Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng: ... Ebook Nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng
48 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
IPO
Phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng
TTCK
Thị trường chứng khoán
UBCK
Uỷ ban chứng khoáng
CPH
Cổ phần hoá
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
CP
Cổ phiếu
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
LD
Liên doanh
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương 1: Lý luận chung về phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 2
1.1. Khái niệm 2
1.2. Điều kiện phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 2
1.2.1 Về qui mô vốn 2
1.2.2. Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh 2
1.2.3. Về đội ngũ quản lý công ty 2
1.2.4. Về tính khả thi của dự án 2
1.2.5. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh 2
1.3. Vai trò của việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 3
1.3.1/ Phát hành ra công chúng nhằm huy động vốn 4
1.3.2/ Phát hành chứng khoán ra công chúng là điều kiện để tham gia niêm yết trên thị trường tập trung 4
1.3.3/ Tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 4
1.3.4/ Nâng cao uy tín quảng bá hình ảnh 5
1.3.5/ Giảm chi phí tiếp cận vốn 6
1.4/ Quy trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 7
1.5/ Một số nhân tố ảnh hưởng đến việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 9
Chương 2:Thực trạng về việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 12
2.1. Khái quát về hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các DNNN 12
2.1.1. Các căn cứ phá lý 12
2.1.2. Các phương thức phát hành chứng khoán 12
2.2. Thực trạng về hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 14
2.2.1/ Cách thức xác định giá trị cổ phiếu phát hành. 14
2.2.2/ Quy trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng..20
2.2.3/ Hình thức tổ chức phát hành chứng khoán 23
2.3. Đánh giá về hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của một số DNNN 25
2.3.1. Thành tựu của phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 25
2.3.2. Hạn chế của việc phát hành chứng khoán ra công chúng..26
2.3.3. Vướng mắc của các doanh nghiệp Nhà nước gặp phải khi phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng 26
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả của việc phát hành chứng khoán ra công chúng của các DNNN 30
3.1. Định hướng về cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước của Việt Nam trong thời gian tới 30
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc phát hành chứng khoán ra công chúng của các DNNN 32
3.2.1. Giải pháp về phía Nhà nước 35
3.2.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp 36
KÕt luËn 42
Tµi liÖu tham kh¶o 44
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, huy động vốn trên Thị trường chứng khoán thông qua phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu hiện nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng trên thị trường vốn, song song cùng tồn tại với các hình thức huy động truyền thống khác đối với tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng hiện nay, hình thức huy động vốn được coi là khá “dễ dàng” này lại đang lâm vào một cuộc hành trình gian truân mà nguyên nhân chủ yếu gắn liền với xu thế giao dịch trên thị trường chứng khoán. Và một thực tế đã xảy ra đó là sáu tháng đầu năm 2008, hoạt động phát hành ra công chúng của các doanh nghiệp khởi đầu không mấy thuận lợi trong bối cảnh suy giảm chung của thị trường chứng khoán cũng như toàn bộ thị trường vốn. Điều này hoàn toàn trái ngược với sự thành công của hoạt động phát hành chứng khoán năm 2007, khi mà thị trường chứng khoán đang trên đà tăng trưởng mãnh liệt. Hơn nữa vào hai quý đầu năm 2008, hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của các doanh nghiệp rất trầm lắng. Ngoài đợt chào bán được đánh giá là lớn nhưng kết quả không được như mong đợi của hai tên tuổi “lẫy lừng” trong ngành rượu-bia-nước giải khát là Sabeco và Habeco thì tính tới thời điểm này, chưa có thêm bất kỳ một doanh nghiệp thuộc hàng “đại gia” nào đi tiếp con đường sóng gió này. Nhiều doanh nghiệp đã phải huỷ hoặc hoãn kế hoạch phát hành của mình để chờ thời cơ khác.
Vì vậy với hy vọng giúp nâng cao tính hiệu quả cho hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng em đã chọn đề tài này: Nâng cao hiệu quả hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng.
Em xin trân trọng cảm ơn cô giáo Th.S Lương Hương Giang đã giúp em hoành thành tốt đề tài này!
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
LẦN ĐẦU RA CÔNG CHÚNG
1.1/ Khái niệm.
Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó chứng khoán được bán rộng rãi cho quảng đại công chúng đầu tư (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) với quy lớn cho một số lượng lớn nhà đầu tư đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
1.2/ Điều kiện phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng.
Mỗi nước có những qui định riêng cho việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng. Tuy nhiên, để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường tổ chức phát hành phải đảm bảo năm điều kiện cơ bản sau:
1.2.1/ Về qui mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm nhất định về vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng công chúng tham gia.
1.2.2/ Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh: công ty được thành lập và hoạt động trong vòng một thời gian nhất định (thường khoảng từ 3 đến 5 năm).
1.2.3/ Về đội ngũ quản lý công ty: công ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có đủ năng lực và trình độ quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty.
1.2.4/ Về tính khả thi của dự án: công ty phải có dự án khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được.
1.2.5/ Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: công ty phải làm ăn có lãi với mức lợi nhuận không thấp hơn mức qui định và trong một số năm liên tục nhất định (thường từ 2-3 năm).
Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp ngoại lệ, tức là có những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu trên, ví dụ: Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, hạ tầng cơ sở có thể được miễn giảm điều kiện về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, theo quy định của Nghị định 48/1998/-NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/-NĐ-CP, tổ chức phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau:
+ Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam.
+ Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất.
+ Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh.
+ Có phương án khả thi về việc sủ dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu.
+ Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành.
+ Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành.
+ Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành.
1.3/ Vai trò của việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng.
1.3.1/ Phát hành ra công chúng nhằm huy động vốn.
Thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng, các công ty có thể tăng quy mô vốn, mở rộng phạm vi hoạt động và thay đổi tính chất của doanh nghiệp. Phát hành ra công chúng, đơn vị phát hành có thể huy động được vốn không giới hạn về điều kiện thế chấp, không bị hạn về quy mô huy động. Thậm chí, đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng còn góp phần làm tăng năng lực vay nợ của tổ chức phát hành. Năng lực tài chính được cải thiện sẽ là điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện đầu tư mở rộng quy mô hoạt động. Tuy nhiên, phát hành ra công chúng cũng sẽ làm giảm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông hiện hữu. Các cổ đông cũ sẽ bị chia sẻ lợi ích và quyền lực. Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày. Chính vì vậy, quyết định phát hành ra công chúng cần có sự đồng thuận của các cổ đông hiện hữu trên cơ sở cân nhắc lợi ích của toàn bộ doanh nghiệp với lợi ích của mỗi cá nhân.
1.3.2/ Phát hành chứng khoán ra công chúng là điều kiện để tham gia niêm yết trên thị trường tập trung.
Chứng khoán của công ty đã phát hành ra công chúng được phép niêm yết trên Sở giao dịch (nếu đáp ứng được các điều kiện niêm yết). Do vậy, các chứng khoán này có tính thanh khoản cao hơn và mức rủi ro cũng thấp hơn chứng khoán phát hành riêng lẻ. Chứng khoán phát hành riêng lẻ thường không thể phản ánh chính xác mối quan hệ cung cầu trên thị trường do số người mua hạn chế, tính chất cạnh tranh không cao. Trong khi chứng khoán của các công ty đại chúng được giao dịch trên thị trường có tính cạnh tranh cao sẽ được định giá hợp lý. Do các chứng khoán phát hành ra công chúng đã phải đạt yêu cầu tối thiểu về vốn và hiệu quả hoạt động nên thường được thị trường đánh giá cao hơn do vậy giá của các chứng khoán này thường cũng cao hơn giá các chứng khoán riêng lẻ.
1.3.3/ Tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.
Phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản lý chuyên nghiệp, cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các ủy viên quản trị không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối trong quản lý điều hành công ty.
Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
Phát hành chứng khoán ra công chúng yêu cầu đơn vị phát hành phải tuân thủ nghiêm ngặt về tính minh bạch và công khai. Chính sự minh bạch và công khai sẽ tạo sức ép đối với đơn vị phát hành phải hoạt động hiệu quả. Đứng trên góc độ nền kinh tế, nếu minh bạch và công khai trở thành phổ biến sẽ góp phần tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng công bằng, hiệu quả hơn.
1.3.4/ Nâng cao uy tín quảng bá hình ảnh.
Yêu cầu minh bạch và công khai trong hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng thường có gắn việc quảng bá thông tin của đơn vị phát hành. Hơn nữa, phát hành chứng khoán ra công chúng của các doanh nghiệp thường gắn với mục tiêu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Khi đơn vị đã tham gia thị trường giao dịch tập trung, các thông tin liên quan đến hoạt động, kết quả sản xuất kinh doanh sẽ thường xuyên xuất hiện miễn phí trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vị thế và hình ảnh của công ty sẽ được quảng bá và nâng cao.
Tuy nhiên, lợi ích này không phải đơn vị nào cũng đạt được. Việc quảng bá thông tin là điều kiện tự nhiên của các doanh nghiệp niêm yết. Thông tin được quảng bá sẽ bao gồm cả thông tin tốt và thông tin xấu. Nếu đơn vị phát hành làm ăn có hiệu quả, có tiềm lực mạnh thì việc quảng bá sẽ góp phần tích cực nâng uy tín và vị thế của công ty trên thương trường. Nhưng nếu công ty làm ăn kém hiệu quả thì thông tin này cũng sẽ được quảng bá (công ty không thể che dấu được) thì khi đó uy tín và vị thế của công ty có thể bị ảnh hưởng tiêu cực.
Hơn nữa công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ một chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty khác. Hơn nữa việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu cũng như nguy cơ bị rò rỉ thông tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng. Ngoài ra, do qui định của pháp luật, việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ thường bị hạn chế.
1.3.5/ Giảm chi phí tiếp cận vốn.
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó khách hàng và nhà cung ứng của công ty và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân hàng. Ngoài ra việc phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài với tư cách làm đối tác liên doanh.
Chi phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao thường chiếm từ 8-10% khoản vốn vay huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết…Ngoài ra, hàng năm công ty cũng phải chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính, chi phí cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và chi phí công bố thông tin định kỳ.
1.4/ Quy trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng.
Quy trình phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường được tiến hành qua các bước sau:
+ Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đông về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy động vốn; số lượng vốn cần huy động; chủng loại và số lượng chứng khoán dự định phát hành; cơ cấu vốn phát hành dự tính phân phối cho các đối tượng: Hội đồng quản trị, cổ động hiện tại, người lao động trong doanh nghiệp, người bên ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài…
+ Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ xin phép phát hành để nộp lên cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần), công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn và cùng với các tổ chức này xây dựng phương án phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu tư.
+ Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong phần lớn các trường hợp phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, để đảm bảo sự thành công của đợt phát hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng lớn của mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành diễn ra một cách suôn sẻ. Chính vì vậy, khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng thì việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan trọng, và mang tính quyết định đến sự thành bại của đợt phát hành.
+ Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành viên khác của tổ hợp. Trong trường hợp khối lượng chứng khoán phát hành là quá lớn, vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành chính (tổ chức bảo lãnh đã được lựa chọn) sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên khác để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn bộ đợt phát hành.
+ Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn tiến hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khoán là khâu khó khăn nhất và phức tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng. Nếu định giá chứng khoán quá cao thì sẽ khó khăn trong việc bán chứng khoán, còn nếu định giá chứng khoán quá thấp thì sẽ làm thiệt hại cho tổ chức phát hành. Vì thế, việc định giá chứng khoán một cách hợp lý sao cho người mua và người bán đều chấp nhận được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp của tổ chức bảo lãnh, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn của công ty.
+ Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với tổ chức phát hành.
+ Công ty kiểm toán xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành.
+ Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên UBCK. Thông thường tổ chức phát hành sẽ được trả lời về việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời hạn nhất định kể từ ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời gian chờ UBCK Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể sử dụng nội dung trong bản cáo bạch sơ bộ để thăm dò thị trường.
+ Sau khi được cấp phép phát hành, tổ chức phát hành phải ra thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính thức và việc thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất định kể từ khi được cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được qui định khác nhau đối với mỗi nước. ở Việt nam, theo qui định tại Nghị định 48/Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì thời hạn này là 90 ngày, trong trường hợp xét thấy hợp lý và cần thiết, UBCK nhà nước có thể gia hạn thêm.
+ Tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng khoán sau khi kết thúc đợt phân phối chứng khoán.
+ Sau khi hoàn thành việc phân phối chứng khoán, tổ chức phát hành cùng với tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành cho UBCK và tiến hành đăng ký vốn với cơ quan có thẩm quyền.
+ Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể làm đơn xin niêm yết gửi lên UBCK và Sở giao dịch chứng khoán nơi công ty niêm yết.
1.5/ Một số nhân tố ảnh hưởng đến việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng.
Ở Việt Nam, văn bản hiện hành về việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng đã có những quy định cụ thể. Do đó, về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế, doanh nghiệp muốn thực hiện IPO, doanh nghiệp phải có tiềm lực về vốn, phải thể hiện tính chất đại chúng và sẵn sàng trở thành đại chúng. Như vậy, hiểu thế nào là một đợt IPO thành công/hiệu quả? Những nhân tố nào tác động tới hiệu quả của đợt IPO.
Qua nghiên cứu thực tế cho thấy rằng thành công của đợt IPO phụ thuộc vào 5 nhân tố: 1/ Tiềm lực doanh nghiệp; 2/ Thực trạng TTCK; 3/ Khối lượng phát hành; 4/ Quy mô đăng ký; 5/ Giá khởi điểm.
Trong điều kiện TTCK Việt Nam hiện nay, một vài doanh nghiệp đã tiến hành IPO vừa qua, giá trúng thầu rất cao, bán hết số lượng cổ phần dự kiến phát hành. Nếu xét ở góc độ doanh nghiệp – nhà phát hành, như vậy là hiệu quả. Nhưng xem xét ở góc độ nhà đầu tư, thì mua được lượng chứng khoán lớn chưa hẳn đã được coi là hiệu quả. Về mặt lý thuyết, giá trúng thầu rất quan trọng của một đợt đấu giá, giá này phản ánh giá trị của doanh nghiệp và có tác động tới các nhà đầu tư trong việc đưa ra giá mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế vì nhiều lý do, trong đó có yếu tố kinh doanh theo “ bầy đàn”, nên giá trúng thầu chưa hẳn nói nên sự thật về tiềm lực của doanh nghiệp hiện tại và triển vọng trong tương lai. Đã có nhà đầu tư đặt giá rất cao, thậm chí gấp hàng trăm lần mệnh giá của cổ phiếu, nhưng lại không có ý định đầu tư, vì thế giá trúng thầu chưa phản ánh chính xác quan hệ cung cầu về cổ phiếu cổ phiếu của doanh nghiệp. Nên trong một số trường hợp giá trúng thầu cao nhất lại không phải là giá mà nhà đầu tư quan tâm, mà giá trúng thầu bình quân/hoặc thấp nhất lại được số đông các nhà đầu tư chú ý. Trong trường hợp này, bán được giá cao cũng chưa hẳn là đợt IPO hiệu quả. Mặt khác, CPH DNNN, phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng không phải là bán được giá càng cao càng tốt để Nhà nước rút được nhiều vốn, mà mục tiêu lớn nhất của CPH là tạo ra động lực giúp doanh nghiệp phát triển, quản trị tốt hơn, kinh doanh có hiệu quả hơn; đồng thời CPH DNNN hoặc Nhà nước rút bớt phần vốn của mình ra khỏi doanh nghiệp phục vụ cho mục tiêu khác, nhằm mục đích giảm bớt can thiệp của Nhà nước vào doanh nghiệp, hoặc bằng cách giữ nguyên phần vốn của Nhà nước, nhưng thu hút thêm vốn của các cổ đông bên ngoài, các nhà đầu tư chiến lược để cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp. Còn các yếu tố thị trường, cũng như khối lượng phát hành có tác động không nhỏ đến việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Nhưng không vì thế mà việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng sẽ không thành công khi thị trường đang có những biến động thất thường, bởi nhà đầu tư vẫn quan tâm đến cổ phiếu của doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và có nhiều triển vọng trong tương lai. Như vậy, yếu tố thị trường có tác động đến cung cầu trên TTCK nói chung, IPO nói riêng, nhưng một số trường hợp không hẳn quyết định sự thành công của IPO. Vì vậy, 5 yếu tố kể trên nên coi nó là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến IPO. Vậy, thành công của IPO được hiểu như thế nào? Phát hành lần đầu ra công chúng được coi là hiệu quả khi số lượng dự kiến vốn huy động được thể hiện bằng các cổ phiếu phát hành bán hết với giá cả hợp lý.
Trước hết, về khối lượng phát hành. Khối lượng phát hành nói lên mức cung của đợt IPO, khối lượng này phải phù hợp với khối lượng vốn dự kiến huy động và tính đến hiệu quả của việc sử dụng số vốn huy động được sau đợt IPO. Còn giá bán được coi là hợp lý đối với cả ba nhà: nhà phát hành - doanh nghiệp, Nhà nước và nhà đầu tư. Đối với nhà phát hành, giá này phản ánh được hiện trạng và triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Sau IPO, doanh nghiệp tăng được năng lực tài chính, góp phần cải thiện vấn đề quản trị nội bộ doanh nghiệp, cũng như không bị sức ép từ phía nhà đầu tư do sự kỳ vọng quá thái, đôi khi vượt quá tiềm năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nhà đầu tư, tiền bỏ ra mua cổ phiếu của doanh nghiệp, không chỉ phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc không nhỏ vào những thông tin “đồn thổi”. Nhưng với chi phí bỏ ra ngày hôm nay, nhà đầu tư lại kỳ vọng trong tương lai, giá cổ phiếu sẽ tăng do doanh nghiệp làm ăn phát đạt, thu nhập không chỉ có từ cổ tức, mà còn thu nhập từ giá trị gia tăng do chính doanh nghiệp tạo ra. Đối với Nhà nước, qua mỗi đợt IPO không hẳn là vấn đề tối đa hóa việc thu hút thặng dư vốn, mà vấn đề quan trọng hơn là không để mất vốn của Nhà nước, và việc thu hút các cổ đông trong và ngoài nước như thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng nếu thỏa mãn được hai vấn đề nêu trên, thì được coi là đợt IPO hiệu quả.
Để đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả IPO trong thời gian tới, cần phải xử lý đồng bộ nhiều vấn đề. Đặc biệt, một trong những vấn đề then chốt nhất là cần tiếp tục đổi mới tư duy, trong đó có vấn đề định giá doanh nghiệp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN
LẦN ĐẦU RA CÔNG CHÚNG
2.1/ Khái quát về hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng của các DNNN
2.1.1/ Các căn cứ pháp lý
Được thành lập vào tháng 7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua 6 năm hoạt động với nhiều giai đoạn, từ lúc phát triển quá nóng sang tới giai đoạn suy thoái và hiện nay đang có những dấu hiệu đáng mừng với sự phát triển khá mạnh cả về chất và lượng. Bên cạnh đó, khug pháp lý của thị trường ngày càng chặt chẽ và hiệu qua hơn.
Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán trực thuộc UBCK nhà nước. Sự ra đời của Trung tâm tác động rất lớn đến việc hỗ trợ hoạt động giao dịch trên TTCKVN, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư và các công ty chứng khoán.
Đặc biệt, ngày 23/6/2006 Quốc hội khoá XI đã chính thức thông qua Luật Chứng khoán. Kể từ ngày 1/1/2007 TTCK Việt Nam sẽ được điều chỉnh bởi văn bản pháp lý cao nhất này.
Về hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng còn được nêu rõ cụ thể tại Quyết định 13/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính ban hành mẫu bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng và Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thông tư 17/2007/TT-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài Chính hướng dẫn Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng.
2.1.2/ Các phương thức phát hành chứng khoán
2.1.2.1/ Phát hành riêng lẻ ( Private Placement).
Phát hành riêng lẻ là hình thức phát hành trong đó đơn vị phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định với những điều kiện hạn chế mang tính chất khép kín.
Phát hành chứng khoán riêng lẻ không chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chứng khoán và Thị trường chứng khoán (Luật Chứng khoán). Chứng khoán phát hành theo hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán.
Các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành. Các công ty thực hiện việc phát hành chứng khoán riêng lẻ khi:
+ Công ty chưa đủ tiêu chuẩn để phát hành chứng khoán ra công chúng.
+ Số lượng vốn cần huy động thấp, quy mô huy động chưa cần ở mức rộng rãi, phạm vi hoạt động vẫn mang tính vẫn mang tính chất nội bộ khép kín.
+ Phát hành cổ phiếu nhằm mục đích tăng cường các mối quan hệ kinh doanh hoặc phát hành cho nội bộ cán bộ, nhân viên của đơn vị phát hành.
2.1.2.2/ Phát hành ra công chúng (Public Offering).
Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó chứng khoán được bán rộng rãi cho quảng đại công chúng đầu tư (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) với quy lớn cho một số lượng lớn nhà đầu tư đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán.
Phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng có thể dựa vào số lượng người mua (ví dụ, theo luật Chứng khoán Việt Nam thì phát hành ra công chúng phải chào bán được cho 100 nhà đầu tư trở lên không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp), vào nội dung và thủ tục phát hành. Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật về Chứng khoán và Thị trường Chứng khoán. Đơn vị phát hành phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định và phải đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán. Phát hành chứng khoán ra công chúng phải tiến hành công khai và chịu sự giám sát theo quy định Luật chứng khoán. Công ty đã thực hiện phát hành chứng khoán ra công chúng được gọi là công ty đại chúng. Chứng khoán của các công ty đại chúng có thể được xem xét để niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Việc phân biệt phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng là để xác định những người phát hành rộng rãi ra công chúng phải là công ty có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, nhằm bảo về cho công chúng đầu tư nói chung, nhất là các nhà đầu tư nhỏ thiếu hiểu biết. Đồng thời đây cũng là điều kiện để xây dựng một thị trường chứng khoán an toàn, công khai và có hiệu quả.
Phát hành chứng khoán ra công chúng được phân biệt giữa phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng. Đối với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai hình thức: Phát hành lần đầu ra công chúng và phân phối sơ cấp. Trong khi phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ được thực hiện theo một hình thức là phân phối sơ cấp.
Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO – Initial Public Offering): là đợt phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư.
Phân phối sơ cấp (PO – Primary Offering): Là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư và các đợt phát hành trái phiếu ra công chúng.
2.2/ Thực trạng về hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng.
2.2.1/ Cách thức xác định giá trị cổ phiếu phát hành.
2.2.1.1/ Cổ phiếu thường (Common stock)
Cổ phiếu thường là chứng chỉ thể hiện quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty và xác nhận cho phép cổ đông được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ty.
Người sở hữu cổ phiếu thường là cổ đông thường và là đồng sở hữu của công ty cổ phần.
+ Các hình thức giá trị của cổ phiếu thường:
- Mệnh giá của cổ phiếu thường
Mệnh giá là giá trị danh nghĩa mà công ty cổ phần quy định cho một cổ phiếu được ghi trên cổ phiếu.
Mệnh giá của cổ phiếu không liên quan đến giá thị trường của cổ phiếu đó và thường được dùng để tính toán giá trị kế toán của cổ phiếu thường trong bảng cân đối kế toán của công ty.
- Giá trị sổ sách:
Giá trị sổ sách của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên số liệu sổ sách của công ty. Nếu công ty chỉ phát hành cổ phiếu th ường thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng tổng giá tri tài sản ròng ( phần chênh lệch giữa tổng giá trị tài sản với tổng số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành. Trường hợp công ty phát hành thêm cổ phiếu ưu đãi thì phải lấy tổng giá trị tài sản ròng trừ đi tổng giá trị cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành.
- Giá thị trường:
Giá trị thị trường là giá trị của cổ phiểu trên thị trường tại thời điểm hiện tại, được thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. Giá trị thị trường còn được gọi là thị giá của cổ phiếu, phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, được xác định bởi quan hệ giữa cung và cầu, do vậy nó có thể thay đổi thường xuyên.
+ Ước định giá cổ phiếu thường
Việc ước định giá cổ phiếu cho phép người đầu tư có thể so sánh và đối chiếu với giá cổ phiếu trên thị trường để xem xét cổ phiếu đang được thị trường đánh giá cao hay thấp, từ đó có thể giúp người đầu tư ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Có thể ước định giá cổ phiếu theo nhiều phương pháp. Phương pháp thông dụng nhất là ước định giá cổ phiếu theo cổ tức dự tính.
Giá của cổ phiếu có thể coi là giá tri hiện tại của các khoản thu được trong tương lai từ cổ phiếu, bao gồm các khoản lợi tức có thể nhận được và khoản tiền có thể thu được khi nhượng bán lại cổ phiếu. Do vậy, giá cổ phiếu có thể ước định theo công thức sau:
(1)
Trong đó:
Po : Giá cổ phiếu thường ước định
D t: Khoản cổ tức dự tính nhận được hàng năm
P n: Giá cổ phiếu dự tính nhượng bán ở cuối năm thứ n
K s: Tỷ lệ lãi suất hàng năm mà người đầu tư yêu cầu đạt được.
Thông thường việc đầu tư vào cổ phiếu được xem là việc đầu tư dài hạn với hy vọng từ đó thu được những khoản thu nhập ngày càng lớn, cho nên đứng trên quan điểm đầu tự dài hạn, giá ước định của cổ phiếu có thể ước định là tổng giá trị hiện tại của các khoản cổ tức nhận được hàng năm trong tươn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21888.doc