Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC)

Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC): Lời mở đầu Kinh nghiệm thế giới cho thấy để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu qủa và phát triển thì vai trò của công ty chứng khoán trong việc tư vấn chứng khoán cho khách hàng là một trong những khâu quan trọng cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư trên thị trường. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam đã từng bước đi vào hoạt động ổn định, vai trò của các công ty chứng khoán cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, việc tư vấn cho khách hàng tại các công ty chứng khoán hiện nay vẫn... Ebook Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC)

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn nhiều hạn chế đối với doanh nghiệp,nhà đầu tư cũng như các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đồng thời đây vẫn còn là một lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với công ty chứng khoán Việt Nam, nếu chúng ta không sớm tổ chức được một hệ thống chuẩn mực nghiệp vụ tư vấn cho các công ty chứng khoán một cách chính xác và kịp thời đến doanh nghiệp và nhà đầu tư thì không những không đảm bảo được kết quả hoạt động của thị trường chứng khoán mà còn khó lấy được lòng tin của công chúng đầu tư tham gia thị trường. Vì vậy, một đòi hỏi cấp thiết của thị trường chứng khoán là cần có những công ty chứng khoán làm nhiệm vụ tư vấn, giúp đỡ về chuyên môn cho các thành phần tham gia thị trường. Xuất phát từ lý do trên, đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC)” được lựa chọn với mục tiêu nghiên cứu cách thức thực hiện hoạt động tư vấn và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn cho các công ty chứng khoán. Chuyên đề được chia làm 3 phần: Chương 1: Hiệu quả hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động tư vấn của BVSC Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của BVSC Chương 1: Hiệu quả hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán (CTCK) 1.1. Hoạt động tư vấn của CTCK 1.1.1. Khái quát về CTCK Khái niệm Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. Tại Việt Nam, theo quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán quy định: “Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán…” Chức năng và vai trò của CTCK Trên thị trường chứng khoán, CTCK có 3 chức năng cơ bản sau: * Tạo cơ chế huy động vốn bằng cách làm cầu nối gặp gỡ giữa những người có tiền nhàn rỗi với những người cần vốn. * Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch. * Tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Là một tổ chức trung gian, CTCK đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của TTCK. Đối với mỗi chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, vai trò của các CTCK cũng được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau. + Đối với tổ chức phát hành Trên lý thuyết, khi doanh nghiệp cần huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, họ có thể tự chào bán khối lượng chứng khoán đến các nhà đầu tư. Tuy nhiên, họ khó có thể làm tốt điều này bởi một lẽ họ không có bộ máy chuyên nghiệp. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Mặt khác nguyên tắc trung gian của TTCK không cho phép nhà đầu tư và nhà phát hành trực tiếp mua bán chứng khoán mà phải thông qua tổ chức trung gian mua bán. CTCK là một trung gian tài chính với vai trò huy động vốn, sẽ giúp tổ chức phát hành tìm được nhà đầu tư và phân phối chứng khoán đến tận tay những người có nhu cầu nắm giữ loại chứng khoán đó. Nhà đầu tư và tổ chức phát hành không phải mua bán trực tiếp chứng khoán với nhau, điều này giúp giảm chi phí huy động cho tổ chức phát hành. + Đối với nhà đầu tư Trên TTCK, giá cả các loại hàng hóa biến động thường xuyên. Trong khi đó các nhà đầu tư không phải ai cũng có đủ điều kiện, khả năng nắm bắt hoặc xử lý được các thông tin, diễn biến trên TTCK để đưa ra các quyết định đầu tư hiệu quả. Nhờ lợi thế của một tổ chức trung gian, chuyên môn hoá cao làm cầu nối cho các bên mua bán gặp nhau, các CTCK giúp cho nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí, thời gian, công sức trong từng giao dịch, giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường. + Đối với TTCK Trên thị trường sơ cấp, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, CTCK thực hiện xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành. Thông thường mức giá phát hành do các CTCK xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thỏa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành. Trên thị trường thứ cấp, CTCK có vai trò giúp nhà đầu tư đánh giá chính xác giá trị khoản đầu tư của mình. Toàn bộ các lệnh mua bán chứng khoán được tập hợp tại các thị trường giao dịch tập trung thông qua các CTCK, và trên cơ sở đó giá chứng khoán sẽ được xác định theo quy luật cung cầu. Ngoài ra, chính hoạt động tự doanh của các CTCK cũng góp phần điều tiết giá chứng khoán. Các CTCK thực hiện cơ chế giao dịch chứng khoán trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Từ đó, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. + Đối với cơ quan quản lý CTCK thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán, nắm giữ các tài khoản giao dịch của khách hàng, vì vậy nó có được thông tin về các giao dịch trên thị trường, thông tin về các loại cổ phiếu, trái phiếu, thông tin về tổ chức phát hành và nhà đầu tư... CTCK có nghĩa vụ phải cung cấp các thông tin đó cho các cấp có thẩm quyền khi có yêu cầu. Dựa vào nguồn thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể theo dõi giám sát toàn cảnh hoạt động trên TTCK để từ đó đưa ra các quyết định, chính sách đúng đắn, phù hợp, kịp thời đảm bảo cho thị trường diễn ra một cách trật tự, khuôn khổ và có hiệu quả. Điều kiện được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam * Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và phát triển ngành chứng khoán. * Có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho kinh doanh chứng khoán. * Có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Vốn pháp định thường được quy định củ thể cho từng loại hình nghiệp vụ. * Giám đốc, Phó giám đốc (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh của CTCK phải đáp ứng đầy đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCKNN cấp. * Giấy phép bảo lãnh phát hành chỉ được cấp cho công ty có giấy phép tự doanh. Quy định về vốn đối với công ty chứng khoán: Theo khoản 1 điều 18 Nghị định 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ quy định: Vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán, công ty chứng khoán có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là: - Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam; - Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam; - Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam; - Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của CTCK Môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Khi thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty. Trong trường hợp khách hàng của CTCK mở tài khoản lưu ký tại tổ chức lưu ký là ngân hàng thương mại hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài, CTCK có trách nhiệm hướng dẫn các thủ tục giao dịch, mua bán cho khách hàng và phải ký hợp đồng bằng văn bản với tổ chức lưu ký. Phí môi giới thường được tính phần trăm trên tổng giá trị của một giao dịch. Hiện nay có hai loại hình môi giới chứng khoán là môi giới chứng khoán niêm yết và môi giới chứng khoán chưa niêm yết. Môi giới chứng khoán niêm yết: Chứng khoán niêm yết là chứng khoán đáp ứng các yêu cầu về niêm yết theo quy định và được giao dịch tại SGDCK/TTGDCK. Việc môi giới chứng khoán niêm yết được thực hiện thông qua hệ thống tài khoản giao dịch chứng khoán theo quy trình giao dịch của SGDCK và TTGDCK. Mô hình giao dịch chứng khoán niêm yết hiện nay cụ thể như sau: 1.Khách hàng mở tài khoản giao dịch và đặt lệnh mua, bán chứng khoán. 2.CTCK kiểm soát số dư tiền và chứng khoán của khách hàng. 3.Chuyển lệnh cho đại diện giao dịch tại SGD/TTGDCK. 4.Đại diện giao dịch nhập lệnh vào hệ thống của SGD/TTGDCK. 5.SGD/TTGDCK thực hiện so khớp lệnh và trả kết quả về CTCK. 6.CTCK thông báo cho khách hàng kết quả giao dịch đã được thực hiện. Sơ đồ 1: Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết Môi giới chứng khoán chưa niêm yết: Chứng khoán chưa niêm yết là chứng khoán chưa thực hiện niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên SGD/ TTGDCK. Việc môi giới chứng khoán chưa niêm yết được CTCK thực hiện thông qua các hợp đồng ủy thác hoặc trung gian mua bán chứng khoán. Thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết đang đầy tiềm năng do hiện nay số lượng chứng khoán niêm yết còn rất nhỏ so với tổng số lượng chứng khoán chưa niêm yết. Tự doanh chứng khoán Đây là nghiệp vụ mà trong đó CTCK thực hiện mua và bán chứng khoán cho chính mình. Thông thường chức năng chính của CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư với thị trường. Người chơi chứng khoán sẽ phải đến các CTCK để thực hiện một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng khoán tại đó. Khi đã là thành viên của Trung tâm Lưu ký chứng khoán, CTCK sẽ phải mở tài khoản lưu ký của bản thân công ty tại Trung tâm này và đồng thời mở tài khoản lưu ký cho khách hàng của mình. Tất nhiên với dịch vụ này, CTCK sẽ thu được một mức phí nhất định. Song, với nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán chứng khoán như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải bằng tài khoản của khách hàng. Tuy nhiên đây là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhạy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của CTCK. Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực: Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty mình. Do CTCK với lợi thế về nghiệp vụ có thể dự đoán trước diễn biến của thị trường nên để đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng trước lệnh tự doanh của công ty. Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức mua chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định. Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên SGDCK và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK). Có thể thấy nghiệp vụ mua lô lẻ này tương tự với nghiệp vụ "xanhdica mua bao chứng khoán", chỉ khác là CTCK mua lẻ chứng khoán từ nhiều nhà đầu tư rồi niêm yết trên SGDCK và TTGDCK trong khi đó xanhdica mua bao hết chứng khoán của công ty mới phát hành. Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất của các CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, do nghiệp vụ tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích nên các nước thường quy định các CTCK phải tổ chức thực hiện hai nghiệp vụ ở hai bộ phận riêng biệt nếu CTCK đó thực hiện cả hai nghiệp vụ. Bảo lãnh phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết. Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành sau: * Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không. * Bảo lãnh cố gắng tối đa: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý phát hành cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng tối đa. Số chứng khoán còn lại nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành. Nhu vậy, kết quả của việc bán chứng khoán của tổ chức phát hành tùy thuộc vào khả năng, uy tín và sự lựa chọn nhà đầu tư của tổ chức bảo lãnh. * Bảo lãnh tất cả hoặc không: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải bán hết số chứng khoán dự định phát hành, nếu không phân phối hết sẽ hủy bỏ đợt phát hành. Theo phương thức này, không có một sự bảo đảm đợt phát hành có thành công hay không, nên UBCKNN thường quy định số chứng khoán mà nhà đầu tư đã mua trong thời gian chào bán sẽ được giữ bởi một người thứ ba để chờ kết quả cuối cùng của đợt phát hành. Nếu đợt phát hành không thành công thì nhà đầu tư sẽ được trả lại toàn bộ số tiền đặt cọc. * Bảo lãnh với hạn mức tối thiểu: là phương thức kết hợp giữa phương thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định. Nếu số lượng chứng khoán bán ra dưới hạn mức này thì đợt phát hành sẽ được hủy bỏ và toàn bộ tiền đặt cọc mua chứng khoán sẽ được trả lại cho nhà đầu tư. Đây là phương thức bảo lãnh tương đối hiệu quả, vừa bảo vệ lợi ích cho tổ chức phát hành, vừa hạn chế rủi ro cho tổ chức bảo lãnh. Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các CTCK. Điều này gây ra một số khó khăn cho các CTCK trong việc triển khai nghiệp vụ này. Thực tế chỉ có các CTCK lớn mới có thể thực hiện nghiệp vụ này vì người bảo lãnh phải có năng lực tài chính mạnh. Theo quy định thì vốn pháp định cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là 165 tỷ và CTCK phải có hoạt động tự doanh mới được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để dưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. CTCK sẽ nhận được phí hoa hồng cho công việc tư vấn của mình. Đối với các loại hình tư vấn khác, ví dụ như tư vấn pháp luật thì tính chính xác của lời khuyên là cần thiết và có khả năng diễn ra đúng trên thực tế. Tuy nhiên, đối với hoạt động tư vấn chứng khoán, do đặc điểm riêng trong ngành là giá cả thường luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này, các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán – việc này có thể do khả năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là hoạt động cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi thực hiện công việc. Các nghiệp vụ phụ trợ Trên đây là bốn nghiệp vụ chính chiếm tỷ trọng lớn trong doanh thu của CTCK. Ngoài ra, CTCK còn thực hiện các nghiệp vụ hỗ trợ giao dịch nhằm mục đích tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, đồng thời thúc đẩy các nghiệp vụ chính phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. * Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: là công việc đầu tiên để các chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường tập trung – việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán – được thực hiện thông qua các thành viên lưu ký của thị trường giao dịch chứng khoán. Lưu ký chứng khoán là một hoạt động rất cần thiết trên TTCK. Bởi vì trên TTCK tập trung, việc thanh toán các giao dịch diễn ra tại SGDCK và TTGDCK. Vì vậy, lưu ký chứng khoán một mặt giúp cho quá trình thanh toán tại SGDCK và TTGDCK được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng, mặt khác hạn chế rủi ro cho người nắm giữ chứng khoán như rủi ro bị rách, hỏng, thất lạc chứng chỉ chứng khoán… * Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. * Cho vay cầm cố chứng khoán: là một hình thức tín dụng mà trong đó người đi vay dùng số chứng khoán sở hữu hợp pháp của mình làm tài sản cầm cố để vay tiền nhằm mục đích kinh doanh, tiêu dùng… * Cho vay bảo chứng: là một hình thức tín dụng mà khách hàng vay tiền để mua chứng khoán, sau đó dùng chứng khoán mua được từ tiền vay để làm tài sản cầm cố khoản cho vay. * Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: là việc CTCK ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng ngay sau khi lệnh bán chứng khoán của khách hàng được thực hiện tại SGDCK hoặc TTGDCK. 1.1.3. Hoạt động tư vấn của CTCK Tư vấn là gì? Cho đến nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một định nghĩa độc tôn về hoạt động tư vấn. Có tài liệu định nghĩa vắn tắt: "Tư vấn là cung cấp những lời khuyên nghề nghiệp", "Tư vấn là cung cấp năng lực giải quyết vấn đề"... Tuy nhiên, quan niệm về bản chất và đặc điểm tư vấn thì khá thống nhất: + Tư vấn là hoạt động được cung cấp bởi các chuyên gia có trình độ và phẩm chất thích hợp (không phải có công ty tư vấn là trở thành nhà tư vấn). + Tư vấn là quá trình trao đổi thông tin hai chiều, giữa hai chủ thể có độc lập tương đối về tài chính và tổ chức (nhà tư vấn và người sử dụng tư vấn). + Người ta chỉ sử dụng tư vấn khi đứng trước một vấn đề cụ thể phải xử lý (ra quyết định hoặc hành động). Trong hoạt động tư vấn, mục tiêu luôn luôn xác định (trong khuôn khổ một quá trình thực tiễn xác định, với không gian, thời gian, nguồn lực và tình huống xác định). + Trong hoạt động tư vấn, người ta chỉ cung cấp thông tin, tri thức, giải pháp hoặc phương án hành động thích hợp. Nhà tư vấn không quyết định hoặc trực tiếp thực hiện. Từ các điểm đó có thể định nghĩa: tư vấn là hoạt động trong đó các chuyên gia tiến hành chọn lọc và cung cấp các thông tin, kiến thức, giải pháp hoặc phương án hành động được lựa chọn và xử lý thích hợp để giúp ích cho từng đối tượng cụ thể. Hoạt động tư vấn của CTCK Theo khái niệm trên thì có thể hiểu hoạt động tư vấn của CTCK là việc thông qua các dữ liệu về chứng khoán, các CTCK tiến hành phân tích và dự báo để đưa ra lời tư vấn cho khách hàng của mình trong lĩnh vực cơ cấu tài chính, chia, tách, hợp nhất, sát nhập doanh nghiệp, phát hành và niêm yết chứng khoán… Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của CTCK. Hoạt động tư vấn được phân loại theo các tiêu chí sau: + Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gõ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thu từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các phương tiện truyền thông) để tư vấn cho khách hàng. + Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn ủy quyền (vừa tư vấn vừa quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng). + Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán…). Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: + Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường. + Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. + Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn để nghiên cứu. Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán * Tư vấn tài chính doanh nghiệp (Tư vấn cho người phát hành) Là một mảng hoạt động quan trọng mang lại nguồn thu tương đối cao cho CTCK. Thực hiện tốt nghiệp vụ này sẽ góp phần hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra những hàng hóa có chất lượng cao trên thị trường. Khi thực hiện nghiệp vụ này, CTCK phải ký hợp đồng với tổ chức được tư vấn và liên đới chịu trách nhiệm về nội dung trong hồ sơ xin niêm yết. Hoạt động này tương đối đa dạng bao gồm: + Tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp: Thực hiện tư vấn từ khâu xử lý tài chính, hỗ trợ tái cấu trúc vốn trước và sau khi chuyển đổi, định giá doanh nghiệp và định giá chứng khoán phát hành, tư vấn cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Tư vấn tài chính doanh nghiệp: Phân tích đánh giá tình hình và tư vấn tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, tư vấn nâng cao năng lực quản trị tài chính nhằm đảm tình hình tài chính hiệu quả và lành mạnh. + Tư vấn phát hành: Thực hiện tái cấu trúc vốn, xác định nhu cầu hợp lý và xây dựng phương án phát hành, định giá và lập hồ sơ phát hành theo đúng quy định pháp luật, đại lý và/hoặc bảo lãnh phát hành. + Tư vấn niêm yết: Thực hiện các thủ tục cần thiết để đưa các chứng khoán có đủ điều kiện vào đăng ký và giao dịch trên thị trường chứng khoán, bao gồm các công việc như: Tư vấn xây dựng điều lệ hoạt động, tư vấn hoàn thiện các yêu cầu hiện hành về tài chính, cổ đông, xây dựng bản cáo bạch, nộp hồ sơ và giải trình theo yêu cầu của TTGDCK, thực hiện lưu ký chứng khoán và tổ chức phiên giao dịch đầu tiên, tư vấn xây dựng các quy trình công bố thông tin nội bộ. + Tư vấn quản trị doanh nghiệp: Xây dựng Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, các quy chế điều chỉnh hoạt động của HĐQT, Ban Giám đốc, BKS và các quy chế khác của công ty cổ phần, quy trình công bố thông tin đại chúng. * Tư vấn đầu tư chứng khoán: Là việc các chuyên viên tư vấn sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để tư vấn cho nhà đầu tư về thời điểm mua bán chứng khoán, loại chứng khoán mua bán, thời gian nắm giữ, tình hình diễn biến thị trường, xu hướng giá cả. Đây là hoạt động phổ biến trên thị trường thứ cấp, diễn ra hàng ngày, hàng giờ với nhiều hình thức khác nhau. Việc tư vấn có thể bằng lời nói, hoặc có thể thông qua những bản tin, các báo cáo phân tích, khách hàng có thể gặp gỡ nhà tư vấn hoặc thông qua các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax để nhờ tư vấn trực tiếp hoặc có thể gián tiếp thông qua các báo cáo phân tích, các ấn phẩm mà nhà tư vấn phát hành. Nhà tư vấn phải luôn là người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận, những báo cáo phân tích của mình về giá trị các loại chứng khoán, vì những phát ngôn của các chuyên viên tư vấn có tác động rất lớn đến tâm lý của các nhà đầu tư và thường dễ có thể trở thành lời tiên đoán, định hướng cho toàn bộ thị trường. Bởi vì các nhà đầu tư tin rằng các nhà tư vấn là những chuyên gia trong lĩnh vực này, họ có nhiều thông tin và kiến thức hơn những người khác và họ có thể đánh giá tình hình chính xác hơn. Điều đó có thể mang lại lợi nhuận cho người được tư vấn nhưng cũng có thể gây thiệt hại cho họ và làm ảnh hưởng đến TTCK. 1.2. Hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK 1.2.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động tư vấn Hiệu quả hiểu theo nghĩa phổ thông, phổ biến trong cách nói của mọi người là “Kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại”. Xét trên góc độ kinh tế thì hiệu quả được hiểu là “Mối quan hệ giữa đầu vào các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hoá và dịch vụ, có thể được đo lường theo hiện vật gọi là hiệu quả kỹ thuật hoặc theo chi phí thì được gọi là hiệu quả kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế được dùng như một tiêu chuẩn để xem xét các tài nguyên được thị trường phân phối như thế nào”. Từ khái niệm khái quát trên, có thể hình thành công thức biễu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:                                                 H = K/C Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó; K là kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó và C là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó. Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn gọn: hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ sử dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến động khác nhau của chúng. Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt được mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp – mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế đã trình bày ở trên có thể hiểu Hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK là một khái niệm biểu hiện mối quan hệ giữa các nguồn lực cho trước hữu hạn (nguồn vốn kinh doanh, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất…) của CTCK với chất lượng của dịch vụ đầu ra (hoạt động tư vấn cho khách hàng). Hiệu quả hoạt động tư vấn được sử dụng làm tiêu chuẩn để đánh giá xem CTCK đã phân bổ nguồn lực của mình tốt đến như thế nào. Khi nói đến hiệu quả hoạt động tư vấn, chúng ta thường xem xét liệu các chuyên viên tư vấn của CTCK có thực hiện tốt công việc tư vấn cho khách hàng hay không, khách hàng có cảm thấy hài lòng với những lời khuyên, lời tư vấn đó không, và điều quan trọng là hoạt động này phải đảm bảo lợi ích cho cả chủ thể tư vấn là CTCK lẫn chủ thể được tư vấn là khách hàng. Để có được một cái nhìn chính xác, toàn diện về hiệu quả hoạt động tư vấn cũng như hoạt động kinh doanh của CTCK nói chung, ta cần phải dựa vào những dữ liệu về tình hình hoạt động của công ty như bản cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền tệ… Hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK chịu tác động của rất nhiều nhân tố và được phản ánh thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau. 1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK Doanh thu hoạt động tư vấn Doanh thu hoạt động tư vấn cho khách hàng của CTCK là toàn bộ số tiền mà công ty thu được khi thực hiện một hợp đồng tư vấn. Nói cách khác, doanh thu hoạt động tư vấn chính là phí tư vấn mà CTCK phải thu phát sinh từ hoạt động tư vấn cho khách hàng trong một thời kỳ nhất định. Mức phí tư vấn cũng được xác định tùy thuộc vào loại hình tư vấn, ví dụ mức phí tư vấn cho hoạt động bán đấu giá cổ phần không được vượt quá 10% chi phí cổ phần hóa. Khi có nhiều khách hàng tìm đến để được tư vấn, CTCK sẽ có được nhiều hợp đồng tư vấn, doanh thu hoạt động tư vấn sẽ tăng lên. Ngược lại khi nhu cầu được tư vấn của khách hàng là ít, số lượng hợp đồng tư vấn sẽ không nhiều, từ đó doanh thu hoạt động tư vấn sẽ giảm xuống. Như vậy, doanh thu hoạt động tư vấn phản ánh hiệu quả tư vấn của CTCK. Một CTCK có doanh thu hoạt động tư vấn cao và tăng đều qua các năm thì có thể coi hoạt động tư vấn của công ty đó là hiệu quả. Đó cũng chính là một trong những cơ sở để tiến hành phát triển và mở rộng hoạt động tư vấn của CTCK. Tỷ trọng doanh thu hoạt động tư vấn trong tổng doanh thu Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu từ hoạt động tư vấn trên tổng doanh thu hoạt động kinh doanh của công ty. Tỷ trọng doanh thu hoạt động tư vấn trong tổng doanh thu cho biết quy mô đóng góp của doanh thu hoạt động tư vấn vào tổng doanh thu của CTCK. Khi doanh thu từ hoạt động tư vấn tăng thì giá trị chỉ tiêu trên cũng tăng, phản ánh hiệu quả hoạt động tư vấn được nâng cao. Ngược lại khi doanh thu hoạt động tư vấn giảm, tỷ trọng giảm, hoạt động tư vấn được xem là không hiệu quả. Lợi nhuận hoạt động tư vấn Lợi nhuận hoạt động tư vấn được hiểu là phần chênh lệch giữa tổng số tiền thu được từ các hợp đồng tư vấn (doanh thu hoạt động tư vấn) với chi phí mà CTCK phải bỏ ra khi thực hiện hoạt động tư vấn. Lợi nhuận hoạt động tư vấn tăng lên khi doanh thu hoạt động tư vấn tăng lên hoặc chi phí giảm đi hoặc đồng thời tăng doanh thu và giảm chi phí. Tuy nhiên do tư vấn là hoạt động sử dụng kiến thức và trình độ của đội ngũ chuyên viên tư vấn để thực hiện tư vấn nên chi phí cho hoạt động tư vấn thường không xác định được. Vì vậy, các CTCK thường sử dụng chỉ tiêu doanh thu để phản ánh hiệu quả của hoạt động tư vấn hơn là chỉ tiêu lợi nhuận, hoặc nếu sử dụng thì phải kết hợp với các chỉ tiêu khác để việc đánh giá hiệu quả mới chính xác và khác._.h quan. Tỷ trọng lợi nhuận hoạt động tư vấn trong tổng lợi nhuận Cũng như tỷ trọng doanh thu hoạt động tư vấn trong tổng doanh thu, tỷ trọng lợi nhuận hoạt động tư vấn trong tổng lợi nhuận cũng là một tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hoạt động này. Một CTCK có tỷ trọng lợi nhuận hoạt động tư vấn tăng đều qua từng thời kỳ chứng tỏ hiệu quả hoạt động tư vấn được nâng cao và ngược lại. Thị phần hoạt động tư vấn Khi nghiên cứu hoạt động tư vấn của một CTCK, người ta thường đánh giá hiệu quả của hoạt động này thông qua việc công ty có nhận được nhiều hợp đồng tư vấn hay không, công ty có thực hiện tốt các hợp đồng đó không. Thị phần hoạt động tư vấn có thể hiểu là hoạt động tư vấn của công ty chiếm bao nhiêu tỷ trọng so với tổng thể trên thị trường, được biểu hiện bằng tỷ lệ hợp đồng tư vấn mà công ty thực hiện so với tổng số hợp đồng tư vấn của toàn bộ các CTCK. Đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK. Thị phần hoạt động tư vấn được mở rộng, số hợp đồng tư vấn tăng lên chứng tỏ hoạt động tư vấn của công ty là hiệu quả, công ty là một tổ chức tư vấn đáng tin cậy nên mới có nhiều khách hàng tìm đến để được tư vấn. Quy trình hoạt động tư vấn Mỗi CTCK khi thực hiện các hợp đồng tư vấn cho khách hàng đều có quy trình riêng. Chẳng hạn khi thực hiện tư vấn, có những bước sẽ được CTCK này thực hiện trước nhưng lại được công ty khác thực hiện sau. Bên cạnh đó, mỗi một hoạt động tư vấn lại có một quy trình khác nhau. Quy trình hoạt động niêm yết sẽ không thể giống với quy trình hoạt động cổ phần hóa. Hoạt động tư vấn sẽ hiệu quả hơn khi CTCK tuân thủ một quy trình chính xác, hợp lý, từ đó khách hàng sẽ cảm thấy thỏa mãn và đặt trọn niềm tin vào công ty. Tóm lại, để đánh giá một cách đầy đủ và chính xác hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK phải sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Với việc sử dụng các nhóm chỉ tiêu này linh hoạt và logic, hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK sẽ được phản ánh một cách chính xác, khách quan và đáng tin cậy. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK 1.3.1. Nhân tố chủ quan Có rất nhiều yếu tố nội tại tác động tới hiệu quả hoạt động của CTCK nói chung và hoạt động tư vấn nói riêng. Tuy nhiên, khi xem xét hiệu quả hoạt động của bất kỳ một doanh nghiệp nào ta thường đề cập đến các yếu tố chính như vốn, nguồn nhân lực, chiến lược kinh doanh, trình độ công nghệ. Đây là các nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động tư vấn của các CTCK. Nguồn nhân lực Trong bất kỳ lĩnh vực nào, nhân lực luôn là yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến sự thành bại của mọi hoạt động. Điều này đặc biệt càng đúng đối với hoạt động tư vấn. Đây là hoạt động cung cấp các dịch vụ với hàm lượng tri thức cao nên những đòi hỏi về kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu. Do đó, đối với các CTCK có nguồn nhân lực dồi dào, với những nhân viên đáp ứng được những yêu cầu trên thì hoạt động tư vấn sẽ phát triển, hiệu quả được nâng cao, tạo được niềm tin cho khách hàng. Từ đó, vị thế và uy tín của công ty sẽ được tăng lên và dần trở thành tổ chức tư vấn hàng đầu. Tại những TTCK mới nổi như ở Việt Nam, những chuyên gia tư vấn là những người cần nhất nhưng lại thiếu nhất. Để trở thành nhân viên tư vấn thì trước hết phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với những yêu cầu cao hơn nhiều so với những nhân viên môi giới thông thường. TTCK không phải là sân chơi cho những người không có kiến thức về lĩnh vực này. Tuy nhiên, không phải ai cũng đủ trình độ hiểu và phân tích kỹ càng trước những dữ liệu và thông tin được công bố để có thể đưa ra những quyết định chính xác, hợp lý. Chính vì vậy họ tìm đến những nhà tư vấn, cần được tư vấn một cách tốt nhất, hoàn hảo nhất. Mặc dù quyết định cuối cùng thuộc về họ nhưng lời khuyên của những chuyên gia tư vấn có ảnh hưởng không nhỏ. Và một quyết định thành công sẽ làm cho khách hàng càng tin tưởng vào vai trò của nhà tư vấn. Cho nên việc tập trung đào tạo nguồn nhân lực luôn được các CTCK chú trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Chiến lược kinh doanh và định hướng phát triển của công ty Bất kỳ doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào khi được thành lập đều phải lập ra cho mình một chiến lược kinh doanh nhất định, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp đó và với xu thế phát triển của thị trường. Các CTCK cũng không phải là ngoại lệ. Hầu hết các CTCK khi mới thành lập đều tập trung vào phát triển hoạt động môi giới vì đây là hoạt động mang lại doanh thu chủ yếu và hoạt động này tạo ra mạng lưới khách hàng cho công ty. Tuy nhiên hiện nay các CTCK đã bắt đầu khai thác,phát triển hoạt động tự doanh và tư vấn chứng khoán. Một công ty muốn phát triển toàn diện không thể chỉ chuyên sâu về một mảng hoạt động thế mạnh mà xem nhẹ, bỏ qua các hoạt động khác. Bởi vì các hoạt động của CTCK luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Hoạt động tư vấn đạt hiệu phát triển sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển. Chiến lược kinh doanh của CTCK đối với hoạt động tư vấn tùy thuộc vào mục tiêu khách hàng là nhà đầu tư hay tổ chức, tùy thuộc vào loại hình tư vấn là tư vấn tài chính hay tư vấn đầu tư và tùy thuộc vào hình thức tư vấn là tư vấn trực tiếp, gián tiếp hay ủy quyền. Công ty sẽ xác định lợi ích thu được và chi phí bỏ ra cho từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó CTCK xác định được khách hàng mục tiêu phù hợp với năng lực tư vấn của mình và cơ cấu các loại hình tư vấn sao cho đảm bảo vừa chuyên môn hóa vừa đa dạng hóa dịch vụ tư vấn của mình. Chính vì vậy, chiến lược kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK. Nguồn vốn kinh doanh Yếu tố vốn luôn là điều kiện đầu tiên được đưa ra xem xét khi thành lập CTCK và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường. Bởi vì các CTCK là trung gian cung cấp các dịch vụ tài chính, để tạo niềm tin nơi khách hàng và phát triển các hoạt động một cách toàn diện thì CTCK phải có tiềm lực tài chính dồi dào, lớn mạnh. Điều đó sẽ giúp cho CTCK đối mặt với nhiều khó khăn từ nền kinh tế và từ những khách hàng của mình, nâng cao hiệu quả các hoạt động của công ty. Hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh chất xám nên yêu cầu về vốn không lớn như các hoạt động khác. Hiện nay vốn pháp định để thực hiện hoạt động tư vấn chứng khoán tại Việt Nam chỉ là 10 tỷ đồng. Tuy nhiên CTCK vẫn cần đầu tư vào các công cụ phục vụ cho quá trình hoạt động và xử lí dữ liệu. Công cụ càng hiện đại, phát triển sẽ giúp cho việc phân tích xử lý dữ liệu nhanh chóng, từ đó có thể đưa ra những lời tư vấn kịp thời, chính xác cho khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin Ngày nay ở các nước có TTCK phát triển thì đa số các hoạt động đều được thực hiện qua hệ thống máy móc hiện đại. Các CTCK muốn có hiệu quả hoạt động tốt cũng cần phải ứng dụng các công nghệ hiện đại. Hoạt động tư vấn phụ thuộc nhiều vào khối lượng thông tin mà CTCK thu thập được bởi vì trên cơ sơ có các thông tin thì họ mới có thể tiến hành nghiên cứu, phân tích được. Vì vậy, nhân viên tư vấn cần có các phương tiện, máy móc nhằm hỗ trợ cho họ trong quá trình làm việc. Cho nên, điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của CTCK nói chung và hiệu quả hoạt động tư vấn nói riêng. Một điều chắc chắn rằng một CTCK có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại hơn sẽ hoạt động tốt hơn không chỉ trong hoạt động tư vấn. Các CTCK có thể tìm kiếm, tư vấn khách hàng thông qua mạng máy tính, được trang bị công nghệ hiện đại sẽ giúp các nhân viên tư vấn tìm kiếm được nhiều khách hàng hơn, giải quyết công việc nhanh chóng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó hoạt động tư vấn có quan hệ mật thiết đối với các hoạt động khác. Vì vậy trong CTCK cần có các trang thiết bị để liên kết các bộ phận với nhau, việc này không chỉ có tác dụng tích cực đối với hoạt động tư vấn mà còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn CTCK. 1.3.2. Nhân tố khách quan Hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nội tại của chính công ty mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách quan từ bên ngoài. Các nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động tư vấn. Chính sách của nhà nước Đây là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến hoạt động của CTCK. Chính sách của nhà nước không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn hay các hoạt động của CTCK nói chung mà nó còn có tác động to lớn đối với mọi ngành nghề của nền kinh tế. Một chính sách hợp lý, khả thi sẽ thúc đẩy sự phát triển của TTCK cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Ngược lại, một chính sách lỏng lẻo và thiếu định hướng sẽ kìm hãm sự phát triển của thị trường, làm giảm hiệu quả hoạt động của CTCK. Các chính sách luôn có độ trễ nhất định so với kết quả mà nó đem lại. Chính vì vậy, việc ban hành chính sách phải được tính toán một cách kỹ lưỡng và được thực hiện chu đáo sao cho đem lại hiệu quả cao đối với sự phát triển của thị trường cũng như đối với hoạt động của các CTCK. Môi trường pháp luật TTCK có tác động trực tiếp đối với nền kinh tế. Một TTCK tăng trưởng cả về quy mô và chất lượng thể hiện sự thịnh vượng của nền kinh tế, sự giàu có của người dân và khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp. Vì thế TTCK được coi như là phong vũ biểu của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc tác động tích cực hay tiêu cực của TTCK tới nền kinh tế tùy thuộc vào sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý thị trường thông qua hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của TTCK. Hoạt động tư vấn cũng như bất kỳ các hoạt động khác của CTCK đều chịu sự chi phối, quản lý, giám sát, điều chỉnh của các quy phạm pháp luật. Vì đặc thù của hoạt động tư vấn chứa đựng nhiều yếu tố nhạy cảm về lợi ích của khách hàng và CTCK nên dễ xảy ra tranh chấp, khiếu nại. Do đó cần phải có những quy định pháp lý chặt chẽ để hạn chế xung đột lợi ích giữa hai bên, đòi hỏi các bên liên quan phải thực hiện đúng quy định. Sự hoàn thiện các văn bản pháp luật, sự chặt chẽ trong các nghị định và sự mềm dẻo linh hoạt của các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ khiến cho các hoạt động của CTCK nói chung và hoạt động tư vấn nói riêng đạt được hiệu quả cao. Sự phát triển của TTCK TTCK phát triển sẽ tạo cơ sở cho mọi hoạt động của CTCK phát triển. Hoạt động tư vấn cũng không nằm ngoài quy luật đó. Khi thị trường phát triển sẽ tạo ra nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn, bởi lúc này việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế qua kênh này sẽ chiếm tỷ trọng lớn. Điều đó đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp, tổ chức phát hành sẽ rất cần đến các hoạt động tư vấn như tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết, còn hoạt động tư vấn đầu tư sẽ giúp cho các nhà đầu tư sáng suốt hơn khi ra quyết định và thực hiện đầu tư thành công, hiệu quả. Hơn nữa khi thị trường phát triển, quy mô hoạt động của CTCK tăng cao, kéo theo doanh thu, lợi nhuận hoạt động cũng tăng lên. Các CTCK sẽ có cơ hội cải thiện trình độ kỹ thuật, công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Doanh nghiệp, nhà đầu tư Doanh nghiệp và nhà đầu tư là những khách hàng sử dụng trực tiếp dịch vụ tư vấn, nên họ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động này. Chính họ là những người tạo ra doanh thu cho hoạt động tư vấn của CTCK. Khi các doanh nghiệp và nhà đầu tư dành sự quan tâm đến TTCK, muốn gia nhập thị trường, họ sẽ tìm đến các CTCK để mở tài khoản tham gia giao dịch, để được tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết, tư vấn đầu tư… Hoạt động tư vấn và các hoạt động khác của CTCK khi đó sẽ phát triển. Ngược lại, khi doanh nghiệp không còn quan tâm đến phương thức huy động vốn qua TTCK, nhà đầu tư rời bỏ thị trường thì hoạt động tư vấn cũng như các hoạt động khác của CTCK sẽ không có cơ hội phát triển, hiệu quả hoạt động thấp. Cạnh tranh Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. Đó cũng là yếu tố không thể thiếu góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Việc cạnh trạnh sẽ giúp TTCK loại bỏ những CTCK không đủ yêu cầu về vốn cũng như trình độ đồng thời chọn lọc được các CTCK có chất lượng tốt phục vụ cho thị trường. Các CTCK sẽ phải liên tục hoàn thiện và đa dạng hóa trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ để không trở nên lỗi thời, lạc hậu dẫn đến bị loại bỏ. Chính vì vậy, nhờ yếu tố cạnh tranh mà việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ của CTCK ngày càng tốt hơn, tạo điều kiện phát triển các hoạt động của CTCK cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động tư vấn. Trên đây là những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động của CTCK nói chung và hoạt động tư vấn nói riêng. Hoạt động tư vấn và hiệu quả hoạt động tư vấn đã được đề cập một cách khá chi tiết qua các khái niệm, nội dung, những nhân tố ảnh hưởng. Tuy nhiên, để đi sâu nghiên cứu và có một cái nhìn đầy đủ và tổng quát về hiệu quả hoạt động này chúng ta sẽ tìm hiểu hoạt động tư vấn tại CTCK Bảo Việt. Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động tư vấn của CTCK Bảo Việt (BVSC) 2.1. Khái quát về CTCK Bảo Việt 2.1.1. Giới thiệu về công ty + Tên công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN BẢO VIỆT + Tên tiếng Anh: BAOVIET SECURITIES COMPANY + Vốn điều lệ: 450.000.000.000 đồng (Bốn trăm năm mươi tỷ đồng) + Trụ sở chính: Số 8 Lê Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội + Chi nhánh: Số 11 Nguyễn Công Trứ, quận 1, TP. Hồ Chí Minh + Điện thoại: (84-4) 9288888 + Fax: (84-4) 9289888 + Website: www.bvsc.com.vn + Email: bvsc@hn.vnn.vn + Giấy CNĐKKD: Số 056655 đăng ký lần đầu ngày 20/07/1999, đăng ký thay đổi lần thứ 5 ngày 15/11/2006 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp. + Ngành nghề kinh doanh của Công ty * Môi giới chứng khoán * Tự doanh chứng khoán * Bảo lãnh phát hành chứng khoán * Tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính * Lưu ký chứng khoán 2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) là công ty chứng khoán đầu tiên được thành lập tại Việt Nam với cổ đông sáng lập là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) trực thuộc Bộ Tài chính; chính thức được hoạt động kể từ ngày 26/11/1999 theo Giấy phép hoạt động số 01/GPHĐKD do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp với vốn điều lệ ban đầu là 43 tỷ đồng. Ngày 28/11/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 310/2005/QD-TTG phê duyệt đề án cổ phần hóa Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam và thí điểm thành lập Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt, theo đó Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt trở thành một thành viên của Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt. Qua hơn 8 năm xây dựng và phát triển, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt đã khẳng định được vị thế lớn mạnh của mình trên thị trường, quy mô hoạt động cũng không ngừng được mở rộng. Năm 2006 là năm ghi nhận những sự kiện trọng đại đối với quá trình phát triển của BVSC. Ngày 13/10/2006, BVSC được trao giải Nhãn hiệu cạnh tranh cấp quốc gia trong đợt bình trọn Nhãn hiệu Cạnh tranh - Nổi tiếng Quốc gia lần thứ I do Hội sở hữu Trí tuệ Việt Nam tổ chức. Cũng trong năm 2006, thương hiệu BVSC đã được bình chọn là Thương hiệu Việt Uy tín Chất lượng do các thành viên Mạng Thương hiệu Việt bình chọn. Nhân dịp này, BVSC đã được đón nhận bảng vàng và thư chúc mừng của Quốc hội và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sự kiện quan trọng nhất trong năm, đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ của BVSC là việc Công ty tăng Vốn điều lệ lên 150 tỷ đồng và chính thức đưa cổ phiếu lên giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, thực sự trở thành một công ty đại chúng trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.1.3. Cơ cấu nhân sự Với các công ty nói chung và đặc biệt các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, năng lực của cán bộ chuyên viên đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và thành công của công ty. Nhận thức được đặc thù riêng biệt này, công tác tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ tại BVSC được xác định là công tác trọng tâm. Công ty đã chú trọng không những đến các chế độ đãi ngộ đối với chuyên viên mà còn quan tâm sát sao đến việc tạo ra môi trường làm việc tiên tiến, khoa học, hấp dẫn đối với người lao động. Nỗ lực của BVSC đối với công tác nhân sự đã đem lại kết quả tốt, thể hiện qua việc hiện nay BVSC đang có trong tay một đội ngũ đông đảo cán bộ được đào tạo bài bản, làm việc khoa học - chuyên nghiệp, mẫn cán, có kinh nghiệm thực tiễn. Hầu hết các cán bộ đều có trình độ đại học và trên đại học, tốt nghiệp hệ đào tạo chính quy các trường đại học trong và ngoài nước với chuyên ngành Tài chính - Kế toán - Ngân hàng. Đội ngũ cán bộ của BVSC đều đã được rèn luyện qua công tác thực tiễn với bề dày kinh nghiệm, ý thức kỷ luật tốt, mẫn cán trong công việc, tính chuyên nghiệp cao. Do yêu cầu phải cập nhật nhanh các thông tin trong và ngoài nước, toàn bộ các cán bộ nghiệp vụ của BVSC đều giỏi ít nhất một ngoại ngữ (tiếng Anh), sử dụng thành thạo các trang thiết bị tin học với các chương trình kỹ thuật ở mức chuyên sâu. Hiện nay, hầu hết các cán bộ của BVSC đã được cấp Giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán sau khi đã tham gia 3 chương trình đào tạo bắt buộc. Ngoài ra, các cán bộ trong đội ngũ tư vấn còn liêu tục được cử đi đào tạo các lớp nghiệp vụ về thẩm định giá, phân tích đầu tư... và cập nhật các kiến thức về văn bản chế độ mới ban hành. Cơ cấu trình độ cán bộ hiện nay của BVSC như sau: + Trình độ thạc sĩ: 38 người + Trình độ đại học: 130 người + Trình độ trung cấp: 25 người Tổng số nhân viên: 193 người 2.1.4. Cơ cấu tổ chức Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ V thông qua ngày 12/6/1999 và được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 đã được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/11/2005. Các hoạt động của Công ty tuân thủ Luật Doanh nghiệp, các Luật khác có liên quan và Điều lệ Tổ chức hoạt động của Công ty. Điều lệ Công ty bản sửa đổi, bổ sung lần thứ 3 đã được Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2007 tại Hà Nội thông qua ngày 24/03/2007 là cơ sở chi phối mọi hoạt động của Công ty. Mô hình tổ chức công ty bao gồm 02 khối là khối kinh doanh và khối văn phòng và 01 chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh. + Khối kinh doanh bao gồm: bộ phận Tư vấn tài chính thực hiện nghiệp vụ tư vấn tài chính, bảo lãnh phát hành; bộ phận môi giới thực hiện nghiệp vụ môi giới; bộ phận tự doanh thực hiện nghiệp vụ tự doanh và bộ phận phân tích thực hiện nghiệp vụ phân tích. + Khối văn phòng bao gồm: bộ phận Phát triển kinh doanh thực hiện nghiên cứu phát triển sản phẩm, quan hệ quốc tế thực hiện hoạt động marketing và PR; bộ phận Kế hoạch - Tổng hợp thực hiện công tác hành chính tổng hợp, quản trị văn phòng, quản trị nhân sự, tổng hợp kế hoạch; bộ phận kế toán thực hiện công tác tài chính kế toán; bộ phận Dịch vụ khách hàng cung cấp các dịch vụ tiện ích hỗ thợ khách hàng; bộ phận IT thực hiện công tác tin học, quản trị hệ thống. 2.1.5. Cơ cấu bộ máy quản lý Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt được tổ chức và hoạt động tuân thủ theo Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006. Các hoạt động của Công ty tuân thủ Luật doanh nghiệp, luật Chứng khoán, các Luật khác có liên quan và Điều lệ Công ty được Đại hội cổ đông nhất trí thông qua. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty như sau: Đại hội đồng cổ đông: Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất của Công ty, bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết và người được cổ đông ủy quyền. Hội đồng Quản trị: Hội đồng Quản trị do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, là cơ quan quản lý cao nhất của Công ty, có nghĩa vụ quản trị Công ty giữa 2 kỳ đại hội. Hiện tại Hội đồng Quản trị của Công ty gồm có 5 thành viên, nhiệm kỳ của Hội đồng Quản trị và của mỗi thành viên là 3 năm. Ban Kiểm soát: Ban Kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ trong quản trị và điều hành hoạt động kinh doanh, các báo cáo tài chính của Công ty. Hiện tại Ban Kiểm soát Công ty gồm có 3 thành viên, nhiệm kỳ của Ban Kiểm soát và của mỗi thành viên là 3 năm. Ban Tổng Giám đốc: Ban Tổng Giám đốc do Hội đồng Quản trị bổ nhiệm, có nhiệm vụ tổ chức điều hành và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của Công ty theo chiến lược và kế hoạch kinh doanh hàng năm đã được Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị thông qua. Giám đốc là người đại diện trước pháp luật của Công ty, thành viên ban Giám đốc có nhiệm kỳ là 3 năm. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CÔNG TY ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN TỔNG GIÁM ĐỐC BAN KIẾM SOÁT BỘ PHẬN TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ BLPH BỘ PHẬN GIAO DỊCH VÀ MÔI GIỚI BỘ PHẬN PHÂN TÍCH ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ TÀI SẢN BỘ PHẬN TỰ DOANH BỘ PHẬN PHÁT TRIỂN KINH DOANH BỘ PHẬN DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG BỘ PHẬN KẾ TOÁN – TỔNG HỢP BỘ PHẬN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN BỘ PHẬN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHI NHÁNH TP HỒ CHÍ MINH BỘ PHẬN TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ BLPH BỘ PHẬN GIAO DỊCH VÀ MÔI GIỚI BỘ PHẬN KẾ TOÁN – TỔNG HỢP BỘ PHẬN TÀI CHÍNH KẾ TOÁN BỘ PHẬN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 2.1.6. Tình hình hoạt động kinh doanh của CTCK Bảo Việt Năm 2006 và những tháng đầu năm 2007 là thời kỳ TTCK bùng nổ cả về quy mô, số lượng chứng khoán niêm yết cũng như chất lượng, dịch vụ. Nhờ vậy mà hoạt động của các CTCK cũng phát triển mạnh mẽ. CTCK Bảo Việt cũng không phải là ngoại lệ. Hoạt động kinh doanh của BVSC đã đạt được những kết quả vô cùng khả quan. Đầu tiên phải kể đến doanh thu qua các năm của BVSC: Đơn vị: 1000 đồng Khoản mục Năm 2005 Năm 2006 9 tháng năm 2007 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Doanh thu môi giới chứng khoán 3.242.672 14,34% 34.809.106 42,17% 111.306.621 36,86% Doanh thu hoạt động tự doanh 1.734.616 7,67% 18.745.027 22,71% 118.113.019 39,11% Doanh thu quản lý danh mục đầu tư 216.541 0,96% 1.324.506 1,60% 3.573.555 1,18% Doanh thu đại lý bảo lãnh phát hành chứng khoán 10.184.613 45,05% 13.000.672 15,75% 48.571.455 16,09% Doanh thu tư vấn ĐTCK cho người đầu tư 4.054.841 17,94% 6.565.892 7,95% 5.287.114 1,75% Doanh thu lưu ký chứng khoán 134.693 0,60% 498.178 0,60% 1.006.235 0,33% Doanh thu kinh doanh 3.037.801 13,44% 7.609.412 9,22% 14.107.962 4,67% Tổng doanh thu 22.605.775 100% 82.552.793 100% 301.965.961 100% (Nguồn: Phòng tư vấn - BVSC) Doanh thu của công ty năm sau luôn tăng cao hơn từ 3 đến 4 lần so với năm trước. Cụ thể, chỉ tính đến quý 3 năm 2007, doanh thu từ hoạt động kinh doanh đã gấp 14 lần doanh thu của cả năm 2005. Tuy nhiên, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân công ty, không thể phủ nhận một thực tế rằng: sự tăng trưởng vượt bậc đó nằm trong xu hướng tăng trưởng nói chung của tất cả các CTCK, khi mà TTCK Việt Nam đã có những giai đoạn phát triển quá nóng, đặc biệt là trong quý I/ 2007. Không chỉ bứt phá về mặt lượng, công ty còn có những bước đi điều chỉnh về mặt chất theo một cơ cấu doanh thu bền vững hơn. Từ chỗ coi hoạt động tư vấn bảo lãnh, phát hành, tư vấn cổ phần hóa... là những nguồn thu chính (chiếm gần 70% doanh thu vào năm 2005), công ty đã dần triển khai một cách hiệu quả các hoạt động môi giới, tự doanh. Đây được coi là hướng đi đúng đắn, đảm bảo sự phát triển lâu dài và một vị thế vững mạnh cho công ty trên TTCK Việt Nam trong tương lai. Lãi gộp qua các năm Đơn vị: 1000 đồng Năm 2005 Năm 2006 % tăng giảm so với 2005 Năm 2007 % tăng giảm so với 2006 Tổng Doanh thu 25.813.719 92.180.676 257.10% 396.740.312 330.39% Tổng Chi phí 14.617.191 29.191.738 99.71% 157.402.385 439.20% Lợi nhuận sau thuế 10.022.821 50.893.882 407.78% 215.813.196 324.05% (Nguồn: Phòng tư vấn - BVSC) Theo báo cáo mới nhất được công bố ngày 25-1-2008, thì kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007 của công ty chứng khoán Bảo Việt như sau : Theo đó, trong quý IV/2007, tổng doanh thu của Công ty đã đạt được là 76,088 tỷ đồng. Lũy kế cả năm 2007 Công ty đạt 396,740 tỷ đồng, tăng 330,39% so với năm 2006 tương đương tăng 304,560 tỷ đồng. Trong quý IV/2007 lợi nhuận sau thuế Công ty đạt 11,013 tỷ đồng. Lũy kế cả năm 2007 lợi nhuận sau thuế đạt 215,813 tỷ đồng, tăng 324,05% so với năm 2006 tương đương tăng 164,919 tỷ đồng. Đầu tháng 12 - 2007 Công ty đã phát hành 30 triệu cổ phiếu tăng vốn lên 450 tỷ đồng, như vậy thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) là 12.332 đồng. Với mức giá 161.000 đồng (vào ngày 25-1-2008) thì P/E của BVS là 13 lần. Với EPS khá cao, ROE đạt 48%, tỷ lệ PE hấp dẫn, có thể nói, năm 2007 BVSC đã đạt được những thành công mỹ mãn về lợi nhuận, xứng đáng là một trong những công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam. Hoạt động môi giới Tính đến hết quý 3 năm 2007, doanh thu môi giới toàn Công ty đạt 111,306 tỷ đồng, đạt 89,76% kế hoạch năm 2007. Số lượng tài khoản mở tại Công ty tính tại thời điểm 30/09/2007 là khoảng 30.000 tài khoản. Với mục tiêu duy trì và phát triển thị phần, trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007, BVSC đã tập trung đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của nhà đầu tư. Công ty đã phối hợp với FPT nâng cấp phần mềm quản lý môi giới chứng khoán để đáp ứng yêu cầu về quản lý và sự thay đổi về quy định giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội. Công ty cũng đã chủ động đầu tư nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin bao gồm: hệ thống máy chủ, máy trạm tại Sở Giao dịch và Trung tâm giao dịch chứng khoán, hệ thống đường truyền nhằm đảm bảo việc chuyển tải thông tin và tốc độ xử lý lệnh giao dịch của người đầu tư một cách nhanh nhất. Tính đến hết quý 3 năm 2007, Công ty đã có 9 máy nhập lệnh tại Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và 5 máy tại TTGDCK Hà Nội và là một trong các công ty chứng khoán có số lượng máy nhập lệnh nhiều nhất hiện nay. Để phục vụ các nhà đầu tư nước ngoài, BVSC đăng ký sử dụng dịch vụ của Bloomberg cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh trực tuyến từ bất cứ đâu sử dụng hệ thống Bloomberg dù ở Singapore, Hongkong hay NewYork. Đây là một trong những lợi thế cạnh tranh lớn của BVSC, đảm bảo khả năng xử lý thành công khối lượng lệnh lớn cho khách hàng đặc biệt là các tổ chức đầu tư lớn, dự kiến sẽ sớm hoàn thiện việc lựa chọn nhà cung cấp hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ đảm bảo sử dụng lâu dài. Ngày 11/01/2008, tại số 8, Lê Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo việt (BVSC)đã chính thức khai trương Trụ sở chính và sàn giao dịch chứng khoán, cho phép Công ty có diện mạo mới khang trang hơn tương xứng với vị thế của Công ty đồng thời cho phép phục vụ khách hàng tốt hơn, hiệu quả hơn. Không chỉ đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhận thức được vai trò của cán bộ trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh, Công ty đã có nhiều chương trình đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, Công ty đã chủ động cho cán bộ môi giới tham gia nhiều khóa đào tạo nghiệp vụ, do vậy tỷ lệ cán bộ môi giới có giấy phép hành nghề cao, khả năng xử lý lệnh thuộc loại nhanh nhất trong các Công ty chứng khoán. Nhóm môi giới phục vụ các tổ chức nước ngoài đều tốt nghiệp các trường đại học ở nước ngoài, có khả năng sử dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ và có kinh nghiệm ở thị trường Việt Nam. Cũng trong nỗ lực nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ, BVSC đã chú ý đến việc tăng cường hỗ trợ thông tin tư vấn cho người đầu tư thông qua các kênh thông tin đa dạng của Công ty như Bản tin tuần, Bản tin tháng và trang tin điện tử. Ngoài ra, việc phối kết hợp thường xuyên và đồng bộ với các tổ chức tài chính - tín dụng như Indovina Bank (IVB), Habubank (HBB), GP.Bank, MBank, Ngân hàng Phương Đông, BIDV... để cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng như cho vay cầm cố chứng khoán, cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán và cổ tức, cho vay hỗ trợ kinh doanh chứng khoán niêm yết. Bên cạnh đó BVSC luôn có sự điều chỉnh linh hoạt, kịp thời chính sách phí giao dịch cho phù hợp với điều kiện thị trường (khi thị trường trầm lắng thì điều chỉnh giảm phí thấp hơn khi thị trường sôi động) nên đã thu hút được đông đảo người đầu tư đến với Công ty. Hoạt động tự doanh Trước những diễn biến thuận lợi của thị trường, cùng với chiến lược tự doanh linh hoạt, hoạt động tự doanh của BVSC trong năm 2006 đã đạt được những kết quả to lớn. Hoạt động tự doanh của BVSC đã thu được kết quả rất khả quan trong năm 2006 với doanh thu 28,3 tỷ đồng tương đương 211% kế hoạch năm và bằng 574% so với năm 2005. Tính đến hết 9 tháng đầu năm 2007, hoạt động tự doanh đã mang lại cho BVSC doanh thu 118,113 tỷ đồng, tương đương 102,71% kế hoạch năm và bằng 630,10 % năm 2006. Đối với hoạt động tự doanh, BVSC sẽ mở rộng quy mô trên cơ sở đặt lợi ích khách hàng lên hàng đầu, hạn chế tối đa những xung đột lợi ích với khách hàng của Công ty. BVSC sẽ tiếp tục bám sát diễn biến thị trường để triển khai hoạt động tự doanh một cách chủ động, linh hoạt và hiệu quả cao. Mặt khác, dựa trên nền tảng của hoạt động tư vấn cổ phần hoá, tư vấn phát hành và niêm yết, BVSC sẽ đẩy mạnh đầu tư vào các cổ phiếu chưa niêm yết có tiềm năng tăng trưởng tốt nhằm góp phần đem lại hiệu quả cao và ổn định cho hoạt động tự doanh. Với việc thành lập Phòng Phân tích chuyên biệt với các hoạt động phân tích chuyên nghiệp, chuyên sâu sẽ tạo nhiều thuận lợi cho BVSC triển khai hoạt động tự doanh đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động bảo lãnh phát hành Riêng trong năm 2006, BVSC đã tiến hành thực hiện tư vấn cho 10 doanh nghiệp phát hành cổ phiếu và huy động được tổng số tiền là 954 tỷ đồng. Đồng thời BVSC cũng đã tiến hành bảo lãnh cho 10 đợt phát hành với giá trị bảo lãnh lên tới 882 tỷ đồng với các hợp đồng bảo lãnh lớn như BLPH cho Công ty CP Giấy Hải Phòng với tổng giá trị bảo lãnh lên trên 80 tỷ đồng, BLPH cho Công ty CP Nhựa Bình Minh với tổng giá trị là 100 tỷ đồng, BLPH cho Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam với giá trị bảo lãnh lên tới 600 tỷ đồng, BLPH cho Công ty CP Full Power với giá trị bảo lãnh đạt 150 tỷ đồng. Doanh thu bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành đạt trên 32 tỷ đồng tăng trên 300% so với năm 2005. Với kết quả đạt được như vậy BVSC vinh dự là đơn vị dẫn đầu về bảo lãnh phát hành cổ phiếu với thị phần khoảng 70%. Tính từ đầu năm 2007 đến hết quý 3, BVSC đã tiến hành nhiều đợt BLPH như BLPH cho Công ty Cổ phần Đại lý liên hiệp vận ch._.ng này sẽ đem đến cho các khách hàng đầu tư các dịch vụ đa dạng như việc thực hiện giao dịch có thể thực hiện qua mạng LAN, mạng dùng riêng và các ứng dụng WEB (trực tuyến), Mobile… Bên cạch việc đặt lệnh, giám sát tình trạng lệnh, quản lý rủi ro… hệ thống còn cho phép cung cấp nhiều gói dịch vụ và các ứng dụng đa năng, tùy theo mức độ phân quyền của khách hàng, bao gồm các dịch vụ như: Theo dõi diễn biến thị trường (Market Watch), Phân tích kỹ thuật (Technical Analysis), Tạo các báo cáo về giao dịch, Quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ cung cấp thông tin thị trường (Content Service)…Ngoài ra, hệ thống không giới hạn số lượng người giao dịch trực tuyến. Song song với hệ thống Core Securities, BVSC còn đang triển khai áp dụng Call Center và sẽ nâng cấp thành hệ thống Contact Center trong tương lai. Hệ thống Call Center của công ty BVSC thiết kế dựa trên nền tảng hệ thống tổng đài IP của ALCATEL – LUCENT với kiến trúc mở, sẵn sàng cho việc mở rộng hệ thống trong tưong lai mà không gây ra ảnh hưởng đến khả năng hoạt động liên tục của hệ thống. Hệ thống có khả năng cung cấp đồng thời 30 kết nối cuộc gọi tới giao dịch viên (cấu hình hiện tại), có khả năng nâng cấp hỗ trợ tới 1,000 cuộc gọi đồng thời tới giao dịch viên (cấu hình tối đa) và có khả năng cung cấp đồng thời 30 kết nối cuộc gọi tới hệ thống trả lời tự động (cấu hình hiện tại), có khả năng nâng cấp hỗ trợ tới 720 cuộc gọi đồng thời tới hệ thống trả lời tự động (cấu hình tối đa). Việc triển khai Hệ thống Call Center sẽ đảm bảo rằng cuộc gọi của khách hàng luôn được trả lời nhanh chóng, hoặc bởi giao dịch viên hoặc bởi dịch vụ trả lời tự động. Bên cạnh các dịch vụ cơ bản được cung cấp bởi các giao dịch viên, hệ thống Call Center còn cung cấp các dịch vụ cơ bản phục vụ nhà đầu tư thông qua hệ thống trả lời tự động, bao gồm: Tra cứu thông tin tài khoản (số dư tiền mặt, chứng khoán, kết quả giao dịch trong ngày, lịch sử giao dịch…),Tra cứu giá chứng khoán (giá /mã chứng khoán), Tra cứu thông tin lịch đấu giá / thông tin thị trường, Đặt lệnh giao dịch (từ hệ thống trả lời tự động chuyển sang giao dịch viên), Tra cứu các thông tin khác (Thông tin về BVSC, thủ tục mở tài khoản, hướng dẫn giao dịch…). Đó là về công nghệ, về con người, trong chiến lược phát triển của mình, xác định con người là nhân tố quan trọng hàng đầu, BVSC đã xây dựng chính sách nhân sự nhằm thu hút và giữ chân người tài thông qua chính sách lương, thưởng và các chế độ đãi ngộ khác. Một trong những nội dung quan trọng trong chính sách nhân sự của BVSC là vấn đề đào tạo. Hàng năm công ty dành một ngân sách tương xứng cho vấn đề đào tạo bao gồm cả đào tạo ngắn hạn và dài hạn, đào tạo chuyên môn và kỹ năng. Điều này, một mặt vừa thu hút nhân sự có chất lượng, mặt khác, với một đội ngũ nhân sự được đào tạo bài bản sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ của BVSC. Ngoài ra, công ty còn xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2010 với những nội dung sau: + Nắm bắt chủ trương của Đảng và Chính phủ đối với việc phát triển TTCK, BVSC tiếp tục đầu tư về nguồn nhân lực và cơ sở vật chất để đưa Công ty phát triển bền vững, tuân thủ pháp luật, tích cực đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. + Nắm bắt thời cơ và những thuận lợi, duy trì và nâng cao được vị thế hiện có của mình theo phương châm: “ Tăng trưởng, hiệu quả và phát triển bền vững”; đóng góp tích cực vào mục tiêu đưa TTCK Việt Nam phát triển ngang tầm với thị trường các nước trong khu vực và thế giới. + Xác định các dịch vụ chủ lực của Công ty là tư vấn tài chính, tư vấn và bảo lãnh phát hành, tự doanh; bên cạnh đó tiếp tục chú trọng phát triển, mở rộng và đa dạng hoá hệ thống dịch vụ môi giới, cung cấp sản phẩm phân tích và thông tin thị trường, các dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng. + Tăng cường phát triển nguồn nhân lực bằng các chính sách thu hút nhân tài, tập hợp chất xám trong và ngoài nước, nâng cao hiệu quả thông qua việc áp dụng hệ thống quản lý tiên tiến nhất. + Tăng quy mô vốn hoạt động lên mức từ 500 đến 2.000 tỷ đồng. + Đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh phát hành: Trước nhu cầu phát hành huy động vốn của các doanh nghiệp đang tăng cao, BVSC sẽ chủ động tiếp cận các doanh nghiệp để thiết kế phương án và tổ chức các đợt phát hành thêm chứng khoán; trong đó BVSC sẽ là tổ chức tư vấn tái cơ cấu tài chính, tư vấn và bảo lãnh phát hành. Việc phát hành theo phương thức có bảo lãnh vừa đảm bảo thành công cho đợt phát hành và ổn định thị trường, vừa làm tăng uy tín và hiệu quả kinh doanh cho BVSC. Tuy nhiên để hạn chế những rủi ro trong hoạt động bảo lãnh, BVSC sẽ phối kết hợp chặt chẽ với các ngân hàng, định chế tài chính đặc biệt là các Quỹ đầu tư trong quá trình triển khai bảo lãnh. + Đẩy mạnh kinh doanh trái phiếu: Trong vài năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh của các công ty bảo hiểm nhân thọ, thị trường trái phiếu ngày càng trở nên sôi động và hấp dẫn hơn. Việc tăng vốn cùng với sự hỗ trợ của các đối tác chiến lược sẽ tạo điều kiện cho BVSC khai thác tốt hơn mảng thị trường giao dịch trái phiếu này. + Đẩy mạnh đầu tư tự doanh: Trong những năm vừa qua, do quy mô vốn kinh doanh còn thấp nên hoạt động tự doanh của Công ty ở mức độ hạn chế, chủ yếu tập trung vào các cổ phiếu niêm yết. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận bình quân của các khoản đầu tư vào chứng khoán niêm yết trong những năm vừa qua không cao và luôn bị ảnh hưởng theo sự biến động chung của thị trường; tính ổn định thấp và với đặc thù là khó dự đoán trước một cách chuẩn xác nên kết quả cũng đã ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả chung và việc lập kế hoạch kinh doanh hàng năm, gây khó khăn cho công tác quản trị điều hành doanh nghiệp. Hơn nữa, dù đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế, nhưng việc kinh doanh tự doanh tập trung chủ yếu vào cổ phiếu niêm yết cũng có thể dẫn đến những xung đột lợi ích giữa công ty và khách hàng, ít nhất là trong con mắt của nhà đầu tư. Cùng với chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, rất nhiều doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động rất hiệu quả đã và đang được cổ phần hóa, tạo ra một cơ hội đầu tư tiềm năng, hứa hẹn mang lại hiệu quả cao. Với chiến lược đầu tư dài hạn Công ty sẽ nghiên cứu đầu tư mạnh hơn nữa vào cổ phiếu chưa niêm yết nhằm góp phần mang lại hiệu quả cao và ổn định cho hoạt động Tự doanh. + Phát triển bộ phận nghiên cứu phân tích và phát triển thị trường (Research & Maketing): Đây là bộ phận hết sức quan trọng đối với bất cứ một CTCK nào, nó không chỉ đưa ra sản phẩm các báo cáo tư vấn nhằm phục vụ cho các nhà đầu tư mà còn là sản phẩm chung phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty, góp phần giúp cho các quyết định đầu tư của BVSC chuẩn xác và hiệu quả hơn. BVSC sẽ phối hợp với các chuyên gia có kinh nghiệm của các đối tác để xây dựng một cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp và xây dựng một bộ phận research mạnh của BVSC. + Đẩy mạnh hoạt động PR (Public Relation): Trong thời gian tới, Công ty sẽ tập trung xây dựng và phát triển thương hiệu BVSC trở thành một thương hiệu mạnh, tạo ra một hình ảnh quen thuộc và khắc sâu trong tâm trí nhà đầu tư như là một công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam, với phong cách làm việc năng động và phục vụ chuyên nghiệp thông qua việc đầu tư hợp lý về con người, chuẩn hóa các quy trình theo tiêu chuẩn ISO cùng với các chương trình quảng cáo, tài trợ, tiếp thị và cả những hoạt động xã hội khác. + Xây dựng mới hệ thống thông tin của Công ty (bao gồm cả hệ thống phần mềm và đầu tư trang thiết bị): TTCK thế giới đang phát triển theo hướng các giao dịch chứng khoán được hỗ trợ tối đa bởi công nghệ thông tin. Điều đó đòi hỏi sự đầu tư lớn vào hệ thống công nghệ, phần mềm giao dịch cũng như hệ thống trang thiết bị đầu cuối nhằm đảm bảo việc giao dịch diễn ra an toàn và thông suốt. Hiện tại BVSC đang nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể về các hệ thống và công nghệ ứng dụng tiên tiến của các nước trong khu vực, dự kiến sẽ triển khai đồng bộ hệ thống công nghệ ở trình độ cao khi chuyển sang trụ sở mới. + Mở rộng mạng lưới: Chứng khoán và TTCK không còn là khái niệm mới mẻ, không chỉ là sức hút đối với nhà đầu tư tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mà đã lan ra phạm vi cả nước; trong thời gian tới, số lượng nhà đầu tư tiếp tục tăng mạnh ở cấp số nhân, quy mô thị trường sẽ ngày càng lớn hơn và chiếm tỷ trọng theo ước tính có thể đạt đến 40% GDP; hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước trên phạm vi cả nước sẽ phải hoàn tất việc sắp xếp lại chậm nhất là cuối năm 2009 - Vì vậy việc nhanh chóng phát triển mạng lưới và hệ thống là một nhiệm vụ hết sức bức bách đặt ra đối với BVSC. Kế hoạch mục tiêu đề ra đối với BVSC là đến năm 2012, tại các thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh, mỗi nơi phải có tối thiểu 10 - 15 phòng giao dịch, Công ty phải mở thêm ít nhất 2 Chi nhánh tại Đà Nẵng và Cần Thơ, phấn đấu thiết lập 1 văn phòng đại diện tại nước ngoài, phải mở ít nhất 1 đại lý nhận lệnh hoặc phòng giao dịch nhượng quyền tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. + Đối với hoạt động tư vấn, ngay từ khi thành lập BVSC đã thực hiện chiến lược phát triển là lấy hoạt động tư vấn làm nền tảng, trong đó chú trọng lĩnh vực tư vấn tài chính doanh nghiệp và tư vấn chuyển đổi, từ đó xây dựng hệ thống khách hàng ngay từ khâu chuyển đổi hình thức sở hữu sang công ty cổ phần và đã khẳng định vị thế của BVSC trên thị trường, thúc đẩy các hoạt động kinh doanh khác cùng phát triển. Thời gian tới, bên cạnh việc thực hiện các hoạt động tư vấn nền tảng, BVSC sẽ chú trọng phát triển và hoàn thiện các dịch vụ tư vấn một cách đa dạng và toàn diện hơn. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn của BVSC Tư vấn là một nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố. Vì vậy có rất nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Chuyên đề xin được đưa ra một số giải pháp chủ yếu sau: 3.2.1. Tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CTCK là một trong những định chế tài chính trung gian quan trọng tham gia hoạt động trên TTCK. Từ khi thành lập đến nay TTCK Việt Nam đã thu hút trên 70 CTCK được thành lập. Đây cũng là thành công mà TTCK đem lại sau hơn 7 năm đi vào hoạt động. Sự phát triển mạnh của TTCK trong thời gian qua khiến cho cuộc đua truy tìm nhân lực, đặc biệt là nhân lực cấp cao, giữa các CTCK trở nên căng thẳng. Năm nay, cùng với sự ra đời của hàng loạt CTCK và ngân hàng mới, cuộc đua này càng khốc liệt hơn. Lĩnh vực nhân lực thiếu hụt nghiêm trọng nhất tại các CTCK hiện nay là đội ngũ tư vấn tài chính doanh nghiệp. Đây là các chuyên gia có kiến thức về tài chính, thị trường, kinh doanh và hiểu biết sâu về từng ngành nghề. Đội ngũ này rất khó có qua tuyển dụng hay đào tạo mới mà thường được bổ sung từ nguồn các công ty kiểm toán, ngân hàng. Thực trạng trên đặt ra cho BVSC thách thức lớn về bài toàn nhân sự. Một trong những vấn đề BVSC cần quan tâm hiện nay là thực hiện tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: + BVSC phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với BVSC khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm trong thời gian qua. + BVSC cần tập trung đào tạo nhân lực bằng cách bổ sung và trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhân viên của mình. Hoạt động tư vấn đòi hỏi nhân viên tư vấn phải là những người nắm vững các văn bản pháp luật. Vì chỉ cần một sự điều chỉnh dù là rất nhỏ trong các quy định cũng phải được người tư vấn nắm rõ để có thể thực hiện quy trình tư vấn sao cho đúng với quy định pháp luật. Công ty có thể mời các chuyên gia trong nước và quốc tế đến để giảng giải kiến thức nghiệp vụ cho nhân viên, có thể cử nhân viên tham gia các khóa học do UBCKNN tổ chức. Nếu có thể công ty nên tạo điều kiện cho các cán bộ ở vị trí chủ chốt sang nước ngoài học tập để nâng cao năng lực lãnh đạo và điều hành công việc. Điều này sẽ đem lại hiệu quả cao cho hoạt động của công ty mặc dù chi phí tốn kém. + Định kỳ, công ty nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Điều này sẽ mang lại hiệu quả cao vì giúp cho các nhân viên hiểu rõ về công việc của mình, hiểu rõ về công việc của các nhân viên khác, giúp giải quyết những bất đồng, tranh luận trong quan điểm, suy nghĩ của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó, công ty cần phải tổ chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư. + Cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực của mình. Hoạt động tư vấn là hoạt động chất xám, đòi hỏi khối lượng kiến thức lớn và làm việc trí óc với cường độ cao nên các nhân viên tư vấn thường phải chịu áp lực hơn so với các nhân viên nghiệp vụ khác. Cho nên họ phải được hưởng chế độ đãi ngộ, lương thưởng xứng đáng. Công ty cần phải bố trí thời gian làm việc cũng như nghỉ ngơi cho nhân viên một cách hợp lý, tạo môi trường làm việc thoải mái để phát huy tinh thần làm việc năng động, sáng tạo trong từng người. 3.2.2. Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ Hiệu quả hoạt động tư vấn phụ thuộc vào việc công ty xây dựng được một quy trình nghiệp vụ hoàn thiện. Hiện nay, BVSC đã xây dựng được quy trình tư vấn nói chung và quy trình các nghiệp vụ tư vấn nói riêng (quy trình tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết) một cách khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, để việc tư vấn luôn đạt được kết quả thì BVSC cần tham khảo quy trình của các CTCK khác để bổ sung những chỗ thiếu xót và hoàn thiện quy trình tư vấn của mình. Bên cạnh đó, hoạt động tư vấn luôn được thực hiện với việc tuân theo quy định của các văn bản pháp luật (nghị định, thông tư hướng dẫn…). Vì vậy, mỗi khi có sự thay đổi trong bất kỳ văn bản pháp luật nào liên quan đến hoạt động tư vấn đều đòi hỏi các chuyên viên tư vấn nắm được để điều chỉnh sao cho quy trình tư vấn của mình phù hợp với các quy định mới. Xây dựng một quy trình nghiệp vụ hoàn chỉnh, khoa học sẽ giúp cho việc thực hiện tư vấn diễn ra một cách nhanh chóng, chính xác. Từ đó tiết kiệm được rất nhiều thời gian, chi phí cho công ty cũng như công sức cho nhân viên thực hiện tư vấn. 3.2.3. Phối hợp chặt chẽ giữa các nghiệp vụ Các hoạt động của công ty tuy thuộc những mảng nghiệp vụ khác nhau nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Ví dụ hoạt động tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn cổ phần hoá, tư vấn bán đấu giá cổ phần phát triển sẽ tạo ra khách hàng cho hoạt động tư vấn niêm yết, tư vấn đầu tư chứng khoán. Trong khi đó, hoạt động tư vấn lại là tiền đề phát triển cho hoạt động lưu ký chứng khoán, môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành. Vì vậy, BVSC cần tạo ra sự phối hợp linh hoạt giữa các hoạt động trong công ty, từ đó tăng tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. 3.2.4. Mở rộng mạng lưới khách hàng Đến nay những khách hàng đã sử dụng dịch vụ tư vấn của BVSC vẫn chỉ là những khách hàng truyền thống. Để hoạt động tư vấn phát triển BVSC cần phải có những biện pháp để mở rộng mạng lưới khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các công ty hoạt động hiệu quả luôn là các công ty biết tìm kiếm những nhu cầu của khách hàng và đáp ứng các nhu cầu đó một cách tốt nhất. Ngày nay các CTCK muốn hoạt động tốt cũng phải tuân thủ nguyên tắc này. Để mở rộng mạng lưới khách hàng của mình BVSC có thể áp dụng các biện pháp sau: + BVSC cần chủ động liên hệ và giới thiệu sản phẩm của công ty mình cho các khách hàng quen thuộc và các khách hàng tiềm năng. + BVSC cần phải hoàn thiện website của mình để thuận tiện cho việc quảng bá các dịch vụ của mình cũng như dễ dàng hơn trong việc tiếp xúc với khách hàng. Thông qua webside của mình BVSC có thể giúp khách hàng hiểu rõ lợi ích mà họ nhận được khi tìm đến công ty để được tư vấn. Khách hàng cần phải thấy được khi ký kết một hợp đồng tư vấn, lợi ích của họ không chỉ là được hưởng các dịch vụ tư vấn của công ty mà họ còn nhận được nhiều thuận lợi hơn khi tham gia vào thị trường như những ưu đãi về thuế, khả năng huy động vốn đối với công ty khi được niêm yết, những thông tin quan trọng khi được tư vấn đầu tư… + Một biện pháp nữa có thể giúp BVSC mở rộng mạng lưới khách hàng của mình là tăng cường các dịch vụ hỗ trợ sau tư vấn. Khách hàng tìm đến công ty luôn mong muốn có được sự hài lòng, công việc diễn ra suôn sẻ, tuy nhiên muốn giữ chân khách hàng, tạo tiền đề cho các hoạt động khác của công ty phát triển thì vấn đề tăng cường các dịch vụ hỗ trợ sau tư vấn cần phải được quan tâm, và thực hiện triệt để. Hoạt động này không những làm tăng doanh thu cho công ty mà còn tạo điều kiện để công ty mở rộng quy mô phát triển. 3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động marketing Hoạt động marketing có vai trò quan trọng vì đây là một trong những cách thức quảng bá thương hiệu và hình ảnh của công ty. Ngoài ra, chức năng của hoạt động này là tìm kiếm khách hàng cho công ty. Chính vì vậy, phát triển hoạt động marketing sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn. Để thực hiện điều này, BVSC cần áp dụng những biện pháp sau: + Tiến hành thu thập ý kiến khách hàng về các sản phẩm dịch vụ cung cấp, sản phẩm tư vấn của BVSC để từ đó tiếp nhận những thông tin phản hồi nhằm phát triển và cải tiến hoàn thiện những sản phẩm, dịch vụ tư vấn để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng; đồng thời nghiên cứu nhu cầu khách hàng để thiết kế và đưa ra các sản phẩm, dịch vụ tư vấn mới. + Tham dự các hội thảo chuyên đề trong nước và nước ngoài về các lĩnh vực có liên quan đến thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. + Tổ chức khảo sát nhu cầu thị trường, từ đó xây dựng và phát triển các sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường thông qua việc hợp tác với các tổ chức đầu tư trong và ngoài nước, các tổ chức phát hành. 3.2.6. Hoàn thiện hệ thống IT mới Hệ thống kỹ thuật, trình độ công nghệ thông tin hiện đại mang lại nhiều lợi thế cho một CTCK trong cuộc tranh giành thị phần. Khách hàng sẽ chọn một CTCK với hệ thống thông tin bảo mật tối ưu, website cung cấp đầy đủ thông tin, nhận định để phục vụ cho hoạt động đầu tư của họ hơn là một CTCK với trình độ công nghệ nghèo nàn, lạc hậu. Hiện nay, hệ thống IT mới của BVSC – hệ thống kiến trúc “Hướng Dịch Vụ Khách Hàng – Service Oriented Architecture” với 3 giai đoạn đang được triển khai xây dựng và đã hoàn thành giai đoạn 1 (Xây dựng hạ tầng IT). BVSC cần gấp rút hoàn thiện giai đoạn 2 (Xây dựng hệ thống phần mềm lõi) và giai đoạn 3 (Hoàn thiện quá trình xây dựng hệ thống IT) để có thể cung cấp và hỗ trợ các dịch vụ tốt nhất, thuận tiện nhất và hiện đại nhất cho khách hàng. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với các cơ quan quản lý Hoàn thiện hệ thống pháp luật Một môi trường pháp lý ổn định và đầy đủ là nhân tố đầu tiên đảm bảo lòng tin của các chủ thể tham gia TTCK. Theo đó, nhà đầu tư, các CTCK, các doanh nghiệp chỉ tham gia vào TTCK nếu nhận thấy họ được bảo vệ bởi một khuôn khổ luật pháp minh bạch và an toàn. Sự ra đời của Luật Chứng khoán và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 đã từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể tham gia TTCK Việt Nam, khắc phục được những hạn chế của Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003, đảm bảo tính công bằng, công khai, minh bạch của thị trường. Luật Chứng khoán ra đời tạo cơ sở pháp lý cho TTCK Việt Nam phát triển ổn định, an toàn, có hiệu quả, tạo niềm tin cho các chủ thể tham gia thị trường, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động trên TTCK. Một tiêu chí cần đạt được trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng cường năng lực hoạch định chính sách của UBCKNN là tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam. Việc xây dựng Luật Chứng khoán và hoàn thiện các luật có liên quan sẽ giúp cho TTCK Việt Nam hoạt động hiệu quả và ổn định cũng như hoạt động tư vấn của các CTCK phát triển. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, giám sát thị trường Hiện nay, việc giám sát TTCK vẫn được thực hiện theo hướng SGDCK và TTGDCK là nơi giám sát giao dịch, còn các ban chức năng tại UBCKNN thì giám sát việc tuân thủ điều kiện cấp phép hoặc phát hành của khối CTCK, công ty đại chúng. Với hai loại giám sát này, những hiện tượng giao dịch lũng đoạn, giao dịch bất thường, giao dịch có ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các nhà đầu tư khác ra thị trường rất ít được các nhà giám sát phát hiện và công bố. Bên cạnh đó, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phần để niêm yết, chất lượng và quản lý thông tin còn hạn chế; các quy định về quản lý, kiểm soát thị trường đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ; sự chủ động của các bộ, ngành chức năng cũng như sự phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát TTCK chưa thật tốt; năng lực quản lý giám sát thị trường của UBCKNN còn yếu. Trước những hạn chế này, UBCKNN cần phải: + Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan chức năng khác chỉ đạo tăng cường giám sát hoạt động của thị trường, phát triển thị trường các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán nhằm kiểm soát thị trường phi tập trung (OTC). + Xây dựng chương trình và tổ chức kiểm tra định kỳ hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường, tập trung vào việc đánh giá các công ty niêm yết, CTCK, công ty quản lý quỹ. + Tăng cường công tác giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt đối với các quỹ đầu tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật về tỷ lệ CP, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác. + Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên SGDCK, TTGDCK; chú trọng kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật. + UBCKNN phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có sự hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường. Cung cấp hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường Việc tăng cung hàng hóa có chất lượng cao là rất cần thiết cho TTCK cũng như đối với hoạt động tư vấn của CTCK. Tăng cung có chất lượng chính là kích cầu. Nếu quan niệm một cách hết sức thực tế, mục tiêu của nhà đầu tư trên TTCK là để kiếm tiền thì chúng ta có thể lôi cuốn các nhà đầu tư bằng cách giúp họ kiếm tiền. Điều này gần như là bất khả kháng trong các TTCK đã phát triển. Tuy nhiên, với đặc trưng TTCK Việt Nam còn trong thời kỳ sơ khai, cần thận trọng phát triển TTCK bằng những DN có chất lượng trước, những DN có khả năng tăng trưởng lợi nhuận hàng năm thì giá cổ phiếu đương nhiên sẽ tăng qua từng năm, tăng một cách có cơ sở và thực chất. Không cách gì hấp dẫn các nhà đầu tư đến với TTCK một cách hữu hiệu hơn là hạn chế được một phần rủi ro và gia tăng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận cho họ. Cần giúp nhà đầu tư kiếm tiền trước khi thuyết phục họ đổ những lượng tiền lớn hơn vào thị trường. Muốn hình thành một tầng lớp nhà đầu tư chuyên nghiệp trong mười năm nữa chúng ta phải có một lượng nhà đầu tư tham dự thị trường ngày hôm nay. Tuy nhiên, việc tăng này cần diễn ra một cách thận trọng, từng bước. Bản chất thị trường là nơi gặp gỡ cung - cầu. Giá cả hàng hoá do quan hệ cung - cầu quyết định, việc vội vã tăng cung trong khi không có một lượng cầu tương ứng có thể làm TTCK sụp đổ hoặc trầm lắng kéo dài. Ngoài ra, ngay cả khi đã có một lượng cầu tương ứng, thì lượng cầu này cũng chỉ tập trung vào những cổ phiếu tốt. Việc nhiều cổ phiếu đã đăng ký niêm yết 3, 4 năm nay mà vẫn chỉ có lượng giao dịch nhỏ bé, không hề được quan tâm, có mặt trên TTCK chỉ để… tượng trưng là bài học cần rút kinh nghiệm. Chính những doanh nghiệp yếu kém này đã và đang làm xấu đi hình ảnh TTCK Việt Nam. Như vậy, khái niệm tăng cung cần được hiểu là tăng cung có chất lượng. Những doanh nghiệp được xem xét niêm yết phải là những doanh nghiệp tốt nhất có thể. Những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết, nhưng có chất lượng kém hơn sẽ được xem xét đưa lên niêm yết sau. Việc vội vã phát triển TTCK quá nhanh không chọn lọc có thể làm “ô nhiễm” TTCK ngay từ đầu, trong khi với tiềm năng của nền kinh tế hiện tại, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra một thị trường với những doanh nghiệp rất tốt làm nền tảng. Hoàn thiện hệ thống đào tạo, cấp phép chứng chỉ hành nghề tư vấn chứng khoán Trong những năm qua, UBCKN đã tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn cho các nhân viên của CTCK và nhà đầu tư để có thể hiểu rõ hơn về TTCK. Để được cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán thì mỗi cá nhân phải yêu cầu tham gia 3 khóa học do UBCKNN tổ chức: khóa học cơ bản, phân tích và luật, và vượt qua kỳ thi cấp chứng chỉ các khóa học đó. Tuy nhiên, các khóa học này được áp dụng chung cho tất cả các cá nhân, còn chưa có chương trình riêng nào cho từng nghiệp vụ. Điều này gây nên một số hạn chế và khó khăn trong công tác nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn cho các chuyên viên tư vấn. Chính vì thế khi thị trường có những sự cố hay biến động thì các chuyên viên này cũng lúng túng không kém gì các nhà đầu tư. Từ thực trạng thiếu hụt đội ngũ chuyên viên tư vấn cả về số lượng lẫn chất lượng, UBCKNN cần phải có các chính sách, hệ thống đào tạo, cơ chế quản lý thích hợp nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, hiệu quả mà vẫn thông thoáng. Trước hết, UBCKNN phải đề ra định hướng, chương trình đào tạo cụ thể trong cả ngắn hạn và dài hạn sao cho sát với thực tế TTCK Việt Nam. Ngoài những chương trình đào tạo cơ bản như hiện nay, UBCKNN cần tổ chức thêm các khóa đào tạo chuyên sâu cho từng nhân viên nghiệp vụ nói chung cũng như chuyên viên tư vấn nói riêng. Đối với đội ngũ giảng viên, UBCKNN có thể cử cán bộ đi tu nghiệp ở nước ngoài, có thể mời các chuyên gia nước ngoài có kiến thức chuyen sâu sang giảng dạy. Sau đó, trong quá trình đào tạo, UBCKNN phải theo dõi, kiểm tra thái độ và chất lượng học tập của học viên một cách thường xuyên. Căn cứ để UBCKNN cấp giấy phép hành nghề cho nhân viên là kết quả những kỳ thi sát hạch. Thông qua đó, UBCK mới lựa chọn được những người có năng lực thực sự, có khả năng thực hiện tốt mọi nghiệp vụ nói chung cũng như nghiệp vụ tư vấn nói riêng. 3.3.2. Kiến nghị với Tập đoàn Bảo Việt Với cơ cấu sở hữu 60% thuộc về tập đoàn tài chính - bảo hiểm Bảo Việt, bên cạnh việc nhận được sự giúp đỡ của một định chế tài chính lớn tại Việt Nam, sự phụ thuộc vào tập đoàn mẹ khiến cho BVSC gặp nhiều khó khăn trong định hướng phát triển riêng của mình, do phải nằm trong định hướng phát triển chung của toàn tập đoàn. Ngay từ khi hình thành, BVSC đã chịu sự chi phối của tập đoàn mẹ, từ nguồn nhân lực thực hiện đến quá trình hoạt động. Đây là một lợi thế nhưng cũng là một bất lợi đối với BVSC. Một khi tập đoàn mẹ can thiệp quá sâu vào các hoạt động của công ty sẽ khiến công ty mất đi tính tự chủ, sẽ ỷ lại, không năng động tìm kiếm khách hàng và đổi mới mình phù hợp với sự phát triển của thị trường. Do đó, Tập đoàn tài chính – bảo hiểm Bảo Việt cần nâng cao năng lực tài chính của mình. Sự lớn mạnh của tập đoàn sẽ kéo theo sự phát triển bền vững của BVSC. Mặt khác, tập đoàn nên có các chính sách phù hợp vừa kích thích BVSC phát triển, vừa hạn chế rủi ro cho BVSC. Qua chương này, chuyên đề đã nêu lên định hướng phát triển của BVSC, một số giải pháp và kiến nghị đối với cơ quan quản lý và tập đoàn tài chính – bảo hiểm Bảo Việt nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn trên TTCK. Các giải pháp và kiến nghị được đưa ra dựa trên diễn biến trên TTCK Việt Nam, thực trạng hoạt động của BVSC giai đoạn gần đây. Qua đây, chuyên đề mong muốn đóng góp một phần vào sự phát triển của hoạt động tư vấn tại BVSC. Kết luận Cùng với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang đứng trước những cơ hội phát triển lớn lao nhưng đồng thời cũng đang phải đối mặt với các thách thức không nhỏ. Hoạt động tài chính là một hoạt động có tính phức tạp cao và luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đối với các doanh nghiệp, việc lựa chọn cho mình một đối tác tư vấn chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính là hết sức cần thiết. Với kinh nghiệm lâu năm của công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt Nam, hơn ai hết BVSC hiểu rõ những mối quan ngại của các doanh nghiệp Việt Nam. Với những hiểu biết sâu sắc về thị trường Việt Nam hiện nay cũng như các xu hướng phát triển trong tương lai, BVSC luôn biết cách tối đa hóa lợi nhuận cho các đối tác của mình. Trong suốt quá trình phát triển dài lâu của mình, BVSC đã xây dựng được uy tín cao trên thị trường và nhận được sự tin cậy của rất nhiều đối tác, trong đó có những công ty hàng đầu tại Việt Nam. Đặc biệt hơn, BVSC với kinh nghiệm vượt trội của mình trong lĩnh vực tư vấn và bảo lãnh phát hành hiện là sự lựa chọn số 1 cho các doanh nghiệp, tổ chức lớn trong quá trình tìm kiếm đối tác thực hiện các hoạt động tài chính này. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn là một mục tiêu hết sức quan trọng để nâng tầm vị thế và thương hiệu của BVSC trong nước cũng như trên trường quốc tế. Danh mục tài liệu tham khảo 1. PGS.TS. Nguyễn Văn Nam, PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa (2002), “Giáo trình thị trường chứng khoán”, NXB Hà Nội. 2. TS. Đào Lê Minh (2002), “Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán”, NXB Chính trị Quốc gia. 3. PGS.TS. Bùi Kim Yến (2007), “Giáo trình thị trường chứng khoán”, NXB Lao động Xã hội. 4. Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán do Chính phủ và UBCKNN ban hành. 5. Tạp chí chứng khoán Việt Nam. 6. Tạp chí đầu tư chứng khoán. 7. Báo cáo kết quả kinh doanh của BVSC qua các năm 8. Các trang web: + www.bvsc.com.vn + www.ssc.gov.vn + www.vse.org.vn + www.hastc.org.vn Danh mục các chữ viết tắt BVSC : Công ty Cổ phần chứng khoán Bảo Việt CTCK : Công ty chứng khoán TTCK : Thị trường chứng khoán UBCKNN : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12163.doc