LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây đã có nhiều cố gắng trong hoạt động kinh doanh của Ngành, đặc biệt là trong công tác tín dụng. Do đó, kết quả hoạt động tín dụng ngày càng ổn định và phát triển vững vàng. Tuy nhiên, công tác tín dụng luôn hàm chứa những yếu tố rủi ro, nhất là kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, vì vậy NHNo Hà Tây cần đưa ra nhiều giải pháp có hiệu quả hơn nữa.
Qua nghiên cứu tình hình thực trạng tí
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n dụng tại NHNo & PTNT Hà Tây, em quyết định chọn chuyên đề: “nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây” nhằm góp thêm ý kiến của mình trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng và từng bước tối ưu hoá lợi nhuận Ngân hàng. Bài viết gồm ba phần chính:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây
Chương III: Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Tây.
Trong khi thực hiện chuyên đề này, em đã cố gắng rất nhiều, song không tránh khỏi những khiếm khuyết, em mong thầy, cô và bạn đọc chỉ bảo để bài viết này hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn GS. TS Cao Cự Bội – giáo viên hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NHTM
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Sự ra đời và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng gắn liền với sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của tín dụng ngân hàng, đồng thời sự phát triển của tín dụng ngân hàng cũng thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hình thức sơ khai của tín dụng bắt nguồn từ việc cho vay nặng lãi, các ngân hàng đã dùng vốn tự có để duy trì hoạt động của họ. Từ thực tế họ nhận ra rằng người gửi và người rút tiền không rút cùng một lúc. Do đó họ sử dụng tạm thời một khoản tiền gửi của khách cho vay khiếm lời. Hoạt động này giúp ngân hàng tăng nhanh lợi nhuận, do đó các ngân hàng đều tìm cách để mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Nhờ đó mà các ngân hàng đã huy động ngày càng được nhiều tiền gửi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng cho vay và giảm lãi suất cho vay.
Cho vay ban đầu được thông qua ngân hàng của các thợ vàng, họ cho các cá nhân giàu có vay chủ yếu để chi tiêu. Một số chủ ngân hàng mở rộng hình thức cho vay đối với vua chúa, một phần nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh. Hình thức cho vay là thấu chi – tức là cho khách chi nhiều hơn số tiền gửi. Tình thế này đã đẩy nhiều ngân hàng đến bờ vực phá sản, tác động xấu đến việc buôn bán. Trước tình đó, các nhà buôn đã đứng ra thành lập ngân hàng thương mại đầu tiên. Như vậy ngân hàng thương mại được hình thành từ tư bản thương nghiệp, và gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp.
Ban đầu các ngân hàng thương mại chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu, nay mở rộng hình thức cho vay, cho vay dài hạn và trung hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản, như ngân hàng ACB, ngân hàng HABUBANK.
Như vậy xét về bản chất thì tín dụng ngân hàng không thay đổi: một bên là ngân hàng – bên cho vay và một bên là các cá nhân, doanh nghiệp – bên đi vay. Bên đi vay sẽ phải trả bên cho vay cả gốc và lãi nhất định sau một thời gian thoả thuận giữa hai bên. Sự thay đổi ở đây là đa dạng hoá hình thức tín dụng, mở rộng quy mô, đối tượng, thời gian, không gian cho vay.
Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo tiếng Việt tín dụng là biểu hiện mối quan hệ vay mượn, hoàn trả giữa các chủ thể. Theo định nghĩa của Mác: “tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”.
Như vậy, quan hệ tín dụng bao gồm hai mối quan hệ cơ bản cho vay và hoàn trả. Một quan hệ tín dụng chỉ được hoàn tất và kết thúc khi người vay đã hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay. Ở đây cần hiểu rõ các nội dung sau:
Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái vật chất tuỳ theo sự thoả thuận giữa hai bên.
Người đi vay chỉ được quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định theo sự thoả thuận trước. Hết thời hạnN, người đi vay phải có nghĩa vụ hoàn trả cho người cho vay.
Lượng giá trị được hoàn trả bao gồm giá trị gốc và lãi tiền vay hay còn gọi là lợi tức.L
Đặc điểm tín dụng
Tín dụng ngân hàng có một số đặc điểm cơ bản sau:
Nó được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và đã được giải phóng ra khỏi chu kỳ kinh doanh, là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, với sự tham gia trong vai trò trung gian của các ngân hàng thương mại.
Thu nhập của dân cư tăng và xuất hiện sự dư thừa tiền tệ, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng rủi ro... của các tổ chức kinh tế được ngân hàng huy động và là nguồn vốn tín dụng chủ yếu của ngân hàng. Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng hoàn toàn khác với tín dụng thương mại - phụ thuộc hoàn toàn vào quy mô, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và không phải là vốn tiền tệ được giải phóng ra khỏi sản xuất kinh doanh. Đây cũng là một đặc điểm chứng tỏ tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phát triển cao hơn tín dụng thương mại.
Quá trình vận động của vốn tín dụng ngân hàng tương đối độc lập so với sự vận động của quá trình sản xuất kinh doanh:
Khi hoạt động sản xuất kinh doanh được mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn tăng có thể dẫn đến nhu cầu về vốn tín dụng tăng, từ đó tín dụng ngân hàng phục vụ đắc lực cho sản xuất kinh doanh.
Sản xuất kinh doanh không thay đổi nhưng nhu cầu tín dụng vẫn tăng do hoạt động tín dụng còn đáp ứng nhiều nhu cầu khác ngoài sản xuất kinh doanh như tiêu dùng, trả nợ nước ngoài...
Cũng có thể khi sản xuất kinh doanh mở rộng và phát triển, nhu cầu vốn phát triển nhưng quy mô vốn tín dụng ngân hàng có thể không đổi do có thể có vốn từ các nguồn khác (phát hành tín phiếu, trái phiếu, kêu gọi viện trợ...)
Do vậy, tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng cả về khối lượng, thời hạn cho vay bằng các khoản vốn không phải chỉ của nó mà cả vốn huy động. Đồng thời nhờ có tín dụng mà ngân hàng đã mở rộng được cả về phạm vi cũng như lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, tín dụng ngân hàng không phải không có những nhược điểm của nó. Đó chính là tính rủi ro của hoạt động tín dụng tương đối cao do đó các ngân hàng sẽ dễ bị mất vốn, hiệu quả hoạt động cũng như chất lượng tín dụng vì vậy sẽ giảm.
Một số vấn đề cơ bản của tín dụng
Nguồn cho vay
Vốn tự có và các quỹ của ngân hàng.
Vốn huy động trong và ngoài nước bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu hoặc huy động tiền gửi.
Vốn ủy thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
Điều kiện về đối tượng vay vốn
Luật ngân hàng và luật tín dụng ban hành: tất cả những khách hàng được cho vay phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
Có tư cách pháp nhân, thể nhân đầy đủ.
Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả.
Có vật tư hay hàng hóa tương đương, tài sản thế chấp, đảm bảo tiền vay hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo quy chế của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
Có kế hoạch trả nợ gốc và lãi ngân hàng.
Sử dụng tiền vay đúng mục đích.
Quy trình thẩm định dự án đầu tư
Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết.
Xử lý thông tin, đánh giá, phân tích.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
+ Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn.
+ Phân tích tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức cũng như của cá nhân cần vay vốn trong những năm gần đây (tối thiểu là 2 năm).
Phân tích mục đích của vay vốn, thái độ và đạo đức của khách hàng.
Phương diện kỹ thuật.
Khả năng trả nợ, lãi và tính khả thi của dự án (trong đó hai chỉ tiêu quan trọng nhất là giá trị hiện tại ròng NPV và tỷ suất doanh lợi IRR).
+ Lập tờ trình kết quả thẩm định. Quá trình thẩm định là một khâu quan trọng không thể thiếu với mỗi dự án cho vay nhằm tránh rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng. Thẩm định yêu cầu cao đối với cán bộ thẩm định cả về trình độ chuyên môn cũng như tư cách đạo đức, nó quyết định sự thành công của khoản tín dụng đó.
Tầm quan trọng của tín dụng
Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng có thể cho thấy vai trò thiết yếu của tín dụng ngân hàng đối với sự vận hành của nền kinh tế. Dưới đây, ta có thể thấy được một số vai trò chủ yếu của tín dụng trong nền kinh tế:
Hoạt động tín dụng đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân trong nền kinh tế.
Với mục tiêu lớn là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước cũng như nhu cầu phát triển của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt quyết liệt như hiện nay thì nhu cầu về vốn để đổi mới trang thiết bị công nghệ sản xuất cũng như phát triển sản xuất, mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ... là rất lớn. Do đó mở rộng nguồn vốn để đầu tư phát triển là một yêu cầu bức thiết đối với các doanh nghiệp cũng như các tổ chức kinh tế khác. Thực tế cho thấy phần vốn chủ yếu của các công ty là huy động được từ các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các ngân hàng thương mại thông qua các hình thức vay mới, chiếm tỷ trọng lớn (61,9%).
Mặt khác ở nước ta hiện nay thị trường chứng khoán mới ở giai đoạn sơ khai, đối tượng phát hành còn hạn chế cũng như khuôn khổ pháp lý, môi trường kinh tế, thói quen, tâm lý người dân... chưa cho phép lưu hành trái phiếu, cổ phiếu một cách rộng rãi để nó có thể là nguồn vốn cơ bản của các công ty. Do vậy tín dụng ngân hàng thực sự gần như là con đường duy nhất đối với các dự án đầu tư chiều sâu, phát triển sản xuất, hiện đại hóa và cải tiến công nghệ. Từ những khoản tín dụng đó có thể nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng sinh lời, tăng thu nhập cho người lao động, đời sống nhân dân được cải thiện và các khản thu của Nhà nước cũng tăng theo.
Nhờ vào hoạt động tín dụng ngân hàng, các tổ chức tín dụng có thể tăng cường kiểm tra, giám sát với khách hàng vay vốn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân.
Tín dụng là hoạt động chính đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng. Nó đòi hỏi ngân hàng phải kiểm soát khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít ra là cũng phải dự tính, phán đoán được khả năng này nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng và hiệu quả hoạt động cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Nếu một khoản vay nào đó thất thoát thì trước tiên làm ngân hàng không còn khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng có trách nhiệm với các cổ đông đảm bảo mức chia lãi cổ phần hợp lý cũng như mức lương nhất định đối với nhân viên. Chính vì vậy, ngân hàng luôn phải thận trọng đối với các khoản tín dụng và tăng cường kiểm soát đối với các khách hàng vay để xem khoản vay đó có sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả không,... đồng thời có thể tư vấn chuyên môn cho khách hàng. Do vậy chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao, đem lại lợi lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng, rộng hơn là cho cả nền kinh tế quốc dân.
Thông qua hoạt động tín dụng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông, ổn định thị trường. Chi phí giao dịch là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay không của khách hàng. Với mỗi khoản giao dịch, có các khoản chi phí cố định (chiếm tỉ lệ chủ yếu) và chi phí khác phụ thuộc từng loại giao dịch, do vậy với khối lượng giao dịch càng nhỏ thì chi phí giao dịch bình quân cho mỗi đồng vay, cho vay là càng lớn.
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác chuyên môn hóa trong lĩnh vực này nên nó sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí giao dịch cho khách hàng (có thể giao dịch với lượng tiền lớn).
Ngoài ra, ngân hàng thương mại đóng vai trò người trung gian trong hoạt động tín dụng, thực hiện huy động vốn bằng nhiều hình thức những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho những người cần vốn vay đã tránh được sự lãng phí và giúp cho nền kinh tế phát triển hơn.
HIỆU QUẢ TÍN DỤNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
Hiệu quả tín dụng
Tín dụng ngân hàng được xem như là có hiệu quả cao khi vốn vay được của khách hàng sử dụng vào đúng mục đích, ngân hàng thu được cả gốc và lãi, còn doanh nghiệp vừa trả được nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được chi phí vừa có lợi tức. Như vậy, ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội .
Để có thể đạt được hiệu tín dụng cao thì hoạt động quản lý tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích, đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại của chất lượng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và quyết liệt.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng
Tín dụng ngân hàng là hoạt động “đi vay để cho vay”, do đó chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào công tác huy động và cho vay vốn. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa hoạt động của ngân hàng và các hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng của xã hội và đồng thời tín dụng từ lâu đã được sử dụng như một công cụ cung cấp nguồn vốn với lãi suất ưu đãi cho những người thiếu vốn, khó khăn để họ có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, áp dụng kỹ thuật mới, mở rộng thị trường... từ đó mà tăng thu nhập... Các khoản tín dụng do đó có vai trò lớn trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như xã hội.
Đối với các ngân hàng thương mại (là các tổ chức kinh doanh tiền tệ) để đánh giá hiệu quả tín dụng, ngoài các chỉ tiêu định tính, phải dựa vào các chỉ tiêu định lượng cụ thể sau:
Huy động vốn
Một ngân hàng thương mại luôn đáp ứng được nhu cầu vay của khách hàng và có đủ khối lượng tiền khách hàng cần rút sẽ tạo niềm tin cho khách hàng và chứng tỏ được tiềm lực tài chính mạnh của mình. Đồng thời với đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, ngân hàng phải tính toán để cho lợi nhuận của mình được đảm bảo một tỉ lệ nhất định đối với mỗi khoản cho vay.
Muốn đạt được những tiêu chuẩn đó, ngân hàng phải có khả năng huy động được những nguồn vốn có thời hạn dài với chi phí thấp nhất có thể được. Khả năng huy động vốn được thể hiện ở hai chỉ tiêu:
Tổng số vốn huy động được và tốc độ tăng của nguồn vốn này qua mỗi năm thể hiện tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn của ngân hàng.
Hiện nay ngân hàng nhà nước không quy định tỉ lệ lãi suất bắt buộc mà thay bằng lãi suất cơ bản và tỉ lệ dao động. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại có thể điều chỉnh dễ dàng đầu vào và đầu ra của tín dụng bằng các chính sách lãi suất nhằm làm cân đối bảng cân đối tài sản của mình. Nếu xét thấy số lượng khách hàng rút tiền ra tăng hay nhu cầu vay vốn tăng trong hiện tại hay dự đoán trong tương lai, các ngân hàng sẽ thực hiện huy động vốn và đó sẽ là biểu hiện cụ thể của mở rộng tín dụng và ngược lại.
Cơ cấu của nguồn vốn huy động được. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng vay của ngân hàng với những đối tượng khác nhau và đồng thời cũng thể hiện khả năng ổn định và cho vay của ngân hàng. Nếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động được, vốn trung và dài hạn chiếm một tỷ trọng đáng kể thì ngân hàng có khả năng ổn định cao và có thể mở rộng đối tượng cho vay ra trung và dài hạn. Nhưng hiện nay phần lớn tỉ lệ vốn huy động được chủ yếu là vốn ngắn hạn từ 6-12 tháng. Trong số này, các ngân hàng chỉ được trích một tỉ lệ nhỏ cho vay trung và dài hạn còn chủ yếu là các khản tín dụng ngắn hạn. Ngân hàng không dám mở rộng đối tượng cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn bởi nếu không huy động kịp vốn cho những khoản trả nợ ngắn hạn khi đến kỳ đáo hạn thì uy tín của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đó là một ví dụ cơ bản về ảnh hưởng của cơ cấu nguồn vốn đối với hiệu quả tín dụng ngân hàng.
Sử dụng vốn
Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ càng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được. Đối với các nguồn vốn huy động, ngân hàng phải trả lãi suất dù sau đó có cho vay lại hay sử dụng vào các mục đích khác hay không. Do đó nếu nguồn vốn đã huy động được mà không sử dụng chiếm tỉ lệ lớn, ngân hàng sẽ bị thua lỗ.
Dư nợ
Chỉ tiêu rất quan trọng trong đáng giá hiệu quả tín dụng ngân hàng thương mại. Qua đó ta có thể nghiên cứu được biến động quy mô, khối lượng tín dụng, mức độ phát triển của nghiệp vụ, chứng tỏ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là đáng tin cậy và có hiệu quả, nói chung là khoản tín dụng có chất lượng cao.
Lợi nhuận
Bên cạnh việc phải thực hiện một số chính sách xã hội của Nhà nước, Ngân hàng thương mại phải hướng tới thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình đó là tối ưu hoá lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại thu được lợi nhuận tín dụng từ khoản chênh lệch lãi suất đi vay và lãi suất cho vay. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với những ngân hàng chưa phát triển dịch vụ ngân hàng, nguồn thu từ hoạt động tín dụng là chủ yếu. Nếu tín dụng không đạt chất lượng tốt thì không những không thu được nợ gốc và lãi mà còn tăng về chi phí của ngân hàng, làm giảm lợi nhuận.
Tuy nhiên, đối với một số dự án theo kế hoạch của nhà nước thì chỉ tiêu này đôi khi không đầy đủ để phản ánh chất lượng tín dụng. Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển các ngành khoa học kỹ thuật còn non trẻ, phát triển các ngành mũi nhọn, xuất khẩu hay vì các mục tiêu xã hội khác thì đôi khi lợi nhuận không được đặt ra và nó không phản ánh thực chất chất lượng khoản tín dụng.
Vòng quay của vốn
Nó được tính bằng tỉ số giữa số thu nợ và tổng dư nợ. Chỉ tiêu này cho biết số tín dụng đã hoàn thành và được thu lại để tiếp tục cho vay. Qua đó có thể thấy được ngân hàng đã cho vay đúng đối tượng nên đã thu được cả vốn lẫn lãi, không có rủi ro và quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là tốt đẹp. Số lợi nhuận thu được trên mỗi đồng vốn vay tăng tỷ lệ với số vòng quay của vốn.
Đó là một số chỉ tiêu dùng đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hiệu quả tín dụng ngân hàng luôn phải xem xét, đánh giá, phân tích cả về mặt định tính cũng như về mặt định lượng. Tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận cả về phía ngân hàng và khách hàng nhưng ta không thể bỏ qua những mục tiêu, lợi ích xã hội của nó. Trong những năm qua, tín dụng đã góp phần tích cực vào ổn định xã hội, thông qua các hoạt động tín dụng đã tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, hộ nông dân, duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Trong thực tế các vấn đề xã hội nổi cộm đều do sự bất công trong khả năng tiếp cận, sử dụng các nguồn lực nhằm đem lại lợi nhuận và do cơ chế phân phối thu nhập có nhiều bất công. Tín dụng được sử dụng như một biện pháp khắc phục nguyên nhân thứ nhất. Chính vì vậy, để đánh giá hiệu quả tín dụng, cũng cần phải quan tâm đến các kết quả mang tính xã hội của tín dụng. Đó là về mặt giải quyết việc làm, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập, phát triển các vùng xa xôi hẻo lánh... Tóm lại, để đánh giá chất lượng tín dụng cần phải có một cái nhìn toàn diện trên mọi góc độ cả về mặt định tính và định lượng, cả về mặt kinh tế và mặt xã hội.
II.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng
Nội bộ ngân hàng
Lãi suất tín dụng
lãi suất tín dụng của ngân hàng không những được quy định bởi lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước, sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác mà còn do mục tiêu lợi nhuận từ phía ngân hàng và các chi phí khác của khoản cho vay. Khi xác định lãi suất, ngân hàng phải dựa vào 3 yếu tố cơ bản:
Lãi suất thị trường (yếu tố nền tảng).
Định hướng chiến lược, chính sách kinh tế.
Thực trạng và tốc độ lạm phát.
Bên cạnh đó, chính sách điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt của ngân hàng đối với những khoản vay khác nhau trong những giai đoạn khác nhau cũng sẽ quyết định đến hiệu quả khoản tín dụng.
Tiêu chuẩn tín dụng
Là những yêu cầu mà các doanh nghiệp phải đạt được để được thiết lập quan hệ tín dụng. Tùy theo quy mô của tín dụng mà tiêu chuẩn tín dụng được đưa ra để so sánh, đánh giá những tiêu chuẩn doanh nghiệp cần đạt được. Trên cơ sở đó, ngân hàng tiến hành phân loại doanh nghiệp để nhìn nhận, quyết định quy mô tín dụng và các biện pháp phù hợp đảm bảo an toàn tín dụng. Khi tiêu chuẩn tín dụng cao, khả năng hấp thu khách hàng càng thấp nhưng tính an toàn cao và ngược lại.
Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng một mặt phải phù hợp với đường lối phát triển chung của đất nước, đồng thời phải đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người cho vay, người đi vay và bản thân ngân hàng. Với các ngân hàng thương mại, một chính sách tín dụng đúng đắn, rõ ràng, hợp lý phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường lối, chính sách của nhà nước, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng và hấp dẫn khách hàng. Một chính sách như vậy mới khuyến khích ngân hàng phát hiện và thỏa mãn các nhu cầu về vốn.
Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng
Tổ chức bộ máy và quy trình quản lý tín dụng quy định quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình thực hiện từ thẩm định cho đến khi thiết lập quan hệ và thu hồi vốn tín dụng. Tổ chức và quản lý tín dụng phù hợp sẽ nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, hạn chế tình trạng lựa chọn đối nghịch hay rủi ro đạo đức. Quy trình quản lý được bố trí khoa học, phân định rõ ràng về trách nhiệm, góp phần nâng cao chất lượng thông tin, là cơ sở quan trọng nâng cao mức độ hiệu quả tín dụng.
Thông tin tín dụng và thẩm định dự án
Mục đích của thẩm định dự án là nhằm giúp ngân hàng rút ra được các kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ, những rủi ro có thể xảy ra của dự án để quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời qua thẩm định cũng có thể tham gia góp ý với chủ đầu tư về dự án, xác định lại số tiền cần vay, thời hạn và mức thu hợp lý phù hợp với năng lực doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và tín dụng đem lại lợi nhuận cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ này, hiệu quả các khoản tín dụng mới được đảm bảo. Trong số các biện pháp nâng cao ấy, biện pháp có tính chiến lược, có ý nghĩa thiết thực nhất đối với các công tác thẩm định là nâng cao chất lượng thông tin tín dụng, nó có tác động trực tiếp đến quyết định cho vay, quyết định đầu tư tín dụng. Xét dưới góc độ vĩ mô, thông tin tín dụng là cơ sở đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng, đưa ra các dự báo phát triển kinh tế. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, số lượng doanh nghiệp ngày càng nhiều, quan hệ kinh tế thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, sức ép vì nhu cầu thông tin khách hàng ngày càng quan trọng và đòi hỏi phải đáp ứng: tính cập nhật, nhanh, chính xác và tiện lợi.
Nhân sự
Cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng ngày càng phát triển càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ ngân hàng có trình độ ngày càng cao để có thể sử dụng những phương tiện hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong cơ chế thị trường.
Việc tuyển chọn nhân sự phải đảm bảo cả về đạo đức và nghiệp vụ chuyên môn. Hai mặt này phải gắn bó khăng khít với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, các ngân hàng thương mại đang bất cập về trình độ nên lực lượng cán bộ thì nhiều nhưng vẫn thiếu cán bộ chuyên môn giỏi.
Như vậy, đội ngũ cán bộ ngân hàng có vai trò rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
Khách hàng
Nhu cầu tín dụng của khách hàngN: phụ thuộc chủ yếu vào tình hình chung của nền kinh tế và chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung đối với các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp tư nhân, đều luôn có nhu cầu vay vốn để đổi mới công nghệ, cải tiến mặt hàng, mở rộng sản xuất nhằm tăng cường sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Năng lực của khách hàngN: được hiểu là khả năng của người đi vay trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn đối với từng loại hình tín dụng. Điều kiện tín dụng đưa ra là nhằm tiêu chuẩn hóa các đối tượng vay vốn, đồng thời để thuận tiện cho quá trình quản lý tín dụng và nhằm đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
Tình hình cầm cốT, thế chấp tài sản của doanh nghiệp cũng như của người bảo lãnh: đây là vấn đề quyết định để đảm bảo cho khoản vay ngân hàng. Doanh nghiệp phải có chứng nhận về quyền sở hữu với tài sản gắn liền với năng lực pháp luật của doanh nghiệp và khả năng sử dụng tài sản đó để thực hiện các biện pháp tín dụng. Quyền sở hữu và giá trị của tài sản phải được đảm bảo cho đến kỳ đáo hạn của khoản tín dụng, đồng thời phải có tính lỏng cao. Đối với người bảo lãnh ngoài yêu cầu về tư cách pháp nhân cũng phải có tài sản thế chấp và quyền sở hữu về tài sản như đối với người đi vay. Đặc biệt đối với những khoản thế chấp, cầm cố thường được điều chỉnh thấp xuống vì giá trị bán được và số tiền ròng thu được từ tài sản thế chấp thường ít hơn khi một khoản vay nợ trở thành một vụ thu hồi nợ. Điều này cũng nhằm đảm bảo an toàn cho số vốn tín dụng ngân hàng bỏ ra.
Tư cách đạo đức khách hàngT: phẩm chất đầu tiên đòi hỏi ở người đi vay tiền (khách hàng) là phải hoàn toàn trung thực. Khi ngân hàng có nghi ngờ về tư cách đạo đức hoặc ý định của người đi vay thì ngân hàng không nên tiến hành cho vay nhằm đảm bảo an toàn tín dụng. Chính vì vậy đối với mỗi khách hàng, ngân hàng thường có biện pháp kiểm tra tư cách khách hàng. Những lừa dối đạo đức thường xay ra do những hành vi sau của người đi vay: tạo ra những chứng cứ giả để có thể vay được tiền, cố tình chiếm đoạt phần vốn từ những người cho vay, hay những người vay vốn sử dụng vốn vay không đúng mục đích... Trong thực tế, nhất là khi có nhiều hình thức tín dụng như hiện nay thì hiệu quả tín dụng phụ thuộc rất lớn vào đạo đức khách hàng.
Môi trường kinh tế
Có thể nói, môi trường kinh tế ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nói chung và hiệu quả tín dụng nói riêng. Một môi trường kinh tế hoàn chỉnh và trong sạch sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển đúng quỹ đạo. Còn nếu môi trường ấy có nhiều bất cập, nhiều tệ nạn và có nhiều biến động thì ngân hàng sẽ không có nguồn vốn huy động bởi khách hàng lo sợ rủi ro xảy ra. Môi trường kinh tế như vậy sẽ tạo điều kiện cho nhiều tật xấu của nền kinh tế được nảy nở và phát triển. Các khoản tín dụng sẽ được đầu tư không đúng chỗ và đem lại rủi ro cho khách hàng, như vậy hiệu quả tín dụng bị ảnh hưởng.
Chúng ta xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động tín dụng trên hai khía cạnh:
Chu kỳ kinh tếC: Một cách khái quát, nếu nền kinh tế trong giai đoạn ổn định và hưng thịnh thì nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng của người dân, và lượng tiền dự trữ, tiết kiệm đều tăng, do đó cả người cho vay và người đi vay đều sẵn sàng, hoạt động tín dụng được nâng cao. Ngược lại, trong giai đoạn kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp thấy sẽ thật là mạo hiểm nếu mở rộng sản xuất bởi nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, sức mua kém và hàng hóa sẽ bị tồn kho, lợi nhuận giảm hoặc thậm chí doanh nghiệp có thể bị phá sản bởi không duy trì được sản xuất và không trả được nợ ngân hàng. Chính vì vậy, lúc nền kinh tế suy thoái, nguồn vốn huy động được của ngân hàng sử dụng không có hiệu quả tức là hiệu quả tín dụng cũng bị giảm.
Các biến động về lãi suất, tỉ giá trên thị trường nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất ngân hàng. Nếu ngân hàng phụ thuộc vào khoản vốn huy động dưới dạng chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn hoặc tiền vay của Chính phủ, giá vốn huy động của nó sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các điều kiện của thị trường tiền tệ. Hơn nữa, thị trường tiền tệ sẽ xác định sự hấp dẫn của các dự án đầu tư.
Hơn nữa, lãi suất cho vay và huy động vốn là một trong những nhân tố quyết định lượng vốn huy động được và quyết định số vốn giải ngân được – còn bị ảnh hưởng bởi các mức lãi suất cạnh tranh trên thị trường từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng không thể tính giá thêm cho cùng một loại sản phẩm hay dịch vụ nhằm đạt mức lợi nhuận mong muốn mà không bị mất đi một số lớn quan trọng khách hàng.
Môi trường pháp lý
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho ngân hàng và các khách hàng khi ký kết và tham gia các hoạt động tín dụng. Đồng thời cũng gây ra nhiều vướng mắc trong quản lý và sử dụng các khoản tín dụng, xử lý tài sản thế chấp, phát mại... Ví dụ như về quy định thời hạn cho vay trong “Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng với khách hàng” quy định cho vay ngắn hạn có thời hạn tối đa 12 tháng như trong luật ngân hàng thì quy định thời hạn cho vay trung hạn bắt đầu từ 12 tháng trở lên. Điều này tạo nên sự thiếu nhất quán trong phân loại các chỉ tiêu dư nợ cho vay theo thời hạn ở các tổ chức tín dụng và cũng gây khó khăn cho quản lý tín dụng của nhà nước, tạo kẽ hở cho những việc làm sai phạm.
Sự thay đổi trong các chủ trương, chính sách của nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến các khoản tín dụng. Nhất là về cơ cấu kinh tế, các chính sách xuất nhập khẩu... bởi nếu có sự thay đổi đột ngột ấy thì sẽ gây xáo trộn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc phương án kinh doanh sẽ không còn phù hợp... Nếu không kịp thời chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ không sản xuất kinh doanh được và không thể thanh toán nợ dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên.
Đồng thời, sự quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở. Nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiều nhiệm vụ và có thể vượt quá trình độ, năng lực quản lý làm cho quá trình thẩm định của ngân hàng khó khăn nên mức rủi ro lớn, làm giảm sút hiệu quả tín dụng.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ra đời trong công cuộc đổi mới, từ một bộ phận của Ngân hàng Nhà nước qua 16 năm xây dựng và trưởng thành (1988 – 2004), Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây đã tiến hành những cải cách quan trọng, cả về tổ chức bộ máy và đào tạo bối dưỡng cán bộ, trang bị phương tiện kỹ thuật cùng các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. Ngân hàng đã sớm xác định giải pháp “lấy nông thôn làm thị trường, lấy hộ gia đình nông thôn làm khách hàng”, thực hiện phương châm “đi vay để cho vay” làm phương hướng và phương thức hoạt động. Hệ thống đầu mối kinh doanh dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp và phát t._.riển Nông thôn tỉnh Hà Tây từng bước phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, góp phần ngăn chặn tình trạng cho vay nặng lãi, trở thành người bạn tin cậy, gần gũi của nông dân và nông thôn, cùng nhiều thành phần kinh tế khác.
Các năm 1988 - 1991
Thực hiện nghị định số 53 của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 26 - 03 - 1988, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra Quyết định số 43 thành lập Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh Hà Sơn Bình. Ngân hàng ra đời trong bối cảnh nền kinh tế của đất nước bước vào thời kỳ thực hiện nhiệm vụ đổi mới theo đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Ngành kinh tế nông nghiệp bắt đầu triển khai thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về khoán sản phẩm đến nhóm và ngươì lao động. Thuận lợi cơ bản là, đội ngũ cán bộ, nhân viên trong cơ quan Ngân hàng có tinh thần và trách nhiệm cao, vinh dự là lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước trên lĩnh vực kinh doanh về tín dụng – tiền tệ.
Song, đội ngũ cán bộ, nhân viên Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Nền kinh tế của đất nước đang ở vào giai đoạn lạm phát ở mức cao 3 con số (896%). Kinh tế khủng hoảng, đời sống nhân dân rất khó khăn. Sản xuất lương thực không đủ ăn. Giá cả hàng hoá tăng nhanh. Tình trạng “cả nước đi buôn” kể cả các đơn vị hành chính dẫn đến tình hình “thi nhau đục tường” để mở cửa hàng buôn bán, kinh doanh rất sôi động.
Toàn tỉnh có hơn 300 xã, với 16 đơn vị Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh. Mặt khác, điều kiện làm việc và cơ sở vật chất của Ngân hàng còn rất lạc hậu, hạn chế, có nhiều khó khăn thiếu thốn. Đội ngũ cán bộ của chi nhánh Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh Hà Sơn Bình lại đông. Tỉnh có 342 đơn vị kinh tế quốc doanh, 2.000 đơn vị kinh tế tập thể, 1.250 bàn đại lý và uỷ nhiệm tiết kiệm với khoảng 1 triệu sổ tiết kiệm nhưng đều khó khăn trong việc hoạt động. Các doanh nghiệp vay vốn ở thời điểm này chủ yếu là các xí nghiệp quốc doanh phần lớn lại làm ăn thua lỗ, nhưng Ngân hàng vẫn phải cho vay theo phương thức cũ. Nhiều xĩ nghiệp phải ngừng hoạt động, giải thể hoặc chuyển sang sở hữu khác. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán hầu hết kinh doanh thua lỗ.Thưc trạng đó làm cho một bộ phận dư nợ của Ngân hàng bị kẹt. Việc kinh doanh của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn, nợ tồn đọng phải “khoanh”, “xoá”… ở các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp phổ biến tình trạng xã viên nợ đọng sản phẩm. Cơ sở vật chất các hợp tác xã thấp kém. Trên địa bàn tỉnh, tình trạng hụi họ, số đề lan nhanh, xâm nhập vào việc cho vay trong các hợp tác xã tín dụng và cả Ngân hàng Nông nghiệp.
Khó khăn hơn cả và tác động ngay từ ngày đầu là cơ chế tổ chức và hoạt động của ngành Ngân hàng chua đồng bộ, chưa thồng nhất. Những chủ trương đã ban hàng như quyết định 16 về cơ chế hạch toán, Quyết định 67 về cơ chế tiền tệ chưa được triển khai thực hiện. Quan hệ giữa chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh và Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh về quản lý vốn tín dụng, tiền mặt chưa được rõ ràng.
Đứng trước khó khăn, Ban giám đốc Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Sơn Bình tập trung chỉ đạo vào một số vấn đề trọng tâm, cấp bách như vừa ổn định sắp xếp tổ chức bố trí cán bộ ở ngân hàng chuyên doanh tỉnh, cán bộ lãnh đạo phòng từ tỉnh đến huyện, vừa chỉ đạo các mặt công tác tiền tệ – tín dụng, tài vụ kế toán của ngân hàng chuyên doanhtrong toàn tỉnh với ý thức không chờ có cơ chế đồng bộ, cái gì đã có cần chấp hành nghiêm túc, cái gì chưa có nhưng đã có định hướng thì tổ chức làm thí điểm và triển khai ra diện rộng để có kinh nghiệm. Đây là hai mặt chỉ đạo quan trọng của Ban giám đốc trong thời kỳ đầu. Ngoài ra Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh còn nhanh chóng tiếp nhận việc bàn giao tài sản, hồ sơ tài liệu và cán bộ của các ngân hàng, tiến hàng xây dựng quy chế làm việc của Ban giám đốc, chế độ chức trách, nhiệm vụ quy trình nghiệp vụ của các phòng và mối quan hệ trong quản lý và điều hành của Ban giám đốc với các phòng, các ngân hàng huyện, quan hệ với khách hàng nhằm tạo ra sự thống nhất cao trong hoạt động kinh doanh.
Trong công tác ổ định tổ chức, chi nhánh Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh thành lập một Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ Dân chính Đảng tỉnh Hà Sơn Bình Ngân hàng Ban chấp hành có 7 uỷ viên, do đồng chí Lê Văn Sở là phó bí thư. Toàn Đảng bộ có 31 đảng viên, tổ chức thành ba chi bộ. Về đoàn thể, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh thành lập tổ chức công đoàn, chi đoàn Thanh niên và trung đội tự vệ cơ quan. Tổ chức Công đoàn Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh do đồng chí Trần Văn Lợi làm Chủ tịch.
Về mặt chính quyền, để sớm ổn định tổ chức bộ máy mới, Ban giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh căn cứ vào công văn số 87/CV – NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kết hợp với việc xem xét năng lực cán bộ, tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm. Kết quả đã lựa chọn, bổ nhiệm được 11 đồng chí là trưởng phó phòng ngân hàng tỉnh; 6 đồng chí là giám đốc, phó giám đốc, trưởng phó phòng các chi nhánh ngân hàng huyện. Bộ máy tổ chức, cán bộ các ngân hàng huyện cơ bản đã ổn định.
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, ngân hàng huyện đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm, suy nghĩ tìm tòi về phương pháp công tác nhằm đáp ứng nhu cầu củanhiệm vụ mới. Một số huyện đã tiếp thu tốt sự chỉ đạo của ngân hàng tỉnh, đã kịp thời phân tích công tác tài chính trong 6 tháng đầu năm để có biện pháp cho tháng sau, quý sau. Nhiều ngân hàng huyện đã coi trọng tăng thu, đúng chế độ, chính sách, tiết kiệm giảm chi phí không cần thiết. Điêù đó chứng tỏ, ngay trong tháng đầu tiên khai trương, trong khi Ngân hàng Trung ương chưa ban hành chế độ tài chính, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Sơn Bình đã sớm có ý thức coi trọng hiệu quả kinh tế. Chống bao cấp trong chi phí. Các huyện: Phú Xuyên, Mỹ Đức, Quốc Oai, Chương Mỹ, Tân Lạc, Lương Sơn đã giảm lỗ và có lãi.
Về công tác tín dụng, tính đến ngày 30/07, nguồn vốn có 5.213 triệu. So với tháng 6/1988, số dư tiền tiết kiệm giảm khoảng 60 triệu. Dư nợ là 5.394.613 ngàn đồng, trong đó dư nợ vốn lưu động là 4.552 triệu, dư nợ vốn cố định là 579 triệu, dư nợ tư nhân cá thể là 263 triệu, dư nợ cho vay thoả thuận lãi suất cao 827 triệu.Sau một tháng hoạt động, ngày 03/08/1988, Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Hà Sơn Bình tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm một tháng khai trương ngân hàng và bàn mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 tháng cuối năm 1988. Hội nghị thống nhất đánh giá với những mặt nổi bật là: “ ổn định được bộ máy tổ chức và cán bộ, triển khai cơ chế tín dụng, tiền tệ với khách hàng, bước đầu thích ứng với chức năng, nhiệm vụ mới, tạo được sự thống nhất từ nhận thức đến hàng động, từ tỉnh đến huyện”.
Đầu năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng có chỉ thị 202 chuyển hướng công tác tín dụng sang cho vay trực tiếp hộ nông dân, Ngân hàng nông nghiệp Hà Sơn Bình đã chỉ đạo thí điểm ở huyện Phú Xuyên về việc cho hộ nông dân vay vốn. Việc làm này đã được Thường trực tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh đồng ý, hoan nghênh, được một số ban ngành như: Ban kinh tế Tỉnh uỷ, Hội Nông dân, Sở nông nghiệp, Ngân hàng Nhà nước thống nhất chủ trương, có biện pháp phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh tổ chức triển khai. Ngân hàng tổ chức điều tra nghiên cứu ở 23 hộ thuộc xã Liên Hoà (Phú Xuyên) với hình thức: trực tiếp trao đổi mạn đàm, kết hợp với quan sát hoàn cảnh từng hộ nông dân để xem xét và quyết định cho vay.
Điều tra cho thấy:
Hoạt động của ban quản lý hợp tác xã trong chế độ khoán 10 còn lúng túng, thiếu đồng bộ, còn gây khó khăn phiền hà cho người nhận khoán và chưa tạo cho tín dụng Ngân hàng thâm nhập vào hộ nông dân.
Đại bộ phận nông dân thiếu vốn sản xuất§, nạn cho vay nặng lãi, bán lúa non xuất hiện nhiều nơi nhưng bản thân nông dân chưa muốn vay vốn Ngân hàng vì nhiều lý do thủ tục giấy tờ, đi lại nhiều lần, nhiều hộ nông dân không có tài sản thế chấp theo quy định.
Từ đánh giá trên, các ngành cùng Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Phú Xuyên và dư luận xã hội tán thành và hoan nghêng chủ trưng của Ngân hàng về cho vay trực tiếp hộ nông dân. Bước đầu Ngân hàng đã cho vay trực tiếp được 44 hộ, với số tiền 37, 7 trệu đồng, cho vay qua hợp tác xã nông nghiệp bảo lãnh là 3.923 hộ, với số tiền 183.483 ngàn đồng. Việc cho vay trực tiếp hộ nông dân là đúng hướng, phù hợp với khoán 10, mở ra bước đi trong hoạt động kh của Ngân hàng.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, kỳ họp thứ 9 (Quốc hội khoá VIII) diễn ra từ ngày 27/07 – 12/08/1991 đã ra quyết định tách tỉnh Hà Sơn Bình trở về hai tỉnh cũ: Hà Tây và Hoà Bình, chuyển các huyện, thị như: Ba Vì, thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây từ Hà Nội trở lại Hà Tây. Hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình sẽ chính thức làm việc theo đơn vị hành chính mới từ ngày 01/10/1991.
Thực hiện chủ trương trên, ngày 30/08/1991, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra Quyết định số 126/NH-QĐ quyết định giải thể chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Sơn Bình để thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây.
Tóm lại, thành tựu nổi bật của Ngân hàng trong giai đoạn này là sớm định rõ phương châm “Đi vay để cho vay”, “vừa làm vừa học”, coi nguyên tắc tập trung dân chủ trong chỉ đạo cũng như trong kinh daonh là khâu then chốt. Ngân hàng Nông nghiệp Hà Sơn Bình đã vượt qua những khó khăn, bỡ nhỡ ban đầu, dám nghĩ dám làm để tiến vào kinh doanh thương mại do Ngân hàng Trung ương, Tinh uỷ và Uỷ ban nhân dân Tỉnh giao cho.
Thời gian hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp Hà Sơn Bình tuy ngắn, nhưng cũng đủ để rút ra những bài hoạc kinh nghiệm ban đầu là:
Sự ra đời và hoạt động của Ngân hàng chuyên doanh là đúng nhưng phải gắn với hành lang pháp lý và cơ chế hoạt động kinh doanh, thông qua thực tiễn kinh doanh mà bổ sung hoàn chỉnh cơ chế, hoàn chỉnh về những định mức các loại công việc và quy trình nghiệp vụ tiền tệ – tín dụng, làm cơ sở cho việc xác lập đội ngũ cán bộ và điều hành quản lý, góp phần vào điều tiết nền kinh tế thị trường.
Trong chỉ đạo điều hành, nhất là trong kinh doanh tiền tệ tín dụng phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững nguyên tắc Kế toán – Tài chính, chính sách lãi suất phải thích hợp với điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ.
Các năm 1991 - 1996
Năm 1992 là năm đầu tỉnh Hà Tây được tái lập, năm khởi đầu Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh thực sự tiến vào kinh doanh theo cơ chế lãi suất dương. Ngay từ đầu năm, mọi hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh đã bám sát vào sự chỉ đạo của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, đi sâu đỏi mới cả về tổ chức, bộ máy và công tác chuyên môn.
Trong việc củng cố tổ chức, năm 1992, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam điều đồng chí Phạm Trác, Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hoà Bình về làm Phó giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây; điều đồng chí Đặng Văn Đính về Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam công tác. Ban giám đốc Ngân hàng củng cố lại tổ chức ở các phòng nghiệp vụ. Đồng chí Đỗ Việt Hưng làm Trưởng phòng Tổ chức và đào tạo. Đồng chí Nguyễn Trịnh Thân là Trưởng phòng tín dụng. Đồng chí Nguyễn Hồng Dương là Trưởng phòng hành chính. Đồng chí Đặng Tiến Ninh là Trưởng phòng ngân quỹ. Đồng chí Nguyễn Ngọc Thanh là Trưởng phòng vốn. Từ tháng 08/1992 đồng chí Phạm Văn Vũ là Trưởng phòng kinh tế kế hoạch. Đồng chí Nguyễn Văn Thông là Trưởng phòng Kiểm soát. Ban giám đốc Ngân hàng chỉ đạo tổ chức Công đoàn toàn chi nhánh tiến hành đại hội (ngày 30/03/1992) bầu Ban chấp hành chính thức, do đồng chí Trần Văn Lợi làm Chủ tịch, đồng chí Phạm Văn Tiến là Phó chủ tịch.
Trong việc đi vay để cho vay, rút kinh nghiệm những năm trước, sự chỉ đạo của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh đã bám sát vào thực tiễn và có nhiều đổi mới về phương thức hoạt động. Ngay trong những tháng đầu năm1992, Ban giám đốc Ngân hàng đã triển khai một số biện pháp chỉ đạo sát hợp với tình hình để vươn tới cơ chế lãi suất dương.
Về huy động vốn, Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh đã quán triệt bình diện toàn cục không bó hẹp ở một địa phương. Bên cạnh các hình thức huy động vốn truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi các tổ chức kinh tế, để giảm bớt khoảng cách giữa tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, đầu năm 1992, Ban giám đốc triển khai hình thức huy động vốn theo kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích, kỳ phiếu đảm bảo giá trị theo vàng. Những hình thức này đã thể hiện tính đa dạng về huy động, đồng thời cải tiến và nâng cao chất lượng hoạt động màng lưới huy động.
Đi đôi với huy động vốn là vấn đề sử dụng vốn đảm bảo hiệu quả. Trong cho vay vốn, chỉ đạo nổi bật của Ban giám đốc là, sau những tháng tổ chức thực hiện Chỉ thị 202 của Hội đồng Bộ trưởng và Quyết định số 499 của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam về việc cho vay hộ sản xuất, đã kịp thời xây dựng những quy định cụ thể hơn trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định về vấn đề này. Ngày 24/03/1992, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ra quyết định số 70/QĐ - UB quy định tạm thời về đảm bảo an toàn vốn cho vay hộ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp. Quy định tạm thời của Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ rõ: “Việc vay vốn của Ngân hàng để phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp cần được chuyển hướng sang hình thức cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất tạo điều kiện cho các hộ sản xuất thực sự là “đơn vị kinh tế tự chủ” trong sản xuất. Việc cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất chủ yếu là cho vay ngắn hạn, đáp nhu cầu chi phí theo thời vụ và khi có điều kiện sẽ từng bước cho vay trung hạn và dài hạn để phát triển cây dài ngày, mua sắm thiết bị máy móc, áp dụng tiên bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi ngành nghề ở nông thôn. Mức cho vay, thời hạn cho vay; phương thức cho vay và trả nợ, lãi suất cho vay đối với từng loại hộ phải căn cứ vào đặc điểm và hiệu quả sản xuất từng loại cây con, ngành nghề của từng hộ nhằm giúp các hộ sản xuất sử dụng vốn có hiệu quả, trả nợ đúng hạn.
Khảo sát cho thấy, đến ngày 31/03/1992, tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây đạt 85, 7 tỷ đồng, trong đó tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu có mục đích là 68 tỷ. Từ nguồn vốn huy động trên, các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp cơ sở đã cho vay còn dư nợ 52 tỷ đồng, trong đó dư nợ kinh tế quốc doanh 29 tỷ, dư nợ kinh tế ngoài quốc doanh 23 tỷ. Riêng cho vay hộ sản xuất có dư nợ 4, 2 tỷ. Tốc độ cho vay và số hộ được vay tăng 3 lần so với năm 1991. Vốn cho vay hộ sản xuất đến kỳ hạn thu được cả gốc và lãi. Số nợ quá hạn không đág kể.
Tuy nhiên doanh số cho vay còn thấp, có Ngân hàng Nông nghiệp huyện còn chưa nhận thức đầy đủ, có nơi quá thận trọng dẫn đến kết quả cho vay giữa các huyện chưa đồng đều, lãi suất cho vay hiện tại chưa bù đắp được chi phí của Ngân hàng, một số cơ chế chưa phù hợp với đặc điểm tâm lý và điều kiện sản xuất của nông dân, công tác tuyên truyền chưa thấm đến tận người dân, đến hộ sản xuất. Việc cho vay hộ sản xuất cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều ngành. Số hộ nghèo không có tài sản thế chấp, có nơi hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể chưa đứng làm trung gian vay vốn cho hộ gia đình nghèo theo phương thức cho vay gián tiếp nên hộ nghèo chưa được vay. Bước đầu diện cho vay chưa rộng, hộ vay chưa nhiều, số vốn chưa lớn. Qua kiểm tra 12 huyện đã xuất hiện một số trường hợp như: vay vốn sử dụng sai mục đích không trả được nợ. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhưng không trả nợ; hoặc sản xuất thua lỗ không trả nợ được.
Năm 1993, Ngân hàng Nông nghiệp Hà Tây thực thi các mặt công tác trong tình có thuận lợi hơn so với năm 1992. Trong việc huy động vốn, Ngân hàng Nông nghiệp Hà Tây nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới bàn tiết kiệm, một hình thức huy động vốn các loại gắn với cho vay hộ. Mở rộng việc đa dạng hoá các hình thức huy động nhất là kỳ phiếu. Mở rộng mạng lưới các đến các khu vực tạo điều kiện thu hút tiền gửi nhàn rỗi từ món nhỏ đến món lớn. Năm 1993, Ngân hàng Nông nghiệp có 90 điểm giao dịch, tăng 45 điểm so với năm 1992.
Về công tác tín dụng, năm 1993, Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây kiên quyết không đầu tư vào các đơn vị kinh tế quốc doanh còn thua lỗ (kể cả những đơn vị được tổ chức lại). Do vậy, từ chỗ trước đây cho 117 đơn vị vay nay chỉ còn 39 đơn vị. Những đơn vị chưa tổ chức lại thì kiên quyết thu hồi cho đến khi hết nợ. Đối với kinh tế tập thể, Ngân hàng chỉ đầu tư vào khâu dịck vụvf chỉ đưa vốn vào những đơn vị còn có khả năng quản lý tốt và chỉ đầu tư vốn lưu động. Đối với hộ sản xuất, vốn được tập trung chủ yếu vào khâu sản xuất và chế biến nông sản, những hộ kinh doanh có hiệu quả.
Chỉ đạo “ Đi vay để cho vay” là mắt xích quan trọng nhất trong toàn bộ hệ thống điều hành kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây. Từ cấp uỷ Đảng, sơ quan, Ban chấp hành Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Nữ công của ngành đều tập trung vào việc giáo dục, động viên tổ chức cho cán bộ, đảng viên, công nhân viên, đoàn viên trong cơ quan thi đua phấn đấu cho hoạt động chủ yếu này.
Về hoạt động tín dụng, chỉ tính trong 9 tháng đầu năm 1993, tổng doanh số cho vay là 217 tỷ, trong đó hộ sản xuất là 144 tỷ, gấp 2 lần so với năm 1992. Dư nợ cho vay hộ sản xuất lên 135 tỷ, bình quan đầu người là 153 triệu đồng, tăng 62 triệu so với đầu năm.
Phát huy công tác chỉ đạo hoạt động kinh doanh trong hai năm 1992 – 1993, bước sang năm 1994, Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây tiếp tục nâng cao hiệu quả trong việc thực hện nhiệm vụ “đi vay để cho vay”. Ngày 21/01/1994, Ban giám đốc Ngân hàng ra công văn số 62/NHNo-KH về vệc quy định tạm thời khoán tài chính đến từng nh Nông nghiệp huyện, thị, Phòng giao dịch, Bàn tiết kiệm, cửa hàng kinh doanh dịch vụ và người lao động. Nội dung và phương pháp khoán, bản quy định tạm thời chỉ rõ 3 vấn đề:
Khoán các chỉ tiêu hạch toán nội bảng để tính thu nhập và chi phí.
Khoán các chỉ tiêu tính toán ngoại bảng.
Xác định quỹ tiền lương được hưởng.
Năm 1994, kết quả tín dụng khá nổi bật: Dư nợ tăng trưởng đều đặn, vững chắc ổn định. Cơ cấu dư nợ chuyển đổi mạnh mẽ, thể hiện rõ khối lượng vốn tập trung vào thị trường chính của Ngân hàng Nông nghiệp mà trực tiếp là đầu tư cho hộ sản xuất. Việc đầu tư phát triển ngầnh nghề truyền thống được coi trọng và tập trung vào các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh. Phương hướng đầu tư của Ngân hàng đã chuyển cơ bản từ trực tiếp (nhỏ) tăng dần đầu tư qua các tổ chức trung gin đoàn thể, xã hội nhất là nhóm phụ nữ làm kinh tế (Phát triển mô hình VIE), đồng thời nâng dần tỷ trọng vốn đầu tư trung hạn để phát triển năng lực sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần, từ chỗ chiếm 16% tổng dư nợ (1991) đến giữa 1994 còn 9,1% so với tổng dư nợ.
Về tài chính, từ năm 1992 trở về trước, Ngân hàng luôn bị thua lỗ, nhưng đến năm 1993 lãi kinh doanh đạt 1, 2 tỷ đồng và 6 tháng đầu năm 1994, mức lãi đã vượt hơn cả năm 1993.
Qua 5 năm, màng lưới giao dịch của Ngân hàng từ 28 điểm (1991) lên 42 điểm (1992), 105 điểm (1993) và 119 điểm (1995). Tổng số cán bộ giảm từ 1.181 người (1991) xuống còn 842 người (1995). Chất lượng cán bộ ngày một tăng. Đội ngũ cán bộ có đủ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ, vi tính để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kinh doanh. Số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học, năm 1991 có 161 đồng chí thì năm 1995 là 194 người. Số cán bộ trung cấp từ 568 (1991) lên 580 (1995). Cán bộ biết sử dụng vi tính từ 02 người (1991) lên 267 người. Cơ sở vật chất kỹ thuật của toàn chi nhánh được tăng cường.
Do những cố gắng lớn nên kết quả kinh doanh của Ngân hàng trong 5 năm 1991 – 1995 tăng nhanh. Tổng thu tiền mặt là 2.931 tỷ. Tổng chi tiền mặt 2.890 tỷ, bội thu 41 tỷ. Ngân hàng đã thực hiện tốt quy định về an toan kho quỹ, góp phần đáng kể vào thực hiện ổn định tiền tệ, kềm chế lạm phát theo chủ trương của Chính phủ.
Các năm 1996 - 2003
Năm 1997 là năm đầu chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Hà Tây chuyển đổi tên gọi tên là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. Dười sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, Ban giám đốc Ngân hàng đã quán triệt sâu sắc phương hướng lãnh đạo là: “Chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường, góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, kiềm chế lạm phát ở mức thấp, huy động và cho vay vốn có hiệu quả … Tổ chức tốt hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. Quản lý chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Có biện pháp đồng bộ để giảm dần lãi suất, tạo điều kiện cho đầu tư phát triển”.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lànn thứ VIII trong tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong những năm 1993 – 1996 luôn đạt hiệu quả cao, là lá cờ đầu của ngành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Cán bộ nhân viên toàn chi nhánh đã tích luỹ được những kinh nghiệm quan trọng về các mặt kinh doanh dịch vụ, phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo để dân giầu nước mạnh. Đội ngũ cán bộ, nhân viên Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Tây phần lớn là lao động nữ (526/842), có tới 235 đồng chí có trình độ đại học, 565 đồng chí có trình độ trung học. Từ năm 1997, Công đoàn chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp được tách ra từ Công đoàn các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh, để trực thuộc hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam.
Ngay từ đầu năm 1997, Ban giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh đã chỉ đạo toàn chi nhánh chuyển mạnh hơn sang kinh doanh thương mại phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục tổ chức sắp xếp lại lao động gắn với củng cố hoàn thiện hệ thống mạnh lưới nh ở các vùng trong tỉnh; Thực hiện từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ trên những khâu chủ yếu của quá trình kinh doanh; Tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng ngày càng cao yêu cầu hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tin học và hiện đại hoà hoạt động ngân hàng; Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán tài chính tới nhóm và người lao động; Phối hợp và tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp, phát động phong trào thi đua nhằm hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch năm 1997.
Những giải pháp trên, mỗi giải pháp có bước đi cụ thể. Trong việc sắp xếp lại lao động Ban giám đốc đã gắn củng cố bộ máy, hoàn thiệ mạng lưới kinh doanh ở các vùng nông thôn. Trong củng cố bộ máy, cùng với các phòng: Nghiệp vụ kinh doanh, Kinh tế kế hoạch, Kế toán tài vụ – thanh toán và ngân quỹ, Kiểm soát, Tổ chức cán bộ và đào tạo, Hành chính pháp chế, Giao dịch kinh doanh tổng hợp, Ban giám đốc ngân hàng đã tổ chức thêm Văn phòng Công đoàn. Các Ngân hàng lưu động thuộc Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh. Trong năm 1997, Ban giám đốc đã bổ nhiệm, điều chuyển 9 đồng chí ở cương vị Trưởng, Phó các phòng chuyên môn.
Để củng cố mạng lưới, trong 3 ngày từ 12 đến 14/05/1997, chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây đã tổ chức Hội nghị giám đốc Ngân hàng lưu động toàn tỉnh nhằm đánh giá kết quả sau 9 tháng hoạt động theo mô hình màng lưới Ngân hàng lưu động, đồng thời tiền tệập huấn về phương pháp xây dựng và thẩm định dự án đầu tư đầu tư, phương pháp phân tích nợ hàng tháng. Đây là một hội nghị quan trọng, một sự chỉ đạo đúng và phù hợp với công tác quản lý và cạnh tranh trên thị thị trường tiền tệ, mặt khác cũng làm cơ sở để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh đi vào chiều sâu của kinh tế thị trường. Hội nghị tập trung thảo luận về công tác kiểm tra, kiểm soát, củng cố và nâng cao chất lượng công tác tín dụng, thu chi tài chính, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tiền tệ của hệ thống mạng lưới.
Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Tây trong năm 1997 có nhiều khó khăn do việc sản xuất kinh doanh của các thành phàn kinh tế có chiều hướng chững lại, tốc độ luân chuyển hàng hoá chậm, tỷ lệ lạm phát ở mức dưới 4%, giá đô la Mỹ tăng cao. Nhiều doanh nghiệp vốn tự có thấp, vốn Ngân hàng chiếm 80 – 90%. Điều đó dẫn đến khi có biến động của nền kinh tế dễ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ Ngân hàng. Mặt khác, đối tựng đầu tư vốn chủ yếu của Ngân hàng là kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhưng trong năm 1997, sản xuất nông nghệp gặp thiên tai úng lụt làm cho 33.000 ha bị ngâp, trong đó 15.000 ha bị ngập trắng, giảm gần 6 vạn tấn lương thực. Nông dân nợ Ngân hàng hơn 27 tỷ đồng, người vay khó trả được nợ.
Song nhờ có những gải pháp chỉ đạo cụ thể, lại được cấp uỷ, chính quyền địa phương, các ngành đoàn thể liên quan như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh hỗ trợ, cùng với việc tăng cường đầu tư ứng dụng công nghệ tin học hiện đại vào các hoạt động Ngân hàng, đồng thời khai thác được nguồn uỷ thác của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng người nghèo Trung ương nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây vẫn đạt hiệu quả cao. Toàn chi nhánh có 150 máy vi tính đã áp dụng tốt chương trình mạng LAN (đến Ngân hàng loại 4) giao dịch trực tiếp với khách hàng khi họ đến giao dịch về tiền vay, tiền gửi, thanh toán chuyển tiền nội ngoại tỉnh, thực hiện sao kê tính lãi và làm các loại báo cáo thống kê đếu đảm bảo kịp thời. Chính vì vậy năng suất lao động cao, giải phóng khách hàng nhanh, hạch toán chính xác luân chuyển vốn nhanh, nâng cao khả năng quản lý, góp phần chuyển 70 cán bộ gián tiếp sang lao động trực tiếp, tạo được uy tín cao đối với khách hàng.
Tình hình kinh doanh trong hai năm 1998 – 1999 có những khó khăn mới. Lĩnh vực tài chính tiền tệ không ổn định. Giá đồng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế diễn biến phức tạp. Chỉ số lạm phát 1998 lên 9.2% cao hơn mức của hai năm 1996 – 1997. Nền kinh tế đất nước đang có sự chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp, cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước. Năng lực về vốn công nghệ trình độ quản lý, sản xuất kinh doanh của các tổ chức, các xí nghiệp và tư nhân còn kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh và quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động đan xen trên khắp địa bàn tỉnh trong lĩnh vực huy động vốn và mở rộng cho vay. Do tốc đọ tăng trưởng kinh tế giảm sút trên thị trường xuất hiện hiện tượng giảm phát, sức mua giảm, hàng hoá tiêu thụ chậm và ứ đọng cao. Tình trạng lao động thiếu việc làm, nạn cờ bạc, số đề, hui họ…hoạt động ngày càng tinh vi hơn. Tất cả những điều đo đã ảnh hưởng đến quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Từ những khó khăn trên, cấp uỷ, Ban giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành nhạy bén, kịp thời để tiếp tục nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngay từ đầu năm 1998, Ban giám đốc đề ra phương châm chỉ đạo của toàn chi nhánh là: “chất lượng, an toàn và hiệu quả”. Theo phương châm đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây đã xây dựng và triển khai 9 đề án công tác lớn đó là:
Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống mạng lưới.
Bổ sung quy trình điều hành lề lối làm việc cho phù hợp.
Nâng cao chất lượng Tín dụng và những biện pháp phòng chống rủi ro trong công tác tín dụng.
Tổ chức đổi miền công tác đối với 100% cán bộ tín dụng.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ.
Sắp xếp lại lực lượng lao động và quy hoạch cán bộ đến năm 2000
Tự kiếm tra và kiểm soát nội bộ.
Tiếp dân giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo.
Quản lý và sử dụng hiệu quả chương trình ứng dụng trên máy vi tính.
Ngày 05/05/1998, Chi nhánh Ngân hàng tỉnh đã tổ chức hội nghị về một số biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thấp nợ quá hạn.
Năm 1999, toàn tỉnh có 68 điểm giao dịch, bao gồm 14 Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn huyện, thị. 45 Ngân hàng loại 4 và 9 Ngân hàng lưu động tại thị xã Hà Đông. Nhiều chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây thực hiện có hiệu quả về sự chỉ đạo của Ban giám đốc. Ngân hàng 2 huyện Thường Tín và Hoài Đức đã thực hiện tốt việc làm thí điểm phối hợp với các đoàn thể theo đề án cho vay hộ sản xuất qua tổ, nhóm tín chấp được nhân dân đồng tình ủng hộ, tổ chức Hội Nông dân và Phụ nữ đánh giá rất cao. Cán bộ, nhân viên toàn ngành tích cực tham gia phong trào thi đua, nhất là trong các hội thi do Ngân hàng phát động.
Năm 1999 hoạt động tín dụng với tổng dư nợ 809, 8 tỷ đồng, tăng 83, 2 tỷ so với năm 1998, đạt 100% kế hoạch, tốc độ tăng trưởng đạt 11,4% năm, dư nợ bình quân 940 triệu /cán bộ. Trong đó nợ quá hạn là 8.640 triệu đồng, bằng 1,06% tổng dư nợ, tăng 1.640 triệu so với (12/1998).
Tính đến ngày 31/12/2000, tổng nguồn vốn quản lý và huy động của Ngân hàng là 1.735 tỷ đồng. Trong đó vốn huy động tại địa phương là 1.572 tỷ đồng, đạt 104,3% kế hoạch, tăng 229, 5 tỷ so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng là 18%, bình quân nguồn vốn đạt 1.740 triệu /cán bộ. Tổng dư nợ cho vay là 1.031tỷ, đạt 106% kế hoạch, tăng 221 tỷ so với đầu năm, tốc độ tăng trưởng là 27,3%, bình quân dư nợ 1.186 triệu /cán bộ. Dư nợ cho vay hộ nghèo là 138 tỷ đồng, tăng 21 tỷ so với đầu năm. Tổng doanh số cho vay cả năm là 1.053 tỷ, tăng 268 tỷ so với năm 1999. Doanh số thu nợ 932 tỷ, đã đầu tư cho 102.269 lượt hộ và 139 doanh nghiệp được vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Số hộ còn dư nợ chiếm 39% số hộ trong toàn tỉnh.
Tuy nhiên vòng quay vốn tín dụng chưa cao còn ở những chừng mực nhất định, nên hạn chế quả trình phản ánh và kiểm soát bằng đồng tiền đối với hoạt động kinh tế của các khách nợ.
Năm 2001, tổng nguồn vốn huy động là 2.007tỷ đồng, tăng 495 tỷ so với năm 2000. 9 tháng đầu năm 2002 nguồn vốn đã đạt 2.338 tỷ đồng tăng hơn 2001 là 337 tỷ đồng. Nguồn vốn tăng trưởng cao và ổn định ở cả 14 Ngân hàng và huyện thị, tăng cao nhất là: Hà Đông 106 % kế hoạch, Chương Mỹ 172%, Mỹ Đức 188%... Tổng doanh số cho vay năm 2001 đạt 1.544 tỷ, tăng 437 tỷ so với năm 2000. Năm 2002, tính đến ngày 30/09, toàn tỉnh có 320 doanh nghiệp, có quan hệ tín dụng với dư nợ là 540 tỷ, tăng 225 tỷ, chiếm tỷ trong 28% tổng dư nợ, tăng 6% so với đầu năm. Thông qua tổ nhóm tín chấp, toàn tỉnh có 19, 8 vạn hộ còn dư nợ, chiếm 40% số hộ trong tỉnh. Việc cho vay ưu đãi hộ nghèo, cùng với vốn của Trung ương, Ngân hàng đã đầu tư 72.500 hộ, dư nợ 186 tỷ, tăng 15 tỷ so với đầu năm. Hai Ngân hàng, Chương Mỹ và Ba Vì tích cực thu giảm nợ quá hạn.
Tóm lại, 1._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0186.doc