoản tiền vay phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh của người vay. Chính vì vậy nên Ngân hàng phải giữ lại một phần vốn huy động được vào quỹ dự trữ để giảm thiểu các rủi ro có thể sảy ra. Thông thường quỹ dự trữ này chính là các tài khoản của các NHTM tại NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác. 1.3 Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại. 1.3.1 Khái niệm về hiệu quả huy động vốn. Hiệu quả huy động vốn của NHTM là tiêu chí chỉ rõ sự tương quan giữa khối lượng vốn huy động với chi phí bỏ ra để có được số vốn ấy và hệ số vốn được sử dụng trên tổng số vốn huy động được trong một thời gian nhất định. 1.3.2 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả huy động vốn. Để đánh giá nguồn vốn huy động được có hiệu quả hay không người ta xem xét các tiêu chí sau: * Tiêu chí 1: Giá thành của một đơn vị vốn huy động (A) = Tổng chi phí (C) Tổng số vốn huy động (V) Trong đó: - C: là tổng chi phí bao gồm : + Lợi tức trả cho người gửi + Chi phí quản lý + Lương trả Cán bộ công nhân viên. + Chi phí khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo + Chi phí khác (giấy tờ in, vận chuyển bốc xếp) + Tỉ lệ rủi ro bị lợi dụng; khấu hao TSCĐ. - V: là tổng số vốn huy động được. Giá thành của một đồng vốn huy động được càng thấp thì lợi nhuận thu được khi sử dụng đồng vốn đó cho vay càng cao và như vậy hiệu quả huy động cũng tăng. Vì vậy để tăng hiệu qủa của vốn huy động ta phải tìm cách cho giá thành của một đồng vốn là thấp nhất mà điều đó phải phụ thuộc vào việc giảm các chi phí bỏ ra để thu hút được số vốn đó. * Tiêu chí 2: Hệ số sử dụng vốn ( B) = Số vốn được sử dụng Tổng vốn huy động Số lượng vốn được sử dụng trong tổng nguồn vốn huy động càng tăng thì hệ số sử dụng vốn càng lớn điều này cho thấy số vốn được quay vòng nhanh và có hiệu quả từ đó làm cho lợi nhuận thu được cũng tăng theo vì vậy hệ số sử dụng vốn cũng là một phần quan trọng khi đánh giá hiệu quả huy động vốn. 1.3.3 ý nghĩa của nghiệp vụ huy động vốn. Hoạt động HĐV tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho Ngân hàng nhưng nó là hoạt động rất quan trọng. Không có hoạt động HĐV xem như không có hoạt động của NHTM. NHTM khi được cấp phép thành lập phải có vốn điều lệ (VĐL) theo quy định. Tuy nhiên VĐL chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để Ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như cấp tín dụn và các dịch vụ Ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này Ngân hàng phải huy động từ khách hàng. Do vậy hoạt động HĐV, có ý nghĩa rất quan trọng đối với NHTM cũng như đối với khách hàng. 1.3.3.1 Đối với Ngân hàng Thương mại. Hoạt động HĐV góp phần mang lại nguồn vốn cho Ngân hàng hoàn thiện các hoạt động kinh doanh khác, không có hoạt động HĐV NHTM sẽ không có đủ nguồn tài trợ cho hoạt động của mình. Mặt khác, thông qua hoạt động HĐV Ngân hàng Thương mại có thể đo lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với Ngân hàng. Từ đó, NHTM có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động HĐV để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói hoạt động HĐV góp phần giải quyết “đầu vào” của Ngân hàng. 1.3.3.2 Đối với Khách hàng. Hoạt động HĐV không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân hàng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Đối với khách hàng, hoạt động HĐV cung cấp cho họ một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ siinh lời, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, hoạt động HĐV còn cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để họ cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi. Cuối cùng, hoạt động HĐV giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của Ngân hàng đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Chương 2 thực trạng và hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng công thương chi nhánh chương dương 2.1 Khái quát về Ngân hàng Công thương chi nhánh Chương Dương 2.1.1 Khái quát tình hình phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn Quận Long Biên là một quận mới được thành lập, có địa bàn rất rộng lớn, phức tạp với mật độ dân cư đông đúc. Trên địa bàn quận có rất nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như khu công nghiệp Sài Đồng Hanel, khu công nghiệp Đức Giang… Bên cạnh đó rất nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ sản xuất, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và các hộ công thương đã lựa chọn khu vực này làm nơi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Các trung tâm thương mại lớn cũng mọc lên nhanh chóng trong vài năm trở lại đây. Với thế mạnh của địa bàn, NHCT khu vực Chương Dương mở rộng quy mô, khối lượng hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán và dịch vụ khác. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn quận cũng có rất nhiều NHTM hoạt động do đó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về mọi mặt, nhất là việc lựa chọn, tìm kiếm và giữ khách hàng. Đó là một thách thức lớn mà chi nhánh ngân hàng phải đối mặt. 2.1.2 Sự hình thành và phát triển NHCT chi nhánh Chương Dương Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực Chương Dương chính thức được thành lập vào tháng 8/1988. Trước đó là chi nhánh của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, hoạt động với tên là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) huyện Gia Lâm. Để cho phù hợp hơn với sự phát triển của nền kinh tế, sau thời kỳ thí điểm cơ chế hạch toán kinh doanh, ngày 26/3/1988 theo nghị định số 53 của Hội đồng Bộ trưởng nhằm tổ chức lại bộ máy hệ thống NHNN Việt Nam, tháng 8/1988, Ngân hàng nhà nước huyện Gia Lâm chuyển về thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, đồng thời được tổ chức lại cho phù hợp với tư cách là một Ngân hàng thương mại quốc doanh. Bắt đầu từ đó, Ngân hàng tham gia hoạt động trong hệ thống NHTM nói chung và hệ thống ngân hàng Công Thương Việt Nam nói riêng với tên là Ngân hàng Công Thương chi nhánh Chương Dương. NHCT chi nhánh Chương Dương trải qua các giai đoạn phát triển như sau: - Tháng 1/1995 mở phòng giao dịch NHCT chi nhánh Đông Anh. - Ngày 1/4/2003 tách khỏi chi nhánh NHCT Bắc Hà Nội và NHCT Yên Viên thành ngân hàng độc lập trực thuộc Trung Ương. Ngân hàng Công Thương chi nhánh Chương Dương có trụ sở tại: Ngõ 298 đường Ngọc Lâm_phường Ngọc Lâm_quận Long Biên_Hà Nội. 2.1.3 Cơ cấu tổ chức của NHCT chi nhánh Chương Dương. 2.1.3.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý NHCT chi nhánh Chương Dương Phụ lục 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Ngân hàng Công thương chi nhánh Chương Dương Ngân hàng công thương chi nhánh Chương Dương Ban giám đốc Phòng kế toán Phòng tài trợ thương mại Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng tiếp thị tổng hợp Phòng Tổ chức hành chính Phòng giao dịch hà thành Phòng khách hàng cá nhân Phòng khách hàng số 1 Phòng khách hàng số 2 Phòng Kiểm soát (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCT chi nhánh Chương Dương) 2.1.3.2 Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Ban giám đốc: Giám đốc là lãnh đạo cao nhất, do hội đồng quản trị NHCT Việt Nam quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật theo đề nghị của Tổng giám đốc. Giám đốc có chức năng điều hành hoạt động kinh doanh, là người chịu trách nhiệm chính về kết quả hoạt động của chi nhánh NHCT Việt Nam là nơi quyết định phương hướng kinh doanh, mục tiêu, kế hoạch cho chi nhánh, theo đó Giám đốc phải thực hiện nhiệm vụ mà cấp trên giao phó và chỉ được độc lập hoạt động trong phạm vi nhất định. Giúp đỡ cho Giám đốc là các Phó giám đốc. Phó giám đốc sẽ thực hiện các công việc trong từng lĩnh vực cụ thể mà Giám đốc giao để điều hành hoạt động của chi nhánh. Các phòng: Phòng khách hàng: Bao gồm 3 phòng - Phòng khách hàng 1: Với vốn điều lệ từ 10 tỷ trở nên - Phòng khách hàng 2: Với vốn điều lệ dưới 10 tỷ - Phòng khách hàng cá nhân : Gồm nghiệp vụ cho vay vốn và huy động vốn Đây là các phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân để khai thác vốn bằng Việt Nam đồng (VNĐ) và ngoại tệ, xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay, quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT, quản lý hoạt động của các quỹ tiết kiệm và điểm giao dịch. Phòng tài trợ thương mại: Là phòng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh, thanh toán quốc tế theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Công Thương. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ: Là phòng nghiệp vụ có chức năng giúp giám đốc giám sát, kiểm tra, kiểm soát các mặt hoạt động của chi nhánh nhằm đảm bảo việc thực hiện theo đúng pháp luật của Nhà nước và cơ chế quản lý của ngành. Phòng kế toán tài chính: Là phòng nghiệp vụ giúp cho giám đốc thực hiện công tác quản lý tài chính và thực hiện nhiệm vụ thu chi nội bộ tại chi nhánh theo đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng Công Thương. Phòng tiền tệ, kho quỹ: Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công Thương. ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu chi tiền mặt lớn. Phòng tổng hợp tiếp thị: Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc dự kiến kế hoạch kinh doanh tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Phòng giao dịch Hà Thành: Là phòng thực hiện các nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng để huy động vốn bằng VNĐ và ngoại tệ, xử lý các nghiệp vụ cho vay, kinh doanh ngoại tệ, các nghiệo vụ thanh toán, bảo lãnh theo đúng quy định của Nhà nước và của Ngân hàng Công Thương. 2.2 Thực trạng công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương chi nhánh Chương Dương trong thời gian 2004-2006 Có thể nói, HĐV là một nghiệp vụ chính, không thể thiếu được của NHCT Chương Dương nói riêng và các NHTM nói chung. HĐV không phải là vấn đề độc lập mà gắn liền với các nghiệp vụ bên có ( sử dụng vốn) và các nghiệp vụ trung gian khác ( chuyển tiền, thanh toán…) của NHTM. Ngân hàng luôn phải đảm bảo một nguồn vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu của khách hàng đến vay vốn và nhu cầu vốn cho quá trình phát triển cảu đất nước. HĐV phải dựa trên cơ sở xác định thị trường đầu ra, lĩnh vực đầu tư có hiệu quả hay không, lãi suất ra sao…Vì vậy, công tác HĐV của Ngân hàng ngày càng tăng theo hướng “ổn định, an toàn, hiệu quả và phát triển” để nâng cao cả về số lượng, chất lượng. Thực tế công tác HĐV của Ngân hàng những năm gần đây được thể hiện ở những nội dung sau: 2.2.1 Các hình thức huy động vốn. 2.2.1.1 Huy động theo hình thức. Với phương châm tăng cường nguồn vốn, NHCT Chương Dương đã cố gắng thực hiện đa dạng hóa các hình thức, biện pháp, kênh huy động vốn khác nhau. Đến nay công tác HĐV của ngân hàng có những chuyển biến tích cực. Nguồn vốn tăng với tốc độ khá lớn, đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế và tư nhân trên địa bàn: Bảng 1 : Biến động của vốn huy động Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu Thời điểm 2004 2005 2006 Tổng vốn huy động 2838,4 3127,4 4124,5 Tăng (giảm) số tuyệt đối 289 997,2 Tỷ lệ so với năm trớc (%) 110,2% 131,9% (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCT chi nhánh Chương Dương) Nguyên nhân vốn huy động trong thời gian qua không ngừng tăng: - Ngân hàng mở rộng mạng lưới huy động, đa dạng các hình thức huy động như tiền gửi doanh nghiệp tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ và ngoại tệ, kỳ phiếu có mục đích, kỳ phiếu ngoại tệ. Ngân hàng ngày càng có uy tín với khách hàng. - Nền kinh tế trong 2 năm gần đây tương đối ổn định và phát triển. Người dân ngày càng tin tưởng vào Ngân hàng nhiều hơn. Như vậy, chỉ trong vòng hai năm hoạt động Ngân hàng đã có mức tăng trưởng vốn khá lớn. Điều đó đã chứng tỏ NHCT chi nhánh Chương Dương đã từng bước xâm nhập được vào thị trường, tạo lòng tin với khách hàng, đó chính là một trong quá trình khai thác nguồn vốn để mở rộng đầu tư, cho vay. Hiện nay, Ngân hàng đang HĐV chủ yếu từ : Tiền gửi doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi dưới hình thức phát hành kỳ phiếu, huy động vốn khác… Bảng 2: Kết cấu vốn huy động Đơn vị tính: triệu đồng Khoản mục 12/31/2004 12/31/2005 12/31/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng số 2.838.363 100 3.127.389 100 4.124.498 100 Tiền gửi doanh nghiệp 1.892.260 66,67 2.083.745 66,63 3.209.085 77,74 Tiền gửi tiết kiệm 385.64 13,59 466.89 14,92 638.28 15,47 Giấy tờ có giá 75.464 2,65 121.81 3,9 247.14 5,98 Nhận ký quỹ 485 17,09 454.95 14,55 29.987 0,81 (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCTchi nhánh Chương Dương) Qua bảng kết cấu, ta có thể nhận thấy số vốn mà Ngân hàng huy động được chủ yếu là tiền gửi doanh nghiệp. Tiền gửi doanh nghiệp ở NHCT chi nhánh Chương Dương có xu hướng tăng dần. Cụ thể, năm 2004 đạt 66,67% trên tổng số vốn huy động năm 2005 đạt được 66,63% và năm 2006 đạt được 77,74%. Số vốn huy động từ các nguồn như tiền gửi tiết kiệm, giấy tờ có giá cũng có xu hướng tăng nhưng mức tăng không đáng kể. *Tiền gửi doanh nghiệp Đây là phần tiền tệ tạm thời chưa sử dụng đến trong quá trình sản xuất kinh doanh, khoản tiền này gồm: Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Số vốn huy động được bằng tiền gửi của doanh nghiệp trong ba năm 2004 – 2005 được thể hiện rất rõ trong bảng sau: Bảng 3: Kết cấu tiền gửi doanh nghiệp Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 12/31/2004 12/31/2005 12/31/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng số 1.892.260 100 3.127.389 100 3.209.084 100 1. Tiền gửi không kỳ hạn 829.43 43,83 739.79 35,51 3.209.085 49,21 - VNĐ 702.53 37,13 659.62 31,65 1.100.537 34,29 - Ngoại tệ đã quy đổi 126.91 6,70 80.173 3,86 478.63 14,92 2. Tiền gửi có kỳ hạn 1.062.898 56,17 1.343.954 64,49 1.629.922 50,79 - VNĐ 1.062.898 56,17 1339.6 64,29 1.629.923 50,79 - Ngoại tệ đã quy đổi 0 0 4.366 0,2 0 0 (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCTchi nhánh Chương Dương) Nhìn chung, tiền gửi doanh nghiệp tương đối lớn và có xu hướng tăng lên qua từng năm. Năm 2005, con số tăng thêm là 191.485 triệu đồng, và năm 2006 tăng thêm 1.125.340 triệu đồng so với năm 2005. Sự biến động này phụ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như chính sách của bản thân Ngân hàng, các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Cuối năm, lượng tiền gửi của doanh nghiệp tăng mạnh vì các doanh nghiệp thu được nhiều tiền bán sản phẩm, hàng hóa hơn vào thời điểm này. Đây là nguốn vốn có chi phí rẻ nhưng không ổn định, chính sách cạnh tranh và tiếp thị cũng hết sức khó khăn. Trong bảng, tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn ( trung bình khoảng 57,4%) lớn hơn so với tiền gửi không kỳ hạn và có xu hướng tăng dần qua các năm. Lý do là trên địa bàn Ngân hàng hoạt động có rất nhiều công ty lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất nên vòng quay vốn lớn. * Tiền gửi tiết kiệm Đây là nguồn tiền của dân cư chưa sử dụng đến đem gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất. Nó thực sự là nguồn tiềm năng dồi dào cho ngân hàng khi chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Sau đây ta xem xét kết cấu của tiền gửi tiết kiệm: Bảng 4: Kết cấu tiền gửi tiết kiệm Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 12/31/2004 12/31/2005 12/31/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng số 385.64 100 466.89 100 638.28 100 1. Tiền gửi không kỳ hạn 3.369 0,87 385 0,082 398 0,06 - VNĐ 2.901 0,75 378 0,08 386 0,058 - Ngoại tệ đã quy đổi 468 0,12 7 0,002 12 0,002 2. Tiền gửi có kỳ hạn 382.27 99,12 466.51 99,91 637.89 99,94 - VNĐ 255.58 66,30 326.94 70 401.56 62,91 - Ngoại tệ đã quy đổi 126.69 32,82 139.57 29,91 236.33 37,03 (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCTchi nhánh Chương Dương) Có thể nói, nguồn tiền gửi tiết kiệm mà ngân hàng huy động được có tăng nhưng không nhiều và chiếm tỉ trọng không cao trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Năm 2004, nguồn vốn chỉ đạt 385.636 triệu đồng, điều này là do chính sách lãi suất của NHCT Việt Nam trong một thời gian dài chưa sát với thị trường, trên địa bàn lại có thêm nhiều chi nhánh ngân hàng mới mở … Tuy nhiên, năm 2005, ngân hàng đã khắc phục được nhược điểm trên, con số huy động được trong năm này là 466.893 triệu đồng, tăng 81.257 triệu đồng so với năm 2004. Đến năm 2006 con số huy động được là 638.284 tăng mạnh so với năm 2005 là 171.391 triệu đồng. Trong nguồn gửi tiết kiệm, ta nhận thấy tiền gửi tiết kiệm không kì hạn chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn và tương đối ổn định. Tiền gửi có kì hạn luôn có xu hướng tăng lên và chiếm khoảng 99% tổng nguồn tiết kiệm. Điều này có lợi cho Ngân hàng bởi vì Ngân hàng có cơ sở nguồn vốn để cho vay với thời gian tương đối dài, lãi suất cao hơn và kế hoạch thu hồi vốn đúng hạn. Tiền gửi có kì hạn chiếm tỉ trọng lớn thể hiện sự tin tưởng của nhân dân đối với Ngân hàng. Hình thức huy động có kì hạn được người dân ưa chuộng hơn, điều này được giải thích: phần lớn người dân trong địa bàn gửi tiền vào ngân hàng với mục đích là hưởng lợi nhuận. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng của cá nhân cũng tăng lên thì việc mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng cũng phải phát triển. Đây chính là trọng tâm mà trong thời gian tới Ngân hàng phải thực hiện nhằm thông qua các sản phẩm dịch vụ, thanh toán chuyển tiền để tạo dựng nguồn vốn có chi phí thấp nhất này. * Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống trên, để đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, NHCT Chương Dương cũng đã phát hành: trái phiếu, kì phiếu cả bằng nội tệ và ngoại tệ … Thực tế đây là hình thức mà các NHTM đã sử dụng nhiều năm và có hiệu quả. Bảng 5: Kết cấu huy động bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 12/31/2004 12/31/2005 12/31/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng nguồn 75.464 100 121.81 100 247.14 100 Kỳ phiếu 34.267 30,46 41.207 33.83 75.288 30,46 Trái phiếu 41.197 54,6 80.598 66,17 171.85 69,54 (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCTchi nhánh Chương Dương) Có thể thấy khối lượng vốn huy động qua phát hành giấy tờ có giá tăng trông thấy qua ba năm liên tiếp, trong đó chủ yếu là trái phiếu. Ngân hàng phát hành kì phiếu có mục đích để phục vụ cho những công trình trọng điểm của nhà nước, kì phiếu đã thực sự tạo sự chủ động cho Ngân hàng. Do huy động với lãi suất cao nên chỉ khi nào Ngân hàng xét thấy thực sự cần vốn đầu tư hay có thể đảm bảo lợi ích đầu ra cao hơn thì Ngân hàng mới phát hành kì phiếu. Khối lượng huy động vốn này chiếm một tỉ trọng nhỏ nhưng giúp cho Ngân hàng đa dạng hóa hình thức huy động vốn, từng bước nâng cao khả năng phục vụ khách hàng với một chất lượng cao hơn so với nguồn vốn ngắn hạn. Thông qua việc phát hành trái phiếu, NHCT chi nhánh Chương Dương đã góp phần vào việc thực hiện tiết kiệm, huy động nội lực để xây dựng đất nước. 2.2.1.2 Huy động vốn theo kì hạn. Bảng 6 : Huy động vốn theo kỳ hạn Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 12/31/2004 12/31/2005 12/31/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng nguồn 2.838,4 100 3.127,4 100 4.124,5 100 Tiền gửi không kỳ hạn 832,6 29,33 740,1 23,67 1.579,6 38,3 Tiền gửi có kỳ hạn 2.005,8 70,67 2.387,2 76,33 2.544,9 61,7 (Nguồn số liệu: phòng tổng hợp tiếp thị NHCT chi nhánh Chương Dương) Theo bảng ta thấy trong tổng vốn huy động thì HĐV có kì hạn chiếm tỉ trọng lớn hơn. Năm 2004, tiền gửi có kì hạn đạt 2.005,8 tỉ đồng chiếm 70,67%. Năm 2005, tiền gửi có kì hạn đạt 2.387,2 tỉ đồng chiếm 76,33%. Đến năm 2006, tiền gửi có kì hạn đạt 2.544,9 tỉ đồng chiếm 61,7% Đây là một kết quả thuận lợi cho chi nhánh ngân hàng trong việc sử dụng vốn, ngân hàng có thể chủ động kinh doanh, có thể cho vay dài hạn với số vốn lớn. Tuy nhiên, lãi suất cho tiền gửi có kì hạn cao hơn so với không kì hạn nên ngân hàng cần tính toán hợp lí để đảm bảo lợi nhuận. Trong ba năm, cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn tương đối ổn định, trong đó tiền gửi có kỳ hạn chiếm trên 2/3 tổng nguồn. Có được kết quả trên là do Ngân hàng đã đa dạng hóa các kỳ hạn gửi tiền với các mức lãi xuất khác nhau, đáp ứng được nhiều nhu cầu khác nhau của khách hàng. 2.2.1.3 Huy động vốn theo loại tiền. Bảng 7: Huy động vốn theo loại tiền Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu 12/31/2004 12/31/2005 12/31/2006 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng nguồn 2.838,4 100 3.1._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3721.doc