Mở đầu
Bảo hiểm là một dịch vụ tài chính rất phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngành kinh doanh bảo hiểm đã có vị trí khá quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. ở các nước kinh tế phát triển ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% tới 10% GDP của các nước đó.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, ngành kinh doanh bảo hiểm cũng có sự phát triển vượt bậc. Sự tăng trưởng của ngành bảo hiểm đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn & gián đoạn kinh doanh ở Công ty Bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
995 và từ 1996 - 2000 đạt mức độ tăng trưởng 25%. Cũng từ khi chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta, các công ty, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất từ được bao cấp chuyển thành tự túc, tự chịu trách nhiệm về tài sản và quá trình kinh doanh của mình do đó nếu xảy ra sự tổn thất lớn có thể đi đến phá sản.
Trong đời sống, lao động cũng như sản xuất kinh doanh dù đã chú ý ngăn ngừa đề phòng và hạn chế rủi ro tổn thất nhưng rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và bất cứ ở đâu. Hoả hoạn cũng là một rủi ro có tác hại ghê gớm đến con người. Con người cũng đã tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những thiệt hại do hoả hoạn gây ra như: lập đội cứu hoả, lắp đặt hệ thống bình chống cháy, tham gia Bảo hiểm hoả hoạn... trong đó bảo hiểm được xem là biện pháp hữu hiệu nhất. Bảo hiểm ra đời cùng với sự phát triển của xã hội, đã trở thành tập quán phục vụ cho các nhu cầu của con người và ngày càng trở nên đa dạng hơn về các nghiệp vụ bảo hiểm, một trong số đó có nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh.
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn là nghiệp vụ khá mới mẻ được triển khai từ cuối năm 1989 nhưng nó đã sớm chứng tỏ được tầm quan trọng của mình trong các hoạt động bảo hiểm. Đây là loại hình hết sức phong phú và phức tạp do đối tượng áp dụng của loại hình này rất phong phú, đa dạng và là những tài sản có giá trị lớn. Vì vậy, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn cần phải áp dụng những nguyên tắc cơ bản chính xác đối với từng loại tài sản, từng đơn vị rủi ro và đòi hỏi tính kỹ thuật cao trong các công đoạn và trong cách tính phí.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đến các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã không còn xa lạ. Tuy nhiên làm thế nào để hiểu thấu đáo tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp và mọi người dân là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam. Chính vì vậy, em lựa chọn “vấn đề Bảo hiểm hoả hoạn và Gián đoạn kinh doanh” làm đề tài nghiên cứu. Mục đích của đề tài nhằm tập hợp hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được áp dụng chung trong hai loại hình Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu đề tài được chia thành 4 chương bao gồm:
Chương I: Sự cần thiết và lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh.
Chương II: Những vấn đề cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
Chương III: Một số vấn đề cơ bản của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh
Chương IV: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh ở Công ty Bảo hiểm Hà Nội
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này em nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của thầy giáo PGS -TS Hồ Sỹ Sà và một số cán bộ công tác tại phòng Bảo hiểm hoả hoạn và phòng Rủi ro kỹ thuật thuộc công ty bảo hiểm Hà Nội. Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập cũng như trong trình bày. Rất mong sự góp ý và phê bình của những ai quan tâm đến đề tài này.
Chương I.
Sự cần thiết và lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh
Sự cần thiết của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh
Trong cuộc sống lao động cũng như sản xuất kinh doanh con người ta đã chú ý ngăn ngừa đề phòng hạn chế tổn thất nhưng rủi ro vẫn xảy ra ở bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Hoả hoạn có tác hại ghê gớm đối với con người, do vậy con người đã nghiên cứu và tìm ra nhiều biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục những hậu quả đó. Tuy nhiên, rủi ro hoả hoạn nằm ngoài sự kiểm soát của con người, mỗi khi xảy ra rủi ro hoả hoạn nó để lại hậu quả rất lớn ảnh hưởng rất xấu đến quá trình sản xuất kinh doanh và cả tính mạng con người mà các biện pháp hạn chế, ngăn ngừa thông thường không thể khắc phục nỗi. Một trong những biện pháp hữu hiệu là bảo hiểm, cụ thể hơn nửa là bảo hiểm hoả hoạn, nó san sẽ rủi ro cho nhiều người do đó, từ rủi ro lớn có thể biến thành những rủi ro nhỏ giúp cho các doanh nghiệp chẳng may gặp rủi ro tổn thất giảm được gánh nặng.
Hoả hoạn xảy ra là do nhiều nguyên nhân. Các nguyên nhân cháy có thể là: Sơ suất khi dùng lửa, sự cố điện, vi phạm nội quy phòng cháy, trẻ em nghịch lửa gây cháy, sự cố thiết bị kỹ thuật, đốt do mâu thuẫn cá nhân, tai nạn giao thông, đốt phá hoại, say rượu đốt... Trong các nguyên nhân đó phần lớn là do con người gây nên và hậu quả của nó để lại không chỉ là những thiệt hại về người và tài sản mà còn làm mất ổn định trật tự xã hội. Hàng năm theo thống kê thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ hoả hoạn không chỉ xảy ra ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển mà còn ở cả những nước có nền công nghiệp phát triển như: Anh, Pháp, Mỷ...
Nước ta là một nước nghèo, song các vụ cháy xảy ra cũng nhiều gây thiệt hại lớn đến con người, tài sản, quá trình sản xuất kinh doanh và cả sự phát triển của đất nước.
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật tư, hàng hoá ngày càng lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy móc hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật về an toàn thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn thường rất thấp so với đầu tư phát triển sản xuất, thêm vào đó điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt đã khiến cho khả năng xảy ra rủi ro đã cao lại càng cao hơn, mức độ thiệt hại về người và của càng nghiêm trọng hơn.
Chỉ tính riêng hoả hoạn, mỗi năm ở nước ta đã xảy ra hàng nghìn vụ, làm chết và bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Có những vụ cháy đã làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ khu chợ hoặc cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng làm cho hàng nghìn người không có nhà ở, hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu đứng vì mất hết hàng hoá, tiền của không còn chổ để kinh doanh hoặc làm cho hàng trăm công nhân không có nơi để làm việc. Một số vụ cháy trong những năm gần đây gây thiệt hại lớn như:
Ngày 05/02/1993: Công ty Dệt Nha Trang bị cháy làm thiêu huỷ 3700m2 Nhà xưởng, kho tàng, 350 tấn bông, 46 tấn vải và 11039 chiếc áo.
Ngày22/07/1993: Công ty liên doanh sản xuất giầy Hiệp Hưng thành phố Hồ Chí Minh bị cháy, thiệt hại 14 tỷ đồng.
Ngày 14/07/1994: Cháy chợ Đồng Xuân, thiệt hại ước tính 147 tỷ đồng.
Ngày 18/01/1996: Cháy Công ty Giầy Thái Bình ở Sông Bé thiệt hại ước tính 7 tỷ đồng.
Ngày 09/07/1997: cháy xí nghiệp sản xuất lông vũ thành phố Hồ Chí Minh thiệt hại ước tính 8 tỷ đồng.
Ngày 15/09/1998: cháy nhà máy Giày Đồng Nai thiệt hại ước tính 12 tỷ đồng...
Chính vì vậy, phải có các biện pháp hữu hiệu để hạn chế thiệt hại do hoả hoạn gây ra. Rủi ro hoả hoạn gây ra là không lường trước được. Nếu xảy ra cháy lớn thì đơn vị phải đương đầu với rất nhiều khó khăn để xây dựng, khôi phục lại kinh tế và thậm chí có thể phá sản.
Làm sao để có thể đảm bảo được vốn sản xuất kinh doanh, đảm bảo đời sống công ăn, việc làm cho người lao động, làm sao để ổn định được nhanh chóng và tiếp tục hoạt động sau khi xảy ra hoả hoạn? Thực tế đã có nhiều biện pháp được sử dụng như: áp dụng các biện pháp an toàn trong sản xuất và sinh hoạt tuân thủ những nội quy, quy định về an toàn; thành lập quỹ dự trữ để đề phòng hoả hoạn; sử dụng bình chống cháy ở các công ty, khu công cộng... Trước đây ở nước ta có một vài công ty bảo hiểm hoả hoạn hoạt động tại miền nam trong thời kỳ Pháp thuộc song sau năm 1975 do cơ chế bao cấp, Nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại, đảm bảo tài chính cho các doanh nghiệp khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng không có cơ hội để phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tự chủ về tài chính, thì tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là Bảo hiểm hoả hoạn vẫn là phương án tối ưu.
Theo quy tắc Bảo hiểm hoả hoạn được sử dụng hiện nay ở các công ty bảo hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể đăng ký bảo hiểm cho những tài sản như: nhà cửa, trang thiết bị, hàng hoá, nguyên vật liệu của mình... ngoài cháy là rủi ro chính họ còn có thể đăng ký cho các rủi ro phụ như nổ, giông bão, động đất, lũ lụt, nước chảy hay rò rỉ, tràn từ bể chứa đường ống hoặc thiết bị chửa cháy, xe cộ hay các súc vật đâm vào... trong trường hợp xảy ra tổn thất, các công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp bởi các nguyên nhân kể trên và cả những chi phí cần thiết hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và sau khi cháy.
Tuy nhiên, cháy không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến con người và tài sản mà còn để lại những tổn thất hậu quả khổng lồ cho các doanh nghiệp. Trên thực tế sau khi cháy hoạt động sản xuất không thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do nhà xưởng hay máy móc thiết bị hư hại, để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện pháp khôi phục lại sản xuất, bên cạnh việc chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân và các khoản chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, khấu hao, điện nước, lãi suất ngân hàng... các doanh nghiệp còn phải chi phí cho việc thuê thêm công nhân, làm việc thêm giờ để hoàn tất các đơn đặt hàng còn tồn đọng... Rõ ràng các khoản chi phí này không được bồi thường theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn.
Để đáp ứng được các khoản chi phí kể trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các quỹ dự trữ hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác, song các phương pháp này hoàn toàn bị thụ động. Một biện pháp hiện nay đang được áp dụng có hiệu quả đó là tham gia bảo hiểm, cụ thể là bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Với loại hình bảo hiểm này, các doanh nghiệp không chỉ được bồi thường tài chính cho các khoản chi nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mà lẽ ra họ đạt được nếu họ không xảy ra rủi ro tổn thất.
Như vậy, có thể nói rằng cùng với Bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã góp phần làm hạn chế tới mức tối thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng những khoản phí rất nhỏ, thường là một vài phần nghìn của giá trị tài sản, người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để vốn nhàn rỗi cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi họ không phải trích lập quỹ dự phòng trong trường hợp xảy ra rủi ro. Và quan trọng hơn, bên cạnh việc được bồi thường khi xảy ra rủi ro tổn thất, họ có được một tâm lý an tâm khi họ tiến hành công việc kinh doanh của mình. Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn được các công ty bảo hiểm tư vấn về các biện pháp phòng tránh tổn thất, tăng cường phòng cháy chữa cháy và thực hiện các chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp, Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội. Bởi vì thông qua việc hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp an toàn, các công ty bảo hiểm đã góp phần hạn chế những tổn thất, tai nạn giúp cho các khách hàng của họ có điều kiện thúc đẩy mỡ rộng sản xuất như mong muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm thu được từ hai loại hình này được các công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách Nhà nước để chính phủ sử dụng vào các mục đích phục vụ xã hội.
Qua đó ta thấy, bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh có tác dụng rất to lớn đối với đời sống kinh tế của mọi người dân và quá trình phát triển đất nước. Nó có tác dụng đề phòng hạn chế các rủi ro xảy ra, tránh gây thiệt hại lớn. Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh còn góp phần vào việc bảo vệ trật tự an toàn xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá phát triển đất nước.
Lịch sử phát triển của Bảo hiểm hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh.
Hiệp hội Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 có tên là Feuercasse sau đó một thời gian ngắn đã xuất hiện một vài tổ chức khác nhưng không để lại dấu ấn gì lớn.
Mãi đến năm 1666, sau khi chứng kiến một đám cháy ở thủ đô London, người dân Anh mới nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy chữa cháy và bồi thường cho những người bị thiệt hại. đám cháy lớn kéo dài 7 ngày 8 đêm đã để lại một tổn thất rất lớn, thiêu huỷ toàn bộ 13200 ngôi nhà, 87 nhà thờ trong đó có cả trụ sở của Lloy’s và nhà thờ Saint Paul, thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố, đã kích thích sự ra đời của bảo hiểm cháy đầu tiên ở nước Anh.
Đến năm 1667, văn phòng Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ở nước Anh được thành lập với tên gọi rất đơn giản là: “The Fire office”. Ba năm sau đó một văn phòng cạnh tranh khác là: “The Friendly Societty” cũng được thành lập. Hai văn phòng này đều do tư nhân sáng lập ra để bảo vệ nhà cửa, tài sản thoát khỏi thảm hoạ cháy. một số công ty khác cũng theo đó ra đời, đáng chú ý là công ty: “ Hand in hand ” năm 1696 và “ Sun Fire office ” năm 1710 và vẫn hoạt động cho đến nay.
ở Mỹ, công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành thành công Bảo hiểm hoả hoạn là một công ty tương hỗ do Benjamim Frankin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang tên là: Philadelphia Contribution chuyên Bảo hiểm hoả hoạn cho nhà cửa. Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ là công ty The Insuarance Company of North American thành lập năm 1792.
Đến nay trên khắp thế giới, Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và đã trở thành nghiệp vụ truyền thống với số phí thu được hàng năm rất cao. ở Nhật doanh thu phí bảo hiểm là1017008 triệu yên, chiếm khoảng 15,5% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh ra đời muộn hơn nhiều so với Bảo hiểm hoả hoạn. Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, ở nước Anh các công ty bảo hiểm mặc dù bị sự thúc ép của Chính Phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất, vẫn chưa tiến hành bất cứ loại hình bảo hiểm tổn thất hậu quả nào. Đó là do sự phức tạp trong việc phân tích các chi phí tài chính, xác định phạm vị bảo hiểm trong điều kiện kinh tế chính trị chưa ổn định. Mãi tới hơn 80 năm sau sự ra đời của hai nguyên tắc: Herry Booth and Commercial Union(1923) và Polikoff Ltd v.North British and Mercantile(1936) 55 LIL Rep.279 mới thực sự đặt nền móng cho bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh hình thành và phát triển. Năm 1985, Giao dịch của bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh mới xuát hiện ở Uỷ ban tổn thất do hậu quả, một bộ phận trong Uỷ ban của Bảo hiểm hoả hoạn. Uỷ ban này là nơi đầu tiên cho ra đời bản mẫu về Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này được thông qua bởi tất cả các nhà bảo hiểm và đã được sử dụng thử nghiệm ở một số nước. Vào tháng 10/1989, hiệp hội những nhà bảo hiểm nước Anh (ABI) đã xem xét lại mẫu Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh nhưng chỉ sửa chữa nhỏ trong nội dung đơn và cách trình bày, không thay đổi về phạm vi bảo hiểm. Sau khi thay đổi, tháng 3/1991, Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh được chính thức phát hành. Mẫu Đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh đã được sử dụng trong vài năm, nó đã khẳng định được những điểm tích cực của nó, mẫu đơn này đã cung cấp một lượng thông tin lớn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, xác định được thời hạn bồi thường cũng như nêu rõ về quyền hạn, trách nhiệm của người được bảo hiểm và người bảo hiểm. Sự sửa chữa đó gần như không ảnh hưởng gì về mẫu đơn.
ở Việt Nam, nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn được triển khai từ cuối năm 1989, theo quyết định số 06/TC-QĐ ngày 17/01/1989 của Bộ tài chính. Bảo hiểm hoả hoạn đã được tiến hành ở hầu hết 61 tỉnh thành trong cả nước. Tuy nhiên tài sản được tham gia bảo hiểm mới chỉ là con số nhỏ bé của cả nước. Và Bảo Việt cũng chỉ mới bảo hiểm chủ yếu là các kho xăng, dầu, còn phần lớn các tài sản của các nhà máy, xí nghiệp khách sạn, chợ... trị giá hàng tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm hết.
Thông tư số 82/TC-CN ngày 31/12/1991 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị 332 HĐBT, về việc bảo toàn vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: “ các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại ở các công ty bảo hiểm tại Việt Nam. Khoản chi về bảo hiểm ( phí bảo hiểm) được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẻ không ghi giảm vốn cho trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã tiến hành triển khai những loại hình bảo hiểm tương tự...”
Nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm và cũng tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh tích cực trong thị trường bảo hiểm và đồng thời tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm để thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, Chính Phủ đã có nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 về việc kinh doanh bảo hiểm theo đó hàng loạt công ty bảo hiểm đã được Bộ tài chính cho phép thành lập tạo ra sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nước ta hiện nay đã có sự biến động lớn, sự cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt hơn cả đối với các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn sẽ là một trong những lĩnh vực dịch vụ mà các nhà bảo hiểm trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm.
Khi mới triển khai nghiệp vụ, các công ty bảo hiểm chỉ bảo hiểm cho hậu quả do cháy gây ra. Nhưng do yêu cầu của người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm có thể bảo hiểm cho những thiệt hại gián tiếp gây nên từ những rủi ro được bảo hiểm thông qua hợp đồng bảo hiểm phối hợp.
Chương II
Những vấn đề cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
Nội dung cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
Những khái niêm cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn
Để thấy được các vấn đề của Bảo hiểm hoả hoạn, trước hết cần phải hiểu được một số khái niệm có liên quan theo quy định chung của quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt của bộ tài chính ban hành theo quyết định 142/TCQB ngày 2/5/1991 sau đây:
a. Bảo hiểm hoả hoạn: là một loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các đơn vị xí nghiệp, các nhà máy,... thuộc mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế Quốc dân. Giá trị Bảo hiểm hoả hoạn thường rất lớn, khi rủi ro xảy ra tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là đối với toàn bộ tài sản.
b. Cháy: là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng.
c. Hoả hoạn: là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên dùng gây thiệt hại cho tài sản và người ở xung quanh.
d. Đơn vị rủi ro: là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác (tuy nhiên khoảng cách gần nhất không dưới 12m ).
Đơn vị rủi ro có thể là một hay một nhóm ngôi nhà hoặc kho bãi ngoài trời trong một khu vực không bị tách rời nhau bởi các khoảng trống hoặc các cấu trúc xây dựng, chống cháy nhưng lại tách rời các ngôi nhà khác về không gian.
Ngôi nhà được coi là rời nhau về không gian khi khoảng trống phân cách giữa hai khối nhà ít nhất bằng chiều cao của ngôi nhà cao hơn khoảng cách tối thiểu quy định.
Khoảng cách tối thiểu quy định mà các công ty bảo hiểm thường dùng để triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn như sau:
Giữa các kho bãi ngoài trời có chứa nguyên vật liệu dễ cháy là 20m.
Giữa các ngôi nhà trong đó có chứa hay gia công các vật liệu dễ cháy với các ngôi nhà khác là 15m.
Các đối tượng khác là 10m.
Tường ngăn cách đơn vị rủi ro là cấu trúc xây dựng để phân chia ngôi nhà thành từng đơn vị rủi ro. Do ý nghĩa về mặt kỹ thuật chống cháy và kỹ thuật bảo hiểm đặt ra đối với các loại tường này cao hơn so với tường chống cháy. Các tường ngăn cách này phải là tường chịu cháy cấp F 180A và chịu được 4.000Nm với nhiệt độ lớn hơn 1000 độ C.
e. Tổn thất toàn bộ:
Tổn thất toàn bộ thực tế: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc bị hư hỏng hoàn toàn hoặc số lượng còn nguyên nhưng giá trị không còn gì.
Tổn thất toàn bộ ước tính: là tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng đến mức nếu sửa chữa phục hồi thì chi phí sửa chữa phục hồi bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm.
Đặc điểm của cháy và Bảo hiểm hoả hoạn
Bảo hiểm hoả hoạn thuộc loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng đối với các nhà máy, xí nghiệp khách sạn thuộc mọi thành phần kinh tế, giá trị được bảo hiểm thường rất lớn khi rủi ro xảy ra thì tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ mà có khi là toàn bộ tài sản.
Do đó bảo hiểm hoả hoạn có các đặc điểm sau:
Hoả hoạn là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài ngọn lửa chuyên dùng và gây thiệt hại về tài sản và những người xung quanh.
Hoả hoạn lan rất nhanh, hoả hoạn thực chất là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát sáng.
Hoả hoạn có thể kiểm soát được nếu con người có biện pháp đề phòng và nhanh chóng xử lý bằng các biện pháp hữu hiệu khác nhau. Chính vì vậy mà công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong nghiệp vụ này rất quan trọng.
Các loại tài sản khác nhau có thể xảy ra hoả hoạn ở mức độ khác nhau và thời điểm khác nhau.
Hoạt động của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn mang tính kỹ thuạt cao, đặc điểm này được thể hiện rõ qua cách xác định và phân chia các đơn vị rủi ro, cách tính phí công tác giám định, đề phòng hạn chế tổn thất.
Vì bảo hiểm hoả hoạn có các đặc điểm như trên nên việc các đơn vị sản xuất kinh doanh tham gia bảo hiểm là tất yếu, có như vậy mới ổn định được kinh doanh và bảo toàn đồng vốn.
Bảo hiểm hoả hoạn chính là sự bảo trợ cho những tổn thất trực tiếp do hoả hoạn gây nên. Ngoài ra trong thực tế khi xảy ra hoả hoạn có thể phát sinh các tổn thất gián tiếp, các tổn thất gây ra cho tài sản của người thứ ba và thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm như thiệt hại về kinh doanh, thiệt hại gây ra cho người thứ ba...
Đối tượng của Bảo hiểm hoả hoạn
Đối tượng của Bảo hiểm hoả hoạn bao gồm những tài sản có khả năng gặp rủi ro cháy, thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội.
Các công ty bảo hiểm thường chia các đối tượng của bảo hiểm hoả hoạn ra như sau:
Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai).
Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Sản xuất vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho.
Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm và thành phẩm trên dây chuyền sản xuất.
Nhà cửa dân dụng
Các nhà hàng, khách sạn
Chợ và siêu thị
Các hệ thống kho tàng
Tài sản của hai ngành nông nghiệp và lâm nghiệp. Đối với đối tượng này thường các công ty bảo hiểm rất hiểm khi nhận bảo hiểm vì rất khó có thể quản lý và kiểm soát rủi ro.
Việc phân loại như trên giúp cho các công ty bảo hiểm đánh giá và quản lý rủi ro được chính xác hơn, tính phí bảo hiểm chính xác và phù hợp hơn. đặc biệt giúp cho chủ tài sản và các công ty bảo hiểm xác định phương án phòng cháy chữa cháy có hiệu quả.
Những rủi ro được Bảo hiểm hoả hoạn và những rủi ro loại trừ
4.1. Rủi ro được bảo hiểm
Rủi ro là những sự cố không chắc chắn xảy ra nhưng có thể gây hư hỏng, thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm. Trong Bảo hiểm hoả hoạn, rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
Rủi ro cơ bản
Rủi ro cơ bản bao gồm: cháy, nổ, sét.
Cháy: được quy định có gây ra tổn thất, có ngọn lửa, có sự tự phá huỷ nhưng ngoại trừ nguyên nhân gây ra cháy là động đất, núi lửa phun hoặc các biến động khác của thiên nhiên và các thiệt hại gây ra do tài sản tự toả nhiệt hoặc chịu tác động của quá trình xử lý có dùng nhiệt. Ngoài ra, bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do hậu quả của việc đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch ruộng đồng, đất đai dù là ngẫu nhiên gây ra cũng không được bồi thường.
Sét: chỉ có tác động của tia chớp và tài sản được bảo hiểm. Chỉ có những thiệt hại trực tiếp do tia sét gây ra hoặc làm biến dạng hoặc gây ra hoả hoạn cho tài sản đó mới được bồi thường.
Nổ: là hiên tượng cháy xảy ra cực nhanh, tạo ra hoặc giải phóng một áp lực lớn kèm theo một tiếng động mạnh, phát sinh bởi sự giản nở nhanh và mạnh của các chất lỏng, chất rắn và chất khí. Các rủi ro này chỉ được bảo hiểm trong trường hợp nổ nồi hơi và hơi đốt phục vụ sinh hoạt.
Ngoài ra, còn các thiệt hại vật chất không phải do cháy trực tiếp gây nên như:
+ Thiệt hại tài sản được bảo hiểm do phương tiện hoặc do biện pháp cứu cháy gây ra như đổ tường hoặc rào chắn do đội cứu hoả hoặc các phương tiện của họ gây ra trong quá trình chữa cháy.
+ Thiệt hại tài sản do mất cắp trong khi hoả hoạn mà người bảo hiểm không minh chứng được là mất cắp.
Những rủi ro này được gọi là rủi ro mở rộng không tính phí.
Rủi ro phụ
Bên cạnh các rủi ro cơ bản, còn có các rủi ro đặc biệt, độc lập không nằm trong rủi ro cháy nhưng có thể lựa chọn để bảo hiểm cùng với Bảo hiểm hoả hoạn nhờ việc mở rộng đối tượng bảo hiểm. Chỉ có bảo hiểm cho những rủi ro cơ bản mới có thể bảo hiểm cho những rủi ro phụ. Những rủi ro phụ bao gồm:
Máy bay và các phương tiện hàng không hoặc các tài sản của các phương tiện đó rơi.
Động đất núi lửa phun bao gồm cả lụt và nước biển tràn do hậu quả của động đất và núi lửa phun.
Giông bão, lũ lụt, mưa đá.
Vỡ hay tràn nước từ bể chứa nước, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn nước nhưng loại trừ tài sản bị phá huỷ hay hư hại do nước chảy, rò rỉ từ hệ thống thiết bị phòng cháy chữa cháy tự động.
Gây rối, đình công, bãi công, sa thải.
Những rủi ro không được bảo hiểm
Đây là loại rủi ro phải được cụ thể hoá trong văn bản, hợp đồng vì phần loại trừ thường hay gây ra tranh chấp giữa người tham gia với người bảo hiểm do liên quan đến quyền lợi của mỗi bên. Những rủi ro loại trừ được các công ty bảo hiểm quy định như sau:
Các thiệt hai do nổi loạn, lao động dân sự, quần chúng nổi dậy, bãi công, sa thải công nhân viên chức, chiến tranh xâm lược, các hành động thù địch của nước ngoài, chiến sự nổi loạn, nội chiến khởi nghĩa, cách mạng binh biến, bạo động, đảo chính, khủng bố...
Những rủi ro do hoạt động cố ý hoặc đồng loã của người được bảo hiểm.
Bất kỳ tổn thất nào trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan đến phóng xạ và các tính chất thuộc phóng xạ.
Những thiệt hại về tiền bạc, kim loại quý, đá quý, chứng khoán, thư bảo lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo sổ sách kinh doanh, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế... trừ khi được xác định cụ thể là chúng được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm hoả hoạn.
Những tổn thất hàng hoá nhận uỷ thác hay ký gửi trừ khi những hàng hoá này được xác nhận trong Giấy chứng nhận là được bảo hiểm và nộp thêm phí theo tỷ lệ quy định.
Những thiệt hại về người, động vật hay thực vật sống.
Những thiệt hại có tính chất hậu quả xảy ra sau hoả hoạn dưới bất kỳ hình thức nào, cụ thể: gián đoạn kinh doanh, mất thu nhập, ô nhiễm môi trường.
Những thiệt hại do chất nổ trừ xăng dầu.
Những tài sản bị mất cắp, bị cướp trong khi xảy ra hoả hoạn.
Những thiệt hại gây ra cho người thứ ba.
Những thiệt hại thuộc phạm vi mức miễn thường. Mức miễn thường được các công ty bảo hiểm trên thế giới quy định như sau: mức miễn bồi thường bắt buộc là 2% so với tiền bảo hiểm nhưng tối thiểu không dưới 1000$/vụ, tối đa không quá 2000$/vụ.
Tuy vậy, những thiệt hại về thuê nhà cũng được bảo hiểm hoả hoạn bồi thường nhưng phải có giấy tờ hợp lệ.
Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Để xác định được số tiền bảo hiểm trước hết cần phải xác định được giá trị bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là giá trị của tài sản cần được bảo hiểm. Giá trị này có thể là giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới của tài sản.
Giá trị mua mới của tài sản được xác định tại thời điểm khi tài sản đó bắt đầu đưa vào sử dụng, hoạt động.
Giá trị thực tế của tài sản bảo hiểm là giá trị được xác định, đánh giá tại thời điểm mua bảo hiểm.
Đối tượng bảo hiểm hoả hoạn rất rộng và phức tạp, mỗi đối tượng tại một thời điểm có giá trị khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn tài sản được bảo hiểm hoả hoạn có giá trị rất lớn như: Nhà cửa, công trình, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hoá vật tư trong kho, thiết bị văn phòng, các trạm xăng dầu, cây xăng ...cho nên khi xác đinh giá trị bảo hiểm phải tuỳ thuộc vào từng loại tài sản, thông thường người ta sử dụng các loại giá trị sau đây:
Giá trị mới (giá trị ban đầu): là giá trị của tài sản tại thời điểm mua mới hoặc tại thời điểm bắt đầu đem vào sử dụng . Giá trị mới bao gồm: nguyên giá + chi phí vận chuyển + chi phí lắp đặt chạy thử.
Giá trị thực tế: giá trị thực tế của tài sản được đánh giá tại thời điểm người sử dụng, người sở hữu tham gia tham gia cho tài sản đó.
Tuy nhiên, trong bảo hiểm hoả hoạn thường chỉ bảo hiểm theo giá trị còn lại.
Khi tính giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm hoả hoạn có nhiều loại tài sản không thực hiện được bởi vì nó là vô giá, ví dụ như: công trình kiến trúc, viện bảo tàng, vật kỷ niệm, vật chứng lịch sử... Đặc biệt có một số loại tài sản là hàng hoá lưu trử trong các kho biến động liên tục theo thời gian.
Tuy vậy, có thể xác định giá trị của một số tài sản như sau:
Giá trị bảo hiểm của ngôi nhà ( nhà xưởng, văn phòng, nhà ở) được xác định theo giá trị mới hoặc giá trị còn lại.
+ Giá trị mới: là giá trị mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế để xây dựng ngôi nhà đó.
+ Giá trị còn lại: là giá trị mới trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời gian.
Giá trị bảo hiểm của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác được xác định trên cơ sở mua mới ( bao gồm cả chi phí vân chuyển lắp đặt nếu có) hoặc giá trị còn lại của máy móc thiêt bị hoặc tài sản cố định đó.
Thông thường các công ty bảo hiểm sử dụng giá trị còn lại khi máy móc thiêt bị hoặc tài sản cố định được bảo hiểm đã đem sử dụng trong một thời gian nhất định.
Giá trị bảo hiểm của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất.
Giá trị bảo hiểm của hàng hoá mua về đang để trong kho, cửa hàng được xác định theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển.
5.2. Số tiền bảo hiểm
Trong hoạt động công ty bảo hiểm chỉ bồi thường bằng tiền mà không bồi thường bằng hiện vật. Vì vậy, đối với mỗi đơn vị bảo hiểm đều phải ghi số tiền bảo hiểm,trong mỗi hợp đồng bảo hiểm cũng không thể không đề cập đến số tiền bảo hiểm, đây là yếu tố cơ bản để tính phí và là cơ._. sở cho việc bồi thường của người bảo hiểm khi xẩy ra tổn thất.
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Vì vậy, xác định chính xác số tiền bảo hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cơ sở xác định số tiền bảo hiểm là giá trị bảo hiểm.
Nói chung, số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và người tham gia bảo bảo hiểm thoả thuận với nhau. Tuy nhiên, phải dựa trên cơ sở kiểm tra đối tượng bảo hiểm của người được bảo hiểm và các giấy tờ sổ sách có liên quan.
Số tiền bảo hiểm có thể cao thấp khác nhau tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, số tiền bảo hiểm có thể cao hơn hoặc bằng hoặc thấp hơn giá trị tài sản nhưng về nguyên tắc, khi xác định số tiền bảo hiểm phải căn cứ vào giá trị bảo hiểm. Tuy vậy, các công ty bảo hiểm thường quy định: số tiền bảo hiểm không được vượt quá 10% giá trị bảo hiểm. Còn nếu bảo hiểm theo sự thoả thuận thì phải ghi rõ trong hợp đồng số tiền bảo hiểm bằng bao nhiêu % giá trị của tài sản để khi bồi thường tổn thất bộ phận thì áp dụng nguyên tắc bồi thường theo tỷ lệ.
Trong bảo hiểm hoả hoạn cần lưu ý rằng khi nhận bảo hiểm thì không chấp nhận theo kiểu chọn điểm, không chấp nhận chỉ bảo hiểm cho những bộ phận tài sản, những công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất vì điều đó thương gây bất lợi cho người bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường bảo hiểm toàn bộ giá trị tài sản song cũng có thể bảo hiểm 50% giá trị tài sản đó.
Trong nền kinh tế thị trường, quy mô sản xuất kinh doanh có xu hướng ngày càng mở rộng do đó số lượng hàng và giá trị tài sản cũng được tăng lên. Mặt khác, tài sản của mỗi nhóm thường xuyên biến động hoặc có những loại tài sản rất khó xác định giá trị. Như vậy, việc xác định giá trị bảo hiểm trong trường hợp này rất phức tạp. Vì vậy, khi xác định số tiền bảo hiểm có thể sử dụng hai chỉ tiêu đó là: bảo hiểm theo giá trị trung bình hoặc bảo hiểm theo giá trị tối đa.
Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình: Người được bảo hiểm phải ước tính và thông báo cho người bảo hiểm biết giá trị số hàng hoá trung bình có trong kho, trong cửa hàng. Trong thời gian bảo hiểm giá trị trung bình này được coi là số tiền bảo hiểm.
Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vị bảo hiểm, người bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã được khai báo.
Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa: thì người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho người bảo hiểm biết giá trị số lượng hàng hoá tối đa có thể đạt vào một thời điểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa nhưng chỉ thu trước 75% . Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vị bảo hiểm, người bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị tối đa đã khai báo. Đầu mỗi tháng, mỗi quý( tuỳ theo thoả thuận của mỗi bên), người được bảo hiểm thông báo cho người bảo hiểm số hàng hoá tối đa thực có trong tháng, trong quý trước đó để người bảo hiểm tiện theo giỏi giám sát. Cuối thời hạn bảo hiểm trên cơ sở các giá trị đã được thông báo, người bảo hiểm tính giá trị số hàng hoá tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí bảo hiểm tính được trên cơ sở số giá trị tối đa bình quân của cả thời hạn bảo hiểm lớn hơn số phí đã nộp thì người được bảo hiểm trả thêm cho người bảo hiểm số phí còn thiếu.
Trong thời gian bảo hiểm, tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm được người bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả( trong trường hợp này số tiền bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm).
Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi người bảo hiểm phải biết giá trị hàng hoá tham gia bảo hiểm, theo giỏi chặt chẽ số hàng hoá đó trong suốt thời gian bảo hiểm. Những tài sản có giá trị lớn người bảo hiểm khó có thể tái bảo hiểm vì tính phí phức tạp và khó khăn.
Ngược lại, bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản dể theo dõi đồng thời có lợi về tính phí bảo hiểm. Nếu một loại hàng hoá được bảo hiểm giá trị ít biến động trên thị trường thì áp dụng phương pháp này rất thuận tiện.
Nếu tham gia bảo hiểm đã nhiều năm, thì việc xác định giá trị tối đa căn cứ vào số liệu của nhiều năm trước đó. Việc người được bảo hiểm tham gia với số tiền nào là do hai bên thoả thuận nhưng tuỳ theo loại tài sản mà người bảo hiểm hướng dẫn cho người tham gia cùng xác định để họ thấy được cách tính toán và tính hợp lý mà mình tham gia, tránh hiện tượng tranh cãi phiền hà.
Như vậy, hai chỉ tiêu trên được thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng. Người tham gia bảo hiểm có thể lưa chọn một trong hai chỉ tiêu làm số tiền bảo hiểm, thế nhưng việc chọn chỉ tiêu nào cũng đều liên quan đến phí bảo hiểm, và người tham gia phải chấp nhận tính phí theo từng chỉ tiêu này. Tuy vậy, các công ty bảo hiểm thường bảo hiểm theo giá trị trung bình, do cách tính đơn giản, ít phải theo dõi, thuận lợi cho việc tính phí và thu phí. Còn bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp trong việc điều chỉnh và thu, trả lại phí ở đầu, cuối tháng, quý, đòi hỏi nhà bảo hiểm phải thường xuyên theo dõi giá trị hàng hoá trong suốt thời gian bảo hiểm. Do vậy người bảo hiểm thường khuyến khích bảo hiểm theo giá trị trung bình.
Cần lưu ý rằng, dù bảo hiểm theo hình thức nào thì số tiền bồi thường cũng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Nếu phải bồi thường làm nhiều lần thì tổng số tiền bồi thường trong tất cả các lần không được vượt quá số tiền bảo hiểm. Mỗi lần bồi thường số tiền bảo hiểm lại giảm đi một ít ngang bằng với số tiền bảo hiểm đã trả. Muốn khôi phục lại số tiền bảo hiểm lên ngang bằng số tiền bảo hiểm ban đầu, người được bảo hiểm phải nộp phí bổ sung tương ứng với số tiền bảo hiểm tăng thêm và tỷ lệ với khoảng thời gian còn lại của bảo hiểm. Nếu người tham gia không khôi phục lại số tiền bảo hiểm thì trong mỗi lần tổn thất sau số tiền bảo hiểm tối đa sẽ không vượt quá số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã trừ đị tất cả các khoản bồi thường đã trả cho đến thời điểm đó.
Nguyên tắc chung, các yếu tố ảnh hưởng và phương pháp tính phí Bảo hiểm hoả hoạn
6.1. Nguyên tắc chung
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp cho cơ qua bảo hiểm để bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả dịch vụ bảo hiểm. Do vậy, việc tính toán mức phí phù hợp với yêu cầu khách hàng, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi là một vấn đề không đơn giản. Trước khi đưa ra mức phí, công ty cần cân nhắc kỷ vì đây là một yếu tố cơ bản của cạch tranh.
Tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm, người được bảo hiểm nhận bảo hiểm theo thời hạn một năm hoặc bảo hiểm ngắn hạn. Sau khi kêt thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp hoặc yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm. Thời hạn nộp phí do người bảo hiểm và người được bảo hiểm thoả thuận.
Theo nguyên tắc, phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở tỷ lệ phí và giá trị bảo hiểm. Phí bảo hiểm hoả hoạn được quy định riêng cho từng loại rủi ro và người được bảo hiểm muốn được bảo hiểm thêm rủi ro phụ thì phải nộp thêm phí theo quy định.
Trong trường hợp huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty bảo hiểm sẽ tính toán hoàn lại phí cho người được bảo hiểm dựa trên khoảng thời gian còn lại của hợp đồng.
6.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định phí bảo hiểm
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí
Khi tính phí bảo hiểm, người bảo hiểm thường dựa trên những khoa học thực tiển và trên cơ sở nguồn số liệu thống kê của từng công ty bảo hiểm, cơ sở của các công ty bảo hiểm lớn có nhiều kinh nghiệm... ngoài ra còn phải xem xét các yếu tố thường xuyên ảnh hưởng đến phí bảo hiểm hoả hoạn.
Việc xác định tỷ lệ phí phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ta không thể áp dụng một tỷ lệ chung cho các loại tài sản có mức độ rủi ro hay khả năng xảy ra hoả hoạn khác nhau. Để tính toán phí bảo hiểm được chính xác ta cần phải xem xét các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến tỷ lệ phí sau:
Loại công trình:
Để phân biệt loại công trình ta phải căn cứ vào các loại vật liệu sử dụng để xây dựng công trình và các bộ phận chủ yếu của công trình đó. Các công trình xây dựng được chia làm ba loại sau:
Loại D (Disscount class): là loại được giảm tối đa 10% phí và đạt các yêu cầu sau:
+ Bộ phận chịu lực: gồm cột chịu lực, xà, dầm, tường chịu lực làm bằng vật liệu không cháy, mái nhà có khả năng chịu lực ít nhất 30 phút.
+ Bộ phận không chịu lực: Gồm tường ngăn cách bên trong và bên ngoài, trần không chịu lực... được xây dựng bằng vật liệu không cháy ( gạch ngói, bê tông xi măng...).
Loại N (New tial class): Loại này giữ nguyên tỷ lệ phí trong biểu phí. Các công trình loại này không đạt tiêu chuẫn như loại D nhưng ít nhất các bộ phận chịu lực và các cấu kiện phải làm bằng các vật liệu khó cháy.
Loại L ( Loading class): Loại này phải tính thêm 10% phí bảo hiểm và là loại công trình không đạt tiêu chuẫn như hai loại trên.
Các yếu tố làm tăng phí bảo hiểm:
Các yếu tố làm tăng mức độ rủi ro: Đối với các công trình có thiết bị phụ trợ có thể làm tăng thêm khả năng xảy ra rủi ro tổn thất. Ví dụ: dây chuyền sơn trong phân xưỡng sản xuất, thiêt bị sấy khô, chiết xuất, chế biến gỗ, gia công vật liệu nhân tạo... song sẽ không tính thêm phí bảo hiểm nếu các thiết bị đó nằm trong phòng ngăn cách với bên ngoài bằng tường chống cháy và chiếm không quá 10% diện tích đơn vị rủi ro.
Các yếu tố đặc biệt không thuận lợi đối với rủi ro được bảo hiểm như nguồn lửa không được ngăn cách hoàn toàn, có không khí đốt nóng bằng dầu hay khí đốt ở nơi làm việc, có lò sưởi bằng tia hồng ngoại, thiếu các thiết bị phòng cháy chữa cháy thích hợp, có dây chuyền sản xuất tự động nhưng không được trang bị các thiết bị báo cháy đúng tiêu chuẫn, thiết kế không đúng yêu cầu, hoặc công việc sửa chữa không đảm bảo chất lượng. Thiếu trang thiết bị chữa cháy. tăng phí tuỳ theo từng trường hợp cụ thể nhưng tối đa không qua 15%.
Có trung tâm máy tính nhưng không được ngăn cách bằng tường chống cháy, không có hệ thống phòng cháy chữa cháy riêng biệt, tăng phí tối đa là 5%.
Có khả năng bị phá hoại, tăng phí tối đa không quá 5%.
Tổn thất trong quá khứ: Nếu 5 năm trước đó số tiền bồi thường đã vượt quá 150% số phí bảo hiểm thì phải tăng ít nhất 10% phí.
Các yếu tố làm giảm phí bảo hiểm hoả hoạn:
Các nhà bảo hiểm cần quan tâm đến các yếu tố làm giảm mức độ rui ro vì các yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí cơ bản. điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc cạnh tranh trên thị trường giữa các công ty bảo hiểm hiện nay. Các yếu tố đó bao gồm:
Các công trình có các thiết bị phòng cháy báo cháy như hệ thống báo cháy tự động nối trực tiếp với các trạm cứu hoả công cộng, nối trực tiếp với phòng thường trực, đội cứu hoả của xí nghiệp, trạm công an, các bộ phận báo cháy thuộc hệ thống chữa cháy tự động được lắp đặt cố định, giãm phí từ 5% đến 8% phí.
Việc trực kiểm tra canh gác được tiến hành thường xuyên 24/24, cứ 2 giờ/ lần có người đi kiểm tra, liên lạc ngay bằng điện đài hoặc nút báo cháy, giảm 5% phí.
Các phương tiện thiết bị chữa cháy: chỉ giãm phí đối với các phần công trình có các thiết bị và phương tiện sau:
+ Có hệ thống chữa cháy tự động Sprinkler giảm tối đa 35%
+ Có hệ thống dập cháy bằng CO2 thủ công giảm tối đa 10%, tự động giảm tối đa 20%
+ Có hệ thống phun nước bằng tay giảm tối đa 10% phí, tự động giảm tối đa 20% phí.
+ Có hệ thống chữa cháy HaLon tự động giảm tối đa 25% phí.
+ Có hệ thống chữa cháy bằng bọt, thủ công giảm tối đa 10% phí, tự động giảm tối đa 20% phí.
+ Có hệ thống tự động dập tia, tàn lửa giảm tối đa 15% phí.
+ Có hệ thống phun bột, thủ công giảm tối đa 10%, tự động giảm tối đa 20% phí.
+ Có hệ thống thoát khói, nhiệt thủ công giảm tối đa 3%, tự động giảm tối đa 5% phí.
+ Có đội cứu hoả và ô tô chữa cháy chuyên nghiệp giảm tối đa 20%, bán chuyên nghiệp giảm tối đa 10% phí.
+ Gàn đội cứu hoả công cộng, xe Ô tô cứu hoả có thể đến trong 10 phút và ôtô có thể dễ dàng tiếp cận, giảm tối đạ 5% phí.
Mức miễn thường: miễn giảm bồi thường là một hình thức từ chối bồi thường trên cơ sở một số tiền theo chỉ định theo tỷ lệ % của tổng giá trị bồi thường. Trong bảo hiểm hoả hoạn mức miễn thường bắt buộc là 0.2% số tiền bảo hiểm nhưng tối thiểu không dưới 100$ và tối đa 2000$/ một vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường không giảm phí. Tuy vậy, nếu người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn mức miễn thường cao hơn mức miễn thường bắt buộc thì có thể giảm phí theo tỷ lệ nhưng tối đa giảm 40%.
Tăng, giảm phí theo tỷ lệ tổn thất trong quá khứ: thông qua số liệu thống kê về tỷ lệ bồi thường trên tổng số phí thu được trong 5 năm gần nhất, nếu tỷ lệ này nhỏ thì người tham gia sẽ được giảm phí, ngược lại nếu lớn hơn thí phải tăng phí. Thông thường trước khi nhận bảo hiểm cho khách hàng, công ty bảo hiểm sẽ cử cán bộ của mình hoặc các cộng tác viên đến cơ sở nắm tình hình, nghiên cứu khả năng xảy ra hoả hoạn, xem xét các yếu tố làm tăng phí hoặc giảm phí trên cơ sở đó để xác định một tỷ lệ phí thích hợp.
Thông thường, các công ty bảo hiểm xét số tiền trong 5 năm gần nhất nếu:
Dưới 20% thì giảm 15%
Dưới 50% thì giảm 10%
Quá 150% thì tăng 10%
Tăng, giảm phí theo bậc chịu lửa của cấu kiện xây dựng
Loại D là loại khó bắt lửa nhất và chịu lửa tôt như thép, đá... Do đó, tỷ lệ phí có thể giảm. thông thường giảm 10 % so với mức trung bình.
Loại N là loại vật liệu trung gian vật liệu mang tính chất hỗn hợp cho nên loại này tỷ lệ phí không tăng cũng không giảm.
Loại L là loại vật liệu dể bắt lửa , do đó phải tăng tỷ lệ phí, thông thường tăng 10% so với mức trung bình.
b. Các yếu tố ảnh hưởng đến ấn định mức phí
Khi tính phí bảo hiểm, người bảo hiểm thường dựa vào các cơ sở thực tiển, khoa học tính toán như cơ sở thống kê của từng công ty bảo hiểm, cơ sở tính phí của nhiều công ty bảo hiểm lớn có nhiều kinh nghiệm. Thông thường, sau khi xác định tỷ lệ phí, các công ty thường ấn định mức phí bảo hiểm một năm mà người được bảo hiểm phải đóng và được xác định theo công thức:
Số phí bảo hiểm một năm = Số tiền bảo hiểm x Tỷ lệ phí.
Người được bảo hiểm tuỳ vào tình hình tài chính của mình mà có thể đóng phí bảo hiểm một lần hoặc hai lần trong năm. Phí bảo hiểm hoả hoạn thường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
Vật liệu xây dựng:
Tuỳ theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu được lâu dài hay không đối với sức nóng mà người ta chia ra thành 3 loại như sau:
+ Vật liệu khó bắt lửa, vật liệu nặng và có khả năng chịu lửa tốt như bê tông, cốt thép, xi măng…
+ Vật liệu trung gian: là vật liệu hỗn hợp chứa nhiều chất hoá học trộn lẫn với vật liệu thiên nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng loại D.
+ Vật liệu nhẹ: là loại vật liệu dể bắt lửa và không có khả năng chịu lửa.
ảnh hưởng của các tầng nhà: yếu tố này bao gồm cầu thang thiết kế cửa sổ, hướng nhà, chiều cao mỗi tầng.
Các công cụ phòng cháy chữa cháy: đây là các yếu tố rất cơ bản, các yếu tố này phụ thuộc vào: các phương án phòng cháy chửa cháy của các cơ quan đơn vị, koảng cách của các đối tượng bảo hiểm đến đội phòng cháy chửa cháy gần nhất, nguồn nước, các trang thiết bị phòng cháy chữa cháy
Khoảng cách phân chia và tường chống cháy. Khoảng cách phân chia lớn có tường chống cháy, thì phí sẻ giảm. Trong một ngôi nhà cũng có nhiều đơn vị rủi ro khác nhau và mức độ bắt lửa của mỗi đơn vị rủi ro cũng khác nhau. Tuy nhiên, các đơn vị rủi ro càng gần tường phân cách ( càng gần nhau) thì mức độ rủi ro cũng tăng lên làm cho phí bảo hiểm cũng có thể tăng.
Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hoá, cách thức xếp đặt tuỳ tường loại hàng hoá, bao gói hay cách thức xếp đặt hàng hoá mà phí bảo hiểm phải căn cứ vào đó mà xác định.
Phương pháp tính phí bảo hiểm hoả hoạn
Phí bảo hiểm hoả hoạn
Phí bảo hiểm hoả hoạn là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp cho công ty bảo hiểm để công ty bảo hiểm gánh chịu cho những rủi ro có thể gặp phải mà mình tham gia bảo hiểm cho nó. Vậy phí bảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phí bảo hiểm được xem là một công cụ cạnh tranh của công ty bảo hiểm. Do đó, tính toán mức phí bảo hiểm phù hợp với yêu cầu của khách hàng và đảm bảo hoạt động kinh doanh của công ty là rất quan trọng và không đơn giản. Bảo hiểm hoả hoạn có đối tượng là tài sản rất đa dạng về chủng loại, giá trị và mức độ rủi ro khác nhau đòi hỏi phí bảo hiểm hoả hoạn cũng khác nhau và bao gồm hai phần đó là phí thuần và phụ phí như các nghiệp vụ khác.
Phí thuần là cơ sở hình thành nên quỷ bồi thường để chi trả cho người được hưởng bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro tổn thất được bảo hiểm. Phí thuần là bộ phận quan trọng nhất của phí bảo hiểm thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa người được bảo hiểm với công ty bảo hiểm. Mức phí thuần được tính dựa vào xác suất rủi ro. Xác suất rủi ro này được xác định như sau:
X = t/T
Trong đó: X: Xác suất rủi ro
T: Tổng số đơn vị rủi ro
t: Số vụ tai nạn
Mức phí thuần được tính:
f = X x Sbt
Trong đó: f: Phí thuần
Sbt: Số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ tổn thất
Để đảm bảo hoạt động kinh kinh doanh của bảo hiểm, công ty bảo hiểm thường tính thêm phần phụ phí vào phí bảo hiểm. Phần phụ phí trong bảo hiểm hoả hoạn giúp cho các công ty bảo hiểm tính toán bao quát được các chi phí có liên quan như: chi phí quản lý, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, hoa hồng cho cộng tác viên, môi giới, đại lý, dự trử tổn thất lớn, thuế doanh thu và các khoản chi khác. Thông thường phụ phí chiếm khoảng 30% tổng mức phí thu. Phần phụ phí được tính như sau:
d = K x f
Trong đó: d: phụ phí
K: Tỷ lệ phụ phí
Vì vậy, để thực hiện cạnh tranh các công ty bảo hiểm chỉ có thể điều chỉnh các bộ phận trong phụ phí
Như vậy, phí bảo hiểm hoả hoạn (F) được xác định theo công thức:
F = f + d
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến biểu phí ( như đã trình bày ở trên) vì bảo hiểm hoả hoạn đa dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Nếu một công ty có hệ thống phòng cháy chữa cháy tốt không thể đóng một mức phí giống như một công ty khác có hệ thống phòng cháy chữa cháy kém. Bởi vậy, không thể áp dụng một biểu phí cố định cho các công ty có mức độ rủi ro khác nhau và việc phòng cháy chữa cháy khác nhau. Thông thường, các công ty bảo hiểm áp dụng các tỷ lệ phí khác nhau cho tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ sau đó điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng giảm phí. Đối với nghiệp vụ này thông thường phí nộp một lần sau khi ký kết hợp đồng và khi đó hợp đồng mới có hiệu lực. Tuy nhiên tuỳ vào mức độ, khả năng tài chính của người tham gia mà có thể thoả thuận nộp làm nhiều lần. Thông thường, hiệu lực hợp đồng bắt đầu khi người tham gia bảo hiểm nộp phí và kết thúc hợp đồng lúc 16 giờ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm nếu không có sự cố gì khác. tuỳ theo yêu cầu của người tham gia bảo hiểm mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm với thời hạn một năm, hoặc bảo hiểm ngắn hạn( tháng, quý).
Phương pháp xác định phí bảo hiểm hoả hoạn
Phí bảo hiểm hoả hoạn được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của một khoảng thời gian trước, thường từ 3 đến 5 năm. Mức phí đóng được xác định trên cơ sở tỷ lệ phí và số tiền bảo hiểm.
Mức phí đóng = Số tiền bảo hiểm x Tỷ lệ phí bảo hiểm
Có hai phương pháp xác định tỷ lệ phí đó là : Theo phân loại và theo danh mục.
Xác định tỷ lệ phí theo phân loại
Đây là cách kết hợp các đơn vị có thể so sánh với nhau cùng một loại, sau đó tính tỷ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của các loại đó. Phương pháp này phù hợp với những tài sản tương đối đồng nhất với nhau như: Nhà ở của dân cư, các nhà thờ… Nhưng khi xác định tỷ lệ phí theo phân loại cần phải xem xét kỹ các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí như:
Vật liệu xây dựng làm bằng gì?
Khả năng phòng cháy chữa cháy
Người sử dụng
Những vật bố trí bên ngoài, trang trí nội thất…
Xác định phí theo danh mục:
Cách xác định này bao gồm các bước như sau:
Bước 1: Rà soát lại các danh mục tài sản tham gia Bảo hiểm hoả hoạn rồi phân từng loại tài sản theo danh mục khác nhau, bởi vì mỗi loại tài sản có khả năng cháy, nổ khác nhau.
Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí được công ty bảo hiểm lập sẳn.
Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí đã chọn theo các yếu tố tăng, giảm cho phù hợp với từng loại tài sản tham gia bảo hiểm.
Các bước triển khai Bảo hiểm hoả hoạn
Công tác khai thác
Đây là bước đầu tiên và không thể thiếu trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công tác khai thác đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của một công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết mua bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó, mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn mà chưa có tập quán ở nước ta.
. Tuyên truyền quảng cáo và tiếp cận khách hàng
Trong những năm đầu triển khai nghiệp vụ này, số đơn vị tham gia còn rất ít mặc dù có một số công ty có khối lượng tài sản lớn nhưng họ vẫn không tham gia bảo hiểm hoả hoạn. Bởi vì nghiệp vụ này mới được triển khai trên địa bàn Hà Nội, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được đầy đủ để đưa thông tin đến với khách hàng. Giai đoạn đầu mang tính thử nghiệm, thăm dò nên chưa được triển khai trên diện rộng của địa bàn, chủ yếu tập trung vào khách hàng có quan hệ thường xuyên, truyền thống với công ty. Cán bộ làm công tác Bảo hiểm hoả hoạn chưa có kinh nghiệm nhiều và chuyên môn chưa sâu nên chưa nắm bắt nhanh nhạy với các đầu mối khách hàng. Mặt khác, do sự đổi mới cơ chế quản lý, các doanh nghiệp phải tự hạch toán, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để nâng cao chất lượng cạnh tranh trên thị trường. Nhưng do duy trì quá lâu cơ chế cũ vì vậy khi chuyển sang cơ chế mới, các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn, lúng túng thua lỗ, không có khả năng thanh toán. Họ chưa thấy được việc bảo toàn đồng vốn tốt nhất là tham gia bảo hiểm. Vì thế, số đơn vị tham gia bảo hiểm còn thấp.
Mấy năm gần đây, hoạt động khai thác của công ty Bảo hiểm Hà Nội cũng đã từng bước phát triển đáng kể. Hàng năm, công ty kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như: Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, đài truyền hình, truyền thanh, báo chí, các bộ ngành để tuyên truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn. Qua đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm hoả hoạn. Bên cạnh đó, công ty cũng thường xuyên cử cán bộ xuống tận các xí nghiêp, các cơ sở kinh doanh để tuyên truyền quảng cáo đồng thời giải thích cho họ những vướng mắc, chưa hiểu rõ cũng như tác dụng của bảo hiểm hoả hoạn. Tạo cho họ những nhận thức đúng đắn, lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm hoả hoạn.
Qua việc tuyên truyền quảng cáo và tiếp cận khách hàng của công ty Bảo hiểm Hà Nội trong mấy năm gần đây, đã làm cho doanh thu của nghiệp vụ này tăng lên đáng kể, đóng góp một phần không nhỏ vào tổng doanh thu của công ty.
1.2. Giấy chứng nhậnbảo hiểm
Đối với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, sau khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm công ty bảo hiểm cấp cho người tham gia Giấy chứng nhận bảo hiểm sau khi các bên đã thoả thuận và chấp nhận mức phí bảo hiểm cũng như làm các thủ tục khác. Giấy chứng nhận bảo hiểm bao gồm các phần sau:
+ Số Đơn bảo hiểm
+ Tên và địa chỉ của người được bảo hiểm
+ Những rủi ro được bảo hiểm
+ Tài sản được bảo hiểm
+ Tổng giá trị tài sản
+ Ngành nghề sản xuất kinh doanh
+ Số tiền bảo hiểm
+ Chi phí dọn dẹp hiện trường (nếu có)
+ Mức miễn thường
+ Thời hạn bảo hiểm
+ Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường, tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm. Vì vậy, kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, số tiền bảo hiểm của từng loại đó.
1.3. Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu cầu bảo hiểm . Công tác đánh giá rủi ro nhằm mục đích đánh giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối tượng bảo hiểm để công ty bảo hiểm xem xét có nên nhận bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm này không, nếu nhận thì công tác đề phòng và hạn chế tổn thất như thế nào. Cũng qua công tác đánh giá rủi ro công ty bảo hiểm ấn định một tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp và tương ứng với các rủi ro mà Công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đánh giá rủi ro, thông thường khi khách hàng gửi Giấy yêu cầu bảo hiểm thì Công ty bảo hiểm gửi lại cho khách hàng một Bản câu hỏi nhằm mục đích điều tra các rủi ro. Qua phần trả lời câu hỏi của khách hàng trong Bản câu hỏi công ty có thể đánh giá được phần nào về đối tượng bảo hiểm như: Bậc chịu lửa của công trình, các thiết bị phòng cháy chữa cháy được trang bi như thế nào, có đội cứu hoả hay không, hạng sản xuất, loại hình kinh doanh, mức độ nguy hiểm với các tài sản nằm ở trong kho, cửa hàng, từ đó xác định được mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để việc đánh giá rủi ro được chính xác trung thực hơn ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời câu hỏi trong Bản câu hỏi, cùng cộng tác với cảnh sát phòng cháy chữa cháy đánh giá thực tế về công tác phòng cháy chữa cháy, phương tiện chuyên môn. Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuận với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
1.4. Bổ sung, sửa đổi tài sản bảo hiểm
Sau khi công ty đã cấp Giấy chứng nhậnbảo hiểm cho khách hàng hoặc đã bảo hiểm được một thời gian nhưng vì một lý do nào đó mà khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được bảo hiểm như: giá trị bảo hiểm, tỷ lệ phí, phí bảo hiểm… Công ty cần phải xem xét kỹ yêu cầu thay đổi của khách hàng và các yếu tố có liên quan để điều chỉnh cho phù hợp, thoả mãn được mong muốn của khách hàng nhưng phải đảm bảo hoạt động có lãi cho công ty. Nếu sau khi xem xét Công ty đồng ý sửa đổi, bổ sung cho khách hàng thì phải lập Bản bổ sung sửa đổi. Bản bổ sung sửa đổi cũng phải lập thành bốn bản như khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm và trao cho các bộ phận có liên quan.
1.5. Theo dõi tình hình thu phí
Một bước trong quá trình khai thác mà cán bộ bảo hiểm cần chú ý đó là theo dõi tình hình thu phí bảo hiểm. Sau khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cán bộ khai thác phối hợp với bộ phận kế toán tài vụ để theo dõi thu phí bảo hiểm.
Để công tác khai thác bảo hiểm hoả hoạn hoạt động tốt cán bộ bảo hiểm cần phải định kỳ đến thăm khách hàng để theo dõi được đối tượng bảo hiểm, kiểm tra và kiến nghị những việc cần làm như tăng cường công tác phòng cháy chữa cháy. Cán bộ bảo hiểm cũng phải theo dõi, bám sát khách hàng để nhắc nhở họ tái tục hợp đồng bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp kết thúc.
1.6. Hoa hồng
Hoa hồng là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với phí bảo hiểm. Khoản Hoa hồng này công ty bảo hiểm trả cho những người trực tiếp khai thác bảo hiểm, đại lý, môi giới cũng như đội ngũ công tác viên nhằm động viên họ nhiệt tình công tác, thu hút thêm khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Thông thường khoản Hoa hồng này chiếm 5% so với phí bảo hiểm.
Giám định và bồi thường tổn thất
. Giám định tổn thất
Giám định tổn thất trong bảo hiểm hoả hoạn là cơ sở xác định chính xác số tiền bồi thường. Đây là khâu vô cùng phức tạp và quan trọng đòi hỏi phải có các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm nghề nghiệp cao. Khi tổn thất xảy ra, người tham gia bảo hiểm phải kịp thời thông báo tới người bảo hiểm bằng văn bản, điện thoại, điện tín hoặc fax, thông báo phải đảm bảo được ba nội dung cơ bản sau:
Địa điểm và thời gian xảy ra tổn thất.
Đối tượng thiệt hại.
Dự đoán nguyên nhân xảy ra tổn thất.
Sau khi nhận được thông báo, người bảo hiểm cử ngay nhân viên có trách nhiệm đến ngay hiện trường làm công tác giám định. Khi giám định cần phải làm rõ các vấn đề sau:
Thời điểm xảy ra hoả hoạn và kết thúc hoả hoạn.
Nguyên nhân xảy ra hoả hoạn.
Thống kê toàn bộ số tài sản bị thiệt hại.
Lời khai của các nhân chứng
Các công tác phòng cháy chữa cháy và ngăn ngừa thiệt hại khi hoả hoạn xảy ra sau đó lập biên bản giám định có đầy đủ chữ ký của các bên như: Công an, Cảnh sát chữa cháy, Thuế vụ, Chính quyền sở tại, Kiểm toán. Căn cứ vào biên bản giám địng này người bảo hiểm dự trù số tiền bồi thường một lần hay nhiều lần cho người tham gia bảo hiểm.
Thông thương, công tác giám định được chia thành các bước như sau:
Bước 1: Sau khi nhận được thông báo xảy ra thiệt hại, công ty báo hiểm chọn và cử nhân viên giám định có trách nhiệm, có trình độ, kinh nghiệm đúng đối tượng và nhiệm vụ đến ngay hiện trường làm công tác giám định và lập biên bản giám định.
Bước 2: Đến hiện trường, nơi xảy ra hoả hoạn để giám định. Bước này cần phải thực hiện các công việc như sau:
Xác định thời gian xảy ra tổn thất.
Địa điểm xảy ra tổn thất có gì bị xáo trộn, đặc biệt không?
Tìm ra nguyên nhân gây tổn thất. Đây là công việc khó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các lực lượng như: Công an, Đội cứu hoả, Chính quyền sở tại.
Thu thập thêm một số thông tin liên quan đến vụ hoả hoạn, nếu có chứng cứ càng tốt.
Ngoài ra, giám định viên còn phải phán đoán thời gian, nguyên nhân hoả hoạn và những vấn đề có liên quan để giúp quá trình điều tra được nhanh chóng và chính xác hơn.
Bước 3: Tính toán mức độ thiệt hại trong từng đơn vị rủi ro và tất cả các đơn vị rủi ro được bảo hiểm. Khi tính toán xong phải xin ý kiến của lãnh đạo công ty để chuẫn bị bàn bạc thống nhất với người tham gia bảo hiểm và cơ quan chức năng có liên quan.
Bước 4: Sau khi thoả thuận giữa các bên đẫ xác định được mức độ thiệt hại thực tế, nguyên nhân gây ra thiệt hại, thời điểm xảy ra hoả hoạn, thì giám định viên lập biên bản giám định. Biên bản này phải có đầy đủ chử ký của các bên. Căn cứ vào biên bản giám định, công ty bảo hiểm xét bồi thường cho người tham gia.
. Công tác bồi thường
Bồi thường là trách nhiệm của người bảo hiểm khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm và đây cũng chính là quyền lợi của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm mong muốn được bồi thường nhanh chóng để khắc phục rủi ro tổn thất khôi phục kinh doanh của mình. Bồi thường cũng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm do đó người bảo hiểm muốn cạnh tra._.ày thông thường số đơn bảo hiểm được cấp qua các năm là do khách hàng tự yêu cầu sau khi họ đã tham gia bảo hiểm cháy. Do đó, số lượng tham gia vẫn còn quá ít. Điều đó có thể thấy được qua bảng số liệu sau
Bảng 8: Kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội thời gian từ 1996-2000
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
1996
1997
1998
1999
2000
1.Số đơn vị tham gia bảo hiểm
-Lượng tăng(giảm) tuyệt đối
-Tỷ lệ tăng
Đơn vị
Đơn vị
%
8
-
-
12
4
150
40
28
333.33
62
22
155
89
27
145,97
2.Số tiền bảo hiểm
-Lượng tăng(giảm) tuyệt đối
- Tỷ lệ tăng
Tr.đ
Tr.đ
%
128.342
-
-
157.846
29.504
122,99
172.548
14.702
109,32
192.031
19.483
111,29
233.463
41.432
121,58
3.Doanh thu phí bảo hiểm
-Lượng tăng(giảm) tuyệt đối
- Tỷ lệ tăng
Tr.đ
Tr.đ
%
330
-
-
400
70
121,21
420
20
105
455
35
108,33
607
152
133,41
4.Số tiền bảo hiểm /1 đơn vị
Tr.đ
16042,75
13153,8
4313,7
3097,27
2623,18
5.Doanh thu phí bảo hiểm /1 đơn vị
Tr.đ
41,25
33,33
10,5
7,34
6,82
(Nguồn số liệu: phòng cháy ở Công ty Bảo hiểm Hà Nội)
Qua số liệu của bảng trên cho thấy, số đơn bảo hiểm được cấp còn quá ít so với tiềm năng vô tận có thể khai thác nghiệp vụ này trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, qua số liệu của từng năm tổng hợp lại thì số đơn vị tham gia nghiệp vụ này ngày một tăng. Năm 1996 chỉ có 8 đơn vị tham gia, năm 1997 có 12 đơn vị tham gia, với tỷ lệ tăng là 150% con số này có tăng nhưng không đáng kể. Có lẽ do các doanh nghiệp, cơ quan ngày càng thấy rõ được tầm quan trọng của nghiệp vụ này nên số đơn vị tham gia tăng rất mạnh vào các năm 1998-2000. Năm 1998 số đơn vị tham gia là 40, với tỷ lệ tăng là 333,33%, năm 1999 số đơn vị tham gia là 62 đơn vị với tỷ lệ tăng là 155%, năm 2000 con số này đã lên đến 89 đơn vị, với tỷ lệ tăng là 145,97%. Mặt khác, nhìn vào tỷ lệ tăng về số đơn vị tham gia của các năm đều lớn hơn 100% chứng tỏ nghiệp vụ này ngày càng phát triển.
Từ bảng trên cũng cho thấy, số tiền bảo hiểm của nghiệp vụ này cũng ngày một tăng, cụ thể năm 1996 số tiền bảo hiểm là 128.342 triệu đồng, năm 1997 tăng lên 157.846 triệu đồng tăng so với năm 1996 là 29.504 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 122,99%, đến năm 1998 só tiền bảo hiểm tăng lên 172.548 triệu đồng tăng so với năm 1997 là 14.702 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 109,32%, năm 1999 số tiền bảo hiểm là 192.031 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 19.483 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 111,29%. Và tăng mạnh nhất là năm 2000, số tiền bảo hiểm là 233.463 triệu đồng tăng so với năm 1999 là 41.432 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 121,58%.
Song song với việc tăng số tiền bảo hiểm thì doanh thu của nghiệp vụ này cũng tăng lên đáng kể. Năm 1996 doanh thu của nghiệp vụ này là 330 triệu đồng, năm 1997 doanh thu phí tăng lên 400 triệu đồng tăng so với năm 1996 là70 triệu, tương ứng với tỷ lệ tăng là 121,21%. Năm 1998 doanh thu phí là 420 triệu đồng tăng so với năm 1997 là 20 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng là 105%. Năm 1999 doanh thu phí của nghiệp vụ này là 455 triệu đồng tăng so với năm 1998 là 35 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 108,33%. Đến năm 2000 con số này đã tăng lên là 600 triệu đồng tăng so với năm 1999 là 152 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 233,41%. Nhìn vào số liệu về doanh thu nghiệp vụ này có thể thấy, năm 2000 doanh thu tăng nhất, so với năm 1999 tăng 152 triệu chứng tỏ rằng khâu khai thác của công ty về nghiệp vụ này ngày một tiến bộ hơn và có tiển triển hơn, các doanh nghiêp kinh doanh , cơ quan, xí nghiệp, cũng như người dân ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của nghiệp vụ này, điều này cũng chứng tõ nhiều người dân đã hiểu rõ hơn về nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Do đó, đã có nhiều người tham gia bảo hiểm như thể hiện trong bảng số đơn vị tham gia mỗi năm một tăng.
Tuy số đơn vị tham gia mỗi năm một tăng, như nhìn vào số liệu Số tiền bảo hiểm trên một đơn vị và doanh thu phí trên một đơn vị cho thấy, cả hai số liệu này mỗi năm mỗi giảm xuống chứng tõ công ty chưa khai thác được nhiều nghiệp vụ có giá trị lớn. Đây cũng là một hạn chế mà công ty cần phải có biện pháp khắc phục, cần phải chú trọng hơn trong khâu khai thác, cần phải có phương pháp tuyên truyền, quảng cáo thích hợp để mở rộng thị trường, khai thác được nhiều hơn nữa nhằm tăng doanh thu của nghiệp vụ này góp phần tăng doanh thu cho công ty giúp cho công ty thắng thế cạnh tranh trên thị trường, khẳng định được mình là một công ty hàng đầu trong lĩnh vực bảo hiểm.
ChươngIV
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động kinh doanh Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại công ty bảo hiểm hà nội
I. Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Những thuận lợi
Đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI (tháng 12/1986), thực hiện mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài trên nguên tắc: “ Tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau và đảm bảo hai bên cùng có lợi”, cùng với việc cả nước thực hiện CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế chuyển dịch từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ. Nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn được giữ vững, cùng với việc Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam và Việt Nam tham gia khối ASEAN đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để hội nhập vào nền kinh tế trong khu vực và thế giới, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, đặc biệt là ở Hà Nội có tốc độ tăng trưởng trên 10%, với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, tốc đọ đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đã có nhiều công trình dự án đầu tư vào Việt Nam dưới nhiều hình thức. Nhiều tập đoàn cũng như các công ty xuyên quốc gia xuất hiệ góp phần vào sự phát triển kinh tế đáat nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Hoạt động kinh doanh ngày càng lớn, đa dạng về chủng loại, tốc độ đo thị hoá ngày càng nhanh, Hà Nội đã ,đang và sẽ xây dựng nhiều trụ sở thương mại, khu biệt thự, khách sạn, siêu thị và các khu chợ lớn... Mặt khác, tình hình giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiểm soát đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây là môi trường thuận lợi cho ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh nói riêng phát triển.
Bên cạnh đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp cho nên công tác bảo toàn vốn và phát triển vốn trở thành gánh nặng cho mỗi công ty, doanh nghiệp. Để làm tốt công tác này, theo thông tư số 82/ TCCN ngày 31/12/1991 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị 332/HĐBT về bảo toàn vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: “ các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại. Khoản chi phí bảo hiểm được hạch toán vào giá thành sản phẩm hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai những loại hình tương tự...”. Mặt khác, năm 2000 đã có luật kinh doanh bảo hiểm tạo môi trường pháp lý cho việc kinh doanh bảo hiểm cũng như việc tham gia bảo hiểm. Đây là những yếu tố giúp cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn.
Mặt khác, trong kinh doanh các doanh nghiệp vừa phải tạo đủ điều kiện như nguồn vốn, nguyên vật liệu, sức lao động... để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời họ còn phải tính đến những rủi ro mà họ có thể gặp phải để có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế và khắc phục khó khăn khi không may gặp những rủi ro đó. Trong số những rủi ro mà họ thường gặp có rủi ro cháy và gián đoạn kinh doanh là một rủi ro mà gây thiệt hại rất lớn cho công ty, doanh nghiệp. Do đó, biện pháp tốt nhất và hữu hiệu nhất để khắc phục những rủi ro đó là tham gia bảo hiểm. Công try bảo hiểm sẽ bù đắp, hỗ trợ đắc lực về tài chính cũng như tâm lý cho người tham gia bảo hiểm khi không may gặp phải những rủi ro được bảo hiểm.
Từ những vấn đề nêu trên có thể nói, thị trường bảo hiểm Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để khai thác. Vì vậy, đây là cơ hội tốt nhất để triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh cũng như các nghiệp vụ khác của công ty Bảo hiểm Hà Nội.
Những khó khăn
Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ dân trí cũng như đới sống của người dân chưa cao. Sự chuyển đổi cơ chế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước là ăn không có hiệu quả. Do đó, dù biết được tác dụng và sự cần thiết của bảo hiểm nhưng do không có khả năng chi trả nên nhiều doanh nghiệp, công ty cũng như nhiều người dân không có khả năng tham gia bảo hiểm mà như ta đã biết tính quy luật của bảo hiểm là đời sống của người dân va trình độ dân trí càng cao thì càng nhiều người tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nhiều doanh nghiệp có thói quen trông chờ vào sự nâng đở của Nhà nước nên mặc dù họ thấy được những rủi ro có thể đến với họ và họ có khả năng chi trả bảo hiểm nhưng họ vẫn không chịu tham gia vì họ hy vọng khi xảy ra rủi ro tổn thất Nhà nước sẽ hỗ trợ cho họ. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, lãnh đạo một số đơn vị công ty mang nặng tư tưởng bao cấp cũ, họ chưa thấy được trách nhiệm phải bảo toàn đồng vốn tốt nhất bằng con đường tham gia bảo hiểm, hoặc họ có thấy đựoc tác dụng ý nghĩa và sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm nhưng họ không có sự hiểu biết nhất định về bảo hiểm, chưa tin tưởng vào sự hoạt động của công ty bảo hiểm nên họ chỉ mới tham gia một cách dè dặt họ không dám tham gia vào những nghiệp vụ mới triển khai. Mặt khác, chuyển sang cơ chế thị trường thì sự cạnh tranh giữa các công ty cũng ngày càng mạnh mẽ hơn và công ty Bảo Việt không còn độc quyền như trước nữa nên việc kinh doanh bảo hiểm của công ty Bảo hểm Hà Nội cũng khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Nhiều cong ty bảo hiểm song song tồn tại cùng với Công ty Bảo hiểm Hà Nội đã làm cho thị trường bảo hiểm bị chia cắt do đó việc khai thác của Công ty Bảo hiểm Hà Nội cũng trở nên khó khăn hơn.
Hơn nữa, sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm trừu tượng nên khó có thể xác định được giá trị của sản phẩm này, người tham gia không biết được chất lượng của sản phẩm bảo hiểm như thế nào trừ khi có xảy ra rủi ro tổn thất và được bồi thường. Do đó, việc triển khai và khai thác một sản phẩm mới cực kì khó khăn mà nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và Bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ mới của Công ty Bảo hiểm Hà Nôi nên việc triển khai và khai thác tốt nghiẹp vụ này là một vấn đề khá nan giãi. Cũng do nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ mới của Công ty Bảo hiểm Hà Nội nên số cán bộ làm tốt từ khâu cấp đơn đến khâu giám định chính xác để bồi thường chưa có nhiều, việc xác định số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm, mức độ thiệt hại, lợi nhuận gộp cũng tương đối khó khăn phức tạp, khó có thể xác định chính xác được làm cho công tác bồi thường cũng thiếu chính xác và không thoả đáng không đáp ứng được yêu cầu của người tham gia, chưa thu hút được lòng tin của họ đối với nghiệp vụ này cho nên việc thuyết phục họ tham gia đã khó lại càng khó khăn hơn.
Tuy công ty Bảo hiểm Hà Nội là một công ty bảo hiểm ra đời khá lâu, có đội ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng lại có nhiều cán bộ chưa đáp ứng được trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp, số cán bộ chủ chốt còn ít trong khi đó lại tuyển dụng sai nguyên tắc nên chất lượng phục vụ còn rất nhiều hạn chế, việc tư vấn cho khách hàng chưa đáp ứng được yêu cầu, khi khách hàng thắc mắc thì chưa giải thích có lý có tình, thái độ chưa được hoà nhã gây nhiều bất bình cho khách hàng, làm mất lòng tin của khách hàng đối với công ty.
Mặt khác, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á làm cho nền kinh tế các nước trong khu vực bị khủng hoảng dẫn đến một số liên doanh của họ hoạt động tại Việt Nam cũng bị phá sản hoặc hoạt động kém hiệu quả. Nền kinh tế của Việt Nam ít nhiều bị ảnh hưởng, tốc độ phát triển kinh tế bị chững lại gây khó khăn tài chính cho các doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, theo điều 9 chương II luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có quy định: “ Tài sản của các công ty, xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại các ông ty bảo hiểm Việt Nam hoặc các công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả thuận”, do đó nhièu nhà đầu tư nước ngoài tham gia bảo hiểm tài sản tại các công ty bảo hiểm nước khác mà họ tin tưởng và có lợi hơn. Điều này đã tạo cho các công ty bảo hiểm nước ngoài không phải vào Việt Nam mà họ vẫn kinh doanh và thu phí bảo hiểm được trên thị trường Việt Nam, đã gây khó khăn cho các công ty bảo hiểm trong nước nói chung và công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng bị thất thu ngay trên đất nước của mình trong đó có cả bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh của công ty Bảo hiểm Hà Nội. Để giải quyết vấn đề này thì cần phải có sự giúp đở của Nhà nước bằng luật đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, cũng nên cho các công ty, các văn phòng bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam theo luật pháp của Việt Nam để tạo sự cạnh tranh giữa các công ty này với các công ty bảo hiểm trong nước nhằm làm cho các công ty bảo hiểm trong nước đổi mới tư duy, cung cách phục vụ khách hàng và phấn đấu, năng động hơn nữa để thắng thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xoá bõ hoàn toàn tính trông chờ ỷ lại vào sự hậu thuẫn của Nhà nước.
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh của công ty Bảo hiểm Hà Nội chưa được nhiều người biết đến. Nhận thức của các doanh nghiệp trong nước còn rất mơ hồ, chưa ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết phải tham gia bảo hiểm đối với nghiệp vụ này. Việc tuyên truyền quảng cáo chưa phong phú, hấp dẫn chưa thuyết phục được khách hàng.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, các văn phòng nước ngoài tham gia bảo hiểm tại Việt nam về nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là chủ yếu, còn các doanh nghiệp trong nước có tham gia nhưng còn rất hạn chế. Nhiều công trình như: khách sạn, nhà hàng, chợ, khu vực triển lãm, rạp chiếu bóng... có khả năng cháy rất cao nhưng vẫn chưa tham gia bảo hiểm cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh. Hiện nay chỉ có Ban quản lý chợ Đồng Xuân và chợ Hàng Da, khách sạn Melid, câu lạc bộ Hà Nội và một số ít nhà hàng khác tham gia loại bảo hiểm này.
Nguyên nhân của các hạn chế nói trên là do:
Nghiệp vụ bảo hiểm Hảo hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ còn rất mới nên đội ngũ cán bộ lâu năm và giỏi về nghiệp vụ còn rất hạn chế, trình độ tiếng Anh và khả năng sử dụng máy vi tính của cán bộ công nhân viên chưa cao, phong cách làm việc chưa phù hợp với cơ chế thị trường, khâu khai thác chưa đạt hiệu quả, chưa đi sâu vào được người dân, chưa làm cho họ hiểu biết một cách tường tận về nghiệp vụ này.
Một nguyên nhân khác nữa là do công tác bồi thường còn quá phức tạp không như mong muốn của khách hàng. Đặc biệt, đối với nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và Gián doạn kinh doanh khi có những rủi ro người tham gia rất hoang mang, lo sợ, nếu như công tác bồi thường tốt, giải quyết nhanh chóng cho khách hàng sẽ giúp họ rất lớn trong việc khắc phục hậu quả từ đó có thể tạo được lòng tin của khách hàng đối với công ty, đây cũng là một cách tốt để khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh cũng như các nghiệp vụ khác.
Tóm lại, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và Gián đoạn kinh doanh ở công ty Bảo hiểm Hà Nội còn nhiều hạn chế. Công ty cần phải có các biện pháp hữu hiệu để khắc phục các mặt hạn chế, phát huy những mặt tích cực, tận dụng được những lợi thế của mình để phát triển nhanh chóng nghiệp vụ này làm cho nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh trở thành nghiệp vụ chủ chốt, đóng góp quan trọng vào doanh thu của công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói chung.
II. Một số giải pháp
Bước sang năm 2000, năm bản lề của thế kỷ XXI, kinh tế thủ đô tiếp tục phát triển. Cùng với sự phát triển về kinh tế, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển. Song do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nên trong một vài lĩnh vực như đầu tư, liên doanh có tốc độ tăng trưởng chậm lại. Sức mua bảo hiểm còn hạn chế và chưa đều. Với sự ra đời không ngừng của một số công ty bảo hiểm trong nước và văn phòng đại diện nước ngoài, thị trường bảo hiểm tiếp tục được sắp và phân chia lại. Trên địa bàn Hà Nội- thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị xã hội của cả nước, hoạt động cạnh tranh bảo hiểm xảy ra gay gắt, đầy sôi động. Do vậy, để tồn tại lâu dài thì cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh. Cần làm gì để nâng cao hoạt động nghiệp này? Sau một thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Hà Nội, đươc sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ phòng cháy, từ những kết quả đạt đươc những thành tựu và hạn chế cũng như triển vọng trong thời gian tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp và kiến nghị với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn để nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này ngày một tốt hơn:
Công ty nên thực hiện công tác tuyên truyền một cách nghiêm túc và sâu rộng hơn trong các tầng lớp nhân dân và nhất là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để họ biết về lợi ích của việc tham gia các loại hình bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng thông qua đó đẩy mạnh công tác khai thác.
Tuyên truyền quảng cáo là một loại hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với nhiều nước trên thế giới bảo hiểm là một nhu cầu và đã trở thành tập quán trong đời sống, nhưng ở nước ta và tất nhiên kể cả Hà Nội, tất cả hầu như mới bắt đầu. Do vậy, tuyên truyền quảng cáo lại càng hết sức quan trọng với nhiều mục đích: giới thiệu các loại hình bảo hiểm, gây uy tính chi công ty, cạnh tranh… và hiện nay dù có hay không sự bùng nổ các văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài, sự ra đời của một số công ty bảo hiểm khác thì một câu hỏi luôn được đặt ra với công ty là: làm thế nào để giành được dịch vụ ?
Từ trước tới nay, công ty luôn quan tâm đến hoạt động tuyên truyền quảng cáo. Nhưng để đạt được kết quả cao hơn, bên cạnh làm cho mọi người, mọi doanh nghiệp hiểu được về bảo hiểm, các loại hình bảo hiểm có thể tham gia và quyền lợi của họ được hưởng khi tham gia thì công ty cân đi sâu quảng cáo từng nghiệp vụ có thể theo từng hình thức thích hợp, hấp dẫn và đầy tính thuyết phục. Do có điều kiện khá thuận lợi cho công ty là Hà Nội là một thành phố đông dân cư, kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao(nhất là khu vực nội thành). Do đó, công ty có thể quảng cáo dưới nhiều hình thức như: sách, báo, đài phát thanh, đài truyền hình, qua các áp phích, biển quảng cáo, panô… hoặc quảng cáo thông qua chính sách khách hàng, qua công tác phục vụ và giải quyết bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời và công bằng.
Với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn, qua hình thức tuyên truyền phong phú như trên, công ty có thể đưa ra những thông số cũng như các hình ảnh, mức độ nguy hại và hậu quả của các vụ cháy để lại. Sau đó nói rõ tác dụng và sự cần thiết phải tham gia loại hình này. Nếu hoạt động tuyên truyền quảng cáo thì đây là một bước mở đường cho công tác khai thác đạt hiệu quả cao. Mặc dù công ty đã có sự nỗ lực lớn nhưng nhận thức của người đân về bảo hiểm hoả hoạn còn hạn chế.
Ngoài ra, để thu hút nhiều khách hàng qua các thành phần trung gian cũng là một điều đáng quan tâm. Công ty cũng cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa mối quan hệ với các cơ quan trong và ngoài ngành trên địa bàn thành phố Hà Nội và địa bàn cả nước. Như vậy, việc quan hệ với đội ngũ cộng tác viên chủ yếu của công ty như: Cục cảnh sát Phòng cháy chữa cháy – Bộ công an, hệ thống ngân hàng từ Trung ương đến các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội, Sở kế hoạch và đầu tư, Cục thuế Hà nội, Sở địa chính nhà đất… và chính họ là người đem lại dịch vụ lớn cho công ty.
Ngoài ra, công ty cần phải quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các công ty bảo hiểm nước ngoài, những cộng tác viên và cá nhân hoặc người đứng ra mua bảo hiểm bằng cách thông qua chính sách hoa hồng thoả đáng cho họ. Trong cạnh tranh, hai doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện như nhau người mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với các doanh nghiệp hay công ty có tỷ lệ hoa hồng hấp dẫn hơn. Vì vậy, chính sách hoa hồng phải hết sức linh hoạt và hấp dẫn hơn, phải căn cứ vào hiệu quả kinh doanh mà quyết định hoa hồng cho thoả đáng.
Công ty cần phải gắn bó trách nhiệm với khách hàng của mình bằng hành động cụ thể.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính chất kinh doanh dịch vụ. Do vậy, để phục vụ tốt khách hàng, công ty phải luôn quan tâm đến khách hàng, gắn chặt trách nhiệm của mình bằng cách đôn đốc khách hàng thực hiện tốt công tác an toàn đề phòng và hạn chế tổn thất, đề xuất các biện pháp phòng cháy chữa cháy đối với các xí nghiệp, nhà máy và các công trình từ lúc bắt đầu xây dựng cho đến lúc bàn giao công trình. Bên cạnh đó, công ty còn thường xuyên cử cán bộ công ty xuống cơ sở để kiểm tra đôn đốc khách hàng và thường xuyên góp ý với họ thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, từ đó khách hàng cảm thấy thực sự được quan tâm, yên tâm sản xuất kinh doanh.
Có thể nói, sự tin cậy của khách hàng đối với công ty Bảo hiểm Hà Nội nói riêng và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam nói chung là thể hiện qua công tác bồi thường khi đơn vị tham gia gặp hoả hoạn. Vì vậy, việc bồi thường một cách nhanh chóng, chính xác kịp thời, phục vụ khách hàng tận tình chu đáo với thái độ cởi mở là biện pháp thu hút khách hàng và để quảng cáo cho nghiệp vụ có hiệu quả nhất.
Mặt khác số vụ tổn thất được bồi thường trong mấy năm qua chưa nhiều. Công ty đã giải quyết nhanh chóng công tác giám định và bồi thường. Tuy nhiên, mỗi cán bộ bồi thường cũng cần luôn luôn nắm chắc hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của mình, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giám định và bồi thường. Sau khi xảy ra hoả hoạn thì người tham gia bảo hiểm thường hay lúng túng, tiếc của, không biết xử trí ra sao. Vì vậy, công ty phải biết thực sự cảm thông, quan tâm và chia sẻ sâu sắc cũng như đưa ra các biện pháp khắc phục hậu quả và bồi thường nhanh chóng cho khách hàng để họ có thể ổn định và khôi phục nhanh chóng tình hình sản xuất kinh doanh.
Nói tóm lại, nếu như công ty gắn trách nhiệm của mình với khách hàng bằng hành động cụ thể thì không những nâng cao được hiệu quả hoạt động và doanh thu của nghiệp vụ mà còn giữ được vị trí của doanh nghiệp trên thương trường, điều này mới thực sự là khó trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cần được tăng cường cả về chiều rông lẫn chiều sâu.
Công tác phòng cháy chữa cháy không tốt là nguyên nhân làm cho hoạt động kinh doanh của công ty không đạt hiệu quả tối ưu. Qua bảng số liệu thống kê một số vụ cháy của công ty bảo hiểm Hà Nội có thể thấy rằng, hầu hết các vụ cháy và số tiền bồi thường ngày càng cao. Điều này đòi hỏi công ty cần phải tăng cường hơn nữa công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Để không gây khó khăn cho công tác này thì cán bộ khai thác bảo hiểm cần phải quán triệt các nguyên tắc sau:
Không nhận bảo hiểm theo kiểu chọn điểm mà chỉ nhận bảo hiểm cho toàn bộ tài sản hoặc bảo hiểm 50% giá trị của toàn bộ tài sản trở lên.
Chỉ nhận bảo hiểm cho các công trình có hệ thống phòng cháy chữa cháy tốt, bậc chịu lửa của công trình không cháy hoặc khó cháy.
Có thể bảo hiểm nhưng cần phải xem xét, thận trọng khi chấp nhận bảo hiểm cho bất kỳ đối tượng nào.
Việc hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy cần phải nâng cao hơn nữa. Cần phải phối hợp chặt chẽ với các Cục Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, các cấp, các ngành và chính quyền địa phương. Phải thường xuyên tuyên truyền, quảng cáo, hội nghị khách hàng để qua đó tìm ra các mô hình đề phòng và hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất. Công ty phải thường xuyên cử cán bộ theo dõi việc thực hiện công tác phòng cháy chữa cháy của người tham gia, phải thu thập được các thông tin thực tế và kịp thời ở cơ sở để có kế hoạch đề phòng hạn chế hợp lý. Nếu làm tốt công tác này khách hàng sẽ yên tâm, phấn khởi tin tưởng vào công ty đồng thời nâng cao được ý thức phòng cháy và chữa cháy cho mọi người.
Mở rộng quan hệ với các cấp, các ngành nắm bắt được các dự án thuộc nguồn vốn trong nước và nước ngoài để kịp thời bảo hiểm cho các dự án này.
Ngoài việc tuyên truyền, quảng cáo và nâng cao uy tín của công ty băng mọi cách phải giử được và thắt chặt hơn nữa mối quan hệ vốn có của công ty với các cơ quan khác như: Ngân hàng, Bộ công nghiệp… với các cấp chính quyền địa phương để có những quy định cụ thể hơn, có biện pháp kiên quyết hơn trong việc đôn đốc các doanh nghiêp các đơn vị xí nghiệp trực thuộc tham gia bảo hiểm. Đồng thời công ty phải mở rộng mối quan hệ với các công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm khác để tranh thủ các nghiệp vụ thông qua sự giới thiệu của họ. Tăng cường mở rộng mối quan hệ với các ngành các cấp, nắm bắt các dự án thuộc vốn trong nước và nước ngoài để kịp thời bảo hiểm cho các dự án đó. Tổ chức đào tạo lại cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ để tiếp cận được các dự án, thông qua các điều khoản, điều kiện, phí bảo hiểm phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Công tác phí.
Hoạt đông kinh doanh bảo hiểm hoả hoạn là một hoạt động kinh doanh dịch vụ, quỹ dùng để chi trả bồi thường được hình thành từ việc đóng góp của người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Vì vậy, việc tính toán đúng mức phí phải đảm bảo đủ để chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh có lãi, đồng thời phải tạo được mức phí có thể cạnh tranh được với các công ty bảo hiểm khác ở trong và ngoài nước. Sự biến đổi của thị trường, hoạt động của đối thủ cạnh tranh sẽ có thể làm thay đổi phí bảo hiểm.
Vì vậy, khi đưa ra mức phí cần phải thường xuyên xem xét, giám sát theo dõi tỷ lệ phí của đối thủ cạnh tranh đồng thời phải theo sát sự biến động của các rủi ro, tỷ lệ lạm phát. Nên tìm cách hạ phí xuống vì đây là cách cạnh tranh có hiệu quả nhất tuy nhiên phải đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có lãi.
Đào tạo cán bộ.
Đào tạo cán bộ giỏi cho nghiệp vụ là một vấn đề mà bảo hiểm cần quan tâm. Bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ có nhiều mối giao dịch với các đối tác nước ngoài, khách hàng của các công ty môi giới bảo hiểm. Nhưng do hiện nay cán bộ giỏi còn hạn chế, lại thêm trình độ tiếng Anh và vi tính chưa thành thạo, cho nên việc giao dịch với khách hàng còn gặp nhiều khó khăn. Cũng thấy rằng, cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện công việc một cách nhanh gọn và trôi chảy mà còn khi khách hàng thắc mắc hoặc yêu cầu giải thích thì cán bộ có thể giải đáp được rõ ràng, dễ hiểu tạo niềm tin cho khách hàng. Một mặt nữa có cán bộ giỏi nghiệp vụ có trình độ tiếng Anh, vi tính thành thạo, công ty có thể thâm nhập thị trường một cách nhanh chóng và trực tiếp, giảm được chi phí cho môi giới. Cần phải có các đợt tập huấn, đào tạo, hướng dẫn cho cán bộ để nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực của từng cán bộ để có chính sách ưu đãi, có ưu tiên thích đáng, như thế công ty mới giữ được cán bộ giỏi. Ngoài ra cũng phải có những yêu cầu rõ ràng đối với mỗi cán bộ cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay.
Công tác bồi thường
Bồi thường là trách nhiệm của người bảo hiểm khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm và đây cũng chính là quyền lợi của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm mong muốn được bồi thường nhanh chóng để khắc phục rủi ro tổn thất khôi phục kinh doanh của mình. Bồi thường cũng thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm do đó người bảo hiểm muốn cạnh tranh tốt với các công ty khác thì phải chú ý đến khâu bồi thường sao cho nhanh chóng, thoả mãn với yêu cầu của khách hàng nhưng phải đãm bảo được kinh doanh có lợi cho công ty.
Công ty cần phải có những chính sách đào tạo và đào tạo lại các cán bộ thuộc lĩnh vực bồi thường nhằm nâng cao trình độ cho các cán bộ cũng như giúp cho công tác bồi thường được nhanh chóng, chính xác thoã mãn được mong muốn của khách hàng tạo được uy tín cho công ty, giúp cho Công ty Bảo hiểm Hà Nội hoạt động có hiệu quả và ngày một lớn mạnh.
Kết luận
Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh là nghiệp vụ còn non trẻ. Nhưng công ty Bảo hiểm Hà Nội đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được sự đóng góp của nghiệp vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng là bảo toàn vốn, tạo ra một tâm lý an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng như toàn bộ công nhân. Loại hình nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai trò của mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Bằng lợi thế về tầm quan trọng không thể phủ nhận, bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai đoạn mới, giai đoạn cạnh tranh.
Thực tế đã chứng minh chúng ta cần đến bảo hiểm, thực sự cần đến sự hỗ trợ đắc lực của bảo hiểm trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vượt qua mọi khó khăn thử thách, bằng sự vươn lên của chính mình, chúng ta hy vọng rằng công ty Bảo hiểm Hà Nội cùng với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh sẽ tiếp tục lớn mạnh và không ngừng đi lên, xứng đáng là doanh nghiệp đầu đàn.
Tài liệu tham khảo.
Giáo trình Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Các văn bản pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm – NXB Thống kê.
Luật kinh doanh bảo hiểm – NXB Chính trị Quốc gia.
Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm – NXB Thống kê.
Những nguyên tắc cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn – NXB Thống kê.
Nguyên tắc và thực hành.
Tạp chí bảo hiểm các số.
Báo cáo tổng kết 1999 – 2000 (Công ty Bảo Việt Hà Nội).
Chuyên đề bàn về nghiệp vụ hoả hoạn trong điều kiện kinh tế thị trường – Nguyễn Việt Hoàng.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0023.doc