Nâng cao hiệu quả hoạt động Nhập khẩu tại Công ty Cổ phần phát triển xây dựng & Xuất nhập khẩu Sông Hồng

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU 1 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 1. NK : Nhập khẩu 2. KQ : Kết quả 3. CF : Chi phí 4. TSLN : Tỷ suất lợi nhuận 5. NSLĐ : Năng suất lao động DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Cơ cấu lao động của Công ty 28 Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty qua các năm (2003-2006) 30 Bảng 3: Cơ cấu doanh thu theo lĩnh vực 31 Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty 33 Bả

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động Nhập khẩu tại Công ty Cổ phần phát triển xây dựng & Xuất nhập khẩu Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 5: Hiệu quả sử dụng lao động 34 Bảng 6: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo thị trường 37 Bảng 7: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo mặt hàng 378 Bảng 8: Doanh thu nhập khẩu theo loại hình nhập khẩu 39 Bảng 9: Cơ cấu giá trị, doanh thu theo loại hình nhập khẩu trực tiếp 39 Bảng 10: Cơ cấu giá trị, doanh thu theo loại hình nhập khẩu uỷ thác 40 Bảng 11: Chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu 43 Bảng 12: Các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận theo loại hình nhập khẩu trực tiếp 44 Bảng 13: Các chỉ tiêu lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận loại hình nhập khẩu uỷ thác 46 Bảng 14: Các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn 488 Bảng 15: Hiệu quả sử dụng lao động của công ty 50 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1: Cơ cấu doanh thu theo lĩnh vực 29 Biểu đồ 2: Biểu đồ tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu và doanh thu nhập khẩu trực tiếp 47 Biểu đồ 3: Biểu đồ tỷ suất lợi nhuận theo chi phí nhập khẩu và chi phí nhập khẩu trực tiếp 47 DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng . 24 LỜI MỞ ĐẦU Năm 2006 đi qua với một loạt những thành công lớn trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam mà sự kiện nổi bật nhất là việc Việt Nam gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng và nhanh như vậy thì hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng thể hiện rõ vai trò to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng những nguồn lực, kinh nghiệm bên ngoài để phát triển nhanh hơn kinh tế trong nước. Và vấn đề luôn được các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng đặt lên hàng đầu, đó là hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mình. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt sắp tới, vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động lại càng trở lên cấp thiết, bởi vì chỉ có hiệu quả hoạt động tốt thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại, đứng vững và phát triển được. Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng là một Công ty hoạt động trên ba lĩnh vực xây dựng, xuất khẩu và nhập khẩu nhưng hoạt động nhập khẩu là chủ yếu (chiếm 80% doanh thu). Tuy nhiên hiệu quả của hoạt động nhập khẩu không cao so với hai hoạt động còn lại của Công ty và so với các doanh nghiệp nhập khẩu khác. Sau khi tìm hiểu kỹ về lĩnh vực này và với mong muốn đóng góp một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty nói chung và nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng, em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu đề tài là hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty từ năm 2003 đến nay, hiệu quả hoạt động nhập khẩu qua các năm và những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty. Trong chuyên đề này chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động nhập khẩu trực tiếp và hoạt động nhập khẩu uỷ thác của Công ty, không nghiên cứu các hình thức nhập khẩu khác như nhập khẩu hàng đổi hàng, nhập khẩu tái xuất, nhập khẩu gia công. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp sử dụng trong bài chuyên đề này là phương pháp tiếp cận hệ thống duy vật biện chứng, logic và lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phương pháp tiếp cận thực tế các vấn đề lý luận, phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá và sơ đồ hoá dựa trên cơ sở các số liệu và tình hình thực tế của Công ty nhằm đạt đưọc mục tiêu nghiên cứu của bài chuyên đề. Cơ cấu chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu và tài liệu tham khảo gồm 3 chương: Chương I: Lý luận về nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu sông Hồng Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu sông Hồng Em xin chân thành cảm ơn các cô chú trong phòng xuất nhập khẩu, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng (nơi em thực tập) đã cung cấp số liệu, chỉ bảo, hướng dẫn em trong quá trình thực tập tại Công ty. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến Ts.Tạ Văn Lợi đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện chuyên đề này. Do giới hạn về thời gian và khả năng của bản thân, bài viết chắc chắn có nhiều sai xót. Em rất mong nhận được những ý kiến phê bình, nhận xét của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Ngày 27 tháng 4 năm 2007 Sinh viên thực hiện Phan Thị Thanh Tâm CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP KHÁI NIỆM VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Khái niệm về nhập khẩu Nhập khẩu là một trong hai bộ phận của hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu nhập khẩu là hoạt động mua hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước hoặc tái sản xuất nhằm thu lợi nhuận. Nó phản ánh sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Hoạt động nhập khẩu là một hình thức của kinh doanh thương mại quốc tế. Mà thương mại quốc tế lại là một bộ phận của thương mại nên trước hết hoạt động nhập khẩu phải đảm bảo lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu góp phần làm đa dạng hoá thị trường, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải cải tiến kỹ thuật, đa dạng hoá sản phẩm,… nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với hàng hoá nước ngoài. Đồng thời hoạt động nhập khẩu còn góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên cả thị trường trong và ngoài nước thông qua việc mua bán hàng hoá, mở rộng quan hệ buôn bán. Bên cạnh đó, nhập khẩu hàng hoá phục vụ đắc lực trong công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước. Nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị kỹ thuật tiên tiến giúp cho nền sản xuất trong nước nhanh chóng phát triển, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, nhập khẩu giúp người tiêu dùng có thêm nhiều sự lựa chọn hàng hoá với chất lượng và giá cả ngày càng cạnh tranh hơn. Ngoài ra, nhập khẩu hàng hoá cũng là một trong những nhân tố góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh Mọi doanh nghiệp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Để tối đa hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp mình thì cần phải hợp lý hoá quá trình sản xuất kinh doanh. Và để xem xét mức độ hợp lý hoá của quá trình sản xuất kinh doanh, người ta đưa ra thuật ngữ “hiệu quả kinh doanh”. Cho đến nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ hiệu quả kinh doanh. Một số quan điểm về thuật ngữ hiệu quả kinh doanh như sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”. Quan điểm này đã chỉ ra được mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh với kết quả kinh doanh nhưng lại đồng nhất hiệu quả kinh doanh với các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh. Theo quan điểm này thì hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra cùng một kết quả thì sẽ có cùng một mức hiệu quả mặc dù chi phí là khác nhau. Như vậy, hạn chế của quan điểm này là đã không đề cập đến chi phí. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là phần tỉ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quam điểm này đã đề cập đến chi phí trong mối quan hệ giữa hiệu quả và kết quả. Tuy nhiên hạn chế của quan điểm này là chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ xung. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Quan điểm này đã gắn được kết quả với chi phí bỏ ra và đã thấy được hiệu quả là sự phản ánh của trình độ sử dụng các chi phí, do đó quan điểm này đã phản ánh được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn còn hạn chế là chưa cho thấy được mối tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí. Quan điểm thứ tư cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất”. Quan điểm này đã chú ý đến sự vận động của hai yếu tố phản ánh hiệu quả kinh doanh và cũng phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên quan điểm này vẫn chưa cho thấy được mối quan hệ rất chặt chẽ của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội. Những quan điểm trên đây vẫn chưa phản ánh được bản chất của hiệu quả kinh doanh. Một cách tổng quát nhất “Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất. Nó là thước đo phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Quan điểm này đã thể hiện được mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế xã hội, đảm bảo hiệu quả kinh tế gắn chặt với sự phát triển bền vững của xã hội. Điều này phù hợp với đường lối phát triển chung của các nền kinh tế hiện nay. Doanh nghiệp đạt được mục tỉêu kinh tế của mình với chi phí thấp nhất nhưng không được làm ảnh hưởng đến lợi ích của người dân, của các doanh nghiệp khác và của toàn bộ nền kinh tế. Doanh nghiệp muốn tăng hiệu quả thì cần phải cắt giảm tất cả các chi phí có thể cắt giảm được nhưng việc cắt giảm đó phải được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng xem có ảnh hưởng đến lợi ích của các đối tượng khác hay không bởi vì nếu cắt giảm tuỳ tiện thì chi phí để khắc phục những hậu quả của việc cắt giảm như ô nhiễm môi trường chẳng hạn rất có thể sẽ lớn hơn nhiều chi phí cắt giảm được. Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp Hiệu quả kinh doanh xét riêng trong lĩnh vực nhập khẩu có thể hiểu như sau: Hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp chính là trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ tổ chức và quản lý hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi phí thấp nhất. Xét trên giác độ doanh nghiệp, đạt được hiệu quả hoạt động nhập khẩu tức là phải đảm bảo chi phí tối thiểu, lợi nhuận tối đa bằng việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tổ chức hợp lý hoạt động nhập khẩu. Xét trên giác độ xã hội, hiệu quả hoạt động nhập khẩu đạt được khi tổng lợi ích xã hội nhận được từ hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu lớn hơn chi phí phải bỏ ra để mua chúng, phải lớn hơn lợi ích đạt được khi sản xuất những hàng hoá, dịch vụ này ở trong nước. PHÂN LOẠI HIỆU QUẢ KINH DOANH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Có nhiều cách phân loại hiệu quả kinh doanh nói chung theo các tiêu thức khác nhau. Cách phân loại hiệu quả hoạt động nhập khẩu về cơ bản cũng giống như cách phân loại hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung. Dưới đây là một số cách phân loại. Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả có hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyệt đối. Hiệu quả tuyệt đối Hiệu quả tuyệt đối là phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng phương án kinh doanh, từng thời kì kinh doanh, từng doanh nghiệp. Nó được biểu hiện qua các chỉ tiêu như lợi nhuận, doanh thu,… Hiệu quả tuyệt đối = Kết quả thu được - Tổng chi phí bỏ ra để thu được kết quả Hiệu quả tương đối Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Có hai cách tính chỉ tiêu này, mỗi chỉ tiêu lại cho một ý nghĩa khác nhau : H1 = Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng kết quả. Nó phản ánh sức sản xuất của các yếu tố đầu vào. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ càng cao và ngược lại. H2 = Chỉ tiêu này cho biết một đồng kết quả được tạo ra từ bao nhiêu đồng chi phí. Nó phản ánh suất hao phí của các yếu tố đầu vào. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động càng thấp và ngược lại. Căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả Hiệu quả kinh doanh tổng hợp Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh nghiệp, cho các bộ phận trong doanh nghiệp. Nó cho biết kết quả thực hiện mục tiêu doanh nghiệp đề ra trong một giai đoạn nhất định. Hiệu quả kinh doanh bộ phận Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả tính riêng cho từng bộ phận, cho từng lĩnh vực hoặc cho từng yếu tố sản xuất cụ thể của doanh nghiệp như hiệu quả sử dụng vốn, lao động,… Hiệu quả kinh doanh bộ phận chỉ phản ánh hiệu quả ở từng mặt hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải của cả doanh nghiệp. Căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả Hiệu quả trước mắt Hiệu quả trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một khoảng thời gian ngắn hạn, trước mắt. Kết quả được xem xét là kết quả mang tính chất tạm thời. Để doanh nghiệp phát triển bền vững, đạt được hiệu quả ở giai đoạn này nhưng không làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của các giai đoạn tiếp theo, nhà quản trị ngoài việc tính toán hiệu quả ngắn hạn, trước mắt còn cần phải tính đến hiệu quả lâu dài. Hiệu quả lâu dài Hiệu quả lâu dài hay hiệu quả dài hạn là hiệu quả được tính toán, xem xét trong một khoảng thời gian dài gắn với các chiến lược, các kế hoạch dài hạn liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Hiệu quả ngắn hạn nếu suy rộng ra hiệu quả dài hạn sẽ không đảm bảo được tính chính xác vì không phải giai đoạn kinh doanh nào cũng giống nhau. Chính vì vậy, chỉ tiêu hiệu quả lâu dài sẽ giúp hình dung chính xác hơn về hiệu quả trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào giác độ đánh giá hiệu quả Hiệu quả tài chính Loại hiệu quả này được xét dưới giác độ doanh nghiệp. Nó chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, là các kết quả tài chính nhận được trong mối quan hệ với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Đây chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, hiệu quả tài chính chỉ đơn giản được xét là kết quả thu được từ hoạt động nhập khẩu trong mối quan hệ với toàn bộ chi phí bỏ ra thực hiện hoạt động nhập khẩu đó. Hiệu quả chính trị xã hội Đây là loại hiệu quả được xét dưới giác độ xã hội. Nó chính là những lợi ích mà hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đem lại cho xã hội như việc đóng góp vào phát triển sản xuất chung của đất nước, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và những tác động đến môi trường sinh thái, tốc độ đô thị hoá,... Loại hiệu quả này trên thực tế rất khó định lượng nhưng nó lại rất quan trọng trong việc thẩm tra, xét duyệt các dự án đầu tư, các kế hoạch kinh doanh,…Đây cũng chính là mối quan tâm lớn của các tổ chức xã hội, các cơ quan hoạch định chính sách,… CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Lợi nhuận và Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu Lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu Lợi nhuận nhập khẩu = Doanh thu nhập khẩu – Chi phí nhập khẩu Đây là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh, là tiền đề duy trì và tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu nhập khẩu Ddt = x 100% Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu thì sẽ được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả kinh doanh đạt được càng cao. Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Dcf = x 100% Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra cho hoạt động nhập khẩu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh đạt được càng cao. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn nhập khẩu Hiệu quả sử dụng vốn lưu động HVld = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động đầu tư cho hoạt động nhập khẩu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu Svq = Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động nhập khẩu quay được bao nhiêu vòng trong một kỳ kinh doanh. Số vòng quay của vốn lưu động càng cao thì càng cho thấy hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại. Bên cạnh chỉ tiêu này, người ta còn tính một chỉ tiêu khác liên quan, đó là chỉ tiêu thời gian một vòng quay vốn: Tvq = = x 360 (Coi kỳ phân tích là 1 năm-360 ngày) Chỉ tiêu này cho biết, mất bao nhiêu ngày để vốn lưu động quay được một vòng. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì số vòng quay vốn càng lớn, hiệu quả càng cao và ngược lại. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Hđn = Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thu được thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu Tv = Chỉ tiêu này được tính bằng thương số giữa vốn đầu tư cho hoạt động nhập khẩu (bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động đầu tư cho hoạt động nhập khẩu) và lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư càng cao. Hiệu quả sử dụng lao động Doanh thu bình quân một lao động hay năng suất lao động bình quân NSLĐ bình quân = Chỉ tiêu này cho biết năng suất lao động bình quân của một cán bộ công nhân viên trong Công ty. Lợi nhuận trung bình được tạo ra bởi một người lao động Hlđ = Chỉ tiêu này cho biết một cán bộ công nhân viên trong Công ty bình quân một năm làm lợi cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành các nhân tố bên trong với các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp hay nhân tố khách quan chính là môi trường hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp, mà môi trường hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu của doanh nghiệp không chỉ là thị trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế - thị trường nước xuất khẩu. Như vậy nhân tố môi trường bên ngoài tác động đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp bao gồm môi trường quốc gia và môi trường quốc tế. Trong đó phải kể đến các yếu tố môi trường luật pháp, môi trường kinh tế. Môi trường chính trị, luật pháp Có nhiều yếu tố thuộc môi trường chính trị, luật pháp tác động đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trong đó có hai yếu tố ảnh hưởng sâu sắc, đó là chính sách thuế và các hàng rào phi thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu. Thuế quan Thuế quan bao gồm thuế quan nhập khẩu và thuế quan xuất khẩu, là loại thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu hoặc xuất khẩu, theo đó, người tiêu dùng trong nước phải trả cho hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu nhận được. Thuế bên cạnh vai trò quan trọng là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, nó còn giúp bảo hộ nền sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm. Thuế quan mà đặc biệt là loại thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí hàng nhập khẩu lên rất nhiều: Giá đã có thuế nhập khẩu = Giá tính thuế nhập khẩu x ( 1 + thuế suất nhập khẩu ) Như vậy, giá hàng hoá đã có thuế nhập khẩu cao hơn t % (t % là thuế suất nhập khẩu) so với giá trước khi thông quan. Mức thuế t % khác nhau đối với các mặt hàng khác nhau nhưng nhìn chung nó tác động khá lớn đến giá hàng nhập khẩu, chính vì vậy nó sẽ làm tăng giá bán hàng nhập khẩu trong nước, dẫn đến giảm nhu cầu hàng nhập khẩu, điều này lại dẫn đến doanh thu hàng bán sẽ thấp trong khi các chi phí khác liên quan đến hàng tồn kho tăng lên và kết quả là hiệu quả nhập khẩu giảm. Hàng rào phi thuế quan Trong điều kiện tự do hoá thương mại như hiện nay, thuế quan đang ngày càng giảm vai trò của nó thì một công cụ được các nước áp dụng ngày càng phổ biến và hợp pháp, đó là các hàng rào phi thuế quan. Hàng rào phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm,…không tác động một cách trực tiếp đến giá hàng hoá như thuế quan nhưng nó làm gia tăng chi phí để được thông quan hàng hoá. Do nó làm tăng chi phí nên giá bán hàng hoá nhập khẩu trong nước cũng tăng lên và đến đây, nó lại giống như trường hợp hàng rào thuế quan ở trên – làm giảm hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những biến động chính trị, những thay đổi trong chính sách,… rất có thể gây nên những rủi ro cho hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp, vì vậy nó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế Bên cạnh môi trường chính trị, luật pháp, những yếu tố thuộc môi trường kinh tế dưới đây cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động nhập khẩu và hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Quan hệ kinh tế quốc tế Hiện nay xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đang diễn ra trên toàn thế giới. Các quốc gia đều có xu hướng tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới, điều này giúp tăng cường quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế trong nước và thương mại toàn cầu phát triển. Nhờ có những sự hợp tác quốc tế như vậy làm gia tăng ưu đãi thương mại giữa các nước với nhau và giảm bớt hàng rào thuế quan. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, điều này giúp giảm chi phí và giảm giá bán hàng nhập khẩu và dẫn đến tăng doanh thu, tăng hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Rõ ràng, quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển hiện nay có tác động rất tích cực đến hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp. Sự biến động của thị trường Bất kì sự biến động nào về cầu của thị trường trong nước và cung của thị trường nước xuất khẩu đều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhập khẩu. Sự khan hiếm hay dồi dào nguồn cung cấp, sản phẩm mới hay sự đa dạng hàng hoá dịch vụ nhập khẩu ở thị trường nước xuất khẩu, hoặc sự biến động nhu cầu, số lượng nhà cung cấp của thị trường trong nước sẽ tác động đến giá cả hàng nhập khẩu, lượng hàng bán ra, lượng hàng tồn đọng và cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Sự biến động của tỉ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái đóng một vai trò quan trọng trong việc tính toán một thương vụ kinh doanh hiệu quả. Đôi khi nó đóng vai trò quyết định. Theo phương thức yết giá trực tiếp (một đồng ngoại tệ đổi được bao nhiêu đồng nội tệ) thì khi tỉ giá hối đoái tăng, tức là một đồng ngoại tệ sẽ đổi được nhiều đồng nội tệ hơn hay nói cách khác đồng nội tệ mất giá. Trong khi đó, doanh nghiệp nhập khẩu mua hàng hóa bằng ngoại tệ nhưng bán hàng hóa lại thu bằng nội tệ. Để bù đắp chênh lệch tỉ giá, doanh nghiệp phải tăng giá bán, điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu so với các hàng hoá sản xuất trong nước, dẫn đến ảnh hưởng đến doanh thu và hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Ngược lại, khi tỉ giá hối đoái giảm, giá trị đồng nội tệ tăng, doanh nghiệp bán với mức giá như trước thì ngoài việc hưởng lợi nhuận doanh nghiệp còn được hưởng một khoản lợi chênh lệch tỉ giá không nhỏ. Trên thực tế, tỉ giá hối đoái khi kí kết hợp đồng và khi thanh toán thường có sự biến động, do đó, để đạt được hiệu quả nhập khẩu, doanh nghiệp phải dự đoán được xu hướng biến động tỉ giá. Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước Sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước tác động đến hoạt động nhập khẩu và hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Sự phát triển của nền sản xuất trong nước chính là yếu tố cạnh tranh của doanh nghiệp. Nền sản xuất trong nước ngày càng phát triển, ngày càng tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ mới, phong phú, đa dạng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng sẽ làm tăng cạnh tranh thị trường trong nước, tác động đến giá cả, doanh số và hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp nhập khẩu. Còn sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài chính là yếu tố nguồn cung cấp của doanh nghiệp. Nguồn cung cấp với những mặt hàng tốt hơn về chất lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả,…sẽ làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tác động tích cực đến doanh số và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống tài chính ngân hàng, giao thông vận tải và thông tin liên lạc Hệ thống tài chính ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp thông qua việc cho vay các khoản tín dụng để thực hiện hoạt động kinh doanh và chính sách lãi suất tín dụng tác động rất lớn đến chi phí của doanh nghiệp. Hơn nữa, có mối quan hệ tốt với ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp giảm được nhiều chi phí như chi phí giao dịch hoặc giảm khoản ký quỹ khi mở tín dụng thư, có được các cảnh báo vể rủi ro trong thanh toán quốc tế,… Hệ thống giao thông vận tải cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Nó có vai trò trong việc vận chuyển hàng hoá nhập khẩu và phân phối trên thị trường trong nước. Chính vì vậy cước phí vận tải, thời gian vận tải, chất lượng vận tải đều ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp và do đó, nó ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin ngày càng phát triển cho phép doanh nghiệp có thể đàm thoại, giao dịch với đối tác qua điện thoại, máy fax, và đặc biệt là Internet giúp giảm chi phí đi lại, đàm phán ký kết hợp đồng. Hơn nữa, Nó còn là phương tiện quảng cáo và cung cấp thông tin rất nhanh nhạy và hiệu quả. Như vậy, công nghệ thông tin ngày càng phát triển tác động rất tích cực đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Nhân tố bên trong doanh nghiệp Nhân tố bên trong doanh nghiệp chính là các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Trình độ quản lý của doanh nghiệp Doanh nghiệp có một bộ máy gọn nhẹ với phương thức quản lý hiệu quả sẽ làm giảm chi phí quản lý doanh nghiệp, làm tăng hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Trình độ quản lý tốt thể hiện ở việc tổ chức hợp lý và đồng bộ các khâu của quá trình nhập khẩu và phân phối hàng hoá, giảm tối đa chi phí quản lý và tiết kiệm thời gian, do đó, giảm thời gian tiêu thụ hàng hoá, giảm thời gian thu hồi vốn, tăng vòng quay vốn nhập khẩu nên giúp tăng hiệu quả kinh doanh. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là nhân tố chủ quan quan trọng nhất vì đây là đối tượng thực hiện mọi hoạt động nhập khẩu của Công ty. Do đó, trình độ nhân lực sẽ quyết định hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu được thực hiện bởi một đội ngũ nhân viên chắc nghiệp vụ sẽ giúp tiết kiệm chi phí, thời gian giao dịch và tiêu thụ hàng hoá, giảm rủi ro,…Một doanh nghiệp chú trọng đến văn hoá Công ty, đội ngũ nhân viên cống hiến hết mình vì lợi ích chung thì chắc chắn sẽ tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh doanh lên rất nhiều. Khả năng huy động vốn Vốn đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Mọi doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, đều phải huy động vốn bên ngoài mà phổ biến nhất là từ các tổ chức tài chính, ngân hàng. Đối với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu, điều kiện tiên quyết để có quan hệ buôn bán là bên mua phải đảm bảo khả năng thanh toán. Khả năng huy động vốn tốt cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Khả năng huy động vốn nhanh giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí vốn mà vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, ngoài ra, nó giúp thực hiện thanh toán nhanh, tăng uy tín trong quan hệ buôn bán với đối tác nước ngoài và có thể được hưởng các ưu đãi như chiết khấu thương mại, giảm giá do mua hàng với số lượng lớn,…Do đó, khả năng huy động vốn mà tốt sẽ tiết kiệm được chi phí, làm tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Hệ thống thông tin của doanh nghiệp Thông tin trong thời đại ngày nay chiếm một vai trò rất quan trọng. Hệ thống thông tin của doanh nghiệp với khả năng nắm bắt thông tin nhanh nhạy hay không sẽ tác động đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi vì khả năng cập nhật, xử lý thông tin tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh, tìm hiểu được tốt nhu cầu thị trường trong nước để đáp ứng một cách tối đa, tìm hiểu những biến động trên thị trường trong và ngoài nước để có những kế hoạch ứng phó kịp thời, tìm kiếm được nhà cung cấp mới với những điều kiện hợp đồng thuận lợi hơn,… Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hay không cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Mức độ đảm bảo của nhà xưởng, kho bãi,… ảnh hưởng đến những chi phí về lưu kho, bảo quản hàng hoá,…Mức độ hiện đại trang thiết bị văn phòng của Công ty ảnh hưởng đến hiệu quả, năng suất lao động của cán bộ nhân viên. Mức độ công nghệ của hệ thống thu thập, xử lý thông tin của doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng nắm bắt thông tin nhanh nhạy chính xác,…Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp doanh nghiệp có thể tồn tại, đứng vững và phát triển trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, môi trường hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng. Điều đó có nghĩa là cơ hội kinh doanh rất lớn nhưng những thách thức mà doanh nghiệp phải đối mặt cũng không nhỏ. Rủi ro trong kinh doanh nhập khẩu tăng lên mà đặc biệt là cạnh tranh sẽ rất gay gắt. Tất cả các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động của mình mới có thể tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Điều đó giúp doanh nghiệp trước tiên là tồn tại, đứng vững và phát triển. Trong một môi trường mà các doanh nghiệp khác đều có mục tiêu cao nhất là nâng cao hiệu quả kinh doanh, mà doanh nghiệp mình lại không nâng cao hiệu quả kinh doanh, điều đó đồng nghĩa với việc đã tự loại mình ra khỏi thương trường. Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu để đáp ứng đòi hỏi của việc khan hiếm nguồn lực Mọi nguồn lực đ._.ều có giới hạn, nguồn lực của mỗi quốc gia và nguồn lực của mỗi doanh nghiệp cũng vậy. Do đó, việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu đặt ra còn nhằm mục tiêu sử dụng được tiết kiệm nhất, tốt nhất các nguồn lực của doanh nghiệp. Điều này không chỉ phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp mà còn phục vụ cho cả lợi ích quốc gia. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, nguồn lực của doanh nghiệp là nhân viên xuất nhập khẩu, là lượng ngoại tệ, là thời gian,…Tất cả các nguồn lực này không phải là vô hạn. Do đó, việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu giúp sử dụng tiết kiệm các nguồn lực này vì lợi ích của doanh nghiệp, vì lợi ích quốc gia, đặc biệt trong điều kiện đất nước ta còn nghèo như hiện nay. Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho lao động trong doanh nghiệp Nâng cao hiệu quả kinh doanh, trước tiên sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại, tức là tạo được công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên. Nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng, như vậy sẽ tạo thêm việc làm mới, tăng thu nhập và do đó nâng cao được đời sống của nhân viên trong Công ty. Hơn nữa, nhu cầu nâng cao mức sống nhân dân trong xã hội ngày càng tăng nên việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu nói riêng còn nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu bức thiết này của xã hội. Suy ngược lại chúng ta có thể thấy rằng, việc nâng cao mức sống của cán bộ nhân viên sẽ tạo động lực để họ làm việc, giúp tăng năng suất lao động, dẫn đến tăng hiệu quả hoạt động nhập khẩu cho Công ty. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Giới thiệu khái quát về Công ty Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng là một đơn vị thi công xây lắp và kinh doanh tổng hợp, có: Tên giao dịch: Songhong construction development import-export joint stock company Tên viết tắt: SHODEX.JSC Địa chỉ trụ sở: số 245 đường Nguyễn Tam Trinh, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội Tel: (04)6.340.777 Fax: (04)6.336.648 Email: xnksh@hn.vnn.vn Webside: Số đăng kí kinh doanh: 01030110420 Người đại diện theo pháp luật: Giám đốc Ngô Quang Hào Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, tiền thân là hợp tác xã cung ứng vật tư tại số 376A Lý Tự Trọng, Hà Nội. Đến tháng 8/1979, theo quyết định số 3439 QĐ/UB của UBND thành phố Hà Nội đổi tên thành xí nghiệp xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng đặt tại 16/8 Hai Bà Trưng, Hà Nội. Trong giai đoạn này, Công ty hoạt động không hiệu quả, điều này được thể hiện qua tổng doanh thu, lợi nhuận qua các năm, hoạt động của Công ty không năng động, không đáp ứng được tốt nhu cầu của thị trường. Đây là hậu quả của cơ chế quản lí tập trung bao cấp. Cùng với quy chế giải thể và thành lập doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo nghị định 338/HĐBT ngày 21/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng và thông tư số 4/TTLQ ngày 11/6/1992, Công ty lại được đổi tên là Công ty xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng theo quyết định số 3550/QĐ-UB ngày 9/12/1992 với tổng số vốn kinh doanh là: 1.810.300.000 đồng. Công ty là một đơn vị thành viên của Tổng Công ty Xây Dựng Sông Hồng - Bộ Xây Dựng. Trong giai đoạn này, Công ty đã dần dần tự khẳng định mình, bộ máy tổ chức gọn nhẹ hơn và hoạt động hiệu quả hơn, tổng doanh thu và lợi nhuận tăng ổn định qua các năm, đời sống của cán bộ nhân viên tăng lên. Đến năm 2002, theo quyết định số 52/QĐ-BXD của Bộ Xây Dựng ngày 11/01/2002 về việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần, Công ty lại được đổi thành Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng với vốn điều lệ là: 3.894.260.000đ, trong đó: Số vốn này được hình thành từ hai nguồn : Vốn Ngân sách Nhà nước : 1.986.072.000 đồng Vốn Công ty tự bổ sung :1.908.188.000 đồng Đến năm 2006, vốn điều lệ của Công ty là 6.000.000.000đ. Nhà nước nắm giữ 40% cổ phần, đại diện vốn cổ phần của Nhà nước là ông Ngô Quang Hào và ông Nguyễn Quang Huy, 59 cổ đông khác nắm giữ 60% cổ phần còn lại. Những năm vừa qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong việc thích nghi, tồn tại và phát triển trong cơn lốc của nền kinh tế thị trường nhưng Công ty đã đạt được những thành công nhất định. Điều này thể hiện ở các chỉ tiêu như: Tổng doanh thu, lợi nhuận, lương bình quân của cán bộ công nhân viên trong Công ty đều tăng khá nhanh qua các năm. Đồng thời, Công ty còn mở thêm nhiều hướng kinh doanh mới, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Từ khi thành lập đến nay đã trải qua gần 50 năm tồn tại và phát triển, cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước, đến nay Công ty đã có những bước đi vững chắc phù hợp với nền kinh tế thị trường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và tự khẳng định mình trên thương trường. Mục tiêu và nhiệm vụ của Công ty Mục tiêu Mục tiêu hoạt động của Công ty là thông qua hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp đẩy mạnh hàng xuất khẩu đáp ứng yêu cầu cao của khách hàng, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước. Mục tiêu cơ bản của Công ty là: khách hàng, chất lượng, đổi mới và cạnh tranh. Đặc biệt, lợi nhuận luôn là mục tiêu trên hết, trực tiếp, đối với hoạt động kinh doanh, là động lực được sử dụng làm đòn bẩy kinh tế đồng thời phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Nhiệm vụ Xây dựng, tổ chức kế hoạch sản xuất kinh doanh và dịch vụ, kể cả kế hoạch xuất nhập khẩu trực tiếp và các kế hoạch khác có liên quan, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Tự tạo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ, khai thác có hiệu quả nguồn vốn đảm bảo cho quá trình mở rộng sản xuất đổi mới trang thiết bị, bù đắp các chi phí, cân đối xuất và nhập, làm nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu ngày càng cao. Tuân thủ các chính sách chế độ quản lý kinh tế, quản lý Xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại. Thực hiện các cam kết trong hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nghiên cứu, thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, gia tăng khối lượng hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường quốc tế nhằm thu hút thêm nhiều ngoại tệ. Thực hiện tốt chính sách cán bộ, chế độ quản lý tài sản, tài chính, lao động, tiền lương do Công ty quản lý, làm tốt công tác phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng xã hội, đào tạo bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ tay nghề cho cán bộ công nhân viên Làm tốt công tác bảo hộ và an toàn lao động, trật tự xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh, làm tròn nghĩa vụ quốc phòng. Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý Cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, có trách nhiệm và quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng quản trị và mục đích chung đã xác định của mình. Vì thế cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị của Công ty mang tính năng động khá cao, luôn cố gắng đi sát phục vụ sản xuất kinh doanh và bảo đảm sự phối hợp tốt các hoạt động, nhiệm vụ của tất cả bộ phận . Sơ đồ tổ chức của Công ty biểu thị cơ cấu chính thức của tổ chức, nó chỉ ra các vị trí khác nhau, những người nắm giữ vị trí đó và mối liên hệ quyền lực giữa người này với người khác. Trong Công ty đã có sự phân cấp công việc cụ thể từ Giám đốc tới cán bộ công nhân viên. Các phòng ban được phân chia nhiệm vụ và quyền hạn khá rõ ràng nên mọi công việc được giao cho phòng nào thì phòng đó giải quyết triệt để và nhanh chóng. Tuy nhiên trên thực tế cũng có điểm hạn chế, đó là mối liên hệ trực tiếp thường xuyên giữa các phòng ban với nhau không nhiều lắm nên thông tin qua lại thường xử lý chậm thông qua sự phê duyệt của Giám đốc nên rất dễ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Chức năng của phòng kế hoạch thị trường và phòng Xuất nhập khẩu đôi khi trùng nhau gây mất nhiều thời gian, tiền của, làm giảm vai trò của mỗi cá nhân. Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng Ban Giám Đốc Hội Đồng Quản Trị Phòng Tổ chức hành chính Phòng Kế toán Phòng Kinh doanh Phòng Kế hoạch thị trường Phòng Xuất nhập khẩu Phòng Xây dựng Ban kiểm soát (nguồn:Phòng Tổ chức hành chính năm 2006) Đây là mô hình cấu trúc bộ máy kiểu trực tuyến. Đứng đầu là Giám đốc kiêm chủ tịch Hội đồng quản trị, do Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Giám đốc Công ty tổ chức và điều hành Công ty theo chế độ thủ trưởng và chịu trách nhiệm toàn diện trước HĐQT, Giám đốc Công ty qui định chức năng, nhiệm vụ của mỗi phòng ban, xây dựng và ban hành nội qui, qui chế làm việc của Công ty. Giúp việc cho giám đốc gồm có : 02 phó giám đốc, 01 trưởng phòng tổ chức, 01 trưởng phòng kế toán do Giám đốc Công ty bổ nhiệm, các chuyên viên, cán sự kế toán-tài chính, nghiệp vụ tổng hợp và một số chức danh khác. Ban kiểm soát là người thay mặt các cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, quản trị của doanh nghiệp. Phòng kế toán: có nhiệm vụ cập nhật thông tin hàng ngày, hàng tháng, quí, năm theo từng nội dung đối với tài chính, chi phí và lập các báo cáo, bảng cân đối kế toán, bảng chấm công, bảng tính lương, thực hiện thanh toán khách hàng và giúp Giám đốc kiểm soát về tài chính trong Công ty, có kế hoạch để phát triển kinh doanh. Phòng kinh doanh : Nghiên cứu, tìm kiếm các đại lý, cửa hàng để tiêu thụ các mặt hàng nhập khẩu của Công ty, đề ra các chiến lược kinh doanh cụ thể, khả thi và thực hiện các nghiệp vụ phát triển thị trường. Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho Giám đốc trong các công việc như: Tổ chức nhân sự, quản lý sắp xếp, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên. Quản lý tiền lương, tiền thưởng và các chế độ chính sách như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Một số công việc hành chính khác như : bảo vệ, tạp vụ, vệ sinh. Phòng kế hoạch thị trường: Nghiên cứu về nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước phục vụ cho hoạt động nhập khẩu, nghiên cứu nhu cầu nước ngoài và nguồn thu mua cho hoạt động xuất khẩu. Cụ thể: Điều tra nghiên cứu và thăm dò nhu cầu của thị trường nước ngoài; chỉ ra các nhu cầu của thị trường và đoạn thị trường một cách chính xác, khả thi; đưa ra chiến lược, chính sách phù hợp: chất lượng sản phẩm, chính sách giá cả, khuếch trương để thâm nhập và khai thác thị trường mới; tập hợp thông tin phản hồi từ các đối tượng để thay đổi chiến lược cho phù hợp; phối hợp với các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Phòng xuất nhập khẩu: Thực hiện tốt các quy trình, nghiệp vụ nhập khẩu. Tiến hành đàm phán ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu Phòng xây dựng: Tiến hành xây dựng các công trình nhà ở dân dụng, nhà chung cư cao tầng. Ngoài ra còn tiến hành thi công xây dựng các công trình công cộng như đường xá, cầu cống,... 2.1.3 Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty 2.1.3.1 Lĩnh vực kinh doanh của Công ty Xây dựng Xây dựng là một trong ba lĩnh vực hoạt động của Công ty, hoạt động chủ yếu là tư vấn đầu tư xây dựng và quản lý, thi công công trình cấp thoát nước, các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện, hạ tầng kỹ thuật, đường dây và trạm biến thế. Xuất khẩu Mặt hàng xuất khẩu của Công ty là nông sản mà chủ yếu là chè đã qua chế biến, ngoài ra còn có cà phê sơ chế. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước Trung Đông như Pakistan, Iraq và một số nước Tây Âu (Anh), Nhật Bản,… Trong năm 2006, Công ty đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU là 9.517.220.000đ chiếm tỉ trọng 70,76 % trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường Trung Đông đứng vị trí thứ hai với giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2.536.670.000đ chiếm tỉ trọng 18,86%. Tiếp theo là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu 406.190.000đ chiếm tỉ trọng khiêm tốn 3,02% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập khẩu Đây là lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Công ty, chiếm doanh thu tới 80% 4 nhóm hàng nhập khẩu chính của Công ty: - Điện tử gia dụng - Máy móc thiết bị Lốp ô tô - Vật liệu xây dựng Là Công ty được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nhưng hoạt động nhập khẩu chiếm ưu thế hơn hoạt động xuất khẩu. Trên các thị trường Công ty lựa chọn hàng hoá có uy tín chất lượng cao và giá cả phù hợp để nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của các đối tượng khách hàng khác nhau. Thị trường Châu Á: thị trường này bao gồm nhiều thị trường khác nhau bao gồm các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ,…Khối lượng nhập khẩu từ những thị trường này rất lớn bởi những mặt hàng khi nhập khẩu được tiêu thụ tốt trong nước. Với thị trường Trung Quốc, các mặt hàng chủ yếu được nhập đó là hàng điện tử gia dụng như: nồi cơm điện, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, lò vi sóng..., các thiết bị máy móc dân dụng phục vụ nhu cầu đời sống ngày càng cao của người tiêu dùng. Hàng điện tử gia dụng là lĩnh vực thuộc về mảng kinh doanh nội địa, Công ty hoạt động bằng cách nhập khẩu từ các đối tác nước ngoài (Tiger, Hier) và thực hiện việc bán buôn, bán lẻ ở thị trường trong nước. Công ty điện tử Tiger của Nhật Bản, Hier của Trung Quốc là hai nhà phân phối chính của Công ty trong lĩnh vực điện tử gia dụng. Ngoài ra, thị trường Trung Quốc còn là thị trường mà Công ty nhập khẩu mặt hàng đá xây dựng khá lớn. Với thị trường Nhật Bản, mặt hàng điện tử gia dụng được nhập ít hơn thị trường Trung Quốc. Mặt hàng nhập khẩu chính của thị trường này là máy móc thiết bị và nó chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn các thị trường khác nhờ lợi thế về giá cả và chi phí vận chuyển. Ngoài ra, Công ty còn nhập khẩu khá nhiều lốp ôtô từ thị trường này. Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ là ba thị trường nhập khẩu chính về mặt hàng chiếm tỉ trọng cao nhất: lốp ôtô. Thị trường châu Âu: Công ty nhập khẩu từ thị trường này những sản phẩm như: vật liệu xây dựng, sắt thép, máy móc thiết bị,... phục vụ cho ngành xây dựng và giao thông. Do nhu cầu xây dựng trên địa bàn thủ đô và một số địa phương khác đang có xu hướng tăng nên thị trường này sẽ ngày càng được mở rộng trong tương lai. 2.1.3.2 Đặc điểm về lao động Bảng 1: Cơ cấu lao động của Công ty STT Năm Lao động 2003 2004 2005 2006 Người % Người % Người % Người % 1 Căn cứ theo giới LĐ nam 50 70 52 68 68 66 69 64 LĐ nữ 21 30 24 32 35 34 38 36 2 Căn cứ theo trình độ đào tạo LĐ có trình độ từ Cao Đẳng 37 52 45 59 61 60 65 60 LĐ có trình độ dưới Cao Đẳng 34 48 31 41 42 40 42 40 3 Căn cứ theo tính chất công việc LĐ thường xuyên 65 92 67 88 72 70 75 70 LĐ thời vụ 6 8 9 12 31 30 32 30 4 Căn cứ theo tuổi LĐ trên 40 tuổi 27 38 27 35 30 29 30 28 LĐ dưới 40 tuổi 44 62 49 65 73 71 77 72 Tổng lao động 71 100 76 100 103 100 107 100 (nguồn: Phòng tổ chức hành chính năm 2006) Lực lượng lao động nam của Công ty luôn chiếm ưu thế so với lao động nữ, nhưng qua các năm tỉ lệ có xu hướng giảm, tức là cân đối hơn giữa lực lượng lao động nam và nữ. Trình độ lao động khá cao, tỉ lệ lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên luôn chiếm trên 50% và có xu hướng tăng qua các năm. Lực lượng lao động trẻ (dưới 40 tuổi) chiếm ưu thế. Từ những số liệu trên cho thấy, cơ cấu lao động của Công ty thay đổi qua các năm theo hướng tích cực, Công ty đã tuyển dụng được thêm những lao động trẻ có trình độ cao, điều này làm cho trình độ trung bình của đội ngũ lao động ngày càng cao hơn. Đội ngũ lao động trẻ hơn, năng động hơn sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển. Tuy nhiên, với một doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì yêu cầu về trình độ lao động là rất cao để có thể đạt được hiệu quả kinh doanh tốt và tránh được những rủi ro vốn rất nhiều trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Vì vậy, Công ty cần không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ công nhân để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập ngày này. Bên cạnh lực lượng lao động thường xuyên của Công ty làm việc tại các phòng ban, Công ty còn phải thuê thêm lao động ngoài để phục vụ những công việc có tính chất thời vụ (như việc sơ chế lại chè trước khi xuất khẩu hoặc một số công việc về xây dựng,…) nhằm tiết kiệm chi phí tiền lương nhưng vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả công việc. 2.1.3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty Công ty có trụ sở đặt tại 245 đường Nguyễn Tam Trinh, Q. Hoàng Mai, Hà Nội với toàn bộ các phòng ban được bố trí trên một mặt bằng khá rộng, kết cấu 6 tầng có tổng diện tích là 1.628m2. Trang thiết bị văn phòng nhìn chung là hiện đại, tất cả các phòng đều được trang bị đầy đủ điện thoại, máy fax, máy in, điều hoà nhiệt độ,… hầu hết nhân viên ở mỗi phòng đều được trang bị mỗi người một máy vi tính, số lượng máy vi tính mua mới trong vòng 4 năm trở lại đây khoảng 70%, chỉ có một vài máy đã rất cũ được trang bị từ cuối những năm 90. Ngoài ra, Công ty còn trang bị máy photocopy cho phòng hành chính tổng hợp và một máy in A3 cho phòng xây dựng. Công ty còn có 2 xe ôtô phục vụ cho việc chuyên chở hàng hoá. 2.1.3.4 Đặc điểm về cơ cấu vốn và nguồn vốn của Công ty Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn của Công ty qua các năm (2003-2006) STT năm vốn 2003 2004 2005 2006 triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % triệu đồng % 1 vốn tự có 3.894 27,8 4.217 26 5.190 20,6 6.000 16,8 2 vốn vay tín dụng 10.100 72,2 12.050 74 20.000 79,4 29.700 83,2 3 vốn lưu động 11.694 83,6 13.751 84,5 22.090 87,7 30.500 85,4 4 vốn cố định 2.300 16,4 2.516 15,5 3.100 12,3 5.200 14,6 Tổng nguồn vốn 13.994 100 16.267 100 25.190 100 35.700 100 (Nguồn: Phòng Kế Toán năm 2006) Nhìn chung, nguồn vốn của Công ty tăng qua các năm. Vốn tự có tính đến năm 2006 là 6.000.000.000đ, tăng 154% so với nguồn vốn khi Công ty bắt đầu cổ phần hóa. Nguồn vốn này tăng là do lợi nhuận tái đầu tư từ những năm trước và do vốn góp thêm của các cổ đông. Nguồn vốn vay tín dụng tăng cả về số lượng và tỉ lệ trong tổng nguồn vốn, nó luôn chiếm tỉ lệ khá cao, khoảng 77% nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Vốn cố định cũng vậy, tăng qua các năm, vốn này tăng là do Công ty đã đầu tư mua sắm thêm nhiều trang thiết bị mới và mua xe ô tô phục vụ một phần nhu cầu vận chuyển hàng hoá của Công ty. 2.1.3.5 Đặc điểm về phương thức phân phối Mạng lưới kênh phân phối Mạng lưới kênh phân phối của Công ty ở Miền Bắc: Có các cửa hàng đại lý ở tất cả các quận thuộc thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, còn có các cửa hàng đại lý ở huyện Đông Anh, thị xã Hà Đông-Hà Tây, Hải Phòng, Nam Định. Mạng lưới kênh phân phối ở miền Trung: Cửa hàng đại lý tại thành phố Đà Nẵng. Mạng lưới kênh phân phối tại miền Nam: Có tổng số 4 đại lý tại thành phố Hồ Chí Minh, ngoài ra còn có đại lý tại thành phố Cần Thơ. Chính sách giá của Công ty Thông qua việc nghiên cứu thị trường các mặt hàng mà Công ty kinh doanh và các mặt hàng thay thế, Công ty sử dụng chiến lược định giá ngang bằng giá thị trường là chiến lược giá cơ bản. Ngoài ra Công ty còn áp chính sách giá thấp hơn giá thị trường trong trường hợp mặt hàng này đang ở pha suy thoái trên thị trường hoặc cung thị trường lớn hơn cầu. Công ty thường sử dụng kỹ thuật định giá như sau: - Định giá trên cơ sở chi phí cộng thêm: được áp dụng cho hầu hết các mặt hàng vì Công ty kinh doanh rất nhiều loại mặt hàng nên khó định giá cho từng loại mặt hàng trên cơ sở phân tích nhu cầu và chi phí của từng loại riêng biệt. Khi đưa ra quyết định giá cuối cùng, có thể tăng hoặc giảm để đạt được mức giá theo phương pháp định giá số lẻ được coi là mức hấp dẫn hơn đối với khách hàng về mặt tâm lý. Định giá theo giá hiện hành: Là kỹ thuật định giá trên cơ sở phân tích thị trường và cạnh tranh. Kỹ thuật này được áp dụng cho nhóm hàng hoá chất, vật liệu xây dựng,… 2.1.4 Một số kết quả hoạt động của Công ty 2.1.4.1 Cơ cấu doanh thu theo lĩnh vực Bảng 3: Cơ cấu doanh thu theo lĩnh vực STT Năm Lĩnh vực 2004 2005 2006 Tr.đồng % Tr.đồng % Tr.đồng % 1 Nhập khẩu 73.044 85,5 85.000 79,7 184.450 85 2 Xuất khẩu 10.361 12,1 8.004 7,5 13.450 6,2 3 Xây dựng 2.040 2,4 13.660 12,8 19.100 8,8 Tổng 85.445 100 106.664 100 217.000 100 (nguồn: tổng hợp số liệu từ năm 2004-2006-Phòng Kế Toán) Hoạt động nhập khẩu của công ty luôn chiếm ưu thế, doanh thu hoạt động nhập khẩu luôn tăng qua các năm và tăng đột biến vào năm 2006, tăng 217 % so với năm 2005, góp phần làm cho tổng doanh thu tăng 203%. Doanh thu hoạt động xuất khẩu thay đổi qua các năm, giảm vào năm 2005 và tăng trở lại vào năm 2006, tỉ lệ đóng góp vào tổng doanh thu không cao lắm và có xu hướng giảm dần. Tỉ lệ đóng góp của hoạt động xuất khẩu thấp là do sản phẩm xuất khẩu của công ty là hàng nông sản, giá trị thấp và qui mô xuất khẩu nhỏ. Hoạt động thi công xây lắp tăng cả về giá trị công trình và tỉ lệ trong tổng doanh thu, chủ yếu là thi công xây dựng, lắp đặt thiết bị các công trình dân dụng. Do giá trị của mỗi công trình không lớn lắm nên tỉ lệ đóng góp vào tổng doanh thu của lĩnh vực xây dựng vẫn còn rất khiêm tốn. Từ bảng 3 ta có thể vẽ được biểu đồ sau: Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy rõ hơn sự biến động của doanh thu theo lĩnh vực. Lĩnh vực nhập khẩu luôn chiếm ưu thế, năm 2005 tăng so với năm 2004 nhưng không nhiều, đến năm 2006 tăng rất mạnh, thể hiện rõ hơn vai trò chính trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Lĩnh vực xuất khẩu biến động không ổn định, tỷ trọng doanh thu chiếm không nhiều. Lĩnh vực xây dựng năm 2004 đạt doanh thu rất thấp so với hai lĩnh vực còn lại nhưng đã liên tục tăng mạnh qua các năm, tuy nhiên tỷ trọng vẫn không cao. 2.1.4.2 Kết quả hoạt động kinh doanh Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Tăng 2005/2004 Tăng 2006/2005 +/- % +/- % 1 Tổng doanh thu 85.445 106.664 217.000 21.219 125 110.336 203 2 Tổng chi phí 82.025 102.708 212.018 20.683 125 109.310 206 3 Tổng lợi nhuận 3.420 3.956 4.982 536 116 1026 126 4 Nộp ngân sách Nhà nước 7.560,2 8.751,9 20.121,4 1191,7 115,8 11369,4 229,9 (nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004-2006) Nhìn vào bảng 4 ta thấy, tổng doanh thu năm 2006 tăng đột biến so với năm 2005 về cả số tuyệt đối và số tương đối. Tuy nhiên, lợi nhuận không tăng tương ứng. Tổng lợi nhuận năm 2005 tăng 116%, tổng doanh thu tăng 125%, mức tăng này tương ứng với nhau trong khi năm 2006, tổng doanh thu tăng 203% nhưng lợi nhuận chỉ tăng 126%, mức tăng này không tương ứng với mức tăng của tổng doanh thu. Chính vì vậy, hiệu quả hoạt động kinh doanh qua các năm có xu hướng giảm, năm 2005 hiệu quả hoạt động chỉ bằng 99,7% năm 2004 và năm 2006 thì chỉ bằng 98,5% năm 2005. Công ty cần nhanh chóng tìm hiểu nguyên nhân và khắc phục tránh để tình trạng này kéo dài. Tương ứng với tốc độ tăng của doanh thu, khoản nộp Ngân sách Nhà nước cũng tăng liên tục qua các năm, năm 2005 tăng 115,8 và năm 2006 tăng 229,9 so với năm trước đó. 2.1.4.3 Hiệu quả sử dụng lao động Bảng 5: Hiệu quả sử dụng lao động STT Chỉ tiêu Đơn vị 2004 2005 2006 1 Tổng Doanh thu Tr.đ 85445 106664 217000 2 Tổng lợi nhuận Tr.đ 3420 3956 4982 3 Quỹ lương Tr.đ 1.012,3 1.606,8 1.926 4 Số lao động Người 76 103 107 5 Thu nhập trung bình/tháng 1000đ 1.110 1.300 1.500 6 Lợi nhuận / người Tr.đ/người 45 38,4 46,56 (Nguồn: Tổng hợp số liệu của Công ty giai đoạn 2003-2006) Ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận/người của công ty thay đổi qua các năm, tức là mức đóng góp của 1 người vào lợi nhuận năm 2004 là 45 triệu đồng/người, năm 2005 giảm xuống còn 38,4 triệu đồng/người, đến năm 2006 tăng trở lại và vượt năm 2004, đạt 46,56 triệu đồng/người. Thu nhập của người lao động qua các năm cũng tăng, năm 2004, khi công ty mới cổ phần hoá được 2 năm, thu nhập trung bình chỉ đạt 1.110 nghìn đồng nhưng sau 2 năm tiếp theo, thu nhập đã tăng lên 1.500 nghìn đồng, tức là tăng 135%. Nguyên nhân là do lợi nhuận của công ty tăng qua các năm, trình độ trung bình của người lao động tăng và do yêu cầu của việc nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, nếu so với các doanh nghiệp trong ngành thì mức thu nhập trung bình của lao động trong công ty là không cao. Nguyên nhân chính là do công ty có lực lượng lao động thời vụ khá đông đảo, chiếm khoảng 30% lao động của công ty, mà lực lượng này có mức tiền công thấp nên làm cho thu nhập trung bình của công ty giảm đi. Trên thực tế, mức thu nhập của nhân viên tại các phòng ban của công ty năm 2006 khoảng 2.150.000đ/người/tháng. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng Các hình thức nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng Trong quá trình hoạt động của mình, Công ty đã từng áp dụng các hình thức nhập khẩu trực tiếp, uỷ thác (hay còn gọi là nhập khẩu gián tiếp), hàng đổi hàng, tuy nhiên hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng rất ít, chủ yếu là hai hình thức trực tiếp và uỷ thác. Hình thức nhập khẩu trực tiếp Đây là hình thức nhập khẩu mà bên bán và bên mua trực tiếp giao dịch với nhau, hàng hoá được mua trực tiếp từ nước ngoài mà không thông qua trung gian. Bên xuất khẩu trực tiếp giao hàng cho bên nhập khẩu. Hình thức này mang lại lợi nhuận cao hơn hình thức nhập khẩu uỷ thác nhưng độ rủi ro của nó lại lớn hơn. Các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp chủ yếu: Điện tử gia dụng, lốp ô tô, đá xây dựng, hoá chất, hạt nhựa,… Hình thức nhập khẩu uỷ thác Nhập khẩu uỷ thác là hình thức nhập khẩu mà bên nhờ uỷ thác sẽ phải trả một khoản phí cho bên nhận uỷ thác, gọi là phí uỷ thác. Còn bên nhận uỷ thác có trách nhiệm thực hiện các điều khoản trong hợp đồng uỷ thác nhập khẩu đã kí giữa hai bên. Đặc điểm của loại hình nhập khẩu này là đối với công ty nhận nhập khẩu ủy thác, giá trị lô hàng giao cho người uỷ thác không được tính vào doanh thu của công ty mà chỉ được tính vào kim ngạch nhập khẩu, doanh thu của công ty thực tế là phí uỷ thác nhận được. Do đó, khi hạch toán vào doanh thu, công ty chỉ hạch toán phần phí uỷ thác. Loại hình nhập khẩu uỷ thác ở Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng khá đặc biệt. Về danh nghĩa, loại hình này ở Công ty là nhập khẩu trực tiếp. Sở dĩ có thể nói như vậy vì giữa đơn vị uỷ thác và công ty không kí hợp đồng uỷ thác nhập khẩu mà kí hợp đồng mua bán trực tiếp. Sau khi đàm phán, kí hợp đồng, thanh toán, nhận hàng từ đối tác nước ngoài, Công ty sẽ giao hàng ngay tại cảng cho đơn vị uỷ thác. Tổng giá trị lô hàng giao được tính như sau: Tổng giá trị lô hàng giao = Giá CIF (Hải Phòng) + Các chi phí liên quan Các chi phí khác bao gồm: chi phí giao dịch, phí hải quan, các phí thanh toán hàng nhập khẩu, tiền lãi khoản kí quỹ mở thư tín dụng, thuế nộp ngân sách Nhà nước,… Sau khoảng thời gian thông thường từ 4 đến 5 tháng, Công ty nhận được khoản phí uỷ thác từ 1 đến 3% giá CIF lô hàng nhập khẩu, tuỳ vào khoản kí quỹ của đơn vị uỷ thác. Đơn vị uỷ thác kí quỹ càng nhiều thì phí uỷ thác nhận được càng ít và ngược lại. Thông thường, mức kí quỹ là 10% và mức phí uỷ thác nhận được khoảng 2,8% giá trị hợp đồng. Mức phí này cao hơn so với mức phí uỷ thác nhập khẩu tối đa (1,5%) được quy định trong luật (trên danh nghĩa, loại hình nhập khẩu uỷ thác ở Công ty là nhập khẩu trực tiếp nên không bị điều chỉnh bởi mức phí tối đa này). Sở dĩ có thể coi đây là nhập khẩu gián tiếp vì lợi nhuận Công ty nhận được dưới dạng phần trăm giá trị lô hàng và nó là cố định do hai bên thoả thuận từ trước. Do trên danh nghĩa Công ty nhập khẩu trực tiếp nên doanh thu từ loại hình nhập khẩu này được tính theo giá trị hợp đồng mua bán mà Công ty ký với bên uỷ thác. Khoản thuế mà Công ty nộp hộ đơn vị uỷ thác (đã được tính vào giá bán) được tính là khoản nộp ngân sách Nhà nước của Công ty. Mặt hàng nhập khẩu uỷ thác là máy móc thiết bị xây dựng và lốp ô tô. Tình hình hoạt động nhập khẩu hàng hoá Giá trị hàng hoá nhập khẩu theo thị trường Bảng 6: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo thị trường Đơn vị: nghìn USD STT Năm Thị trường 2003 2004 2005 2006 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Trung Quốc 503,5 14,5 654,5 16,3 1.059,0 22,4 1.359,9 14,1 2 Nhật Bản 623,0 17,9 738 18,4 960,7 20,3 1.125,5 11,7 3 Châu Âu 234,0 6,7 250,6 6,2 270,4 5,7 201,3 2,1 4 Thị trường khác 2.119,5 60,9 2.376,9 59,1 2.441,9 51,6 6.931,6 72,1 Tổng 3.480,0 100 4020,3 100 4.732,0 100 9.618,3 100 (Nguồn: Tổng hợp số liệu từ phòng Xuất Nhập Khẩu năm 2003-2006) Giá trị hàng hoá nhập khẩu theo mặt hàng Bảng 7: Cơ cấu giá trị hàng hoá nhập khẩu theo mặt hàng Đơn vị: Triệu đồng STT Năm Mặt hàng 2003 2004 2005 2006 Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1 Điện tử gia dụng 5.858 11,1 6.454 10,2 8.980 11,94 18.267 11,87 2 Máy móc thiết bị 11.472 21,8 13.280 20,9 8.922 11,86 18.281 11,88 3 Đá xây dựng 3.107 5,9 5.600 8,8 8.500 11,3 13.010 8,5 4 Lốp ô tô 22.350 42,4 30.730 48,4 43.430 57,7 83.193 54,05 5 Hàng hóa khác 9.885 18,8 7.456 11,7 5.407 7,2 21.142 13,7 Tổng 52.672 100 63.520 100 75.239 100 153.893 100 (Nguồn: Tổng hợp số liệu từ phòng Xuất Nhập Khẩu năm 2003-2006) Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, hàng điện tử gia dụng có doanh số chiếm tỉ lệ tương đối và tăng qua các năm, nhưng tỉ trọng của nó lại tăng giảm thất thường. Năm 2003 doanh số là 5.858 triệu đồng, chiếm 11,1%, liên tục tăng qua các năm 2004, 2005 và đến năm 2006 là: 18.267 triệu đồng, chiếm 11,9% tổng giá trị hàng nhập khẩu, năm 2006 giá trị nhập khẩu tăng đột biến 203,4% so với năm 2005. Tỷ trọng trung bình của giai đoạn 2003-2006 là 11,3%. Nguyên nhân là do đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhu cầu mặt hàng này tăng khá cao. Hơn nữa, một số mặt hàng gia dụng đang tăng về nhu cầu hiện nay như máy rửa hoa quả bằng._.N PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG Trước những thực trạng hiệu quả hoạt động nhập khẩu và những khó khăn từ bản thân doanh nghiệp và từ môi trường kinh doanh như trên, Công ty cần tổ chức phối hợp thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp trong thời gian tới để cải thiện tình hình, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển, đi lên. Dưới đây là một số đề xuất về góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty. Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc, chú trọng nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên Nhân lực là yếu tố rất quan trọng. Suy cho cùng, nó là yếu tố cơ bản nhất quyết định đến hiệu quả kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty, đầu tiên ta phải quan tâm đến vấn đề nhân lực. Hiện nay, cán bộ nhân viên của Công ty đa số còn trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề nên kinh nghiệm cũng còn một số hạn chế khi tiến hành hoạt động nhập khẩu. Vì thế, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương cho đội ngũ cán bộ thông qua hình thức bồi dưỡng, đào tạo lại và tuyển dụng mới là hết sức cần thiết. Để làm được điều này Công ty cần có những biện pháp sau: - Tiếp tục thực hiện việc cử các cán bộ, nhân viên đi học tập nghiên cứu ở các lớp đào tạo nghiệp vụ ngoại thương trong và ngoài nước, sau đó về truyền đạt lại cho các nhân viên khác. Tuy nhiên, lãnh đạo Công ty cần phải cân nhắc kỹ càng việc lựa chọn ai đi học. Thông thường những nhân viên trẻ ham thích học hỏi hơn, tiếp thu những cái mới nhanh hơn những nhân viên lớn tuổi. Nhưng nếu nhân viên trẻ quá thì sẽ gặp khó khăn trong việc truyền đạt lại cho những người khác. Do vậy, Công ty nên chọn nhân viên trẻ, có trình độ, ham học hỏi, nhiệt tình trong công việc và đã công tác trong ngành khoàng 7-10 năm. Như vậy, hiệu quả học tập rất có thể sẽ cao hơn. - Thứ hai, đào tạo chuyên môn cho đội ngũ mới vào nghề, giúp họ nhanh chóng nắm bắt, nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu từ công tác chuẩn bị hồ sơ ban đầu đến thực hiện tốt nghiệp vụ giao nhận hàng hoá. Bên cạnh việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nhân viên, Công ty cũng cần chú trọng đến việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Mức lương hiện nay ở Công ty ở mức trung bình so với các doanh nghiệp khác. Trong điều kiện giá cả các loại hàng hoá liên tục tăng như hiện nay, việc tăng lương cho cán bộ nhân viên là lẽ tất nhiên để giúp họ đảm bảo được cuộc sống, nhưng Công ty có thể tăng lương cao hơn một chút so với mức tăng chung của các doanh nghiệp trong ngành. Đương nhiên, tăng lương là tăng chi phí nhưng xét thấy tác động của việc tăng lương như vậy có thể mang lại lợi ích nhiều hơn những chi phí mà Công ty phải bỏ ra. Phong cách làm việc trì trệ, còn mang tính hành chính bao cấp là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu không cao. Việc tăng lương cho cán bộ nhân viên cao hơn mức tăng chung của xã hội sẽ làm tăng động lực lao động cho nhân viên, họ sẽ làm việc tích cực hơn, hiệu quả hơn và kết quả tạo ra nhiều hơn trong khi chi phí lại giảm đi. Bên cạnh đó, việc phát hiện, bồi dưỡng và “giữ chân” người tài là một vấn đề mà lãnh đạo Công ty cần chú ý. Lãnh đạo Công ty cần có sự quan sát, phân tích kỹ càng, phát hiện những người có trình độ, năng lực, có phong cách làm việc, tư cách đạo đức tốt, có uy tín đối với đồng nghiệp để có chế độ đãi ngộ thích hợp như khen thưởng, thăng chức, tăng lương, thưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ,…thể hiện sự trọng dụng họ từ đó ràng buộc họ với Công ty. Những chính sách như vậy sẽ tạo động lực cho họ phấn đấu, cống hiến hết mình cho Công ty. Ngoài ra, với chính sách trọng dụng nhân tài như vậy cùng với sự cống hiến của những người tài đã được trọng dụng sẽ như tấm gương cho những nhân viên khác nỗ lực làm việc. Tuy nhiên, để chính sách đạt được hiệu quả, cần phải có sự công bằng trong việc xem xét ai là người tài và chính sách đãi ngộ như thế nào là phù hợp. Ban lãnh đạo Công ty có thể đặt ra các mục tiêu hoạt động cho các phòng ban hoặc để họ tự đặt ra mục tiêu phấn đấu cho tháng tiếp theo dựa vào chỉ tiêu các năm trước và kế hoạch năm nay của Công ty. Việc hoàn thành hay không hoàn thành mục tiêu, nguyên nhân sẽ được trưởng phòng trình bày trước ban giám đốc vào cuối tháng. Có thưởng, có phạt trước toàn Công ty để tạo ra phong trào thi đua làm việc giữa các phòng, ban. Phong cách làm việc kém năng động, vẫn còn mang dấu ấn hành chính bao cấp là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng hoạt động kém hiệu quả của công ty. Do đó, biện pháp thay đổi phong cách làm việc của nhân viên trong công ty là điều rất cần thiết. Chính những người có tài, những nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình rất có thể tạo nên phong cách làm việc mới cho cả Công ty hay nói cách khác tạo nên văn hoá kinh doanh trong Công ty, ở đó tất cả nhân viên đều cống hiến hết mình vì lợi ích của Công ty. Nếu làm được như vậy, chắc chắn không chỉ hiệu quả hoạt động nhập khẩu mà hiệu quả hoạt động kinh doanh của cả Công ty sẽ tăng lên rất nhanh. Về vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn Vốn là yếu tố rất quan trọng, thiếu vốn hàng hóa lưu thông chậm, kinh doanh bị đình trệ. Đây cũng là một điểm yếu của Công ty. Trong những năm qua, vốn vay chiếm tỉ lệ cao trong nguồn vốn kinh doanh của Công ty, tuy nhiên nó vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh. Việt Nam gia nhập WTO chắc chắn sẽ tạo thuận lợi lớn cho Công ty trong vấn đề huy động vốn kinh doanh. Thêm rất nhiều ngân hàng, Công ty tài chính quốc tế mở chi nhánh tại Việt Nam, các Ngân hàng trong nước cũng liên tục tăng vốn điều lệ, nâng cao chất lượng phục vụ để tăng khả năng cạnh tranh. Như vậy, nguồn cung ứng vốn trên thị trường tăng, chất lượng phục vụ được nâng cao sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc vay vốn kinh doanh của Công ty. Số lượng vốn vay bị giới hạn bởi hạn mức tín dụng của ngân hàng, chính vì vậy Công ty cần thiết lập những mối quan hệ thật tốt với các Ngân hàng, tổ chức tài chính. Điều này không chỉ giúp Công ty vay vốn với số lượng lớn, nhanh chóng mà còn thuận lợi trong vấn đề thanh toán quốc tế, ví dụ như khoản ký quỹ mở thư tín dụng có thể giảm đi, những lỗi chứng từ dù nhỏ mà có thể trở thành rủi ro sẽ được ngân hàng thông báo,… Việc huy động vốn để đảm bảo đủ vốn duy trì hoạt động kinh doanh là rất cần thiết nhưng phải làm sao để sử dụng vốn cho có hiệu quả, không để vốn ứ đọng gây lãng phí bởi vì tiền doanh nghiệp đi vay phải trả lãi, đó là một khoản chi phí rất lớn. Để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng tốc độ vòng quay vốn và các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn khác, Công ty cần có biện pháp xúc tiến bán hàng, đầy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá, tránh để tình trạng ứ đọng hàng hoá, chậm trễ trong khâu giao nhận hàng. Trong kinh doanh chắc chắn còn có khoản phải thu của khách hàng (hay phần vốn bị khách hàng chiếm giữ) và phải trả người bán (phần vốn doanh nghiệp chiếm giữ của nhà cung cấp). Tăng cường các khoản phải trả người bán và giảm tối thiểu khoản phải thu của khách hàng là một biện pháp nhưng thực hiện được điều này là rất khó. Sự xa cách về mặt địa lý và những khác biệt trong môi trường kinh doanh nên uy tín của Công ty với nhà cung cấp là điều quan trọng nhất, do đó Công ty luôn phải thanh toán đúng hạn. Đối với các nhà cung cấp truyền thống, Công ty có thể đề nghị một số biện pháp như mở L/C trả chậm hoặc chuyển tiền trả sau để tạm chiếm dụng vốn, có tiền quay vòng. Tuy nhiên áp dụng biện pháp này phải chú ý đến tác động của tỷ giá hối đoái nếu không sẽ “lợi bất cập hại”. Đối với khách hàng của Công ty, họ cũng kinh doanh nên luôn muốn chiếm dụng vốn của nhà cung cấp. Do đó, công ty cần tìm hiểu, phân tích khả năng thanh toán của khách hàng, khi kí kết hợp đồng Công ty cần thoả thuận rõ về thời gian thanh toán và khoản tiền phạt thanh toán chậm, chiết khấu khi thanh toán nhanh. Ngoài ra, khoản ký quỹ ngân hàng tuy được hưởng lãi suất tiền gửi nhưng thấp, nếu có được uy tín, mối quan hệ tốt với ngân hàng thì Công ty có thể được giảm khoản tiền kỹ quỹ này, tăng lượng tiền đưa vào lưu thông. Về vấn đề quản lý nhân sự Trong thời gian qua, việc quản lý ở Công ty chưa thực sự đạt được hiệu quả, nó là một trong những nguyên nhân gây nên hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty. Tuy nhiên, lãnh đạo Công ty mới chỉ quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên mà chưa quan tâm đến việc nâng cao trình độ quản lý cho lao động quản lý. Vì vậy, trong thời gian tới, lãnh đạo Công ty nên có biện pháp để khắc phục vấn đề này. Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, Công ty cần có sự rõ ràng trong phân công công việc, trách nhiệm, quyền hạn của mỗi phòng ban. Trong mỗi phòng ban cũng có sự phân công rõ ràng như vậy cho từng nhân viên. Năng lực của người lãnh đạo được thể hiện qua khả năng tổ chức, lãnh đạo các nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ còn năng lực của nhân viên được thể hiện qua mức độ hoàn thành công việc được giao. Giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng phòng ban, từng cá nhân nhưng không có nghĩa là tách rời họ, các phòng ban phải có sự phối hợp với nhau, thông tin cho nhau trong công việc. Tổ chức bộ máy phải đảm bảo được hai mặt của một vấn đề đó là phân công rõ ràng và phối hợp nhuần nhuyễn, như vậy chắc chắc sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động nhập khẩu, hiệu quả hoạt động kinh doanh cho Công ty. Qua việc giám sát, đôn đốc nhân viên hoàn thành nhiệm vụ, lãnh đạo có thể phát hiện ra những người có tài, có uy tín để có chính sách đãi ngộ thích hợp. Bên cạnh đó, lãnh đạo Công ty cần nghiên cứu áp dụng tiêu chuẩn quản lý nhân sự ISO – tiêu chuẩn quản lý tiên tiến trên thế giới và đã được nhiều doanh nghiệp Việt Nam áp dụng thành công. Nâng cao trình độ quản lý sẽ giúp Công ty khai thác tốt hơn nguồn nhân lực của mình, đạt hiệu quả sử dụng lao động cao hơn, tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp. Đầu tư vào vấn đề nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường trong nước Nghiên cứu thị trường trong nước nhằm phát hiện nhu cầu về sản phẩm cần nhập khẩu. Đây là một nhiệm vụ hết sức cần thiết và cần được đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu thị trường trong nước phục vụ cho hoạt động nhập khẩu vì đây chính là thị trường tiêu thụ. Hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước tốt sẽ giúp công ty có được những thông tin về cung, cầu trên thị trường, nhu cầu về chủng loại hàng nào và số lượng bao nhiêu và đưa ra được chiến lược nhập khẩu thích hợp, tránh tình trạng nhập khẩu nhiều mặt hàng điện dân dụng như năm 2006 dẫn đến tình trạng định giá thấp hơn giá thị trường để thu hồi vốn. Công ty có thể lựa chọn cách mua các kết quả nghiên cứu thị trường của các công ty chuyên về nghiên cứu thị trường hoặc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu thị trường như thông qua phỏng vấn, bảng hỏi, quan sát, sách báo, tạp chí, internet,… Ngoài ra, để tiếp cận với khách hàng công ty cũng nên tiến hành các hoạt động quảng cáo cho công ty đặc biệt là một số sản phẩm mà công ty là nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam. Một chính sách quảng cáo tốt không những sẽ làm tăng doanh số hoạt động kinh doanh nội địa mà còn làm cho khách hàng biết đến tên tuổi của công ty, tin tưởng khả năng kinh doanh của công ty và như vậy sẽ làm tăng sự tin tưởng của khách hàng uỷ thác cho Công ty nhập các hàng hoá cần thiết cho họ. Bên cạnh đó, công ty cũng có thể tìm hiểu kỹ nhu cầu về những mặt hàng mà công ty vốn nhận nhập khẩu uỷ thác trong những năm qua để có kế hoạch nhập khẩu trực tiếp và kinh doanh, nâng cao tỷ suất lợi nhuận chứ không chỉ dừng lại ở nhập khẩu uỷ thác và hưởng phí uỷ thác. Nghiên cứu thị trường nước ngoài Đây là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với công ty, tuy nhiên trong hoạt động của mình, Công ty cũng đã chú ý tới khâu này nhưng mới chỉ tiến hành ở mức độ chung khái quát như nắm tình hình chung về kinh tế, chính trị, xã hội ở thị trường nhập khẩu đó, về bạn hàng cũng chỉ nắm sơ qua loại hình doanh nghiệp của họ, về bên đại diện của họ, mối quan hệ của họ với mình. Do đó, kết quả đem lại chưa cao, vẫn có trường hợp hàng hoá nhập khẩu với giá cao hơn mà lẽ ra Công ty có thể mua với giá thấp hơn của nhà cung ứng khác với cùng mặt hàng và chất lượng. Trong thời gian tới, Công ty cần đẩy mạnh hơn công tác này, cần đi vào nghiên cứu cụ thể hơn, cần nắm bắt nhu cầu của thị trường đó, nắm rõ uy tín, cơ sở vật chất kĩ thuật và nhất là tình hình kinh doanh nội tại của bạn hàng cần giao dịch, xác định rõ phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của người đứng tên giao dịch của bên bạn hàng...nếu làm tốt những việc này công ty sẽ tránh được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Nghiên cứu thị trường thế giới sẽ giúp cho công ty tìm được những bạn hàng mới, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, chủ động kí kết hợp đồng trực tiếp với các hãng trực tiếp sản xuất, các đại lý cấp 1, hạn chế giao dịch hợp đồng qua các trung gian nhằm giảm bớt các chi phí về giá không cần thiết. Thời gian qua Công ty mới chỉ quan hệ với một số thị trường Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ,… và khối EU thì có Anh, Pháp, Na Uy,… Trong những năm tới vấn đề mở rộng quan hệ với thị trường khu vực Bắc Mỹ là rất cần thiết trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO như hiện nay nếu không Công ty sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh trên thị trường này. Công ty có thể thu thập thông tin về thị trường nước ngoài thông qua sách báo, internet, qua đại sứ quán của nước dự định nhập khẩu tại Việt Nam hoặc Đại sứ quán Việt Nam tại nước đó, cũng có thể thông qua các mối quan hệ quen biết, các doanh nghiệp Việt Nam đã có kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường đó,… Việc nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước một cách bài bản sẽ giúp doanh nghiệp có được một hệ thống thông tin chính xác, cập nhật tạo điều kiện nắm bắt tốt hơn cơ hội kinh doanh và có được những kế hoạch ứng phó kịp thời nếu có những biến động không tốt xảy ra. Về vấn đề phân phối Hoạt động phân phối chiếm giữ vị trí rất quan trọng bởi vì có phân phối tức là có sự tiêu thụ hàng hoá thì mới tạo kết quả cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Hoạt động phân phối tốt thì doanh thu sẽ lớn, lợi nhuận sẽ cao, tốc độ quay vòng vốn tăng lên. Việc tiêu thu hàng hoá của Công ty trong những năm qua đã gặp phải một số khó khăn, do đó, để phát triển hoạt động phân phối, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp dưới đây. Nâng cấp các đại lý Hiện nay, các đại lý phân phối của Công ty có cơ sở vật chất cũ kỹ, tuy có địa thế khá đẹp nhưng cách bài trí chưa bắt mắt, chưa thu hút được sở thích tham quan mua sắm của người tiêu dùng nên việc tiêu thụ hàng hoá gặp nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng này Công ty có thể đầu tư cho các cửa hàng như sau: sơn sửa, trang trí lại cửa hàng sao cho nhìn thật ấn tượng, có thể sử dụng màu sơn, bảng hiệu giống nhau, giữa các cửa hàng để tăng phần thu hút và dễ nhớ với khách hàng. Ngoài ra, Công ty nên hướng dẫn các chủ đại lý cách bài trí các mặt hàng để nhìn bắt mắt hơn. Cách này sẽ dễ gây được sự chú ý với khách hàng hơn mà chi phí của hoạt động này cũng không cao, tạo điều kiện đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá. Mở rộng hệ thống phân phối Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty hiện nay chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường miền Bắc, tập trung ở Hà Nội, thị trường miền Nam và thị trường miền Trung còn ít. Công ty cần nghiên cứu mở rộng thị trường ra các tỉnh lân cận Hà Nội, các tỉnh miền Trung và đặc biệt là miền Nam. Thị trường miền Nam nhất là thành phố Hồ Chí Minh là một thị trường đông dân với mức sống khá cao. Đây thực sự là một thị trường tiêu thụ hấp dẫn bởi vì một số sản phẩm điện gia dụng cao cấp Công ty lại là nhà phân phối độc quyền trên toàn quốc, do đó với những sản phẩm này, Công ty không có đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Tuy Công ty đã thiết lập hợp đồng đại lý với một số cửa hàng tại đây nhưng lượng tiêu thụ hàng năm vẫn thấp. Công ty nên chú trọng đến thị trường này, tìm hiểu rõ nguyên nhân, nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường và có thể có các biện pháp quảng cáo, thiết lập thêm các cửa hàng đại lý tại khu vực này nếu có cơ hội kinh doanh. Đối với loại mặt hàng vật liệu xây dựng nhập khẩu trực tiếp, đây là mặt hàng hiện nay có nhu cầu rất cao do xây dựng cơ bản trên cả nước gia tăng mạnh. Công ty nên thiết lập thêm, duy trì và phát triển các mối quan hệ với các cửa hàng vật liệu xây dựng trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh khác. Ngoài ra, Công ty nên thiết lập mối quan hệ với các nhà thầu xây dựng, họ sẽ là những khách hàng lớn của Công ty về vật liệu nhập khẩu trực tiếp và nếu tạo được uy tín tốt, rất có thể Công ty sẽ nhận được các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác máy móc thiết bị xây dựng. Quảng cáo, xúc tiến bán hàng Hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đẩy nhanh tiêu thụ hàng hoá thông qua thúc đẩy cung và cầu gặp nhau, gợi mở nhu cầu của người tiêu dùng. Hiện nay, hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán của Công ty chưa được chú trọng đúng mức nhưng để cạnh tranh được trong điều kiện hiện nay, Công ty buộc phải có những biện pháp tích cực hơn nữa để tăng lượng hàng hoá tiêu thụ. Đối với các sản phẩm điện gia dụng, nhất là những sản phẩm mà chưa phổ biến trên thị trường như máy rửa hoa quả bằng ozone, máy làm đá siêu tốc,…Công ty cần có các chương trình quảng cáo thích hợp. Nhiều sản phẩm điện gia dụng của Công ty là những sản phẩm mới trên thị trường hoặc có đặc điểm nổi bật là bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng như máy rửa hoa quả bằng ozone (do có tính năng loại bỏ các chất bảo quản, thuốc sâu trong hoa quả nên giúp bảo vệ người tiêu dùng), hơn nữa, kinh phí của Công ty còn hạn hẹp nên Công ty có thể lựa chọn quảng cáo trên các báo, tạp chí về công nghệ hoặc các báo về sức khỏe , phụ nữ,…nếu có thể thì quảng cáo cả ở các báo có lượng ấn bản lớn nhưng thường chi phí quảng cáo ở các báo này cao, do vậy nó ảnh hưởng đến chi phí. Công ty cũng nên thuê không gian quảng cáo trên các Website có số lượng người truy cập lớn, hoặc các trang chuyên về tư vấn sức khoẻ, công nghệ,… Đặc điểm hàng điện tử gia dụng của Công ty là hàng có giá trị không cao, phù hợp với khả năng thanh toán của nhiều người nhưng sản phẩm này lại chưa được biết đến nhiều. Do đó, Công ty có thể áp dụng hình thức quảng cáo qua cataloge, gửi đến các công sở, gia đình. Cataloge cần được thiết kế đẹp, giới thiệu được những ưu điểm nổi bật của sản phẩm. Công ty có thể trực tiếp hoặc qua các đại lý thiết lập một đội ngũ nhân viên kinh doanh đông đảo làm bán thời gian có nhiệm vụ tư vấn các sản phẩm của Công ty, hưởng lương theo số sản phẩm bán ra. Với các sản phẩm vật liệu xây dựng như đá Granit, Marble, ván sàn,…Công ty cũng có thể quảng cáo thông qua cataloge, website của Công ty. Những cataloge này được gửi đến các cửa hàng và các nhà thầu xây dựng. Thay vì việc quảng bá các sản phẩm trên các website, Công ty có thể tiết kiệm chi phí bằng cách chỉ quảng cáo trang web của Công ty trên các website khác và giới thiệu tất cả các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu của mình trên trang web của Công ty. Cách này tuy có chi phí thấp, giới thiệu được tất cả mặt hàng kinh doanh với khách hàng nhưng lại có sức thu hút kém hơn các biện pháp trên, do đó Công ty có thể kết hợp các biện pháp với nhau nhằm đạt được hiệu quả quảng cáo cao nhất với chi phí thấp nhất. Ngoài ra, Công ty nên thường xuyên gửi các đơn chào hàng kèm cataloge đến cho các khách hàng tiềm năng, có thể sử dụng chào hàng băng thư thông thường hoặc chào hàng trên internet. Việc quảng cáo không chỉ giúp đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trực tiếp, nó còn giúp gia tăng uy tín, vị thế của Công ty trên thương trường từ đó giúp tăng các đơn hàng nhập khẩu uỷ thác. Bên cạnh hoạt động quảng cáo, Công ty cần có biện pháp tạo lập và duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng nhằm tạo được lòng tin và sự trung thành của khách hàng trong việc tiêu thụ hàng hoá của Công ty. Ngoài ra, Công ty còn có thể thu được những phản hồi về ưu, nhược điểm của hàng hoá, góp phần hỗ trợ thông tin cho việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng. Ứng dụng thương mại điện tử Thương mại điện tử được coi là nền thương mại của tương lai, nó rất phát triển ở các quốc gia tiên tiến, nó cũng đã hình thành và đang phát triển ở Việt Nam. Do đó, việc quan tâm, ứng dụng, khai thác những lợi thế của nó là điều hết sức cần thiết. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Việt Nam ngày càng phát triển, số người sử dụng internet ngày càng nhiều. Đây là cơ hội cho Công ty phát triển phương thức kinh doanh vẫn còn khá mới mẻ này. Ngay từ bây giờ, Công ty cần có những chuẩn bị làm tiền đề cho phương thức kinh doanh này. Đầu tiên phải có được đội ngũ nhân viên có chuyên môn cả về công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Thứ hai là cơ sở hạ tầng công nghệ của Công ty phải được nâng cấp, đảm bảo tính hiện đại, đáp ứng được yêu cầu. Các công việc khác như lựa chọn phương thức thanh toán qua tài khoản, thanh toán online, hoặc thanh toán trực tiếp; thiết lập đội ngũ giao hàng,… Công ty có thể ứng dụng thương mại điện tử trong cả hoạt động mua hàng hoá nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá trong nước. Lựa chọn mặt hàng kinh doanh Từ năm 2007 Việt Nam đã gia nhập WTO, thuế rất nhiều mặt hàng sẽ giảm, công ty sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn do gia tăng số lượng nhà nhập khẩu. Vì thế sẽ khó hoàn thành kế hoạch đặt ra nếu như không tính toán kỹ lưỡng, xác định được cơ cấu nhập khẩu hợp lý cũng như sự thay đổi về nhu cầu của mỗi sản phẩm. Việc đa dạng hoá mặt hàng sẽ giúp Công ty đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu thị trường đồng thời giảm rủi ro khi có biến động xấu trên thị trường, nâng cao được tên tuổi, địa vị, uy tín của Công ty. Tuy vậy, với mặt hàng được coi là truyền thống cần có sự đổi mới, nắm bắt tình hình, đón trước nhu cầu thị trường để đảm bảo việc nhập khẩu được liên tục, khai thác các lợi thế cạnh tranh của công ty, tránh việc để mất thị trường vào tay đối thủ cạnh tranh. Trong hoạt động nhập khẩu, công ty có thể tăng giá trị mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nhưng để tăng lợi nhuận nhanh hơn thì công ty cần chú ý hơn đến các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp vì loại hình này có tỉ lệ lợi nhuận cao hơn so với loại hình nhập khẩu uỷ thác. Trước hết cần phải có được những thông tin chính xác từ hoạt động nghiên cứu thị trường, dự đoán cung cầu trong giai đoạn tiếp theo và đưa ra kế hoạch nhập khẩu. Do vậy, Công ty cần phải hiểu rõ mục tiêu chiến lược của mình để lựa chọn mặt hàng chủ lực và có thể kinh doanh thêm một số mặt hàng khác nhằm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận cho Công ty. Để kinh doanh thêm mặt hàng mới Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Ngoài những yếu tố trên, công ty cần quan tâm đến chu kỳ sống của sản phẩm nhập khẩu, xác định nó đang nằm trong giai đoạn nào để có những chiến lược Marketing thích hợp, không bị lãng phí chi phí hay mua sản phẩm không ngang bằng giá trị của nó. Công ty hiện nay phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nhà nhập khẩu khác và các nhà sản xuất trong nước. Do vậy, Công ty nên nghiên cứu các phân đoạn thị trường có mức cạnh tranh bớt gay gắt hơn, ví dụ việc lựa chọn nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước không có lợi thế về sản xuất sẽ giúp giảm sự cạnh tranh về mặt hàng này từ các nhà sản xuất trong nước. Từ trước tới nay, Công ty mới chỉ phát triển nhập khẩu hàng hoá, chưa chú ý đến nhập khẩu dịch vụ. Trong khi xu hướng phát triển chung hiện nay là gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, do vậy Công ty có thể nghiên cứu nhu cầu các loại hình dịch vụ ở Việt Nam để có kế hoạch kinh doanh phù hợp nhằm đa dạng hoá mặt hàng, giảm rủi ro kinh doanh, tăng thu lợi nhuận. Lựa chọn thị trường nhập khẩu Việc lựa chọn thị trường nhập khẩu cần dựa chủ yếu vào những thông tin thu thập được từ phòng kế hoạch thị trường. Việc lựa chọn thị trường nhập khẩu phải được cân nhắc về các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh của nước đó như tình hình kinh tế, những vấn đề về chính trị, đảng phái lãnh đạo đất nước, luật pháp, tôn giáo và đặc biệt là văn hoá kinh doanh của họ. Tất cả cần được xem xét kỹ càng để có kế hoạch phòng ngừa rủi ro kinh doanh. Ngoài ra, khi quyết định lựa chọn thị trường nào, Công ty không thể bỏ qua việc xem xét nước đó có cùng nằm trong các khu vực ưu đãi thuế quan với Việt Nam không, khoảng cách địa lý,... 3.2.9 Lựa chọn nhà cung cấp Việc lựa chọn nhà cung cấp của Công ty vẫn còn nhiều bất cập, Công ty thường quan hệ buôn bán với các nhà cung cấp truyền thống ở những thị trường truyền thống, điều này đảm bảo an toàn cho Công ty, tránh được những rủi ro thường gặp bởi vì hai bên đã tạo được uy tín lẫn nhau. Việc kí kết hợp đồng với các đối tác này chủ yếu qua Fax, không có sự gặp gỡ trực tiếp, điều này giúp giảm chi phí giao dịch. Nhưng trên thực tế, các công ty không phải lúc nào cũng làm ăn thuận lợi, do đó để tránh những rủi ro, Công ty cũng cần thường xuyên kiểm tra tài chính, khả năng cung ứng hàng hoá của công ty bạn. Trong quá trình hoạt động phát triển, Công ty không thể chỉ có quan hệ buôn bán với các nhà cung cấp truyền thống mà cần phải mở rộng quan hệ với các nhà cung cấp khác để tìm kiếm thêm những hợp đồng mới với giá cả hợp lý hơn và tìm kiếm thêm mặt hàng kinh doanh mới. Do khoảng cách về địa lý, khác biệt về môi trường kinh doanh nên Công ty cần phải tìm hiểu thật kỹ về nhà cung cấp, uy tín trong kinh doanh trên thị trường trong nước và nước ngoài của họ, năng lực sản xuất của họ,…để tránh những rủi ro kinh doanh, bởi vì tiềm lực tài chính của Công ty có hạn, chỉ một vụ kinh doanh gặp rắc rối có thể dẫn đến hậu quả khôn lường. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC Để gia nhập WTO, Nhà nước đã hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến thương mại cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn nhiều điều bất hợp lý, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà. Chính vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục có những biện pháp nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ công bằng và thông thoáng nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ trong việc quản lý, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước cũng cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thực hiện chính sách một cửa một dấu, áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý như việc quản lý, xử lý các đơn thư của doanh nghiệp thông qua Internet. Những thủ tục này nếu được giảm đi sẽ giúp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Gia nhập WTO, Nhà nước không thể có những chính sách bảo hộ các doanh nghiệp trong nước vì sẽ vi phạm nguyên tắc cơ bản của WTO. Tuy nhiên, Nhà nước hoàn toàn có thể hỗ trợ theo một cách khác. Đầu tiên là hỗ trợ về thông tin thị trường, Nhà nước có thể cung cấp công khai các thông tin trên các phương tiện thông tin như sách, báo,tạp chí, truyền hình, truyền thanh và đặc biệt là Internet các thông tin về thị trường, về doanh nghiệp mà đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, thị trường nước ngoài đồng thời cảnh báo trong trường hợp có biến động xấu trên thị trường trong nước và quốc tế, các cảnh báo về những rủi ro khi kinh doanh trên một thị trường nào đó. Một cách khác, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang thiếu những người có trình độ, năng lực trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, do vậy ngay từ khâu đào tạo tại các trường đại học, các bài giảng cần đi sát hơn với yêu cầu thực tế. Nhà nước có thể mở ra các lớp nghiệp vụ do những người thực sự có năng lực, trình độ, kinh nghiệm hoặc có thể thuê cả các giảng viên nước ngoài để phục vụ nhu cầu đào tạo cán bộ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam. KẾT LUẬN Từ khi thành lập đến nay đã gần 50 năm tồn tại và phát triển, cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng đã có được những bước đi vững chắc, đạt được những thành công lớn trong việc phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên trong Công ty. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Công ty vẫn còn rất nhiều những tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong hoạt động nhập khẩu nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập như ngày nay, vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu với Công ty lại càng trở nên bức thiết. Nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng” đã giúp em hiểu được những hoạt động nhập khẩu rất thực tế tại Công ty, bổ sung cho những kiến thức lý luận em đã được trang bị. Với vốn kiến thức còn ít ỏi của mình, trong bài viết này, em xin đưa ra một số giải pháp để giải quyết những tồn tại trong hoạt động nhập khẩu nhằm giúp Công ty nâng cao được hiệu quả nhập khẩu để có thể ngày càng đứng vững, phát triển, khẳng định vị thế và uy tín của mình trên thương trường. Đồng thời trong chuyên đề này, em cũng đưa ra một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước về chính sách vĩ mô nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động. Do giới hạn về thời gian và khả năng của bản thân, bài viết chắc chắn có nhiều sai xót, em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét quý báu của thầy cô để em có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2004), giáo trình “Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, tập 2, NXB Thống Kê. 2. PGS Đinh Xuân Trình (2002), Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo Dục. 3. Website: 4. Website: 5. Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2005), “Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty Thương mại và sản xuất vật tư thiết bị Giao Thông Vận Tải (TMT)”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội. 6. Hoàng Thị Hồng Vân (2004), “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại công ty sản xuất và thương mại Châu Á”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội. 7. Lê Thị Thanh Minh (2004), “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty sản xuất và thương mại Châu Á”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội. 8. Hà Huy Thành (2006), “Hoàn thiện công nghệ Marketing nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng”, Luận Văn Tốt Nghiệp, ĐH Thương Mại, Hà Nội. 7. Phạm Quý Hùng (2001), “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tĩnh”, Luận Văn Thạc sỹ, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0550.doc
Tài liệu liên quan