Lời mở đầu
Ngày nay, có thể khẳng định không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu thiếu quan hệ hợp tác giao lưu kinh tế với các nước khác trên thế giới. Cũng một phần chính vì lý do đó, hoạt động Xuất nhập khẩu đã và đang trở thành một chất xúc tác nối liền các nền kinh tế, đầy nhanh tốc độ tăng trưởng của các quốc gia, từ đó gắn liền các nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của các quốc gia, từ đó gắn kết nền kinh tế toàn cầu vào mọt guồng quay chung của sự hợp tác phát triể
53 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n.
Trong bối cảnh đó, hoạt động thanh toán quốc tế của hàng nghìn ngân hàng thương mại lớn nhỏ trên thế giới, trong đó có Việt Nam, cung đang ngày càng mở rộng luôn sát cánh với các công ty Xuất nhập khẩu trong từng thương vụ. Với vai trò không thể thiếu của mình trong hoạt động ngoại thương, công tác thanh toán quốc tế đã không ngừng đổi mới và ngày càng hoàn thiện với những phương thức an toàn và hiệu quả cho các bên tham gia, trong đó được sử dụng nhiều nhất hiện nay là phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ.
Trên cơ sở những kiến thức đã được học và những hiểu biết thực tế cũng như các tài liệu thu thập được, em đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà nội” để làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Khái quát về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP. Hà nội
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP. Hà nội.
Chương I
Khái quát về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
1.1.Thanh toán quốc tế và tầm quan trọng của nó trong phát triển kinh tế
1.1.1.Hoạt động xuất nhật khẩu và xu hướng hội nhập của Việt Nam trong những năm gần đây
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh dễ mang lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
Trước vai trò quan trọng của hoạt động Xuất nhập khẩu, nhiều năm nay Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh Xuất nhập khẩu, coi xuất khẩu là tiền đề để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hộ của nước ta. Định hướng Xuất nhập khẩu được khẳng định tại Đại hội VIII: “Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường sản xuất những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả... là một nhiệm vụ chiến lược quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước”.
Một khâu quan trọng thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ là thanh toán quốc tế.
1.1.2. Thanh toán quốc tế và vai trò của nó trong hoạt động kinh tế đối ngoại
1.1.2.1.Khái niệm thanh toán quốc tế
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội riêng biệt. Do đó, mỗi nước có những lợi thế để sản xuất ra những hàng hoá mà nước khác không thể sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn. Từ đó, phân công lao động quốc tế đã hình thành một cách khách quan, đó là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một số sản phẩm dịch vụ vào một nước nhất định dựa trên những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội... của nước đó để thoả mãn nhu cầu của nước khác thông qua trao đổi quốc tế.
Sự buôn bán, giao lưu hàng hoá giữa các nước đặt ra vấn đề là phải thanh toán các hàng hoá đó. Trong thương mại quốc tế việc Thanh toán diễn ra dưới các hình thức hàng đổi hàng hoặc chi trả bằng tiền tệ. Khi chế độ tiền tệ tín dụng phát triển thì quan hệ Thanh toán quốc tế chuyển thành một hệ thống thanh toán hoàn chỉnh, dựa trên cơ sở hệ thống các Ngân hàng thương mại đảm nhiệm toàn bộ quá trình Thanh toán.
Thanh toán quốc tế mang tầm vĩ mô, nó phản ánh sự vận động có tính chất độc lập tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá giữa các quốc gia do sự không cân bằng đồng thời giữa sản xuất và tiêu thụ, đầu tư tín dụng giữa các bên tại một thời điểm nhất định.
Về bản chất, Thanh toán quốc tế là việc chi trả lẫn nhau giữa các quốc gia để hoàn tất các khoản về xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, đầu tư vốn, vay nợ viện trợ theo những hình thức thanh toán khác nhau. Việc chi trả này phải tuân theo những điều kiện nhất định như điều kiện về tiền tệ, điều kiện về thời gian, điều kiện về phương thức thanh toán... Các điều kiện này quy định các vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ thanh toán, nó được thể hiện trong các điều khoản thanh toán.
1.1.2.2.Vai trò của thanh toán quốc tế trong hoạt động kinh tế đối ngoại
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, thanh toán quốc tế giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nó là mắt xích không thể thiếu trong quá trình buôn bán ngoại thương, là khâu kết thúc của giao dịch mua bán hàng hoá hay dịch vụ và là cầu nối giữa người tiêu thụ với người sản xuất thông qua việc chi trả lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế của bất kỳ giao dịch nào phần lớn phụ thuộc vào khâu kết thúc này.
Vai trò quả thanh toán quốc tế thể hiện ở các mặt sau:
a,Thanh toán quốc tế là một công cụ quan trọng trong hoạt động Xuất nhập khẩu, là cầu nối giữa người mua và người bán.
Khi ký kết hợp đồng thương mại nói chung và hợp đồng mua bán ngoại thương nói riêng, một yếu tố quan trọng cần phải được thoả thuận là các điều kiện thanh toán. Một khi các điều kiện thanh toán được quy định thống nhất, chặt chẽ, nó sẽ tạo điều kiện cho các bên tham gia tránh những rủi ro có thể xảy ra hoặc có biện pháp phòng ngừa những rủi ro này.
Thanh toán quốc tế là một công cụ quan trọng góp phần thực hiện giá trị hàng hoá Xuất nhập khẩu. Khi quá trình thanh toán được hoàn tất có nghĩa là giao dịch đã được thực hiện. Quá trình dịch chuyển của hàng hoá có thể diễn ra trước, trong hoặc sau quá trình thanh toán nhưng trên thực tế, đa số trường hợp thanh toán là khâu sau cùng. Chính vì vậy, thanh toán là điều kiện cần và đủ để quá trình phân phối hàng hoá xảy ra.
Thanh toán quốc tế là cầu nối giữa người mua và người bán (hay giữa nhà nhập khẩu và nhà xuấ khẩu) vì nó gắn với quyền lợi và nghĩa vụ khác của các bên. Các quy định về điều kiện thanh toán đều do hai bên thoả thuận và thống nhất. Nếu các điều kiện đó được thực hiện nghiêm túc và hợp lý thì sẽ đảm bảo được quyền lợi cũng như uy tín của các bên. Ngoài ra, qua thanh toán quốc tế, trong hoạt động ngoại thương các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu sẽ nắm bắt được các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, hiểu rõ thêm về đối tác của mình.
b,Thanh toán quốc tế là thước đo, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh.
Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá và dịch vụ. Đối với người sản xuất hoặc Xuất nhập khẩu, nó ảnh hưởng trực tiếp đến vòng quay vốn sản xuất và kinh doanh, do vậy, nó ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của các bên tham gia. Thông qua thanh toán, người ta có thể đánh giá được khả năng tài chính, uy tín và tiềm lực của từng đơn vị. Việc lựa chọn một hình thức thanh toán phù hợp cho thấy mức độ tín nhiệm lẫn nhau cao hay thấp. Chính vì vậy, xem xét tình hình thanh toán của một công ty là một trong những cơ sở để tìm đối tác, bạn hàng sao cho có lợi nhất. ở khía cạnh này, vai trò của các ngân hàng là rất quan trọng. Thông thường các ngân hàng đóng vai trò là trung gian thanh toán, nếu quá trình thanh toán diễn ra nhanh chóng và an toàn chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động có hiệu quả. Hiện nay, để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong kinh doanh người ta thường lựa chọn các phương thức thanh toán có ngân hàng đảm bảo.
c,Trên phương diện quản lý nhà nước
Thông qua việc quản lý và kiểm soát hoạt động thanh toán quốc tế, Nhà nước có thể quản lý được luồng ngoại tệ ra vào đất nước, làm cơ sở cho việc thiết lập và thực hiện chính sách tài khoá. Đồng thời, nhà nước có thể quản lý được hoạt động Xuất nhập khẩu trên một số tiêu chí như: chủng loại hàng, số lượng, giá trị... từ đó quản lý được cán cân thương mại quốc tế của mình và đề ra những chính sách ngoại thương phù hợp.
Ngoài ra, mậu dịch quốc tế không chỉ mang tính thương mại thuần tuý mà còn là công cụ để được thực hiện chính sách chính trị xã hội của một quốc gia. Qua thực tế của hoạt động thanh toán quốc tế, nhà nước có cơ sở để điều chỉnh lại những điểm bất hợp lý trong hệ thống luật pháp và chính sách liên quan đến ngoại thương, đến thanh toán cho phù hợp với tình hình mới, tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương. Đối với một số mặt hàng Xuất nhập khẩu nhất định Nhà nước có thể quy định các phương thức thanh toán đảm bảo sự bình đẳng đối với nước ngoài nhưng không trái với thông lệ quốc tế và luật pháp của mỗi nước.
d,Thanh toán quốc tế-Một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động đối ngoại của ngân hàng.
Trong bất cứ giao dịch nào, dù trong hay ngoài nước đều có hai bên cơ bản tham gia đó là người mua và người bán. Người bán cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho người mua còn người mua thì trả tiền hàng hoá, dịch vụ nhận được theo các điều khoản hợp đồng ký kết giưã hai bên. Trên lý thuyết, quá trình trao đổi này có vẻ đơn giản, nhưng trên thực tế, đặc biệt trong buôn bán ngoại thương khi người bán và người mua ở những quốc gia khác nhau thì lại rất phức tạp.
Khi thực hiện giao dịch ngoại thương, người xuất khẩu hoàn toàn có thể gặp rủi ro như mất hàng, không được thanh toán hoặc thanh toán chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau cả chủ quan lẫn khách quan. Ngược lại, người nhập khẩu cũng có thể bị mất tiền mà không nhận được hàng hoá hoặc không nhận được hàng theo đúng quy cách, phẩm chất, số lượng... như trong hợp đồng... hoặc nhận hàng chậm dẫn đến cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ... Để tránh những rủi ro như vậy, hai bên đều cố gắng tìm ra một cơ chế giao dịch vừa thuận tiện, vừa an toàn và đáng tin cậy cho cả hai bên. Trong khi thay đổi hoặc chấp nhận bất kỳ một cơ chế nào, họ đều xem xét những vấn đề riêng, những đòi hỏi cũng như những e ngại của mình.
Người bán thường mong muốn người mua trả tiền ngay sau khi chuyển giao hàng hoá tức là giảm bớt rủi ro trong thanh toán; có được sự đảm bảo của người mua hoặc của ngân hàng phục vụ người mua trả tiền theo trách nhiệm của hợp đồng; việc thanh toán được thực hiện tại nước mình; có được các thông tin và sự đảm bảo của người mua về giấy phép nhập khẩu cần thiết, tình hình tài chính tiền tệ của họ... Về phía người mua, họ mong muốn được nhận hàng hoá trước khi thanh toán; có được sự đảm bảo là người bán sẽ chuyển giao hàng hoá đúng hạn; có được sự hỗ trợ về tài chính cho đến khi nhận và bán hàng...
Để có thể đạt được những vấn đề có liên quan đến lợi ích chung song lại đối kháng giữa hai bên, cả người mua và người bán đều phải nhờ đến các dịch vụ ngân hàng. Các bên thường chọn một bên thứ ba độc lập làm trung gian thanh toán, người có thể đảm bảo quyền lợi cho họ đồng thời tạo điều kiện cho quá trình trao đổi, thanh toán được thuận tiện. Bên thứ ba này thường là các tổ chức tài chính trung gian trong đó ngân hàng là một tổ chức tài chính chuyên nghiệp, có bề dày kinh nghiệm, có khả năng tài chính để tài trợ cho cả người bán và người mua bằng nguồn vốn tự có và vốn huy động của mình. Ngân hàng có mạng lưới và quan hệ đại lý rộng khắp, có công nghệ kỹ thuật tiên tiến sử dụng trong thanh toán, do vậy, ngân hàng có thể tiến hành nghiệp vụ thanh toán quốc tế nhanh chóng, thuận tiện và chính xác nhất.
Thanh toán xuất khẩu là một mặt hoạt động thanh toán quốc tế và là dịch vụ đối ngoại của các ngân hàng thương mại. Đây là hình thức chính đẻ tài trợ ngoại thương đối với các đơn vị xuất khẩu. Hoạt động thanh toán xuất khẩu vững mạnh góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường, thu hút khách hàng, góp phần cải tiến và hỗ trợ cho các sản phẩm khác của ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại và tạo điều kiện để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Khi làm trung gian thanh toán, các ngân hàng thương mại còn thu được khoản phí không nhỏ bổ sung vào nguồn thu nhập của mình. Ngược lại, khi các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay vốn, kinh doanh tiền tệ... hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán xuất khẩu phát triển.
1.2.Các phương thức chủ yếu trong thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là hoạt động chi trả bằng tiền của nhà xuất khẩu cho các hàng hoá, dịch vụ cung ứng lao động mà họ đã mua của người xuất khẩu thông qua hệ thống ngân hàng. Mặc dù chủng loại hàng Xuất nhập khẩu rất đa dạng song việc thanh toán lại được thực hiện chủ yếu chỉ bằng ba phương thức sau:
-Phương thức chuyển tiền (Rimittance)
-Phương thức nhờ thu (Collection of Payment)
-Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary of Credit)
1.2.1.Phương thức chuyển tiền
1.2.1.1.Khái niệm
Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán mà trong đó khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi) ỏ một địa điểm nhất định bằng phương thức chuyển tiền do khách hàng yêu cầu.
1.2.1.2.Trình tự tiến hành nghiệp vụ
1.Trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương, nhà xuất khẩu cung cấp hàng hoá, dịch vụ và chứng từ cho người nhập khẩu.
2.Người nhập khẩu đối chiếu, kiểm tra bộ chứng từ với hợp đồng nếu thấy hoàn toàn phù hợp thì viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) đến ngân hàng phục vụ mình.
3.Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu kiểm tra và trích tiền từ tài khoản của người nhập khẩu để thanh toán cho ngân hàng phục vụ ngưòi xuất khẩu, đồng thời gửi giấy báo nợ và thông báo đã thanh toán cho nhà nhập khẩu biết.
4.Ngân hàng phục vụ ngừoi xuất khẩu chuyển tiền cho nhà xuất khẩu. Ngày nay người ta thực hiện chuyển tiền qua mạng SWIFT- Hiện nay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng áp dụng hình thức này quan mạng SWIFT.
Với phương thức này, việc thực hiện đơn giản, nhanh chóng chi phí thấp nhưng lại bất lợi cho người xuất khẩu vì việc trả tiền phụ thuộc vào người nhập khẩu-họ vẫn có thể nhận được hàng nhưng lại gây khó khăn trong việc thanh toán tiền hàng. Còn nếu trong hợp đồng quy định trả tiền trước, nhận hàng sau thì lại bất lợi cho nhà nhập khẩu vì họ có thể phải nhập hàng không đúng trong hợp đồng trong khi đã trả tiền cho người xuất khẩu. Chính vì việc sử dụng phương thức này dễ xảy ra rủi ro cho các bên tham gia nên phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán hàng hoá ngoại thương mà thường được sử dụng trong quan hệ trả nợ, tiền đặt cọc ứng trước, trả tiền thừa, tiền bồi thường và những khoản chi phí phi mậu dịch hoặc trong trong trường hợp người xuất khẩu đang trong điều kiện bất lợi như hàng hoá ế thừa, chậm chu chuyển...
1.2.2.Phương thức nhờ thu (Collection of Payment)
1.2.2.1.Khái niệm
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền người mua bằng cách nhờ ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu đó.
1.2.2.2.Các loại nhờ thu
a.Nhờ thu hối phiếu trơn (Clean Collection): là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng.
Trình tự tiến hành nghiệp vụ của nhờ thu hối phiếu trơn phải trải qua các bước sau:
1.Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua lập một hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng của mình đòi tiền hộ bằng chỉ thị nhờ thu.
2.Người xuất khẩu ký phát hối phiếu đòi tiền người nhập khẩu nhờ ngân hàng thu hộ.
3.Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển hối phiếu sang ngân hàng phục vụ người nhập khẩu và nhờ ngân hàng này thu hộ tiền ở người nhập khẩu.
4.Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu cho người nhập khẩu và yêu cầu trả tiền.
5.Người nhập khẩu trả tiền hoặc từ chối trả tiền
6.Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối thanh toán cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
7.Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển tiền hoặc hoàn lại hối phiếu bị từ chối thanh toán cho người xuất khẩu.
ở phương thức này, chứng từ hàng hoá tách rời quá trình thanh toán. Việc thanh toán phụ thuộc hoàn toàn ở người trả tiền (người nhập khẩu). Nếu họ không có thiện chí thì họ vẫn có thể nhận được hàng nhưng lại gây khó khăn cho việc thanh toán. Vì vậy, phương thức này chỉ được áp dụng trong những trường hợp: người mua và người bán tin cậy lẫn nhau hoặc có quan hệ liên doanh, dùng để thanh toán các dịch vụ có liên quan đến xuất khẩu hàng hoá vì việc thanh toán này không cần thiết phải kèm theo chứng từ như tiền cước phí vận tải, phạt, bồi thường, phí bảo hiểm, hoa hồng lợi tức...
b.Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection): là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu (chứng từ gửi hàng và hối phiếu) và nhờ ngân hàng thu hộ từ hối phiếu đó với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền thi ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để họ nhận hàng.
Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
1.Người xuất khẩu sau khi giao hàng cho người nhập khẩu (theo hợp đồng), lập bộ chứng từ thanh toán gửi tới ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền.
2.Ngân hàng phục vụ bên xuất khẩu chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá và nhờ thu sang ngân hàng bên người nhập khẩu để nhờ thu tiền
3.Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu yêu cầu người nhập khẩu trả tiền hối phiếu hoặc chấp nhận trả tiền. Nếu người nhập khẩu đồng ý thì ngân hàng mới trao chứng từ và báo cho ngân hàng bên người xuất khẩu biết).
4.Khi thu được tiền, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu sẽ chuyển trả tiền cho người xuất khẩu thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
1.2.3.Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit)
1.2.3.1.Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng)) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Các bên tham gia:
-Người xin mở thư tín dụng (The applicant for the credit): là người nhập khẩu hàng hoá, người mua.
-Ngân hàng mở L/C (The isuing bank or openingbanhk): là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
-Người hưởng lợi (Th beneficiary): là người xuất khẩu hàng hoá, người bán hoặc bất cứ người nào khác mà người xuất khẩu chỉ định
-Ngân hàng thông báo L/C (The advising bank): thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C ở nước người xuất khẩu.
-Ngân hàng xác nhận (the confirming bank): là ngân hàng xác nhận trách nhiệm của mình sẽ cùng ngân hàng mở L/C bảo đảm việc trả tiền cho người xuất khẩu trong trường hợp ngân hàng mở L/C không đủ khả năng thanh toán. Ngân hàng xác nhận có thể vừa là ngân hàng thông báo thư tín dụng hay là một ngân hàng khác do người xuất khẩu yêu cầu. Thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế.
-Ngân hàng thanh toán (The paying bank): có thể là ngân hàng mở L/C hoặc có thể là một ngân hàng khác được ngân hàng mở L/C chỉ định thay mình thanh toán trả tiền cho người xuất khẩu hay chiết khấu hối phiếu. Trường hợp ngân hàng làm nhiệu vụ chiết khấu hối phiếu thì gọi là ngân hàng chiết khấu (The negotiating bank). Nếu địa điểm trả tiền quy định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng trả tiền thường là ngân hàng thông báo. Trách nhiệm của ngân hàng thanh toán giống như ngân hàng mở thư tín dụng khi nhận bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến.
1.2.3.2.Trình tự tiến hành nghiệp vụ
1.Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
2.Căn cứ vào yêu cầu và nội dung của đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập một thư tín dụng và thông qua ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu.
3.Khi nhận được thông báo này, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, khi nhận được thư tín dụng thì chuyển ngay đến người xuất khẩu
4.Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không chấp nhận thì đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng.
5.Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của thư tín dụng, xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở thư tín dụng xin thanh toán.
6.Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra toàn bộ chứng từ thanh toán, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
7.Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho người nhập khẩu.
8.Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì hoàn trả tiền lại cho ngân hàng mở thư tín dụng, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.
1.3.Tín dụng chứng từ-Một phương thức quan trọng trong thanh toán quốc tế
Trong mua bán thương mại, dù ở hình thức nào, luôn tồn tại một mâu thuẫn: người mua muốn nắm được hàng hoá trước khi trả tiền còn người bán lại muốn có tiền rồi mới chuyển giao hàng hoá cho người mua. Mở rộng sang mua bán hàng hoá quốc tế, việc giải quyết mâu thuẫn này càng cần thiết hơn về khoảng cách về thông tin, không gian giữa người mua và người bán. Để giải quyết, người ta thường dùng một biện pháp thoả hiệp: trả tiền đồng thời với việc giao chứng từ chứng nhận quyền sở hữu hàng hoá hay quyền kiểm soát hàng hoá thông qua bên thứ ba độc lập, được cả người mua và người bán tin tưởng làm trung gian thực hiện việc trả tiền và giao chứng từ. ở đây sự tín nhiệm đóng vai trò quan trọng. Các ngân hàng với khả năng tài chính dồi dào, uy tín cao được yêu cầu tham gia với tư cách bên thứ ba nói trên.
Ngân hàng sẽ cam kết có điều kiện với người bán là sẽ trả tiền xuất trình chứng từ và đưa ra những quy định yêu cầu người mua tuân thủ. Cách thức này bảo đảm một cách hợp lý quyền lợi chính đáng của hai bên mua bán lại thuận tiện, dễ sử dụng ngay cả những người mới tham gia vào buôn bán quốc tế theo phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nên nó đã trở thành một tác nhân quan trọng giúp phát triển buôn bán quốc tế.
1.3.1.Thư tín dụng (Letter of credit-L/C) là công cụ chủ yếu trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.3.1.1.Khái niệm
Thư tín dụng là một văn bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng bên người nhập khẩu) theo yêu cầu của một khách hàng (người nhập khẩu) mở thư tín dụng uỷ nhiệm cho chi nhánh hay đại lý của mình ở nước ngoài (ngân hàng bên người xuất khẩu) trả tiền cho người hưởng (người xuất khẩu) ghi rõ trong thư tín dụng một số tiền nhất định, trong phạm vi thời hạn quy định với điều kiện là người hưởng (người xuất khẩu) xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với các điều kiện quy định trong thư tín dụng.
1.3.1.2.Những nội dung chủ yếu của thư tín dụng
-Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C
-Loại thư tín dụng
-Tên, địa chỉ của những người có liên quan (thương nhân và ngân hàng)
-Số tiền của thư tín dụng
-Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong L/C
-Những nội dung liên quan tới hàng hoá và vận chuyển giao nhận hàng hoá
-Những chứng từ mà người hưởng lợi phải xuất trình
-Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C
-Những điều khoản đặc biệt khác
-Chữ ký của nhân viên ngân hàng mở L/C
1.3.1.3.Các chức năng cơ bản của thư tín dụng
-Chức năng thanh toán
-Chức năng tín dụng
-Chức năng đảm bảo
1.3.1.4. Các loại thư tín dụng chủ yếu
a.Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable L/C)
Là loại thư tín dụng sau khi ngân hàng mở ra và thông báo cho người bán thì không được sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ nó trong thời gian hiệu lực của nó nếu không có sự đồng ý của các bên liên quan.
Loại L/C không thể huỷ ngang được sử dụng phổ biến rộng rãi nhất trong thanh toán quốc tế vì nó đảm bảo quyền lợ cho nhà xuất khẩu
b.Thư tín dụng không thể hủy ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng không thể hủy ngang và được một ngân hàng có uy tín hơn đứng ra bảo đảm thanh toán cho người hưởng lợi. Ngân hàng đảm bảo này gọi là ngân hàng xác nhận (confirming bank)
Đối với loại L/C này người xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở L/C nhưng gửi thẳng cho ngân hàng xác nhận để thanh toán. Điều này có thể là do ngân hàng xác nhận chịu trách nhiệm thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu nếu ngân hàng mở L/C không trả tiền được cho nhà xuất khẩu.
Loại L/C này đặc biệt áp dụng khi người bán không tin tưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng mở L/C
c.Thư tín dụng không thể hủy ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C)
Là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng mở L/C không có quyền đòi lại tiền từ người xuất khẩu trong bất cứ trường hợp nào. Khi dùng loại L/C này người xuất khẩu phải ghi thêm trên hối phiếu câu: “miễn truy đòi lại người ký phát” (without recourse to chawer) và trong L/C cũng phải ghi như vậy. Loại L/C không thể huỷ ngang miễn truy đòi cũng được sử dụng phổ biến trong thanh toán quốc tế.
d.Thư tín dụng chuyển nhượng (Tranferable L/C)
Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó quy định quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu Ngân hàng mở rộng L/C chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người khác. L/C chuyển nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần. Chi phí chuyển nhượng do người hưởng lợi thứ nhất trả.
e.Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C)
Là loại thư tín dụng mở dựa vào một L/C khác, nghĩa là sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình, người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở một L/C khác dựa vào L/C gốc cho nhà cung cấp hàng hoá. L/C sau khi được hiểu là L/C giáp lưng.
f.Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C)
Là loại L/C không huỷ ngang trong đó quy định rằng khi L/C được sử dụng hết kim ngạch hoặc sau khi hết hạn hiệu lực của L/C thì nó lại tự động có giá trị như cũ, và cứ như vậy L/C tuần hoàn đến khi nào hoàn tất giá trị hợp đồng.
Loại L/C tuần hoàn này được áp dụng trong trường hợp hai bên xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ thường xuyên và đối tượng thanh toán không thay đổi.
g.Thư tín dụng có điều khoản đỏ (Red clause L/C)
Là một sự uỷ quyền của ngân hàng mở L/C đối với ngân hàng chiết khấu, ứng trước một khoản tiền cho người được hưởng để giúp người được hưởng có thêm nguồn vốn giao hàng cho L/C đã mở.
h.Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C)
Là loại L/C mà trong đó ngân hàng mở L/C cam kết với người nhập khẩu là sẽ thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra cho người nhập khẩu. Việc bảo đảm hoàn lại số tiền đó cho người đặt hàng khi người sản xuất không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng là ý nghĩa quan trọng của loại L/C dự phòng.
i.Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C)
Là loại L/C “không thể huỷ ngang” này chỉ có giá trị hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã được mở. L/C đối ứng được áp dụng trong phương thức mua bán hàng đổi hàng hay thương mại gia công, nó bảo đảm quyền lợi cho người gia công hàng kém, bởi vì sản phẩm làm ra có đặc điểm riêng do người đặt hàng quy định.
Ngoài ra còn có một số loại thư tín dụng khác như: Thư tín dụng có thể huỷ ngang, thư tín dụng thanh toán dần...
1.3.2.Các yêu cầu của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Tất cả các giao dịch thanh toán tín dụng chứng từ đều phải tiến hành theo đúng luật pháp của hai nước (nước xuất khẩu và nước nhập khẩu), đồng thời tuân theo những quy định của UCP 500, đảm bảo mọi giao dịch diễn ra đều hợp pháp và theo đúng thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện cụ thể của các bên liên quan mà tín dụng chứng từ có thể có thêm một hay nhiều điều khoản không tương ứng với quy định trong UCP500.
Một khâu đặc biệt quan trọng của quá trình thanh toán là khâu kiểm tra chứng từ. Thanh toán viên phải đảm bảo kiểm tra chứng từ thật cẩn thận để xác định tất cả các chứng từ phù hợp với các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng. Các chứng từ không quy định trong thư tín dụng sẽ không kiểm tra và đượca thanh toán viên trả lại cho người xuất trình. Mỗi ngân hàng tham gia vào chu trình thanh toán sẽ có một thời gian hợp lý để kiểm tra chứng từ và quyết định chấp nhận hay từ chối chứng từ (không vượt quá 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ) đồng thời tiến hành thông báo cho các bên liên quan biết quyết định của mình.
*Các chứng từ cơ bản nhất của quá trình thanh toán tín dụng chứng từ:
-Hối phiếu: (Bill of Exchange)
Là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người kỳ phát cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo mệnh lệnh của người này phải trả cho người cầm hối phiếu. Trong phạm vi phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, những hối phiếu được lập ra phải có nội dung và hình thức phù hợp với phương thức thanh toán này.
-Chứng từ hàng hoá
Bao gồm các hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận về phẩm chất, quy cách, số lượng, chất lượng của hàng hoá, giấy chứng nhận xuất xứ...
+Hoá đơn thương mại (Comercial Invoice) bao gồm tất cả các chi tiết về hàng hoá như tên và địa chỉ của người mua, người bán, nhãn hiệu và số lượng của hàng hoá, điều kiện giao hàng và thanh toán, đơn giá...
+Các giấy chứng nhận về hàng hoá bao gồm giấy chứng nhận xuất xứ, chứng nhận về số lượng, giấy chứng nhận trọng lượng... Những giấy chứng nhận này do các cơ quan có thẩm quyền cấp, phát.
+Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of origin): Nêu rõ về nơi sản xuất của hàng hoá, tên cơ sở sản xuất, giấy phép hoạt động kinh doanh của đơn vị sản xuất... để chứng ninh rằng hàng hoá có nguồn gốc hợp pháp.
-Chứng từ vận tải
Các chứng từ này là một trong những chứng từ quan trọng nhất để ngân hàng tiến hành thanh toán cho một thư tín dụng, nó đảm bảo hàng hoá đã được chuyên chở theo đúng yêu cầ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7610.doc