Nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác đầu tư tại Tổng Công ty cổ phần tài chính Dầu khí Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay cùng với những cơ hội mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại là những thách thức mà nền kinh tế nói chung và thị trường ngân hàng tài chính nói riêng của Việt Nam cần phải đối mặt. Trước sự phát triển không ngừng đó các dịch vụ ngân hàng- tài chính ngày càng được đa dạng hóa và phát triển linh hoạt với chất lượng ngày càng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Ngân hàng không còn chiếm vị thế độc tôn là trung gian trên thị trường tài chính mà thêm vào đó còn có sự góp mặt c

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác đầu tư tại Tổng Công ty cổ phần tài chính Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa các công ty Tài chính cùng với các dịch vụ tài chính truyền thống như tín dụng cá nhân,tín dụng doanh nghiệp,chiết khấu giấy tờ có giá…bên cạnh những dịch vụ truyền thống đó, các Công ty tài chính còn tung ra một số loại hình dịch vụ tài chính mới mẻ nhằm cạnh tranh với các ngân hàng vào tạo chỗ đứng cho riêng mình. Đồng thời khi nền kinh tế phát triển, ngày càng có nhiều cá nhân, tổ chức sở hữu khối lượng tài sản lớn dẫn đến nhu cầu quản lý tài sản và đầu tư tài sản đó sao cho hiệu quả nhất. Nắm bắt được những điều kiện và nhu cầu đó,Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí(PVFC) đã đi tiên phong trong việc triển khai một dịch vụ hoàn toàn mới: dịch vụ ủy thác đầu tư. Đây là dịch vụ hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển nên việc này đặt ra cho Tổng công ty Tài chính Dầu khí(PVFC) nhu cầu cấp thiết để có những giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong quá trình thực tập tại Tổng công ty cổ phẩn Tài chính Dầu khí, em đã có cơ hội được tiếp xúc với các quy trình, văn bản hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ này .Đồng thời nhận thấy những nét mới lạ, tiềm năng, vai trò của dịch vụ ủy thác đầu tư trong chiến lược kinh doanh chung của cả Tập đoàn Tài chính Dầu khí và những hạn chế cần khắc phục của nghiệp vụ em đã chọn đề tài cho khoá luận tốt nghiệp là: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác đầu tư tại Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam”. Đề tài này đã được tiếp cận và nghiên cứu bởi các phương pháp thống kê,phân tích và thực nghiệm để đưa ra được cái nhìn chung nhất về dịch vụ ủy thác đầu tư mà Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí (PVFC) đang triển khai thực hiện. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của khoá luận gồm 3 phần như sau: Chương I: Khái quát chung về công ty tài chính và hoạt động ủy thác đầu tư của công ty tài chính. Chương II: Thực trạng hoạt động ủy thác đầu tư của Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam(PVFC). Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ủy thác đầu tư tại Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam(PVFC). Chương I Khái quát chung về công ty tài chính và hoạt động ủy thác đầu tư của công ty tài chính 1.1.Công ty tài chính và các hoạt động của công ty tài chính. 1.1.1. Công ty tài chính và các loại hình công ty tài chính 1.1.1.1.Đặc điểm cơ bản của công ty tài chính Khái quát về công ty tài chính: Công ty tài chính được hiểu là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Các công ty này huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, thương phiếu và dùng tiền thu được để cho vay. Các khoản cho vay của công ty tài chính thường đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng nhỏ vì thường là các món tiền nhỏ Federic S. Minskhin . Theo Nghị định số 79/2002/NĐ-CP, Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm. Đặc trưng cơ bản của công ty tài chính: - Tuy cũng là một trung gian tài chính nhưng hình thức thu hút vốn của công ty tài chính khác với các ngân hàng thương mại, hình thức thu hút vốn chủ yếu là thông qua việc phát hành các loại chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu), đặc biệt là không nhận tiền gửi của các tổ chức và dân cư. Công ty tài chính huy động các nguồn vốn lớn và cho vay chủ yếu là các món tiền nhỏ, đặc biệt thích hợp với nhu cầu vốn của các doanh nghiệp nhỏ và người tiêu dùng. Kỳ hạn của các khoản cho vay của các công ty tài chính chủ yếu là trung và dài hạn. Công ty tài chính thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua( leasing) Thực hiện cầm cố các giấy tờ có giá, kinh doanh tiền tệ Tư vấn tài chính, marketing, giám định các công việc chuẩn bị để ký kết hợp đồng, thành lập các công ty liên doanh, tư vấn phát hành cổ phiếu… Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế ký thuật( các dự án được xét duyệt bởi Nhà nước hay dự án của tập đoàn đối với các công ty tài chính trực thuộc tập đoàn) Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc,đá quý, mua bán chuyển nhượng các loại chứng khoán. Thực hiện các dịch vụ bảo lãnh, bao thanh toán… Phân biệt công ty tài chính với các ngân hàng thương mại: - Điểm khác biệt đầu tiên của 1 công ty tài chính so với các NHTM là các công ty tài chính không được phép nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức kinh tế xã hội,của cá nhân…với thời hạn ngắn( dưới 1 năm) dưới hình thức mở tài khoản. Vì vậy để tăng lượng vốn huy động các công ty tài chính thường phát hành các loại tín phiếu, trái phiếu dài hạn. Công ty tài chính không được cung cấp các dịch vụ thanh toán qua tài khoản và tiền mặt cho cá nhân và tổ chức, không được sử dụng vốn vay của dân cư để làm phương tiện thanh toán. Một số lĩnh vực mà công ty tài chính không bị Chính phủ kiểm soát chặt chẽ như các NHTM ,ví dụ như: Chính phủ chỉ kiểm soát, hạn chế số tiền cực đại mà các công ty tài chính có thể cho các cá nhân vay,kỳ hạn của các hợp đồng nợ nhưng không hạn chế về số lượng chi nhánh, về tài sản mà họ nắm giữ và thu nhập vốn của họ. Điều đó cho phép các công ty tài chính linh hoạt hơn để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa. 1.1.1.2.Các loại hình và đặc trưng của từng loại hình công ty tài chính Phân loại theo đối tượng khách hàng: Công ty tài chính bán hàng: thực hiện các món cho vay cho những người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất riêng.Các công ty tài chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu dùng và người được tiêu dùng sử dụng bởi vì các món vay thường được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng Công ty tài chính người tiêu dùng: thực hiện các món cho vay cho người tiêu dùng để mua những món hàng riêng như đồ đạc và dụng cụ gia đình để cải thiện nhà cửa hoặc để giúp thanh toán những món nợ nhỏ. Các công ty tài chính người tiêu dùng là các công ty riêng biệt hoặc do các ngân hàng sở hữu. Các công ty này cho người tiêu dùng vay mà không có tín dụng từ những nguồn khác và thu lãi suất cao hơn. Công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu (các hóa đơn của hãng) có chiết khấu. Việc cung cấp tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ngoài việc bao thanh toán các công ty tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hóa trong việc cho thuê thiết bị,là những thứ mà họ mua và cho các nhà kinh doanh thuê một số năm( leasing). Phân loại theo quan hệ sở hữu Điều 3, NĐ 79/2002/ NĐ - CP : theo điều 3 Nghị định 79/2002/NĐ-CP. Công ty tài chính Nhà nước: là Công ty Tài chính do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh. Công ty tài chính cổ phần: là Công ty Tài chính do các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức Công ty cổ phần. Công ty tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng: là Công ty Tài chính do một tổ chức tín dụng thành lập bằng vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân. Công ty tài chính liên doanh: là Công ty Tài chính được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài: là Công ty Tài chính được thành lập bằng vốn của một hoặc của nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. Phân loại theo tính độc lập trong hoạt động - Công ty tài chính hoạt động độc lập: là những công ty tài chính hoạt động thực thể kinh tế độc lập, tự quyết định trong mọi hoạt đông kinh doanh. - Công ty tài chính trực thuộc tập đoàn kinh tế: là những công ty tài chính là thành viên của tập đoàn,hoạt động chủ yếu của các công ty này là tìm kiếm được các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các thành viên trong tập đoàn, điều hòa vốn giữa các thành viên trong tập đoàn, trong quan hệ với các ngân hàng và các đối tác; quản lý áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tài chính cho các thành viên,cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính khác cho các thành viên tập đoàn. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của công ty tài chính 1.1.2.1.Huy động vốn Điều 17/ NĐ 79/2002/ NĐ-CP - Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. - Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành; - Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế. - Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. So với các ngân hàng, nguồn vốn huy động được của các công ty tài chính phải chịu mức chi phí cao hơn do họ chỉ được phép huy động các nguồn vốn trung và dài hạn. Bên cạnh đó, công ty tài chính không được phép vay từ cửa sổ chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước dễ dàng như các NHTM. Ở Mỹ, các công ty tài chính không được tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng nên họ không cần phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ cần trích lập quỹ dự phòng rủi ro và duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn. 1.1.2.2.Hoạt động tín dụng. Các công ty tài chính được phép hoạt động tín dụng dưới các hình thực cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê (leasing) và bao thanh toán( factoring). Hoạt động tín dụng của công ty tài chính cũng có những nét khác biệt các NHTM, thể hiện qua 3 đặc điểm sau: Công ty tài chính chủ yếu cho vay trung và dài hạn, họ chủ yếu thực hiện vay các món lớn rồi chia thành các món nhỏ để cho vay- điều này hoàn toàn ngược lại so với các NHTM. Đồng thời vì chi phí vốn vay lớn hơn các NHTM nên công ty tài chính thường gặp khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các hợp đồng cho vay hoặc phải chấp nhận cho vay các hợp đồng hay dự án có rủi ro cao. Công ty tài chính có các hình thức cho vay như: cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp, cho vay theo ủy thác của chính phủ, cá nhân và tổ chức đã phê duyệt. Bên cạnh đó, công ty tài chính còn chiết khấu các giấy tờ có giá theo quy định của pháp luật,thực hiện bảo lãnh bằng uy tín của mình…. 1.1.2.3.Các dịch vụ tài chính khác Bên cạnh hai hoạt động chủ chốt là huy động vốn và tín dụng - hoạt động đặc trưng của một trung gian tài chính,các công ty tài chính còn thực hiện thêm những hoạt động khác như đầu tư, nhận ủy thác,tư vấn tài chính, kinh doanh vàng và ngoại tệ….Tất cả những hoạt động này đều tuân theo quy định và giám sát của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Trong tất cả các hoạt đông trên, hoạt động nhận ủy thác để đầu tư hoặc cho vay đóng vai trò quan trọng,làm nên sự khác biệt của các công ty tài chính so với các NHTM. 1.2. Dịch vụ ủy thác đầu tư của công ty tài chính 1.2.1.Quan niệm chung về ủy thác 1.2.1.1.Quan niệm về ủy thác Theo từ điển “Kinh tế hiện đại”, ủy thác là việc tài sản của người này được giao cho người khác để quản lý và kinh doanh. Người nhận quản lý tài sản sẽ không được hưởng lợi tức sinh ra từ tài sản đó mà chỉ được nhận một khoản phí hoặc một phần lợi nhuận nào đó theo thỏa thuận với người chủ tài sản được ủy thác. Theo Whasington State Bar Association: ủy thác là một bản hợp đồng mà theo đó, tài sản được nắm giữ và quản lý bởi một người vì quyền lợi của một người khác. Thuật ngữ ủy thác ra đời từ khi có sự tách biệt giữa một bên là chủ sở hữu tài sản và một bên quản lý tài sản. Chủ sở hữu tài sản có thể giao phó tài sản của mình cho người khác(người thụ thác) nắm giữ và sử dụng nó trong phạm vi mối quan hệ của họ và theo hợp đồng thỏa thuận. Hoạt động ủy thác làm này sinh mối quan hệ: một bên hoạt động cho lợi ích của bên kia theo như hợp đồng thỏa thuận và người hưởng thụ sẽ cũng có thể là bên thứ ba. Trên thế giới, dịch vụ ủy thác ra đời từ rất sớm, đầu tiên xuất hiện ở Mỹ và Anh. Trong giai đoạn đầu này các chức năng ủy thác được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm hoặc các cá nhân. Một đặc điểm quan trọng trong giai đoạn này đó là chưa có sự tham gia của pháp luật trong điều hành hoạt động ủy thác vì vậy các bên chỉ thỏa thuận trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi. Ở Mỹ, mãi đến năm 1913, các ngân hàng mới được quyền thực hiện các dịch vụ ủy thác và cho đến bấy giờ,hoạt động ủy thác thường gắn liền với hoạt động của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty chứng khoán…Ở Việt Nam,các công ty tài chính là cha đẻ của các loại hình dịch vụ ủy thác và ngày nay cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam càng có nhiều các quỹ ủy thác đầu tư xuất hiện. Qua hai khái niệm trên ta hiểu về bản chất ủy thác biểu hiện mối quan hệ giữa hai hay nhiều bên tham gia, bao gồm: - Người ủy thác: trustor - Người nhận ủy thác: trustee - Người thụ hưởng: beneficiary (người thụ hưởng thường là chính người ủy thác) Trong mối quan hệ này, người ủy thác phải giao quyền nắm giữ tài sản cho người nhận ủy thác và “tài sản” được hiểu theo nghĩa rộng là tiền mặt, bất động sản,giấy tờ có giá hoặc một công việc ý muốn nào đó cần được thực hiện. Ủy thác có 4 đặc điểm cơ bản sau: - Ủy thác dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người này với người khác, do đó thuật ngữ Trust được sử dụng để chỉ nghiệp vụ này. - Mang tính trung gian: người ủy thác không trực tiếp thực hiện quản lý và kinh doanh tài sản. - Là một loại hình dịch vụ vì nó không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản mà vẫn mang lại lợi ích và cung cấp 1 giải pháp nào đó cho khách hàng. - Ủy thác không chỉ đem lại lợi nhuận cho khách hàng mà còn sinh lời cho chính tổ chức hay cá nhân nhận ủy thác. 1.2.1.2.Các loại hình ủy thác. 1.2.1.2.1.Căn cứ vào chức năng của ủy thác: Ủy thác quản lý vốn và tài sản: đây là sản phẩm dịch vụ ủy thác mà cá nhân hay tổ chức nhận quản lý và kinh doanh giúp sinh lời tài sản mà bên ủy thác giao phó. Ủy thác thực hiện công việc: loại hình ủy thác này được hiểu là bên nhận ủy thác có trách nhiệm phải hoàn thành một hay một nhóm các công việc do bên ủy thác giao phó, ví dụ như: ủy thác ký hợp đồng, ủy thác đầu tư, ủy thác cho vay… 1.2.1.2.2.Căn cứ vào đối tượng khách hàng: Tùy vào nhu cầu của từng khách hàng mà có rất nhiều loại hình dịch vụ ủy thác : Ủy thác của cá nhân. Ủy thác của tổ chức 1.2.2.Khái quát hoạt động ủy thác đầu tư 1.2.2.1.Khái niệm hoạt động ủy thác đầu tư. Khái niệm ủy thác đầu tư: Một trong những trách nhiệm lớn nhất của người nhận ủy thác(người thụ thác) là đầu tư sao cho hiệu quả, hợp lý nguồn vốn ủy thác, như vậy để hiểu thế nào là “ủy thác đầu tư”, trước hết cần hiểu rõ thuật ngữ “ đầu tư”. Trong hoạt động kinh tế, đầu tư cũng luôn là hoạt động quan trọng của bất kỳ thành phần kinh tế nào, đó là hoạt động bỏ vốn nhằm thu lời cho tương lai. Vì vậy đầu tư được hiểu là một quy trình từ khi xác định nguồn tài trợ, phương thức tài trợ, chi phí của nguồn tài trợ, đầu tư vào đâu, xác suất hiệu quả như thế nào… Đầu tư là hoạt động lâu dài vì thế luôn luôn phải cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích kỳ vọng trong tương lai, đòi hỏi người đầu tư phải am hiểu thị trường,kiến thức tài chính... Bản thân hoạt động đầu tư luôn tiềm ẩn những rủi ro mà nhiệm vụ của người đầu tư là tối đa hóa lợi ích, tối thiểu hóa rủi ro. Do đó, không phải cá nhân hay tổ chức nào có vốn cũng có thể thực hiện tốt hoạt động đầu tư. Thêm vào đó, để đầu tư nhiều khi cần phải bỏ ra một lượng chi phí khá lớn để thu thập thông tin mà chi phí này đôi khi lớn hơn cả lợi nhuận thu được. Từ thực tế và những đòi hỏi trên mà dịch vụ ủy thác đầu tư ra đời nhằm đầu tư hiệu quả những nguồn vốn để mang lại lợi nhuận tối đa. Thuật ngữ “ủy thác đầu tư” được hiểu là: hình thức khách hàng giao một số vốn nhất định của mình bên nhận ủy thác để tham giam gia đầu tư vào dự án, doanh nghiệp hoặc lĩnh vực cụ thể nhằm thu được các lợi ích nhất định từ hoạt động đầu tư nói trên. Thực chât ủy thác đầu tư là một hình thức đầu tư gián tiếp, vậy lợi ích của ủy thác đầu tư so với các hình thức đầu tư khác là gì? Khi một người nắm giứ một khoản tiền nhàn rỗi, có có thể đứng trước nhiều chọn lựa đầu tư:gửi tiết kiệm ngân hàng,mua trái phiếu chính phủ, chứng khoán hoặc trực tiếp đem vốn đi đầu tư…Mua trái phiếu hay công trái chính phủ, gửi tiết kiệm ngân hàng,đây là những giải pháp an toàn, mức độ rủi ro thấp nhưng tương xứng với nó là mức lợi nhuận thu về không cao. Thông thường trong một vài năm gần đây lãi suất trái phiếu chính phủ thường chỉ ở mức 8.5%/năm và tiền gửi tiết kiệm khoảng 9%/năm. Trong điều kiện lạm phát ở Việt Nam đầu năm 2008, lãi suất là 11%-12%/ năm và hiện khoảng 15%/năm trong thời điểm hiên tại. Trong khi đó đầu tư trực tiếp đem lại những mức lợi suất cao hơn gấp nhiều lần nhưng bù lại độ rủi ro cũng cao hơn rất nhiều,đặc biệt đối với những nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Từ đây, sản phẩm ủy thác đầu tư ra đời là sản phẩm trung hòa giữa 2 phương án đầu tư trên. 1.2.2.2.Hoạt động ủy thác đầu tư có những đặc điểm sau: Dịch vụ ủy thác đầu tư là hình thức đầu tư gián tiếp trong đó, bên ủy thác có thể lựa chọn một trong hai hình thức đầu tư: ủy thác đầu tư dự án, ủy thác đầu tư góp vốn mua cổ phần. Ủy thác đầu tư còn có đặc điểm riêng là: - Tùy từng loại hình ủy thác đầu tư và tùy theo hợp đồng ủy thác mà lợi tức bên ủy thác thu được có thể thay đổi hoặc cố định theo tình hình dự án đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh. Đây chính là điểm khác biệt quan trọng để phân biệt ủy thác đầu tư với cho vay hay gửi tiết kiệm vì trong 2 hình thức này khách hàng thường chỉ thu được lợi tức cố định như đã thỏa thuận. - Ủy thác đầu tư mang tính chất vô hình, không ổn định và khó xác định chất lượng. - Thời hạn của ủy thác đầu tư không chỉ phụ thuộc ý muốn chủ quan của bên ủy thác mà còn phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh sản xuất,thời hạn của dự án, do đó ủy thác đầu tư thường mang tính trung gian và dài hạn. 1.2.2.3.Mục tiêu và yêu cầu của đầu tư ủy thác: Mỗi hợp đồng ủy thác cung cấp cho khách hàng đều có những đặc điểm và đòi hỏi riêng vì vậy mỗi tài khoản ủy thác đều phải có mục tiêu đầu tư riêng biệt. Một lợi tức ổn định có độ an toàn cao sẽ là thích hợp với những khách hàng cao tuổi trong khi đó làm hài lòng các khách hàng trẻ tuổi lại là việc theo đuổi sự phát triển thông qua khoản mục đầu tư, bao gồm đa dạng hóa các cổ phần đem lại một tỷ lệ lợi tức lớn hơn. Như vậy,dù cho bản chất hay nguồn gốc của nguồn vốn được ủy thác là gì đi chăng nữa thì bên thụ thác phải tìm kiếm được lợi tức cao nhất trong phạm vi giới hạn của sự lựa chọn các tài sản đầu tư. Nhiều giới hạn đối với việc đầu tư ủy thác, đầu tư qua các quỹ ủy thác đã được giới hạn bởi hệ thống pháp luật và bởi chính các hợp đồng ủy thác. Lợi ích giữa các bên trong hoạt đầu ủy thác đầu tư: - Lợi ích đối với bên ủy thác: một hợp đồng ủy thác đầu tư sẽ là một giải pháp tốt để trung hòa giữa hai thái cực rủi ra và lợi nhuận cho bên ủy thác. Thông qua việc ủy thác đầu tư cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp( bên thụ thác), các cá nhân, tổ chức ủy thác có thể yên tâm hơn về lợi nhuận của các khoản đầu tư từ tài sản của mình bởi hơn ai hết những nhà đầu tư chuyên nghiệp kia hiểu rõ nên lựa chọn đầu tư vào đâu, vào tài sản nào,có lợi nhất với mức rủi ro thích hợp. Bên ủy thác không những được biết rõ tài sản của mình được đầu tư vào đâu mà còn theo dõi được khả năng sinh lời của khoản vốn đó trong suốt quá trình đầu tư. - Lợi ích đối với bên nhận ủy thác( thụ thác): thông qua dịch vụ nhận ủy thác đầu tư, bên thụ thác có thể huy động được một nguồn vốn nhàn rỗi lớn với thời hạn dài,đồng thời họ cũng được chia sẻ phần nào gánh nặng rủi ro với các bên tham gia. Đối với bên nhận ủy thác là các tổ chức tín dụng, việc nhận ủy thác đầu tư sẽ giải quyết được vấn đề về hạn mức đầu tư mà pháp luật qui định với các tổ chức tín dụng do đầu tư bằng nguồn vốn của người ủy thác, huy động vốn cho các dự án một cách tốt hơn. Dịch vụ ủy thác đầu tư góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ tài chính của các công ty tài chính,tổ chức tín dụng, đông thời giúp các tổ chức này mở rộng quan hệ với khách hàng của mình. 1.2.2.4.Các nguyên tắc và quy trình của hoạt động ủy thác đầu tư. 1.2.2.4.1.Các nguyên tắc của hoạt động ủy thác đầu tư. Nguyên tắc tương hỗ cho hoạt động đầu tư: Hoạt động ủy thác đầu tư là hoạt động hỗ trợ cho chiến lược đầu tư của các tổ chức và cá nhân trong nước, nước ngoài cho danh mục đầu tư của công ty. Đồng thời hình thành dịch vụ tài chính mới đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho toàn bộ chiến lược đầu tư hay kinh doanh của mình. Nguyên tắc đảm bảo an toàn pháp lý trong hoạt động nhận ủy thác đầu tư. Hoạt động ủy thác đầu tư của một công ty tài chính phải tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan như luật đầu tư, luật quy định hoạt động của các tổ chức tín dụng….Đối với hoạt động nhận ủy thác đầu tư từ các tổ chức và cá nhân trong nước phải tuân thủ các quy định của pháp luật về tỷ lệ sở hữu của tổ chức và cá nhân nước ngoài trong một doanh nghiệp cổ phần, quy định về quản lý ngoại hối và các quy định có liên quan khác. Nguyên tắc minh bạch, rõ ràng, công khai. Hoạt động ủy thác đầu tư phải đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong quá trình cung cấp thông tin, tư vấn cho khách hàng cũng như các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong quá trình tiến hành đầu tư từ nguồn vốn ủy thác, bên ủy thác có quyền giám sát các kết quả đầu tư và quá trình. Mọi thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của bên thụ thác và ủy thác đều được làm rõ trong hợp đồng ủy thác đã ký. Nguyên tắc đảm bảo cam kết về quyền và lợi ích hợp pháp với bên ủy thác vốn. Các cam kết đối với khách hàng về điều kiện nhận ủy thác đầu tư, khả năng sinh lời, tính chịu rủi ro của phần vốn đầu tư,quá trình cung cấp thông tin, thủ tục chuyển nhượng vốn đầu tư và các điều kiện liên quan khác phải được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và đúng thời hạn. Nguyên tắc bảo mật thông tin. Mọi thông tin về hoạt động nhận ủy thác đầu tư và toàn bộ các thông tin liên quan khác đều phải được bảo mật và không được tiết lộ cho bất cứ bên thứ ba nào khác trừ khi có yêu cầu hoặc đồng ý của bên thụ thác và bên ủy thác. Nguyên tắc tôn trọng quyền lựa chọn phương thức ủy thác đầu tư của bên ủy thác. Bên cung cấp dịch vụ ủy thác đầu tư có quyền giới thiệu đầy đủ các sản phẩm và đặc tính của các sản phẩm ủy thác đầu tư mà mình cung cấp song quyết định lựa chọn sử dụng loại hình nào phải là quyết định cuối cùng của khách hàng, được pháp lý hóa bằng hợp đồng ủy thác. 1.2.2.4.2.Quy trình hoạt động ủy thác đầu tư. Bên ủy thác đầu tư: Lựa chọn một hoặc một nhóm các cơ hội đầu tư trên cơ sở danh mục các cơ hội đầu tư do bên thụ thác giới thiệu hoặc đưa ra yêu cầu của mình. Ký hợp đồng ủy thác đầu tư, giao vốn và ủy quyền cho bên thu thác thực hiện đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định. Được hưởng mọi kết quả đầu tư bao gồm lợi nhuận,giá trị gia tăng và rủi ro- nếu có theo cơ chế phân chia kết quả đầu tư như trong hợp đồng thỏa thuận. Trả phí dịch vụ cho bên thụ thác theo thỏa thuận. Bên nhận ủy thác đầu tư - Thay mặt người ủy thác thực hiện hoạt động đầu tư và giám sát quy trình đó trong thời hạn được ủy thác. - Định kỳ báo cáo kết quả đầu tư thực tế và trả lợi nhuận theo thỏa thuận cho bên ủy thác. - Hoàn trả vốn ủy thác cho bên ủy thác khi thời hạn trong hợp đồng đã hết. Như vậy, ủy thác đầu tư được xem như hoạt động ủy thác công việc mà người thụ thác sẽ thay mặt người ủy thác đầu tư vào một trong hai hình thức sau: - Ủy thác đầu tư dự án. - Ủy thác đầu tư góp vốn mua cổ phần. Sơ đồ quy trình(1.1) 2 1 Dự án được ủy thác Bên nhận ủy thác Bên ủy thác …… 4 3 (1) Giao vốn: người ủy thác và người nhận ủy thác ký kết hợp đồng ủy thác và chuyển giao vốn. (2) Đầu tư: người nhận ủy thác đầu tư vào dự án hoặc chứng khoán được ủy thác. (3) Thu kết quả kinh doanh: dự án hoặc chứng khoán được ủy thác sinh lời. (4) Thanh toán phí và lợi tức: người nhận ủy thác thanh toán lợi tức cho người ủy thác và người ủy thác trả phí ủy thác và các phí liên quan cho người nhận ủy thác. Sơ đồ trên cũng cho thấy để hình thành nên một quan hệ ủy thác đầu tư cần có 5 yếu tố: người ủy thác, người nhận ủy thác, người thụ hưởng, vốn ủy thác và hợp đồng ủy thác. Trong đó: - Người ủy thác là người cung cấp vốn thiếp lập ủy thác. Người ủy thác còn được gọi là người tài trợ( trustor, grantor, donor..) - Người nhận ủy thác(trustee) là cá nhân hoặc tổ chức có quyền hợp pháp đối với vốn được ủy thác,có trách nhiệm quản lý vốn đó theo đúng thỏa thuận đã ký kết trong hợp đồng ủy thác - Người thụ hưởng (beneficiary): là người nhận được quyền hoặc lợi ích phát sinh từ quan hệ ủy thác. - Vốn ủy thác( trust property): có thể là cổ phiếu, bất động sản,tiền mặt, công việc kinh doanh hoặc bảo hiểm.. - Hợp đồng ủy thác (trust agreement): là hợp đồng được ký kết giữa các bên theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc được ủy quyền được đưa ra trong hợp đồng. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động ủy thác đầu tư 1.2.3.1.Chỉ tiêu phản ánh qui mô ủy hoạt động ủy thác đầu tư - Tổng giá trị nguồn vốn ủy thác. - Số lượng hợp đồng ủy thác. - Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ủy thác và số lượng hợp đồng. - Danh mục các dự án đầu tư, giá trị các dự án đầu tư… - Tỷ trọng thu nhập do nghiệp vụ ủy thác đầu tư mang lại trong tổng doanh thu. Các tiêu chí trên đực xác định căn cứ vào kế hoạch của từng công ty tài chính. Nghiệp vụ ủy thác đầu tư của công ty tài chính được coi là phát triển xét về lượng nếu các chỉ tiêu số lượng hợp đồng ủy thác, tổng giá trị ủy thác và tỷ trọng thu nhập do nghiệp vụ này đem lại đạt được kế hoạch đề ra hàng năm và tăng theo thời gian. 1.2.3.2.Chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động ủy thác đầu tư Trước hết để hoạt động ủy thác đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất thì điều đó phục thuộc vào các chỉ tiêu tài chính, phản ánh chất lượng của dự án đầu tư bằng nguồn vốn ủy thác, đó là các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí Ý nghĩa: phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án. - Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng NPV là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với số vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hóa tại mốc 0. Phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư Lợi nhuận năm i quy về thời điểm hiện tại RRi = Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại RRi: tỷ suất sinh lời vốn đầu tư năm i. Ý nghĩa: phản ánh lợi nhuận trên một đơn vị vốn đầu tư. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn tự có. Wi REi = Ei Trong đó: rEi là tỷ suất sinh lời vốn tự có năm i Ei là vốn tự có bình quân năm i Wi là lợi nhuận thuần năm i Ý nghĩa: chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận từng năm trên 1 đơn vị vốn tự có bình quân của năm đó. Số lần quay vòng vốn lưu động. Oi Lwi = Wi Trong đó: Lwi: là số lần quay vòng vốn lưu động trong năm Oi : Doanh thu thuần bình quân năm I của dự án. Wi : Vốn lưu động bình quân năm của cả dự án Ý nghĩa: Vốn lưu động quay vòng càng nhanh hiệu quả sử dụng vốn ngày càng cao. Tỷ số giữa lợi ích và chi phí: B/C Trong đó: B là lợi ích thu được C là chi phí Thời gian thu hồi vốn đầu tư (PP): Số vốn đầu tư còn lại cần được thu hồi PP = n + Dòng tiền ngay sau mốc hoàn vốn n: là năm ngay trước năm thu hồi vốn đầu tư. Ý nghĩa: phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án,nó cho biết sau bao lâu thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư, do vậy PP cho biết khả năng tạo thu nhập của dự án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn. Phản ánh tương đối độ rủi ro của dự án. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ( IRR) : là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu tại đó NPV = 0. Ý nghĩa:phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án( chỉ tiêu tương đối) Điểm hòa vốn(BP): là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư. Trên đây là một số chỉ tiêu thẩm định dự án mà bên thụ thác sử dụng để đánh giá chất lượng dự án đầu tư nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất có thể cho hoạt động ủy thác đầu tư. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn đầu tư: hiệu quả vốn đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế- xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. Hiệu quả đầu tư được biểu hiện bởi chính công thức: Các kết quả mà DN thu được do đầu tư Số vốn đầu tư mà DN đã thực hiện để tạo ra kết quả trên Etc = Etc hiệu quả khi Etc > Etc(định mức) Hiệu quả đầu tư là một trong những chỉ tiêu quan trọng mà các khách hàng quan tâm và cân nhắc khi quyết định lựa chọn sử dụng dịch vụ. Dự án đầu tư có khẳ năng sinh lời cao, thời gian quay vòng vốn nhanh mới có thể tạo uy tín với các khách hàng uỷ thác và giúp các công ty tài chính cung cấp dịch vụ uỷ thác thu hút khách hàng. Vì vậy để tạo dựng thương hiệu cho công ty và nâng cao chất lượng dịch vụ uỷ thác của mình, các công ty tài chính cần không ngừng nâng cao chỉ tiêu chất lượng đầu tư. Để đáh giá chỉ tiêu này cần so sánh Etc thực tế của công ty với chỉ tiêu Etcđm mà công ty đề ra và so sánh với mức chung toàn ngành… Mức độ chặt chẽ trong quy trình ủy thác đầu tư: Quy trình nghiệp vụ đầu tư chặt chẽ,chuyên nghiệp cũng là một trong những chỉ tiêu quan trong để nâng cao hiệu quả hoạt động uỷ thác đầu tư. Quy trình chặt chẽ, logic, phương thức tiếp nhận và đầu tư vốn hợp lý sẽ hạn chế những rủi ro cho các bên trong qua trình đầu tư, tạo được sự an tâm cho bên uỷ thác vốn. Mức độ thỏa mãn của khách hàng. Dịch vụ uỷ thác đầu tư được cung cấp không chỉ đáp ứng yều cầu về lợi nhuận mà còn phải thoả mãn mục đích đầu tư được chỉ định( nếu có) của khách hàng vì thế công ty tài chính cung cấp dịch vụ uỷ thác đầu tư cần phải linh hoạt và có một danh mục đầu tư đa dạng để đáp ứng yêu cầu khách hàng và bắt kịp xu hướng thị trường. Khách hàng( bên uỷ thác) sẽ chỉ hài lòng khi hợp đồng uỷ thác đầu tư đem lại lợi nhuận cao như giá trị đã thoả thuận, thanh toán đúng hạn số lợi nhuận và vốn uỷ thác. Ngoài ra một công ty tài chinh có hiệu quả đầu tư tốt còn thoả mãn khách hàng nếu khi thanh toán hợp đồng uỷ thác còn có phần giá trị tăng thêm của số lợi nhuận đã đề ra. Q._.uyền lợi khách hàng( bên uỷ thác) còn được đảm bảo tối ưu khi vốn hợp đồng uỷ thác có tính thanh khoản cao,ức là có thể rút ra trước hạn nếu khách hàng muốn thay đổi thời gian đáo hạn của hợp đồng hoặc trong trường hợp công ty tài chính không đáp ứng được những yêu cầu trong hợp đồng uỷ thác thì có thể chuyển nhượng hoặc cầm cố khi có nhu cầu. 1.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ủy thác đầu tư. 1.2.4.1.Nhân tố chủ quan. - Mục tiêu chiến lược phát triển của công ty tài chính: Mục tiêu chiến lược là nhân tố định hướng cho tất cả các hoạt động hay nghiệp vụ của một tổ chức hay một công ty bất kỳ. Nếu nghiệp vụ uỷ thác đầu tư được công ty tài chính coi trọng và coi là loại hình dịch vụ mũi nhọn thì tất cả những yếu tố liên quan đến nó sẽ được đầu tư và nâng cấp đúng mực, từ các yếu tố vật chất, thiết bị, công nghệ, qui trình cho đến con người. Nghiệp vụ uỷ thác đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của chiến lược phát triển chung của một công ty tài chính bởi nghiệp vụ này vừa liên quan đến hoạt động huy động vốn của công ty, vừa liên quan đến các lĩnh vực đầu tư – hai mảng đầu ra và đầu vào chủ chốt. Nhờ có nguồn vốn từ ủy thác đầu tư mà các dự án có nguồn tài trợ,ngược lại đầu tư vào chứng khoán và các dự án sẽ tạo hàng hóa cho danh mục của dịch vụ ủy thác đầu tư. Chính vì vậy, dù công ty tài chính có đẩy mạnh hoạt động đầu tư nhằm kiếm lời theo hướng nào thì dịch vụ ủy thác đầu tư đều có những cơ hội tốt để phát triển. Bên cạnh đó, để cạnh tranh với các ngân hàng thương mại thì ủy thác đầu tư là chiêu bài chiến thuật giúp các công ty tài chính, giúp các công ty này cạnh tranh tín dụng với các ngân hàng và là con đường đi riêng của họ. Do các công ty tài chính có quy mô vốn hạn hẹp hơn các ngân hàng nên họ thường hướng tới các dịch vụ đầu tư trong đó có việc khai thác triệt để nguồn vốn ủy thác đầu tư.Vì vậy việc phát triển hoạt động ủy thác đầu tư trong hoạt động của các công ty tài chính về cơ bản có nhiều thuận lợi. - Chất lượng thẩm định dự án: để cung cấp một dịch vụ ủy thác đầu tư tốt các công ty tài chính cần có những dự án đầu tư tốt để thu hút vốn ủy thác đầu tư của khách hàng. Nghĩa là, công tác thẩm định dự án đầu tư phải kỹ lưỡng và có chất lượng. Một dự án được xét duyệt vào danh mục đầu tư của công ty cần phải được tiến hành rà soát, kiểm tra,thẩm định một cách khoa học, khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án,các yếu tố liên quan đến dự án( điều kiện kinh tế-xã hội, kỹ thuật, tài chính). Tất cả các công việc đó phải được tiến hành theo đúng qui trình nhằm khẳng định tính hiệu quả và khả thi của việc đầu tư. Như vậy chất lượng thẩm định dự án sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động ủy thác đầu tư từ đó tác động đến việc quyết định ủy thác đầu tư của khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng mời chào ủy thác đầu tư và các điều khoản trong hợp đồng ủy thác…. - Chất lượng nhân sự: Con người luôn là nhân tố quan trọng trong mọi lĩnh vực, không phải ngẫu nhiên mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng đề cao yếu tố nhân lực khi muốn duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Ủy thác đầu tư là một loại hình dịch vụ mà chất lượng của hoạt động này không chỉ đòi hỏi ở những quy trình khoa học, logic mà còn đòi hỏi chuyên viên thực hiện nghiệp vụ này phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu khách hàng, trình độ chuyên môn vững vàng mới có thể thẩm định và quản lý tốt các dự án hiện thời, đồng thời tím kiếm được các dự án,các cơ hội đầu tư mới hấp dẫn hơn. Chuyên viên thực hiện dịch vụ này cũng cần có sự nhạy bén, năng động để ứng phó kịp thời với những biến động khôn lườn của thị trường tài chính, những thay đổi trong chính sách pháp luật, những tiến bộ trong công nghệ. Một đội ngũ chuyên viên, cán bộ lành nghề như vậy sẽ giúp cho chất lượng của dịch vụ ủy thác đầu tư nói riêng và hiệu quả đầu tư của toàn công ty nói chung được nâng cao. - Hoạt động marketing: trong một thị trường tự do cạnh tranh ngày càng khốc liệt và gay gắt như ngày nay, một công ty hay một loại hình dịch vụ muốn tồn tại được thì bản thân các công ty và loại hình dich vụ đó phải tiếp thị mình đến với các khách hàng, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và marketing đảm nhận nhiệm vụ đó. Bộ phận marketing có chức năng kết nối mọi hoạt động của công ty tài chính nói chung và dịch vụ ủy thác đầu tư nói riêng ra thị trường. Đối với loại hình dịch vụ tài chính như ủy thác đầu tư thì phải coi thị trường làm chỗ dựa vững chắc nhất cho quyết định kinh doanh. Chiến lược marketing tốt sẽ giúp các công ty tài chính xác định được thị trường mục tiêu cho sản phẩm của mình từ đó hoàn thiện dịch vụ ủy thác đầu tư để có thể đáp ứng nhu cầu thị trường tốt hơn các đối thủ cạnh tranh của mình. Nâng tầm vị thế và uy tín của công ty, tăng sự nối tiếng của dịch vụ ủy thác mà công ty cung cấp, tăng thêm mức độ trung thành của các khách hàng hiện tại và thu hút các khách hàng tiềm năng chính là nhờ vào một công tác marketing tốt. 1.2.4.2.Nhân tố khách quan. - Sự phân cấp đầu tư: Hướng phát triển của dịch vụ ủy thác đầu tư của công ty tài chính độc lập phụ thuộc vào mức độ ưu tiên đầu tư của toàn công ty, đối với các công ty tài chính mà tập đoàn nắm phần vốn góp chi phối thì dịch vụ đó phụ thuộc vào chính sách đầu tư chung của toàn khối tập đoàn,sự phân cấp trong đầu tư. Với các dự án mà tập đoàn phê duyệt, là trong tâm trong chiến lược đầu tư của tập đoàn( thường là các dự án trong ngành) thì các công ty tài chính luôn phải dành một phần vốn nhất định ưu tiên cho các dự án này. Vì vậy đối với các công ty tài chính 100% vốn của tập đoàn thì dịch vụ ủy thác đầu tư còn bị hạn chế phát triển ra bên ngoài. - Tình hình kinh tế- xã hội: Tình hình kinh tế xã hội là những nhân tố tác động không nhỏ đến hoạt động đầu tư, hiệu quả của dịch vụ ủy thác đầu tư. Trong điều kiện kinh tế thuận lợi, tình hình sản xuất kinh doanh tiến triển tốt sẽ tác động tích cực đến hiệu quả đầu tư và kéo theo đó là kích thích cho dịch vụ ủy thác phát triển.Ngược lại nếu tình hình kinh tế,tài chính không thuận lợi sẽ làm mức độ rủi ro trong đầu tư tăng lên ảnh hưởng xấu đến hoạt động ủy thác đầu tư của các công ty tài chính. Đây là những tác động khách quan, không thể tránh khỏi, đòi hỏi các công ty tài chính có khả năng dự báo tốt để hạn chế tối đa những tác động xấu của thị trường đến hoạt động đầu tư của mình. - Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý được hiểu là tất cả những văn bản pháp luật, những quy chế pháp lý liên quan đến nghiệp vụ ủy thác đầu tư nói riêng và hoạt động đầu tư nói chung. Những văn bản này tạo nên một khung pháp lý để điều chỉnh và kiểm soát các hoạt động. Nó mang tính cưỡng chế, tính bắt buộc, đòi hỏi nhà cung ứng dịch vụ ủy thác và khách hàng( bên thụ thác) đều phải tuân theo vô điều kiện. Ngược lại, môi trườn pháp lý hoàn thiện sẽ bảo vệ lợi ích công bằng cho các bên tham gia và khuyến khích phát triển nghiệp vụ. Chương II Thực trạng hoạt động ủy thác đầu tư của Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí. 2.1. Giới thiệu chung về Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí. 2.1.1. Sự ra đời của Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu khí. Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí(PVFC) là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng và là đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam(Petro Vietnam-PV). Tên tiếng Việt: Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam Tên tiếng Anh: Petrovietnam Finance Joint Stock Corporation. Tên viết tắt: PVFC Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí được thành lập theo quyết định số 04/2000/QĐ-VPCP ngày 30 tháng 3 năm 2000 của Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng chính phủ. Công ty bắt đầu hoạt động từ ngày 01 tháng 12 năm 2000 theo cấp Giấy phép hoạt động số 12/GP-NHNN ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 456/2000/ QĐ- NHNN và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở kế hoạch và Đầu tư cấp. PVFC bắt đầu thành lập với 100% vồn ban đầu của Tập đoàn Dầu khí Quốc Gia. Ngành nghề kinh doanh chính của PVFC là: huy động vốn, cho vay,thu xếp vốn cho các dự án đầu tư, nhận ủy thác và quản lý vồn , cung cấp các dịch vụ tài chính cho các đơn vị thành viên của Tập đoàn Tài chính Dầu khí Quốc gia và các tổ chức tài chính( chiết khấu các giấy tờ có giá, mua bán ngoại tệ,…) PVFC có trụ sở chính tại 72 Trần Hưng Đạo,Hoàn Kiếm,Hà Nội. PVFC có tài khoản và con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, được cấp vốn điều lệ, hạch toán độc lập, tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Vốn điều lệ tại thời điểm thành lập là 100 tỷ đồng, thời hạn hoạt động là 50 năm. 2.1.2.Chức năng và nhiệm vụ của Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí Việt Nam(PVFC) Công ty tài chính và ngân hàng thương mại về cơ bản có vị trí trung gian trên thị trường tài chính, giữ một vai trò quan trọng trong quá trình luôn chuyển nguồn vốn từ nơi có vồn sang nơi cần vốn và Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí VN (PVFC) cũng có chức năng và nhiệm vụ như vậy. Giống như các ngân hàng thương mại, PVFC giúp huy động nguồn vốn để phục vụ đầu tư mà cụ thể là phục vụ nhu cầu đầu tư của Tập đoàn Tài chính Dầu khí Quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hỗ trợ hoạt động bán hàng,cung cấp dịch vụ, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, điểm khác biệt căn bản trong hoạt động của PVFC so với các ngân hàng thương mại ở chỗ: PVFC không được thực hiện các hoạt động thanh toán, không được nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư. PVFC thực hiện nhiệm vụ là trung tâm tài chính tiền tệ và công cụ quản lý đầu tư tài chính của Tập đoàn. Thực hiện các nhiệm vụ do Tập đoàn ủy quyền như: phát hành trái phiếu dầu khí trong và ngoài nước, quản lý và vận hành hiệu quả các nguồn vốn ủy thác của Tập đoàn, quản lý dự án….Nâng cao chất lượng dịch vụ và thực hiện thu xếp vốn cho mọi dự án đầu tư phát triển của Tập đoàn và tạo ra các sản phẩm tài chính phục vụ CBCNV ngành dầu khí. 2.1.3.Nguyên tắc điều hành Tổng Công ty Cổ phần Tài chính Dầu khí VN trong mô hình Tập đoàn Dầu khí. Tuy là đơn vi hạch toán độc lập nhưng PVFC còn phải chịu nhiều sự chi phối từ Tập đoàn Dầu khí như các quyết định về đầu tư, phân bổ nguồn vốn. Vì vậy, bộ máy quản lý PVFC còn khá cồng kềnh, nhiều cấp và các bộ phận chưa có sự gắn kết và phối hợp nhuần nhuyễn với nhau trong quản lý. Ngoài sự quản lý của Tập đoàn Tài chính Dầu khí Việt Nam, PVFC còn chịu sự quản lý chung của Hiến pháp, Luật các tổ chức tín dụng, nghị định hướng dẫn hoạt động của công ty tài chính. Ngân hàng Nhà nước quản lý PVFC về phạm vi và nội dung hoạt động. Giám đốc của PVFC do Tập đoàn PV bổ nhiệm theo tiêu chuẩn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Một số hoạt động như bao thanh toán, kinh doanh ngoại hối ….của PVFC phải đước sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Do còn bị chi phối bởi nhiều cấp quản lý, PVFC bị đã hạn chế nhiều trong hoạt động kinh doanh của mình và đây cũng là một trong những khó khăn của PVFC. 2.1.4.Cơ cấu tổ chức và chức năng của các phòng ban trong Tổng công ty cổ phần tài chính Dầu khí (PVFC) PVFC là đơn vị thành viên, một định chế của Tập đoàn tài chính dầu khí Quốc Gia Việt Nam, thực hiện ủy quyền của Tập đoàn về đầu tư tài chính và quản trị vốn đầu tư. PVFC hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó: Công ty mẹ là PVFC, hệ thống các công ty con là các công ty cổ phần chuyên ngành trong các lĩnh vực đầu tư tài chính, bất động sản, quản lý quỹ, truyền thông và một số công ty TNHH 1 thành viên tài chính khu vực. Ngoài ra PVFC còn góp vốn vào một số công ty liên kết. Việc thành lập các công ty con độc lập và chuyên ngành nhằm thu hút thêm nguồn vốn và lao động bên ngoài, mở rộng lĩnh vực và địa bàn hoạt động, nâng cao năng lực quản lý và phân tán rủi ro trong hoạt động của công ty mẹ, đồng thời nâng cao tính chuyên sâu, năng động và độc lập trong hoạt động kinh doanh của PVFC. PVFC sẽ tăng cường mở rộng các mạng lưới hoạt động trong các khu vực tỉnh thành trên cả nước: Thanh Hóa, Quảng Ninh, Huế, Vũng Tàu….và thành lập một số chi nhánh,văn phòng đại diện ở nước ngoài phục vụ cho hoạt động đầu tư nước ngoài của Tập đoàn và kết nối với các trung tâm tài chính quốc tế. Sơ đồ công ty cổ phần tài chính Dầu khí Việt Nam(Công ty Mẹ)(2.1) Trong giới hạn của bài viết này, người viết chỉ đề cập đến chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban có liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ ủy thác đầu tư. 2.1.4.1. Chức năng nhiệm vụ của Ban đầu tư. Ban đầu tư của PVFC là bộ phận kinh doanh ,có nhiệm vụ tổ chức tổng hợp phân tích nghiên cứu thông tin thị trường để tham mưu cho ban giám đốc về định hướng đầu tư của PVFC, trên cơ sở phát triển cả tập đoàn dầu khí. Triển khai nghiên cứu, thực hiện các dự án đầu tư đã được phê duyệt,thực hiện kinh doanh chứng từ có giá, đầu tư cổ phần… 2.1.4.2.Chức năng nhiệm vụ của Phòng Quản lý vốn ủy thác đầu tư. Là bộ phận kinh doanh của PVFC có chức năng thực hiện hoạt động kinh doanh dưới hình thức nhận ủy thác, ủy quyền. Chức năng: phòng quản lý vốn ủy thác đầu tư là phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu và giúp việc cho giám đốc trong công việc nghiên cứu, tổ chức triển khai huy động và quản lý nguồn vốn ủy thác đầu tư của các tổ chức & cá nhân trong nước, ngoài nước. Nhiệm vụ: Tổ chức nghiên cứu và triển khai qui trình nhận vốn ủy thác đầu tư từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Tư vấn đầu tư vốn ủy thác cho các cá nhân và tổ chức Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư của Tổng công ty sao cho hiệu quả nhất. Phân tích hiệu quả đầu tư, chính sách đầu tư của Tổng công ty Định kỳ tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả từng mặt công tác,hoàn thiện qui trình nghiệp vụ. Phối hợp với các đơn vị chức năng khác trong công ty thực hiện nhiệm vụ chung. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Cơ cấu tổ chức gồm: Tổ huy động vốn ủy thác đầu tư trong nước. Tổ huy động vốn ủy thác đầu tư Quốc tế. Tổ tổng hợp quản lý danh mục đầu tư. 2.1.5. Các sản phẩm dịch vụ tài chính của tổng công ty TCDK 2.1.5.1.Dịch vụ với tư cách là trung gian tài chính trên thị trường tài chính tiền tệ. Với tư cách là tổ chức tín dụng phi ngân hàng PVFC thực hiện các nghiệp vụ sau:huy động vốn, cho vay,kinh doanh tiền tệ,đầu tư tài chính… Huy động vốn: - Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước - Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành; - Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế; - Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Trong năm đầu tiên hoạt động, số vốn huy động tại thời điểm 31/12/2001 là 255,7 tỷ đồng và đến 31/12/2002 là 1074 tỷ đồng, gấp 4 lần so với năm trước. Các năm về sau tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tăng khoảng từ 3-4 lần năm trước và có những giai đoạn tăng đột biến. Cơ cấu của nguồn vốn huy động năm 2005 gồm có: Bảng biểu 2.2 Đơn vị: tỷ đồng Huy động từ tổ chức tín dụng Tiết kiệm từ cán bộ công nhân viên Các tổ chức kinh tế Hệ thống tài khoản trung tâm của PV Ủy thác 180 22 26.3 48 798 Biểu đồ 2.3 Cho vay: - Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước: PVFC không được cho vay mỗi khách hàng vượt quá 15% vốn tực có của PVFC, nếu vượt quá, PFVC được phép thực hiện đồng tài trợ với các tổ chức tín dụng khác. - Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác. - Cho vay theo tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp. Số dư cho vay liên tục tăng trưởng qua các năm, tốc độ tăng trung bình từ 5-6 %/ năm. Năm 2001 đạt 170,9 tỷ đồng, năm 2002 đạt 931 tỷ đồng, tăng 5,5 lần so với năm 2001.Năm 2003 đạt 1600 tỷ đồng tăng 1,7 lần so với 2001.Năm 2006 đạt 5325 tỷ đồng tăng gấp 31 lần so với 2001. Biểu đồ 2.4 Biểu đồ giá trị cho vay qua các năm của PVFC Hoạt động bảo lãnh. PVFC được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính Dầu khí phải được theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay PVFC thực hiện các hình thức bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh bảo hành và các loại bảo lãnh khác. Tuy số lượng hợp đồng bảo lãnh tăng lên nhưng đối tượng khách hàng chủ yếu vẫn là những người có quan hệ tín dụng với PVFC. Biểu đồ 2.5 Hoạt động bao thanh toán : Được thực hiện dưới hình thức chiết khấu chứng từ trên cơ sở PVFC tài trợ tín dụng cho cá nhân và tổ chức đó. Theo đó PVFC mua lại các khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh từ việc bán hàng trả chậm và cấp tín dụng cho các doanh nghiệp đó. Bao thanh toán là nghiệp vụ khá mới nên hiện đang từng bước được hoàn thiện. Hoạt động đầu tư tài chính: Hoạt động đầu tư dự án: Hiện nay hoạt động này đã đi vào ổn định và đã hoàn thành một số dự án như: Trạm phân phối LPG Mỹ Đình 2, dự án sông Hồng Gas, dự án tàu EPSO… Hoạt động kinh doanh tài chính tiền tệ: kinh doanh chứng khoán, mua giấy chứng từ có giá, mua cổ phần, mua bán nợ. 2.1.5.2.Dịch vụ với tư cách là định chế tài chính của tập đoàn Dầu khí QG(PV) Thu xếp vốn tín dụng cho các dự án đầu tư Trong các năm qua hoạt động thu xếp vốn cho dự án là thế mạnh của PVFC. PVFC đóng vai trò vừa là người thay mặt bên cho vay tìm kiếm các dự án, đại diện cho bên đi vay ký hợp đồng tín dụng. Năm 2003, PVFC đã thu xếp vốn cho được 30 dự án đạt giá trị là 5100 tỷ đồng trong đó tham gia đồng tài trợ với 12 Ngân hàng thương mại. Phát hành trái phiếu trong và ngoài nước cho PV với tổng giá trị hàng trăm triệu USD. Nhận ủy thác và quản lý vốn cho các đơn vị thành viên PV,cán bộ công nhân viên của PV. Năm 2001, PVFC nhận uỷ thác đầu tư cho Vietsopetro và đem lại doanh thu 5,4 tỷ. Năm 2002 PVFC kí thêm 3 hợp đồng tư vấn lập phương án tài chính cho các đơn vị thành viên. Năm 2006, 2007 các hợp đồng ủy thác của đơn vị thành viên luôn tăng lên không ngừng cả về lượng và chất, không kể hàng trăm hợp đồng ủy thác của CBCNV của PV. 2.2. Dịch vụ ủy thác đầu tư của Tổng công ty cổ phần Tài chính Dầu Khí 2.2.1. Vai trò dịch vụ ủy thác đầu tư trong hoạt động của của Tổng công ty TCDK. Dịch vụ ủy thác đầu tư tuy đã có từ rất lâu trên thế giới song ở Việt Nam, loại hình này mới chỉ xuất hiện trong mấy năm gần đây. Tổng công ty Tài chính Dầu khí là đơn vị đi tiên phong trong việc cung cấp dịch vụ này. Dịch vụ ủy thác đầu tư ra đời không chỉ giúp đa dạng hóa các danh mục sản phẩm dịch vụ của PVFC mà còn hỗ trợ cho việc huy động vốn, hỗ trợ cho hoạt động đầu tư và tài trợ dự án của PVFC. Càng ngày ủy thác đầu tư càng chứng tỏ tầm quan trọng của mình trong tổng thể các hoạt động tài chính của PVFC- một công ty tài chình có uy tín.Vai trò quan trọng đó được thể hiện qua một số chỉ tiêu sau: Nguồn vốn ủy thác trong tổng nguồn huy động. Bảng biểu 2.6 Đơn vị:triệu đồng Chỉ tiêu 2,004 2,005 2,006 2,007 2,008 Số tiền Tỷ lệ số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ Tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tài chính khác 1 510 38.7% 2 613 40.2% 4 302 26.0% 13 000 29.3% 20 250 29.9% Tiền gửi và tiền vay của các khách hàng cá nhân 140 3.6% 110 1.7% 447 2.7% 785 1.8% 1 200 1.8% Nguồn vốn ủy thác 1 654 42.4% 3 623 55.7% 7 825 47.3% 28 350 63.9% 41 800 61.8% Phát hành giấy tờ có giá 665 4.0% 1 800 4.1% 3 665 5.4% Các khoản phải trả khác 593 15.2% 159 2.4% 3 318 20.0% 410 0.9% 770 1.1% Tổng 3 897  100% 6 505 100% 16 557 100% 44 345 100% 67 685 100% Nguồn: Báo cáo tài chính và phương án cổ phần hóa Qua bảng số liệu trên ta thấy, nguồn vốn huy động được từ dịch vụ ủy thác đầu tư luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động được qua các năm, tỷ lệ này luôn chiếm từ 40% đến 60%. Trong đó, nguồn ủy thác vốn lớn là tự các tổ chức kinh tế, tiếp đến là tiền gửi, tiền vay các tổ chức tín dụng. Số dư huy động vốn của PVFC chủ yếu vẫn là nhận ủy thác từ các tổ chức kinh tế và phụ thuộc quá lớn vào một số khách hàng truyền thống như VSP,PTSC, Bộ Tài chính. Do vậy trong những năm tới, hoạt động huy động vốn của PVFC cần mở rộng nhiều hơn nữa đối tượng khách hàng nhưng dự kiến tỷ trọng nguồn vốn huy động từ ủy thác vẫn chiếm nguồn lớn bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất, PVFC là một công ty tài chính trực thuộc tập đoàn, đi vào hoạt động mới được hơn 7 năm nên qui mô nguồn vốn tự có còn hạn hẹp, mới chỉ đạt 1000 tỷ VNĐ, mặt khác theo Luật hiện hành PVFC không được sử dụng quá 40% vốn điều lệ cho các hoạt động đầu tư và tất yếu điều này gây hạn chế không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của PVFC. Thứ hai, nếu sử dụng nguồn vốn tự có hoặc nguồn từ quỹ đầu tư phát triển đều phải thông qua Tập đoàn,thời gian xét duyệt kéo dài làm lỡ mất cơ hội đầu tư, thêm vào đó,PVFC cũng không được sử dụng 2 nguồn này cho hoạt động đầu tư vào dự án ngoài ngành bởi vậy việc mở rộng hoạt động đầu tư không thể trông chờ bằng 2 nguồn vốn này. Thứ ba, đối với nguồn vốn nhận ủy thác đầu tư, PVFC có toàn quyền quyết định nhận vốn và đem đi đầu tư cho các dự án trong và ngoài ngành nên thông qua dịch vụ ủy thác đầu tư này PVFC vừa có thể huy động nguồn vốn lớn , vừa có thể sử dụng nó một cách linh hoạt và chủ động cho hoạt động đầu tư và kinh doanh của mình. Từ những lý do trên,ta thấy được tầm quan trọng của nghiệp vụ ủy thác đầu tư của PVFC đối với hoạt động của toàn tổng công ty. Ủy thác đầu tư là hoạt động tiềm năng của PVFC. Doanh thu từ nguồn ủy thác đầu tư qua các năm của PVFC Bảng biểu 2.7 Đơn vị : triệu đồng Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu từ UTĐT 110 180 2 239 28 194 112 134 Biểu đồ 2.8 Nguồn: phòng Quản lý vốn ủy thác đầu tư 2.2.2. Các loại hình ủy thác đầu tư của công ty TCDK Tuỳ theo cơ chế phân chia kết qủa kinh doanh và mức chấp nhận rủi ro trong từng cơ hội đầu tư cụ thể, khách hàng có thể lựa chọn một trong các hình thức Uỷ thác đầu tư  dưới đây:       2.2.2.1.Ủy thác đầu tư lợi tức cố định. Là hình thức khách hàng ủy thác vốn cho PVFC đồng thời ủy quyền PVFC thay mặt khách hàng đầu tư và quản lý khoản đầu tư theo danh mục của PVFC và được hưởng một mức lợi tức cam kết cố định từ khoản đầu tư QĐ số 2711 và 1711/2007/QĐ-TCDK . PVFC có toàn quyền đầu tư khoản tiền đó vào các lĩnh vực không trái với Pháp luật. PVFC sẽ gánh chịu 100% rủi ro trong quá trình sử dụng nguồn này để đầu tư. Trong trường hợp hiệu quả của khoản đầu tư ủy thác mang lại cao hơn mức lợi tức cam kết cố định,khách hàng được hưởng phần thưởng từ chia sẻ kết quả ủy thác đầu tư theo mức đã thỏa thuận tại Hợp đồng ủy thác đầu tư. Việc xác định phần thưởng ủy thác đầu tư phải theo nguyên tắc: mức lợi tức cố định cam kết thấp thì tỷ lệ chia sẻ phần thưởng cho khách hàng cao và ngược lại. Thời hạn ủy thác đầu tư của sản phẩm này là thời hạn nhận ủy thác đầu tư được xác định theo phương án nhận ủy thác đầu tư trình Tổng giám đốc công ty xem xét quyết định Đối với loại sản phẩm này, phương án sử dụng vốn được xây dựng riêng cho từng nguồn UTĐT có thời hạn khác nhau và không phải xin phê duyệt của Tổng công ty khi quyết định đầu tư. Mục đích của việc huy động nguồn vốn ủy thác này là để giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư, do đó phải được đem đầu tư vào các dự án sinh lời cao.  Đối với nguồn UTĐT có thời gian ủy thác dài từ 5 – 10 năm được sử dụng để đầu tư vào các dự án( dự án đóng tàu, công trình xây dựng) và góp vốn vào các Công ty cổ phần mới thành lập. Trong trường hợp có sự chênh lệch về kỳ hạn nhận ủy thác đầu tư và vòng đời của dự án thì rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra. Để phòng ngừa điều này, một khoản lãi và gốc của các chứng từ có giá đang nắm giữ sẽ được PVFC sử dụng để đảm bảo khả năng thanh toán. Bên cạnh những nguồn ủy thác đầu tư có thời gian từ 5- 10 năm là các nguồn ủy thác có kỳ hạn 2 năm sẽ được sử dụng để đầu tư chứng từ có giá ngắn hạn hoặc kinh doanh cổ phiếu trên thị trường phi tập trung ( OTC). Trong năm 2006 - 2007, công ty chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Agriseco đã ủy thác chỉ định mục đích cho PVFC 15 tỷ VNĐ để đầu tư. Tuy đây là nguồn vốn dồi dào cho các dự án song rủi ro vẫn có thể xảy ra trong các trường hợp sau: Nếu quy trình rút vốn UTĐT chỉ định ra và đưa vốn UTĐT vào không xảy ra tương thích sẽ dẫn đến tình trạng kẹt vốn. Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn UTĐT này đòi hỏi phải trả một mức lãi suất theo định kỳ cho bên ủy thác, nếu như khả năng sinh lời của dự án hạn chế thì thu nhập từ đầu tư vào dự án và phí ủy thác sẽ không đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Việc quản lý dự án, giám sát quá trình đầu tư chính là nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư của nguồn vốn. Như trên đã nói nguồn ủy thác đầu tư này thường dùng làm nguồn vốn tiên phong đổ vào các dự án, “mở đường” cho các nguồn ủy thác khác. Nhưng khi nguồn vốn ủy thác chỉ định lĩnh vực này được rút ra không phải lúc nào cũng có các dự án chờ sẵn trong khi PVFC vẫn luôn phải trả một chi phí cố định cho nguồn này theo định kỳ. Giải quyết vấn đề đó,PVFC đã kết hợp với mảng dịch vụ kinh doanh giấy tờ có giá, tức là nguồn vốn ủy thác chỉ định mục đích sau khi được rút ra, trong lúc chờ dự án mới để đầu tư sẽ được sử dụng để đầu tư vào giấy tờ có giá trong ngắn hạn nhằm bù đắp chi phí vốn. PVFC cũng đang xây dựng phương án tái ủy thác để hưởng chênh lệch % giữa chi phí ủy thác thu được và chi phí vốn bỏ ra. 2.2.2.2.Ủy thác đầu tư có chỉ định không chia sẻ rủi ro Là hình thức khách hàng ủy thác vốn cho PVFC để PVFC thay mặt khách hàng đầu tư và quản lý khoản đầu tư theo chỉ định của khách hàng trong danh mục đầu tư của PVFC. Trong đó, thỏa thuận khách hàng sẽ được hưởng toàn bộ thu nhập từ khoản đầu tư đồng thời phải chịu toàn bộ rủi ro(nếu có). Thời hạn ủy thác đầu tư đối với hình thức sản phẩm ủy thác đầu tư không chia sẻ rủi ro được quy định mức thời hạn tối thiểu hoặc không xác định. Đối với loại hình sản phẩm này, thu nhập của PVFC là phí ủy thác đầu tư. 2.2.2.3.Ủy thác đầu tư có chỉ định chia sẻ rủi ro Là hình thức khách hàng ủy thác vốn cho PVFC để PVFC thay mặt khách hàng đầu tư và quản lý khoản đầu tư theo chỉ định của khách hàng trong danh mục đầu tư của PVFC. Trong đó có điều kiện về chia sẻ phần thưởng từ thu nhập của khoản đầu tư khi khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư đạt từ mức kỳ vọng trở lên. Đối với hình thức sản phẩm này, thu nhập của PVFC là phí ủy thác và phần thưởng chia sẻ kết quả ủy thác đầu tư theo cam kết tại Hợp đồng ủy thác đầu tư. Thời hạn ủy thác đầu tư đối với hình thức sản phẩm ủy thác đầu tư có chia sẻ rủi ro bằng thời gian tồn tại của sản phẩm đó(bằng đời dự án hoặc thời hạn sản phẩm theo phương án nhận ủy thác đầu tư) Việc lựa chọn hình thức sản phẩm nhận ủy thác đầu tư có chia sẻ rủi ro được xác định dựa trên các tiêu chí sau: Tính hấp dẫn của khoản đầu tư ủy thác cao. Lợi tức đem lại của khoản đầu tư lớn. Đối tượng khách hàng ủy thác đầu tư phù hợp. Biểu đồ 2.9 Uỷ thác đầu tư lãi suất cố định Uỷ thác đầu tư có chỉ định cùng chia sẻ rủi ro Uỷ thác đầu tư có chỉ định, không chia sẻ rủi ro. 1. Thời hạn UTĐT (T) T ³ 12 tháng T ³ 12 tháng hoặc Theo thời gian hoạt động của dự án hoặc công ty T ³ 12 tháng hoặc Theo thời gian hoạt động của dự án hoặc công ty 2. Phí UTĐT --- Có phí Có phí 3. Lãi khách hàng UTĐT được hưởng Lãi suất cố định hoặc Lãi suất thả nổi Lợi tức hưởng định kỳ hàng năm Theo kết quả kinh doanh của hoạt động đầu tư. Lợi tức hưởng định kỳ hàng năm Theo kết quả kinh doanh của hoạt động đầu tư. Lợi tức hưởng định kỳ hàng năm 4. Rủi ro của khách hàng 0 Khách hàng và PVFC cùng chia sẻ Khách hàng chịu hoàn toàn rủi ro 5. Tính thanh khoản Không được rút vốn trước hạn Được quyền chuyển nhượng cho người thứ 3 Được chuyển nhượng cho bên thứ 3 hoặc PVFC Được chuyển nhượng cho bên thứ 3 hoặc PVFC 6. Quyền cầm cố vay vốn tại PVFC Được cầm cố vay vốn  theo các điều khoản thoả thuận cụ thể. Được Có thể được cầm cố vay vốn (tuỳ từng cơ hội đầu tư cụ thể). 7. Giá trị khách hàng thu được tại thời điểm kết thúc HĐ UTĐT Vốn UTĐT ban đầu Vốn UTĐT ban đầu bằng tiền mặt hoặc bằng cổ phiếu khách hàng đã Uỷ thác. Một phần vốn UTĐT tăng thêm hoặc cổ phiếu thưởng theo cơ chế phân chia kết quả đầu tư quy định tại HĐ UTĐT. Vốn UTĐT ban đầu bằng tiền mặt hoặc bằng cổ phiếu khách hàng đã Uỷ thác. 100% vốn UTĐT tăng thêm hoặc cổ phiếu thưởng theo kết quả đầu tư thực tế. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu khách hàng, PVFC còn phân chia các hình thức ủy thác đầu tư theo các loại hình sau: Biểu đồ 2.10 STT Các loại hình dịch vụ Khách hàng cá nhân Khách hàng tổ chức Chưa áp dụng Đã áp dụng Chưa áp dụng Đã áp dụng 1 UTĐT chỉ định lĩnh vực lãi suất cố định X X 2 UTĐT chỉ định, chia sẻ rủi ro X X 3 UTĐT chỉ định,không chia sẻ rủi ro, góp vốn chậm X X 4 UTĐT trước đấu giá X X Nếu trong giai đoạn từ năm 2005 đến đầu năm 2007, đầu tư vào cổ phiếu, đặc biệt là các cổ phiếu blue-chip ngành Dầu khí sẽ mang lại cho PVFC và khách hàng ủy thác một khoản lợi nhuận đáng kể từ 14%-15% thậm chí nhiều hơn thế. Đặc biệt là sản phẩm ủy thác đầu tư trước đấu giá đã thực sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng lúc bấy giờ. Với sản phẩm ủy thác đầu tư trước đấu giá, khách hàng (bên ủy thác cho PVFC) chỉ mất một khoản tiền đặt cọc và sẽ được PVFC đứng gia đấu giá mua cổ phần, thu xếp và ứng trước 1 tỷ lệ vốn nhất định nếu khách hàng yêu cầu. Sản phẩm này đã giúp PVFC cạnh tranh tốt hơn với các Công ty chứng khoán và các Công ty tài chính khác. PVFC đã thực hiện thành công đấu giá mua cổ phần trong đợt IPO của Vietcombank, Sabeco…với tỷ lệ trúng thầu cao. Song từ trong thời gian từ giữa năm 2007 trở lại đây, thị trường chứng khoán đang trên đà xuống dốc, mệnh giá của các cổ phiếu trên thị trường sụt giảm mạnh, cổ phiếu đã không còn là kênh đầu tư sinh lời nhiều như trước trong khi đầu tư cổ phiếu là hoạt động chủ yếu của dịch vụ ủy thác đầu tư,vì vậy, PVFC phải luôn linh hoạt trong việc xây dựng danh mục đầu tư cho nguồn ủy thác không chỉ định mục đích và đồng thời đa dạng hóa các loại hinh đầu tư để giảm thiểu r._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7909.doc
Tài liệu liên quan