Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội

Lời mở đầu Trong công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Để đạt được kết quả như vậy phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các ngân hàng thương mại Việt Nam, với chức năng huy động mọi nguồn vốn để góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước -Là một trong những ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất- NHNo &PTNT đã góp phần đáng kể trong hoạt động kinh doanh của mình ch

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o việc sử dụng và quản lý một cách có hiệu quả nguồn vốn để có thể cung ứng vốn cho mọi thành phần kinh tế đặc biệt là trên 70% hộ nông dân nông thôn. Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung cũng như hoạt động huy động vốn nói riêng trong thời gian thực tập, tìm hiểu vấn đề vốn cho hoạt động kinh doanh ở ngân hàng em nhận thấy đây là một vấn đề rộng lớn, quan trọng và mang tính thời sự. Do vậy em đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội” Kết cấu bài luận văn gồm nội dung chính sau đây: Chương 1 : Một số lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại (NHTM) Chương 2 : Thực trạng huy động vốn của Chi nhánh NHNN& PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội. Chương3 : Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hoạt động huy động vốn tại NHNN&PTNTChi nhánh Nam Hà Nội Với thời gian thực tập có hạn và năng lực hạn chế của bản thân, đề tài mới đặt ra và giải quyết những vấn đề cơ bản nhất tại đơn vị, nên luận văn có thể còn nhiều thiếu sót , em rất mong sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để hoàn thiện bản luận văn này và quan trọng đặc biệt giúp em ứng dụng tốt kiến thức vào thực tiễn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trương Minh Du cùng tập thể các cán bộ phòng Kế hoạch - Nguồn vốn làm tại NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội và các thầy cô giáo khoa Tài chính Kế toán Trường Đại học Quản lý Kinh Doanh đã tận tình giúp đỡ tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài luận văn của mình. Chương i những vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mạI và tình hình huy động vốn của ngân hàng thương mại I) Khái niệm cơ bản và đặc điểm của ngân hàng thương mại Hoạt động ngân hàng đã xuất hiện rất sớm. Nó phát triển cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế trong xã hội . Xã hội càng đi lên hoạt động ngân hàng càng trở lên đa dạng về loại hình, tính chất và mục tiêu hoạt động. Sự thống nhất trong định nghĩa về ngân hàng thương mại giữa các quốc gia trên thế giới cũng khác nhau nên để hiểu rõ về khái niệm của nó ta phải tìm hiểu về đặc điểm cũng như chức năng hoạt động của ngân hàng thương mại. Trước hết Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ – tín dụng mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán, tư vấn, bảo lãnh cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận, an toàn, phát triển. Ngân hàng thương mại là trung gian thu hút tiền gửi nhàn rỗi trong dân cư và tổ chức kinh tế để cho các chủ thể kinh tế khác vay. Đó là chức năng tín dụng của ngân hàng, thực hiện đi vay để cho vay – chức năng chủ yếu của ngân hàng. Để huy động vốn có hiệu quả thì Ngân hàng thương mại phải có nhận thức đúng đắn sâu sắc các quan điểm có tính định hướng cho việc huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và để đẩy mạnh sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước. Vì thế hoạt động huy động vốn, tạo vốn cho ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam. Hiện nay, huy động vốn để cho vay vừa đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng, vừa thu được lợi nhuận nhưng hoạt đông này phải gắn chặt với việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đồng thời phải kết hợp hài hoà giữa lợi ích của ngân hàng cũng như đối với người gửi. II. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại A/ Chức năng : 1. Chức năng trung gian tín dụng : Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động “cầu nối”giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Thực hiện chức năng này “Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn để cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng. . . của các chủ thể kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng thương mại với vai trò là một trung gian tín dụng đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đã góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn. 2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán. Với chức năng này, ngân hàng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Công việc của người thủ quỹ chính là ở chỗ trung gian thanh toán mà nguồn gốc xa xưa đó là hoạt động thanh toán hộ cho khách hàng của mình. Hoạt động thanh toán của ngân hàng là cơ sở của hoạt động tín dụng. Ngày nay, khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán, ngân hàng sẽ trả hộ và khoản trả hộ đó sẽ trở thành khoản vay của khách hàng mà ngân hàng là chủ nợ . Để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ đảm bảo an toàn trong việc cất giữ và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng thuận lợi, nhất là các khoản đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, ở mọi địa phương nếu khách hàng tự làm sẽ tốn kém, khó khăn và không an toàn. Trong khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (Séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán. . . ) .Một nhà chuyên nghiệp về thanh toán đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá. 3 Chức năng tạo tiền ngân hàng thương mại : Quá trình tạo tiền của ngân hàng thương mại được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân hàng. Đó là khả năng biến mức tiền ban đầu tăng thêm gấp nhiều lần. Chức năng tạo tiền được thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với hệ thống dự trữ quốc gia (Dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương ). Sức mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại nhằm tạo tiền có ý nghĩa to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo hệ số tăng trưởng vững chắc ngược lại hệ thống tín dụng không tạo được tiền đề mở rộng thì sẽ dẫn đến hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh kém. Chức năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại liên quan chặt chẽ với chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước. Thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại, Ngân hàng nhà nước có thể tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc và quy định về chiết khấu . B. Vai trò của ngân hàng thương mại Vai trò của ngân hàng thương mại được xác định trên cơ sở các chức năng và trên cơ sở các nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn. Vai trò của ngân hàng thương mại thay đổi cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và phụ thuộc vào các hoạt động chủ quan của các cơ quan quản lý. Với các chức năng nêu trên vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện ở hai mặt : Thực thi chính sách tiền tệ đã được hoạch định bởi ngân hàng trung ương và góp phần hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng ngiệp vụ tạo tiền . 1. Vai trò thực thi chính sách tiền tệ Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương. Để thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng. . . Chính các ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của các công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn liền các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Ngân hàng thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình biểu hiện các mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. . . đảm bảo nền kinh tế được bình thường. Vai trò điều tiết kinh tế vi mô của ngân hàng thương mại được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào ngân hàng thương mại. Khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế đi qua quỹ nghiệp vụ Ngân hàng thương mại là công cụ tác động trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các tầng lớp dân cư. Cùng các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ, Ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ khác trong nền kinh tế như bảo lãnh, tư vấn , dịch vụ phát hành cổ phiếu, cho thuê tủ két vv.... Đây là dịch vụ trung gian giúp cho ngân hàng những nguồn lợi đáng kể, góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân hàng đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. 2. Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại Thứ nhất : Tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn thảo chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó. Nhưng ngân hàng trung uơng không trực tiếp giao dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế tài chính trung gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Thứ hai : Sự điều tiết tiền tệ bao gồm (chính sách tiền tệ và công cụ của nó ) có thể gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. Một trong những nội dung quan trọng của điều tiết tiền tệ là điều hoà khối tiền tệ (Điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng) Như vậy bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô của Ngân hàng Trung ương (Tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc )trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng thương mại đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung uơng thông qua chính sách tiền tệ. III . Nguồn vốn của ngân hàng thương mại 1. Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại. Vốn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích lũy của một cá nhân, một doanh nghiệp hay một quốc gia. Còn vốn được hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được trước hết phải có vốn. Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để trang bị phương tiện phục vụ kinh doanh để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt “kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ” cho nên vốn là cơ sở để quyết sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và nhu cầu về vốn của NHTM rất lớn. Chính vì vậy, cấu trúc nguồn vốn của các NHTM khá phong phú bao gồm các loại vốn : Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn huy động và các nguồn vốn khác. 2. Các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. 2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu của NHTM là vốn tự có do nhà nước cấp (Đối với ngân hàng thương mại nhà nước tạo lập được ), thuộc quyền sở hữu riêng của Ngân hàng thông qua góp vốn của các chủ sở hữu (Đối với ngân hàng thương mại cổ phần ) hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Vốn tự có của NHTM cho thấy thực lực về tài chính cũng như quy mô của Ngân hàng, là nguồn vốn khởi đầu tạo uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng, tạo cơ sở để thu hút nguồn vốn khác. Vốn này chiếm một tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới bắt đầu thành lập một Ngân hàng. Do tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng bảo vệ và điều chỉnh đối với hoạt động Ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì vốn tự có của Ngân hàng thông thường chiếm dưới 10%, như vậy vốn ký thác của ngân hàng chiếm trên 90%. Ngân hàng Trung Ương quy định mức vốn tự có của ngân hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản có rủi ro quy đổi, điều này muốn nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự bảo đảm thanh toán cho người gửi tiền khi Ngân hàng vỡ nợ mà còn góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để Ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động. Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ người gửi tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu của NHTM. Dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng, các cơ quan quản lý đã xác định điều chỉnh hoạt đông cho ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng vốn tự có là yếu tố cơ bản để xác định các chỉ tiêu an toàn của một NHTM. Như vậy quy mô và sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có của NHTM bao gồm hai loại: * Vốn điều lệ: Là nguồn vốn ban đầu khi Ngân hàng thành lập do Nhà nước cấp nếu là NHTM nhà nước, do đóng góp của cổ đông nếu là NHTM cổ phần hoặc do phần đóng góp của các bên nếu là ngân hàng liên doanh với mức độ tùy theo quy mô của NHTM đó, được pháp lệnh Ngân hàng quy định cụ thể. * Vốn tự có bổ sung: Vốn tự có của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm: + Quỹ dự trữ bổ sung theo điều lệ: Được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của NHTM theo một tỷ lệ nhất định tùy từng ngân hàng nhằm mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu. + Quỹ dự trữ đặc biệt: Để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo vệ vốn điều lệ. + Ngoài ra vốn tự có bổ sung vốn điều lệ còn bao gồm lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các quỹ lợi nhuận khác như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, thể hiện trên bảng cân đối mà ngân hàng tạm thời sử dụng. 2.2. Nguồn vốn huy động. Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng để kinh doanh. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn (đối với tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn để chi trả (đối với tiền gửi không kỳ hạn). Chính vì vốn huy động luôn biến đổi nên Ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn huy động bao gồm: + Tiền gửi của khách hàng: Chiếm tỷ trọng lớn khoảng từ 70% - 80% và có tính biến động. + Vốn phát hành các chứng từ có giá. + Vốn đi vay. 2.3 Các nguồn vốn khác. Vốn tiếp nhận: gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hay trợ giúp cho. Đầu tư phát triển những chương trình, dự án có mục tiêu kinh tế xã hội riêng. NHTM cho vay theo chỉ định của chủ nguồn vốn để hưởng hoa hồng. Các loại nguồn vốn khác: Được hình thành trong quá trình hoạt động của nghiệp vụ và được sử dụng theo quy định của Nhà nước. 2. 3. 1. Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi. Từ lịch sử phát triển hoạt động Ngân hàng cho thấy hình thức ban đầu của hoạt động nhận tiền gửi là hình thức giữ và bảo quản hộ tài sản cho khách hàng, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động nhận tiền gửi ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Người gửi tiền không chỉ đơn giản để bảo quản tài sản mà còn nhằm mục đích thu lãi từ tiền gửi hay các lợi ích khác mà Ngân hàng cung cấp. Tiền gửi là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác và cũng là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM. * Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà không có thỏa thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một mức lãi suất thấp hoặc không phải trả lãi cho số tiền gửi này tùy theo chính sách quản lý lãi suất của NHTW mỗi nước hoặc trình độ cạnh tranh của mỗi Ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm hai loại: * Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán chi trả cho các hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi phí khác phát sinh trong kinh doanh của khách hàng một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại Ngân hàng trên hai loại tài khoản: Tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi vãng lai. Đối với các khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng Séc hay chuyển khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản theo đó Ngân hàng cho doanh nghiệp vay một khoản tiền nhất định và ngược lại doanh nghiệp cam kết chuyển những số tiền thu được vào tài khoản này để trừ bớt nợ, do đó, tài khoản này có lúc dư nợ, có lúc dư có. Nhờ tài khoản vãng lai, các doanh nghiệp vay tiền tương đối dễ dàng, đồng thời các Ngân hàng theo dõi sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, còn đối với các ngân hàng đã tạo ra được ký thác, tăng cường số tiền gửi của doanh nghiệp. * Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Là khoản tiền ký gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán, khi cần khách hàng có thể đến Ngân hàng rút ra để chi tiêu. Khác với tiền gửi thanh toán ở trên, loại tiền gửi này khách hàng không được sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. * Tiền gửi có kỳ hạn. Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, Ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi tương đối ổn định, do đó Ngân hàng có thể chủ động trong việc sử dụng vào mục đích kinh doanh trong thời gian ký kết. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn có khung lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. * Tiền gửi tiết kiệm ( Ap dụng cho các tầng lớp dân cư) + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là khoản tiền gửi khách hàng có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ vào bất cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Số dư tiền gửi này không lớn, ít biến động do đó, với loại tiền gửi này Ngân hàng vẫn trả lãi cao hơn so với loại tiền gửi thanh toán. + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng về thời hạn, lãi suất. Với loại tiết kiệm này, mục đích của người gửi là sinh lợi nên vấn đề lãi suất là rất quan trọng. Còn đối với Ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định. Nhằm mục đích sử dụng cho các nhu cầu khác nhau của khách hàng cũng như nhu cầu về vốn của Ngân hàng, các Ngân hàng thường được áp dụng các loại tiết kiệm với kỳ hạn 3, 6, 9 tháng, 1 năm, 2 năm với mức lãi suất thích hợp từng thời kỳ theo nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. 2. 3. 2. Huy động vốn thông qua phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ trên thị trường vốn. Trong đó kỳ phiếu là giấy nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại giấy nợ trên được NHTM phát hành từng đợt tùy theo mục đích với sự chấp thuận của NHNN. Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu hoặc trái phiếu NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Huy động vốn dưới hình thức này NHTM phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn, thời hạn huy động. Khối lượng vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động được đủ khối lượng theo dự kiến sẽ các Ngân hàng sẽ ngừng việc huy động. 2. 3.3. Vay Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác. NHTM chủ yếu cho vay bằng nguồn vốn nhận tiền gửi, song không phải lúc nào nguồn vốn đó cũng đủ đáp ứng nhu cầu tín dụng, nhiều khi thiếu cả tiền thanh toán cho khách hàng. Để giải quyết khó khăn đó, NHTM có thể chủ động đi vay để đáp ứng nhu cầu về vốn trước mắt, Ngân hàng có thể đi vay từ NHTW, từ các tổ chức tín dụng và các NHTM khác để đáp ứng nhu cầu trước mắt . Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của NHNN sẽ được chia làm hai loại: Vốn vay để thanh toán và vay tái cấp vốn. * Vay để thanh toán: các NHTM vay NHNN để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán, thời hạn vay thường ngắn hạn * Vay tái cấp vốn: NHNN cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn gồm hai hình thức: + Tái chiết khấu: NHNN nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. + Vay có bảo đảm: Là hình thức các NHTM đem các giấy tờ có giá đến các NHNN để làm vật bảo đảm xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm vật bảo đảm, NHNN sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo việc điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. 2. 4. Các nguồn vốn khác. * Vốn tiếp nhận: gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hay trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình, dự án có mục tiêu kinh tế xã hội riêng. NHTM cho vay theo chỉ định của chủ nguồn vốn để hưởng hoa hồng. * Các loại nguồn vốn khác: được hình thành trong quá trình hoạt động của nghiệp vụ và được sử dụng theo quy định của Nhà nước. 3. Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM. NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” do đó giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn cho vay, Ngân hàng phải thực hiện công tác huy động. Tuy nhiên, số lượng vốn huy động, cơ cấu, loại hình, thời hạn huy động phụ thuộc vào phương hướng kinh doanh tức là vào chiến lược tín dụng của Ngân hàng. Trong trường hợp Ngân hàng không muốn tăng doanh số cho vay mà muốn thay đổi tốc độ lợi nhuận thì lúc này Ngân hàng phải có sự thay đổi trong cơ cấu huy động vốn, giảm bớt loại vốn huy động có lãi suất cao, tăng cường huy động vốn có lãi suất thấp hơn, còn trong trường hợp Ngân hàng muốn thu hẹp hoạt động tín dụng thì bắt buộc phải có sự thay đổi tương ứng trong hoạt động huy động vốn nhằm giảm bớt một cách tương ứng lượng tiền không cần thiết, nhờ đó tránh được những chi phí mà ngân hàng có thể phải gánh chịu nếu không có sự đồng bộ giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Ngược lại, hoạt động huy động vốn cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong trường hợp khi mà Ngân hàng áp dụng đầy đủ các biện pháp thayđổi lãi suất, cải thiện công tác dịch vụ. 4. Vai trò của nguồn vốn huy động trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 4.1 Nguồn vốn huy động ảnh hưởng quy mô hoạt động và tín dụng của NHTM Vốn huy động có ảnh hưởng to lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô tín dụng cũng như các hoạt động khác. Trong trường hợp nền kinh tế có nhu cầu vốn tín dụng mà NHTM không có nguồn vốn thì cũng không thể mở rộng tín dụng được do vậy muốn mở rộng quy mô tín dụng Ngân hàng phải chủ động tăng cường huy động vốn .Có thể nói khối lượng tín dụng tăng tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng nguồn vốn của ngân hàng . 4.2 Nguồn vốn huy động giúp Ngân hàng tự chủ trong kinh doanh. Một Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp vụ của nó hoàn toàn phụ thuộc vào vốn tự có. Ngược lại, một Ngân hàng với nguồn vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn tự quyết định trong hoạt động kinh doanh của mình, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy động dồi dào cũng làm Ngân hàng chủ động trong việc đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh như cho vay với nhiều đối tượng khác nhau và các loại cho vay khác nhau (ngắn hạn trung hạn và dài hạn ) nhằm phân tán rủi ro thu được lợi nhuận cao nhất, đạt mục tiêu cuối cùng là an toàn sinh lời. 4.3 Nguồn vốn huy động quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân hàng trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải có uy tín trên thị trường. Uy tín đó trước hết phải thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng, mà khả năng thanh toán của Ngân hàng phụ thuộc vào vốn khả dụng của Ngân hàng. Với tiềm năng vốn lớn, nguồn huy động dồi dào, Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả vừa giữ tín nhiệm vừa nâng cao thanh thế của Ngân hàng trên thị trường. 4.4 Quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng: Thực tế đã chứng minh: Quy mô trình độ nghề nghiệp, phương tiện kỹ thuật hiện đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian gia hạn cho vay thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng, điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng tăng lên nhanh chóng và Ngân hàng có điều kiện thuận lợi hơn trong kinh doanh. 5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn, song cần nhấn mạnh các chỉ tiêu chủ yếu sau : 5. 1. Quy mô nguồn vốn. Quy mô nguồn vốn là một trong những thước đo quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng như hiệu quả hoạt động huy động vốn. Nguồn vốn năm sau cao hơn năm trước dẫn đến quy mô tín dụng được mở rộng thể hiện hiệu quả hoạt động của ngân hàng Lợi nhuận của Ngân hàng phụ thuộc vào yếu tố quy mô nguồn vốn và sử dụng vốn, chênh lệch giữa lợi tức thu được và chi phí bỏ ra bình quân trên một đồng vốn. Vì vậy, một NHTM hoạt động hiệu quả và phát triển thì nguồn vốn huy động của Ngân hàng phải lớn và không ngừng phát triển. 5. 2. Cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Hoạt động huy động vốn của NHTM không thể tách rời với hoạt động sử dụng vốn và hoạt động sử dụng vốn là mục tiêu của hoạt động huy động vốn. Danh mục đầu tư của NHTM khá đa dạng mà mỗi loại đầu tư lại có những đặc điểm riêng, trong đó, kỳ hạn đầu tư hay kỳ hạn tiền gửi là những đặc điểm quan trọng gắn chặt với cơ cấu nguồn vốn. Do vậy hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay của ngân hàng phải có sự cân đối .Tính cân đối đó không chỉ thể hiện trên tổng thể mà còn thể hiện trên tổng thể và qua tính chất của nguồn vốn và các loại cho vay . + Cân đối giữa nguồn vốn huy động dài hạn với cho vay trung và dài hạn . + Cân đối giữa nguồn vốn huy động ngắn hạn với cho vay ngắn hạn . Xét về tính ổn định nếu huy động được vốn dài hạn càng cao thì có thể tạo nên nguồn vốn vững chắc để cho vay. Song nếu trong nguồn vốn huy động được mà nguồn vốn dài hạn chiếm tỷ trọng quá lớn trong khi dư nợ cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ thì Ngân hàng sẽ bị thua lỗ bởi lẽ ngân hàng phải trả lãi suất cao cho nguồn vốn huy động dài hạn và thu được lãi suất thấp khi cho vay ngắn hạn . Do vậy việc tính toán cân đối cơ cấu vốn dài hạn và ngắn hạn là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng kinh doanh của ngân hàng 5. 3. Chi phí huy động vốn. Nếu chi phí huy động vốn thấp sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng thương mại có khả năng tăng được lợi nhuận hay mở rộng quy mô đầu tư và cho vay. Tuy nhiên, chi phí huy động vốn lại phụ thuộc vào lãi suất trong từng thời kỳ, nên khi đánh giá hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại, chúng ta không so sánh chi phí huy động vốn giữa các thời kỳ mà chúng ta nên so sánh chi phí huy động vốn với lợi tức cho vay hay đầu tư từ nguồn vốn huy động hoặc so sánh với chi phí huy động vốn bình quân trên thị trường. Hoạt động huy động vốn chỉ đạt được hiệu quả khi lãi suất huy động bình quân thấp hơn lãi suất bình quân trên thị trường, đồng thời để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền thì lãi suất huy động phải là lãi suất dương, tức lãi suất cao hơn tỷ lệ lạm phát. Chương ii đặc điểm hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp chi nhánh nam Hà Nội I. Qúa trình ra đời và phát triển của NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội Ngân hàng Nông nghiệp & PTNTVN là Ngân hàng lớn mạnh hàng đầu ở VN luôn hướng tới sự thịnh vượng chung của khách hàng và các địa phương trong cả nước với trên 143 ngàn tỷ nguồn vốn, gồm1800 chi nhánh trong cả nước, có quan hệ đại lý với trên 200 nước và các tổ chức tài chính tiền tệ trên thế giới. Riêng nguồn vốn ở các đô thị lớn trong cả nước là 67 ngàn tỷ đồng trong đó thủ đô Hà Nội chiếm 61%. Như vậy tiềm năng nguồn vốn và dư nợ của NH No&PTNT đóng vai trò quan trọng cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước. Thương hiệu Agribank đã dần dần đi vào lòng người VN &Hà Nội. Vốn NH No&PTNT đã dần dần đến từng nhà, từng doanh nghiệp góp phần vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua quá trình phát triển với phương châm đẩy mạnh kinh doanh, mở rộng thị phần, NHNo &PTNT Nam Hà Nội được thành lập ngày 12/3/2001 theo quyết định số 48/QĐHĐQT của chủ tịch Hội Đồng Quản Trị NHNo &PTNT Việt Nam là một chi nhánh cấp I trực thuộc ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Trụ sở chính đóng tại C3- Phương Liệt- Quân Thanh Xuân- thành phố Hà Nội. Sau hơn 3 năm hoạt động Chi nhánh đã ngày càng hoàn thiện và phát triển, tính đến ngày 31/12/2004 kết quả hoạt động là: Tổng nguồn vốn đạt 3, 784 tỷ đồng, doanh số cho vay đạt 1, 571 tỷ đồng. Hiện nay, Chi nhánh có 746 khách hàng còn dư nợ vay, trong đó có 92 khách hàng là doanh nghiệp 654 khách h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2312.doc