LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Từ đầu những năm 90, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh t
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội.
Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, Ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai…
Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết.
Sau hơn 15 năm đổi mới, hệ thống các Ngân hàng thương mại (NHTM) của Việt Nam vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính của nhiều NHTM Việt Nam còn yếu, nợ quá hạn cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Dịch vụ Ngân hàng còn đơn điệu, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng. Đội ngũ lao động của các NHTM tuy đông về số lượng, nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp, nhất là đối với cán bộ quản lý Ngân hàng. Những tổ chức trung gian tài chính khác của Việt Nam còn yếu về cả thị phần tín dụng, nguồn vốn, trang thiết bị, trình độ chuyên môn; chưa khai thác được phân đoạn thị trường đặc trưng cũng như bổ sung cho hoạt động của các NHTM.
Hội nhập kinh tế thế giới mở ra nhiều cơ hội để các Ngân hàng trong nước thực hiện hợp tác quốc tế, có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo nhân lực… Nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với sức cạnh tranh mạnh mẽ về năng lực tài chính, cũng như chính sách kinh doanh của các Ngân hàng nước ngòai đang hoạt động tại Việt Nam.
Ngân hàng Công thương Chương Dương là một trong những chi nhánh Ngân hàng được đánh giá hoạt động kinh doanh có hiệu quả liên tục trong nhiều năm. Hoạt động Ngân hàng luôn bám sát định hướng kinh doanh của Hội đồng quản trị trụ sở chính, đồng thời bám sát chủ trương, chính sách và các chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước. Sau quá trình hội nhập, Ngân hàng Công thương nói chung cũng như các chi nhánh ngày càng mở rộng hoạt động của mình, chú trọng nhiều hơn đến những hoạt động mang lại lợi nhuận cao, điển hình như hoạt động tín dụng.
Nhận thấy xu hướng ngày càng phát triển của loại hình hoạt động này và thấy được mục tiêu chú trọng của Ngân hàng Công Thương nơi em thực tập, em rất muốn được nghiên cứu rõ hơn về đề tài: nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Mục tiêu nghiên cứu
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của Ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Với một loạt các loại hình hoạt động của mình như: mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, tín dụng, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tài trợ hoạt động của Chính phủ…hệ thống Ngân hàng đang ngày càng phát triển và thân thuộc hơn với người dân. Trong các hoạt động đó, chúng ta phải kể đến hoạt động tín dụng, loại hình hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho Ngân hàng nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Là hoạt động chủ yếu nhưng lại luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong các loại hoạt động, hoạt động tín dụng luôn được Ngân hàng chú trọng và quản lý chặt chẽ. Do đó việc phân tích và đánh giá hoạt động tín dụng của Ngân hàng là rất cần thiết. Vì thế khi phân tích hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đề tài sẽ tập trung phân tích các yếu tố cho vay, thu nợ, dư nợ, nợ quá hạn. Qua đó đánh giá kết quả về hiệu quả sử dụng vốn của chi nhánh, đồng thời đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở kiến thức đã được học ở trường, những kiến thức thu nhận, tích luỹ được trong quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương và qua sách báo, em sử dụng một số phương pháp sau đây trong việc nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp thu thập số liệu từ báo cáo hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
- Phương pháp phân tích thống kê
- Phương pháp so sánh sự biến động của dãy số hoạt động qua các quý trong suốt năm vừa qua tại chi nhánh.
Phạm vi nghiên cứu
Lĩnh vực hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương rất đa dạng và phong phú. Nhưng vì thời gian thực tập và khả năng tiếp nhận của bản thân có hạn nên em không thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của Ngân hàng. Nên phạm vi của đề tài chỉ tập trung phân tích tình hình cho vay vốn của Ngân hàng Công thương Chương Dương qua từng quý của năm 2007 và một số tóm lược so sánh nhỏ với năm 2006.
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại
Khái niệm Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Nghề Ngân hàng được bắt đầu từ việc cho vay nặng lãi của những người cho vay, từ việc đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng, hay từ yêu cầu cất trữ tiền của những người giàu có…Càng ngày Ngân hàng càng được hiện đại hóa và đa dạng hóa. Cũng chính vì vậy, có nhiều cách định nghĩa về Ngân hàng. Ta có thể nghiên cứu Ngân hàng theo các khía cạnh khác nhau như theo chức năng,theo các dịch vụ hay vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế:
Nếu nhìn vào khía cạnh những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp thì “ Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Trong Luật các tổ chức tín dụng lại đưa ra khái niệm “ Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán
Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại
NHTM có các hoạt động cơ bản sau: huy động vốn, sử dụng vốn và các hoạt động khác
Huy động vốn
Nghiệp vụ này bao gồm những hoạt động tạo ra nguồn tiền cho Ngân hàng.
Vốn của NHTM bao gồm:
Vốn chủ sở hữu
Để có thể thành lập Ngân hàng, các chủ Ngân hàng phải có một nguồn vốn ban đầu nhất định (theo quy định của pháp luật). Đây là loại vốn có thể được sử dụng lâu dài, hình thành nên tài sản cố định cho Ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
Nguốn vốn hình thành ban đầu: vốn này được hình thành tùy theo tính chất của mỗi loại hình Ngân hàng. Vốn có thể do nhà nước cấp đối với NHTM nhà nước, hay do các cổ đông đóng góp đối với NHTM cổ phần, có thể là vốn góp của các bên liên doanh đối với NHTM liên doanh, hay là vốn tự có của tư nhân đối với NHTM tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động của mình, các Ngân hàng có thể tiếp tục gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều cách khác nhau, bao gồm
Nguồn từ lợi nhuận không chia: Các NHTM thu lợi nhuận từ việc cho vay, đầu tư, hay các hoạt động trung gian. Trong điều kiện lợi nhuận cao, chủ Ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Ngoài ra, NHTM còn có thể bổ sung vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động.
Các quỹ: Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp khác, đều phải có các quỹ để sử dụng với các mục đích riêng, như quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…Nguồn vốn từ các quỹ này được hình thành từ thu nhập của Ngân hàng.
Nguồn vay nợ có thể được chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM mà có khả năng chuyển thành vốn cổ phần cũng có thể được coi là vốn sở hữu của Ngân hàng
Vốn nợ
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng nhất của Ngân hàng. Tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động tiền gửi từ tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ…
Các loại tiền gửi trong Ngân hàng:
Tiền gửi thanh toán( tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán):Đây là khoản tiền gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích nhờ Ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Nguồn tiền này được gửi từ các doanh nghiệp hoặc cá nhân. Ngân hàng sẽ thực hiện thanh toán hộ chủ tài khoản trong phạm vi số dư của khoản tiền gửi đáp ứng được yêu cầu thanh toán. Nhìn chung, lãi suất của loại tiền gửi này rất thấp (hoặc bằng không) .
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Các doanh nghiệp, tổ chức xã hội luôn có các khoản phải chi trả sau một thời gian xác định như lương nhân viên, đóng phí bảo hiểm…Do vậy, để không lãng phí nguồn tiền đó và để tăng thu, các doanh nghiệp có thể gửi vào Ngân hàng để hưởng lãi suất. Mức lãi suất của khoản tiền gửi này cao hơn tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Dân cư là lượng khách hàng lớn và tiền năng mà hiện này các NHTM đang ngày càng chú trọng phát triển. Các Ngân hàng đưa ra hàng loạt những ưu đãi và tiện ích để có thể thu hút lượng khách hàng này, như đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn, các kì hạn gửi tiền đa dạng. Ngân hàng cũng mở thêm rất nhiều chi nhánh để tạo điều kiện cho khách hàng cũng như thu hút tối đa nguồn tiền gửi này.
Tiền gửi của các Ngân hàng khác: Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, do vậy các Ngân hàng cũng có nhu cầu gửi tiền tại các Ngân hàng khác với mục đích như thanh toán hộ, hay một số mục đích khác.
Tiền vay và các nghiệp vụ đi vay của NHTM
Ngoài nguồn có được do huy động, trong những trường hợp cần thiết, các Ngân hàng còn có thể đi vay
Vay NHNN: Ngân hàng nhà nước là Ngân hàng của các Ngân hàng. Khi các NHTM thiếu vốn hoặc gặp khó khăn trong thanh toán có thể vay của NHNN. Ngoài ra NHTM còn vay NHNN trong trường hợp thiếu hụt dự trữ. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu. Ngòai ra , NHNN còn có thể cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. NHNN quản lí chặt chẽ các khoản vay này.
Vay các tổ chức tín dụng khác: Các Ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Các Ngân hàng có mức dự trữ vượt yêu cầu do huy động được nhiều hay cho vay ít có thể cho các Ngân hàng khác vay để kiếm lời. Các Ngân hàng đang gặp khó khăn trong thanh toán có thể vay của các Ngân hàng này. Hiện nay các Ngân hàng đều tham gia vào thị trường liên Ngân hàng, do đó việc vay mượn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng là rất đơn giản.
Vay trên thị trường vốn: Đây là việc các Ngân hàng phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu). Các khoản vay trên thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Việc vay trên thị trường vốn phụ thuộc nhiều vào uy tín của Ngân hàng ( thông thường không cần đảm bảo).Ngoài ra, những Ngân hàng trả mức lãi suất cao cũng có thể vay được nhiều. Nghiệp vụ vay nợ trên thị trường này khá phức tạp. Các Ngân hàng phải nghiên cứu kĩ thị trường để đưa ra các quyết định về quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp…
Vốn nợ khác
Bao gồm nguồn ủy thác, nguốn trong thanh toán, các nguồn khác
Tiền ủy thác: Các Ngân hàng thực hiện dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ…
Tiền trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt như séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C,…
Tiền khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…
Sử dụng vốn
Nghiệp vụ ngân quỹ
Tiền mặt trong két: Đây là lượng tiền mặt tồn quỹ phục vụ cho các giao dịch thường ngày của Ngân hàng. Lượng tiền này cao hay thấp phụ vào nhu cầu chi tiêu và khả năng thu hút tiền mặt mỗi thời kì, khoảng cách giữa NHTM và kho tiền của NHNN.
Tiền dự trữ: Các Ngân hàng đều phải giữ lại một phần trong số vốn mà họ thu được, bao gồm: Tiền dự trữ bắt buộc, tiền dự trữ vượt mức là số tiền dự trữ ngoài dự trữ bắt buộc, tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng trung ương và Ngân hàng đại lí.
Nghiệp vụ tín dụng
Đây là hoạt động đem lại lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng. Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng sau đó thu hồi gốc và lãi theo định kì. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Ngân hàng thương mại được cho các cá nhân, tổ chức vay vốn dưới các hình thức : cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống,cho vay trung dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ đời sống.
NHTM chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay. Việc cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng và theo quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay và giới hạn cho vay. . Ngân hàng thương mại có quyền xử lí tài sản đảm bảo tiền vay của khách hàng, tài sản của người bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh để thu hồi nợ
Hoạt động đầu tư
NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn mua cổ phần các doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Mức góp vốn, mua cổ phần của NHTM trong một doanh nghiệp, tổng mức góp vốn, mua cổ phần của NHTM trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tố đa theo quy định của NHNN. Trong các hình thức đầu tư thì đầu tư vào chứng khoán là khá phổ biến. NHTM nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết.Nghiệp vụ đầu tư giúp Ngân hàng đa dạng hóa hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủ ro và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng, đồng thời khai thác và sử dụng tối đa nguồn vốn đã huy động.
Các hoạt động khác
NHTM thực hiện các hoạt động khác theo yêu cầu của khách hàng, bao gồm:
- Nghiệp vụ thanh toán: NHTM nắm giữ 1 lượng không nhỏ các khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, do vậy đương nhiên NHTM là một trung gian thanh toán nhanh chóng, thuận tiện của khách hàng. NHTM cung cấp các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt dưới nhiều hình thức như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán…
- Nghiệp vụ thu hộ: Ngân hàng thay mặt khách hàng nhận tiền
- Nghiệp vụ thương mại: Ngân hàng mua hộ hay bán hộ khách hàng (chủ yếu là chứng khoán)
- NHTM được quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lí trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động Ngân hàng, kể cả việc quản lí tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân
- NHTM cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng.
- NHTM thực hiện kinh doanh các loại ngoại tê
- …
Tín dụng và vai trò tín dụng
Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa giữa người sở hữu với người sử dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lợi tức khi đến hạn.
Các hình thức tín dụng
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một năm đến năm năm, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên năm năm, tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng
Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dung hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho vay dự trữ hàng hoá đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, cho vay để mua phân bón, giống, thuốc trừ sâu đối với các hộ sản xuất nông nghiệp.
Tín dụng lưu động thường được sử dụng để cho vay bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này thường được chia ra thành các loại sau: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được dung hình thành tài sản cố định. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới, thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là trung và dài hạn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng dành cho các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá.
Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng dành cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dung như mua sắm nhà cửa, xe cộ…Tín dụng tiêu dung được thể hiện bằng hình thức tiền hoặc bán chịu hàng hoá. Việc cấp tín dụng bằng tiền thường do các Ngân hàng, quỹ tiết kiệm, hợp tác xã tín dụng và các tổ chức tín dụng khác cung cấp. Bên cạnh hình thức tín dụng bằng tiền còn có hình thức tín dụng được biểu hiện dưới hình thức bán trả góp do các công ty, cửa hàng thực hiện.
Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng
Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
Nguyên nhân của sự xuất hiện loại hình tín dụng thương mại là do sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua hoặc bán sản phẩm, vì vậy có hiện tượng một số nhà doanh nghiệp muốn bán sản phẩm của mình trong khi có một số doanh nghiệp muốn mua nhưng không có tiền. Trong trường hợp này nhà doanh nghiệp với tư cách là người muốn bán có thể bán chịu cho doanh nghiệp là người muốn mua.
Như vậy, người bán đã chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn đã được thỏa thuận người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và lợi tức. Đây chính là hình thức tín dụng thương mại.
Tín dụng Ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và các cá nhân. Trong nền kinh tế, Ngân hàng đóng vai trò là một định chế tài chính trung gian, vì thế trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và các cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Ngược lại, với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân.
Đối tượng của tín dụng Ngân hàng: Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua Ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng Ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản như xây dựng các xí nghiệp mới, các cơ sở kinh tế hạ tầng, cải tiến và đổi mới kỹ thuật.
Ngoài ra tín dụng Ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu vốn tín dụng tiêu dung của cá nhân.
Tín dụng nhà nước: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước biểu hiện là người đi vay.
Vai trò tín dụng Ngân hàng
Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế
Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục.
Ngoài ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp, vì vậy tín dụng động viên hàng hóa đi vào sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, kỹ thuật tiến bộ vào trong quá trình sản xuất.
Riêng trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp vẫn luôn là khả năng tiềm ẩn, thông qua đầu tư tín dụng góp phần sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác thông qua hoạt động tín dụng mà sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Hoạt động của các trung gian tài chính là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các nhà doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn
Trong điều kiện nước ta, nông nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu cần thiết cho xã hội đang trong quá trình Công nghiệp hóa và là ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong điều kiện nước ta hiện nay, trong giai đoạn trước mắt Nhà nước phải tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết những nhu cầu tối thiểu của xã hội đồng thời tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế khác.
Bên cạnh đó Nhà nước còn tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở và lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí.
Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Nhờ vậy mà hoạt động tín dụng đã kích thích sử dụng vốn và sử dụng có hiệu quả.
Khi sử dụng vốn vay Ngân hàng doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng, tức phải là hoàn trả nợ vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi trong hợp đồng tín dụng, bằng các tác động như vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp.
Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài
Trong diều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với thị trường thế giới, kinh tế “ đóng” đã nhường bước cho kinh tế “mở”, tín dụng Ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
Phương thức cho vay
- Cho vay từng lần: mỗi lần cho vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các dự án phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay trả góp: khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận số lãi tiền vay phải trả, cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: tổ húc tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: tổ chức tín dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.
- Các phương thức cho vay khác phù hợp qui định của nhà nước.
Đảm bảo tín dụng
Vai trò của việc đảm bảo tín dụng
Đảm bảo tín dụng là thiết lập những ràng buộc pháp lý của khoản vay với những tài sản của người vay hay người thứ ba để khi không thu được nợ có thể dựa vào việc bán tài sản để thu hồi nợ. Đó là cách để không bị ràng buộc với rủi ro kinh doanh của khách hàng bằng cách thiết lập nguồn thu nợ thứ hai.
Nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với cho vay ngắn hạn về vốn lưu động, là nguồn khấu hao và lợi nhuận đối với các khoản vay trung và dài hạn để hình thành tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng nguồn thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là thu nhập của cá nhân như: tiền lương, các khoản thu nhập từ cổ tức, tiền cho thuê nhà và các khoản thu nhập khác
Các hình thức đảm bảo tín dụng
Đảm bảo đối vật: là hình thức xác định những cơ sở pháp lý để chủ nợ (Ngân hàng) có được những quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng vay nhằm tạo ra nguồn thu nợ thứ hai khi người mắc nợ không trả hay không còn khả năng trả nợ.
Phương thức đảm bảo đối vật
Thế chấp
* Thế chấp là bên vay vốn dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi nguồn thu thứ nhất bị mất.
* Có các loại thế chấp sau:
- Căn cứ theo pháp lý, thế chấp có hai loại:
+ Thế chấp pháp lý hay thế chấp sang nhượng chủ quyền: là phương thức thế chấp mà khách hàng lập sẵn một giấy sang nhượng chủ quyền để khi không có tiền trả nợ, Ngân hàng có quyền bán tài sản để thu nợ hay quản lý tài sản.
+ Thế chấp công bằng: là cách ngân hàng chỉ giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản đảm bảo cho khoản vay. Như vậy khi khách hàng không có tiền trả nợ, Ngân hàng phải đưa ra tòa án mới phát mại được tài sản theo phán quyết của tòa.
- Căn cứ vào việc thế chấp cho nhiều món vay, người ta phân biệt thành:
+ Thế chấp thứ nhất: là tài sản đang thế chấp cho món nợ thứ nhất.
+ Thế chấp thứ hai: là tài sản đang thế chấp cho món nợ thứ nhất, nhưng giá trị thế chấp còn thừa ra, khách hàng đem thế chấp cho Ngân hàng khác để vay thêm một món nợ nữa. Tất nhiên phải có sự thỏa thuận của hai Ngân hàng vì chỉ có một bản chính quyền sở hữu tài sản.
Cầm cố
Là tài sản đảm bảo tiền vay thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, được giao cho Ngân hàng cất vào kho để đảm bảo chắc chắn nguồn thu nợ thứ hai. Tài sản cầm cố thường là động sản dễ di chuyển nên ngoài việc Ngân hàng nắm giữ giấy chủ quyền Ngân hàng còn phải nắm giữ luôn tài sản đó, khi khách hàng vay không trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng Ngân hàng được quyền phát mại tài sản để thu hồi nợ.
Đảm bảo bằng tiền gửi
Tiền gửi dùng làm đảm bảo rất tiện lợi vì dễ bảo quản, hầu như không có rủi ro và xử lý thu hồi nợ rất nhanh, đối với tiền gửi có kỳ hạn chỉ phải làm một bản cam kết để cho Ngân hàng được trích tiền gửi thu nợ và giao sổ tiền gửi cho Ngân hàng.
Đảm bảo bằng tích trái
Tương tự như đảm bảo bằng trái phiếu, có hai cách:
- Đảm bảo không thông báo: khách hàng vay chỉ cam kết đem tiền thu được từ các con nợ trả cho Ngân hàng mà không thông báo cho các con nợ biết.
- Đảm bảo có thông báo: khách hàng vay thông báo cho các con nợ biết họ phải thanh toán với Ngân hàng thay vì phải thanh toán cho khách hàng vay
Đảm bảo bằng hợp đồng nhận thầu.
- Hợp đồng xây dựng hay cung cấp thiết bị, đều chứa đựng cam kết trả tiền khi xây dựng hay cung cấp thiết bị và vật tư xong, nên có thể trở thành vật đảm bảo vay, Ngân hàng chỉ cần bên đấu thầu cam kết sẽ trả cho Ngân hàng cho vay bên nhận thầu là hợp đồng sẽ trở thành vật đảm bảo, để công ty xây lắp hay công ty cung ứng dịch vụ thiết bị vật tư vay vốn Ngân hàng thực hiện việc đã nhận thầu.
Đảm bảo đối nhân
Đảm bảo đối nhân là sự bảo lãnh của một hoặc nhiều người cho khách hàng vay Ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng vay không trả được nợ, người bảo lãnh sẽ trả thay. Như vậy có ba chủ thể tham gia vào việc vay vốn Ngân hàng.
+ Khách hàng vay là người được bảo lãnh.
+ Ngân hàng là chủ nợ, đồng thời là người được hưởng sự bảo lãnh để tránh rủi ro không trả nợ của khách hàng vay.
+ Người bảo lãnh là người cam kết trả nợ thay khi người được bảo lãnh không trả được nợ.
Các loại đảm bảo đối nhân
Căn cứ vào độ an toàn của bảo lãnh.
- Bảo lãnh không có tài sản đảm bảo: thường dùng cho những doanh nghiệp hay cá nhân có khả năng tài chính vững mạnh và có uy tín trên thương trường hay đối với Ngân hàng. Thường một Ngân hàng bảo lãnh cho một khách hàng quen của mình sang vay một Ngân hàng bạn cũng có thể dùng bảo lãnh không có tài sản đảm bảo, Ngân hàng cho vay biết rằng vì uy tín Ngân hàng bảo lãnh không từ chối thi hành nghĩa vụ bảo lãnh khi khách hàng vay không trả được nợ.
- Bảo lãnh bằng tài sản của người bảo lãnh: khi Ngân hàng không quen biết người bảo lãnh hoặc không tin tưởng ở uy tín của người bảo lãnh, Ngân hàng yêu cầu người bảo lãnh phải thế chấp tài sản của mình để đảm bảo việc thi hành nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy trong trường hợp người bảo lãnh không trả nợ thay cho người được bảo lãnh, Ngân hàng có thể phát mại tài sản này để thu hồi nợ.
Căn cứ vào phạm vi bảo lãnh.
- Bảo lãnh riêng biệt: là bảo lãnh riêng cho một món nợ cụ thể theo phương thức cho vay theo số dư và dùng tài khoản cho vay thông thường.
- Bảo lãnh liên tục: là bảo lãnh cho một hạn mức tín dụng tối đa hay mức thấu chi tối đa. Phương thức bảo lãnh này dùng trong phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng, người bảo lãnh chỉ trả nợ thay cho người được bảo lãnh số nợ thực tế không trả được nếu số nợ này nhỏ hơn mức bảo lãnh tối đa.
Trình tự xét một bảo lãnh đối nhân
Xem xét tư cách pháp nhân của người bảo lãnh.
- Người bảo lãnh phải c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7570.doc