Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông ở Công ty KTCTTL Yên Khánh - Huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình

Mục lục Trang Lời mở đầu 4 1. Tính cấp thiết của đề tài 5 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 5 4. Phương pháp nghiên cứu 6 5. Nội dung 7 Chương I: Những vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 8 1. Vai trò của thuỷ lợi trong sản xuất nông nghiệp 8 2. Đặc điểm của các Công ty dịch vụ thuỷ nông 9 3. Các mô hình tổ chức Công ty dịch vụ thuỷ nông 11 a. Mô hình Công ty KTCTTL Liên tỉnh, Tỉnh 11 b. Mô hình Công ty

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông ở Công ty KTCTTL Yên Khánh - Huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KTCTTL Liên huyện 13 C. Mô hình Công ty KTCTTL huyện 14 4. Quá trình hình thành và phát triển thuỷ lợi ở nước ta 14 5. Hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 16 5.1. Khái niệm và phân loại hiệu quả 16 a. Khái niệm và bản chất 16 b. Phân loại hiệu quả ` 20 5.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh 22 a. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp 22 b. Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động 23 6. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 27 7. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thủy lợi, thuỷ nông 28 Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động dịch vụ Thuỷ nông 30 tại Công ty KTCTTL Yên Khánh I. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội của huyện Yên Khánh ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 30 1. Đặc điểm tự nhiên 30 a. Vị trí đại lý 30 b. Về địa hình 30 c. Thời tiết khí hậu 32 d. Tình hình đất đai 33 2. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Yên Khánh 35 a. Tình hình dân số và lao động của huyện Yên Khánh 35 b. Tình hình phát triển kinh tế của huyện 37 II. Thực trạng hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông của Công ty KTCTTL Yên Khánh 40 1. Khái quát tình hình phát triển của Công ty 40 2. Thực trạng về năng lực sản xuất của Công ty 42 2.1. Thực trạng về bộ máy quản lý Công ty 42 2.2. Tình hình lao động của Công ty KTCTTL Yên Khánh 44 2.3. Về tình hình tài chính của Công ty 47 3. Hiệu quả hoạt động dịch vụ thủy nông của Công ty 49 3.1. Hiệu quả dịch vụ thủy nông phục vụ sản xuất nông nghiệp 49 3.2. Hiệu quả kinh doanh của Công ty 55 a. Đánh giá hiệu quả kinh doanh chung của Công ty 55 b. Đánh giá hiệu quả sử dụng các yếu tố 61 3.3. Đánh giá chung 64 a. Ưu điểm 64 b. Nhược điểm 65 c. Nguyên nhân 65 Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông của Công ty KTCTTL Yên Khánh 68 I. Phương hướng, mục tiêu hoạt động dịch vụ thuỷ nông của Công ty 68 1. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện và ngành thủy lợi 68 1.1. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện Yên Khánh 68 1.2. Phương hướng phát triển của ngành thuỷ lợi 69 2. Một số chỉ tiêu cụ thể của ngành thuỷ lợi đến năm 2010 69 3. Phương hướng, mục tiêu phát triển của Công ty 70 II. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông của Công ty 70 1. Củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống công trình thuỷ lợi trong huyện 70 2. Sắp xếp kiện toàn tổ chức Công ty 72 3. Đổi mới một số chính sách đối với các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi 73 4. Nâng cao vai trò của cộng đồng, từng bước xã hội hoá công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp 74 5. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trên lĩnh vực khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi 76 6. Đẩy nhanh tiến độ kiên cố hoá kênh mương 77 7. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn về ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty KTCTTL Yên Khánh 78 8. Chính sách thu thuỷ lợi phí hợp lý 78 9. Giải pháp huy động, sử dụng vốn trong công tác thủy lợi 79 Kết luận 82 Tài liệu tham khảo 84 Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước là một tài nguyên vô cùng quý báu, không thể thiếu được trong cuộc sống của con người cũng như trong các hoạt động kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, nước là một yếu tố không thể thay thế đối với bất kỳ phương thức sản xuất nào bởi nước là dung môi hoà tan các chất dinh dưỡng, muối khoáng cần thiết cho sự phát triển của cây trồng và nước tạo điều kiện cho sự vận chuyển các chất tới các bộ phận của cây. Ngoài ra, nước còn tham gia vào quá trình cải tạo đất, tăng độ phì của đất. Việc đảm bảo đủ nước còn là yếu tố quan trọng để thâm canh tăng năng xuất cây trồng. Cho nên từ xa xưa nhân dân ta đã đúc kết kinh nghiệm “Nhất nước nhì phân, tam cần tứ giống”. Điều đó có nghĩa là nước là một trong bốn điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, nước cũng có thể gây ra những thảm hoạ cho con người như ông cha ta đã nói có bốn hiểm hoạ là “Thuỷ - hoả - đạo - tặc”. Nước vừa có mặt tích cực, lại vừa có mặt tiêu cực, nhiều nước quá thì úng lụt, ít nước quá thì hạn hán. Vì vậy, chúng ta phải làm gì cho nhân dân đủ nước để tăng gia sản xuất? Muốn vậy, con người phải biết phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nước. Một trong những giải pháp để giải quyết vấn đề này là ngày càng hoàn thiện công tác thuỷ nông để đảm bảo tưới, tiêu kịp thời. Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số ở nông thôn, hơn 70% lực lượng lao động xã hội đang làm việc trong ngành nông nghiệp. Nông nghiệp đã tạo ra gần 1/3 tổng sản phẩm trong nước và hơn 43% giá trị xuất khẩu hàng năm. Đóng góp vào sự thành công đó có công lao của ngành thuỷ lợi và những công trình tưới, tiêu nước “Rửa chua, khua mặn, ép phèn” nhằm nâng cao năng suất sản lượng nông nghiệp. Chính vì lẽ đó, trong những năm qua Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư khá lớn cho việc xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp các hệ thống công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, do thiếu vốn cho việc duy tu, bảo dưỡng thời gian sử dụng lại quá lâu nên nhiều công trình thủy lợi ngày càng hư hỏng nặng và xuống cấp nghiêm trọng. Trong khi đó công tác quản lý, khai thác, bảo vệ các công trình thuỷ lợi còn yếu kém, cơ chế chính sách tài chính cho các hộ dùng nước chưa thật phù hợp, chưa khuyến khích được người dân dùng nước tiết kiệm và chưa khai thác được những lực lượng lao động nhàn rỗi trong các vùng nông thôn để tu sửa, nâng cấp các hệ thống kênh mương nội đồng đang xuống cấp nghiêm trọng. Thực tế, Công ty KTCTTL Yên Khánh nhiều năm qua đã có nhiều cố gắng nhằm đảm bảo cung cấp nước thường xuyên cho sản xuất nông nghiệp của huyện và cho các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, quá trình hoạt động Công ty còn gặp nhiều khó khăn về vấn đề tổ chức, khai thác và quản lý hệ thống các công trình thuỷ lợi. Để khai thác mọi khả năng thuận lợi của hệ thống thuỷ nông và phục vụ ngày càng hiệu quả hơn cho sản xuất nông nghiệp em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông ở Công ty KTCTTL Yên Khánh - Huyện Yên Khánh - Tỉnh Ninh Bình”. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài - Làm rõ vai trò, vị trí của công tác thuỷ nông và hiệu quả hoạt động của nó đối với sản xuất nông nghiệp. - Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông ở Công ty KTCTTL Yên Khánh. - Đưa ra định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông ở Công ty KTCTTL Yên Khánh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài a. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề kinh tế, tổ chức trong việc sử dụng các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ở Công ty KTCTTL Yên Khánh. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông. b. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Yên Khánh - Tỉnh Ninh Bình. - Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực trạng hiệu quả hoạt động dịch vụ thủy nông qua 5 năm 2000 - 2004 và đưa ra những định hướng, giải pháp cho những năm tiếp theo. 4. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp duy vật biện chứng Là phương pháp nhằm xem xét, phân tích, đánh giá các vấn đề một cách khách quan, khoa học. Phương pháp duy vật biện chứng nhìn nhận sự vật hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển luôn có sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau để tìm ra bản chất quy luật vận động của chúng. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, áp dụng phương pháp này nhằm phân tích, đánh giá, tìm hiểu và làm rõ tác động của việc khai thác các công trình thuỷ nông đối với sự phát triển kinh tế của huyện, xã và các hộ ở địa bàn nghiên cứu. Nhằm đánh giá xem việc khai thác này có đem lại hiệu quả kinh tế hay không từ đó đề ra giải pháp thích hợp và rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình khai thác các công trình thuỷ nông phục vụ sản xuất nông nghiệp. b. Phương pháp duy vật lịch sử Là phương pháp dựa trên quan điểm duy vật để xem xét sự vật, hiện tượng từ quá khứ đến hiện tại để rút ra quy luật vận động và bài học kinh nghiệm. Những yếu tố chủ yếu nào đã ảnh hưởng đến quá trình khai thác các công trình thuỷ nông và quá trình sản xuất nông nghiệp của huyện Yên Khánh trong những năm qua. Từ đó dự kiến đề ra phương án hành động thích hợp trong những năm tới. c. Phương pháp thống kê Là phương pháp kiểm tra thu thập tài liệu, tổng hợp và hệ thống hoá tài liệu dựa trên cơ sở phân tổ thống kê và tiến trình phân tích tài liệu ở 3 khía cạnh khác nhau: Phân tích mức độ hiện tượng, phân tích biến động hiện tượng, phân tích mối quan hệ giữa các hiện tượng. Phân tích thông qua các chỉ tiêu so sánh tuyệt đối và tương đối và tốc độ phát triển bình quân giữa các năm. d. Phương pháp điều tra khảo sát Đó là những số liệu được thu thập từ những nguồn tài liệu sẵn có như các văn bản, báo cáo tổng kết của Công ty KTCTTL Yên Khánh và tài liệu các phòng ban như: Phòng kế hoạch, phòng nông nghiệp, phòng thống kê, phòng địa chính, phòng kỹ thuật. Sau đó tất cả các tài liệu được chọn lọc và tổng hợp rồi tính toán, phân tích theo các tiêu thức nhất định. e. Phương pháp so sánh Là phương pháp được dùng nhiều trong phân tích kinh tế, số liệu thu thập được dùng để so sánh đối chiếu mô tả sự biến động của hiện tượng. Sau đó, đưa ra những kết luận, kiến nghị, giải pháp cần thiết phục vụ cho công tác nghiên cứu và ứng dụng sản xuất. 5. Nội dung chủ đề bao gồm 3 chương Chương I: Những vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông. Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông tại Công ty KTCTTL Yên Khánh. Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông của Công ty KTCTTL Yên Khánh. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm hướng dẫn tận tình của các thày, cô giáo trong khoa KTNN & PTNT trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Quốc Khánh cùng các bác, cô, chú trong Công Ty Khai thác công trình thuỷ Lợi Yên Khánh đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp./. Em xin trân trọng cảm ơn! Chương I: Những vấn đề lý luận về hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 1. Vai trò của thủy lợi trong sản xuất nông nghiệp Nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu, là cơ sở cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nhưng nền nông nghiệp nước ta hiện nay còn nghèo nàn, lạc hậu. Đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, phân bổ manh mún trong khi đó sản xuất lại rất bấp bênh, thường xuyên bị thiên tai nhất là hạn, úng, lụt, bão đe doạ nên năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp thấp. Trước tình hình đó đòi hỏi nông nghiệp - nông thôn phải có một cơ sở hạ tầng đảm bảo mà trước hết là hệ thống thuỷ lợi thuỷ nông. Thuỷ nông là các biện pháp về thuỷ lợi được áp dụng để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. “Thuỷ lợi là sự tổng hợp các biên pháp khai thác, sử dụng, bảo vệ các nguồn nước trên mặt đất và nước ngầm, đấu tranh phòng chống những thiệt hại do nước gây ra với nền kinh tế quốc dân và dân sinh, đồng thời làm tốt công tác bảo vệ môi trường”. (Theo giáo trình kinh tế thuỷ nông của trường Đại học thuỷ lợi). Thuỷ lợi có vai trò hết sức to lớn góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung; vai trò đó được thể hiện như sau: + Thủy lợi có vai trò là một kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu để phát triển kinh tế và từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. + Thuỷ lợi đáp ứng được các nhu cầu về nước thích hợp cho cây trồng để sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao và phát triển một nền nông nghiệp bền vững. + Nó còn là các biện pháp khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước hạn chế thiệt hại do nước gây ra. + Giải quyết tốt công tác thuỷ lợi sẽ góp phần làm thay đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng diện tích canh tác, cải tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất, thâm canh tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất góp phần làm tăng năng suất, sản lượng cây trồng nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Ngoài việc tưới, tiêu nước cho sản xuất nông nghiệp, hệ thống thuỷ lợi còn được sử dụng làm đường giao thông đường thuỷ, nuôi trồng thủy sản, cung cấp nước sinh hoạt và cấp nước cho các ngành kinh tế khác, cải tạo môi trường góp phần làm tăng thu nhập cho người dân, giải quyết việc làm, tạo điều kiện để áp dụng và phát huy tác dụng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân nhất là những vùng khó khăn về nguồn nước. Như vậy, thủy lợi hoá là một quá trình phức tạp và lâu dài, nó có thể đáp ứng được nhu cầu về nước (một trong 4 điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi) trong giai đoạn trước mắt cũng như tương lai lâu dài, là hướng đi đúng đắn trong sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. 2. Đặc điểm của các Công ty dịch vụ thuỷ nông Các Công ty dịch vụ thuỷ nông là các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích đã được cấp có thẩm quyền quyết định bao gồm các doanh nghiệp độc lập, các doanh nghiệp hạch toán độc lập là thành viên của Công ty (gọi tắt là doanh nghiệp công ích). Vì vậy, các Công ty dịch vụ thủy nông mang đầy đủ các đặc điểm của một Doanh nghiệp nhà nước: + Danh sách doanh nghiệp công ích do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định theo các tiêu thức được quy định tại Điều 1 và Điều 2 Nghị định số 56/ CP ngày 02/10/1996 của Chính phủ. + Doanh nghiệp công ích có trách nhiệm sử dụng vốn và các nguồn lực do Nhà nước giao cho để thực hiện việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công ích cho các đối tượng theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định. + Doanh nghiệp công ích có quyền tận dụng đất đai cảnh quan, vốn và tài sản Nhà nước sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ công ích và huy động vốn để tổ chức hoạt động kinh doanh phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường với điều kiện: - Được cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp đồng ý bằng văn bản. - Không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ công ích Nhà nước đã giao hoặc đặt hàng. - Đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh theo quy định hiện hành. - Hạch toán riêng phần hoạt động kinh doanh thêm. - Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với phần hoạt động kinh doanh thêm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh những đặc điểm chung giống các Công ty khác thì các Công ty dịch vụ thủy nông còn mang một số đặc trưng riêng đó là các đặc điểm của các công trình thuỷ lợi mà chỉ có các Công ty loại này mới có: * Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật + Đặc điểm kinh tế - Vốn đầu tư xây dựng thường lớn, thu hồi vốn đầu tư trực tiếp thường chậm, hoặc không thu hồi được, kinh doanh không có lãi. Vốn đầu tư lớn đến đâu cũng chỉ phục vụ trong một phạm vi lưu vực tưới nhất định, mang tính hệ thống. - Các công trình thuỷ nông đều được xây dựng theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nguồn vốn lấy từ ngân sách Nhà nước, vốn vay, vốn địa phương hoặc trích từ thuỷ lợi phí của các Công ty KTCTTL và nhân dân đóng góp,... Công trình được hoàn thành sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao trong một thời gian dài nếu khai thác và quản lý tốt. + Đặc điểm kỹ thuật - Các công trình thi công kéo dài, nằm rải rác trên diện rộng, chịu sự tác động của thiên nhiên và con người. - Đảm bảo hệ số tưới mặt ruộng như đã xác định trong quy hoạch, cung cấp nước và thoát nước khi cần. - Hệ số lợi dụng kênh mương lấy tương ứng với tình trạng đất của khu vực theo quy phạm thiết kế kênh tưới. - Kênh mương cứng hóa đáy bằng bê tông, thành xây gạch, mặt kênh có thể hình thang hoặc hình chữ nhật. * Đặc điểm khai thác và sử dụng - Khai thác và sử dụng các công trình thuỷ nông cần phải có sự kết hợp giữa những hộ đang dùng nước với những người quản lý để đảm bảo tưới, tiêu chủ động. Các hộ có trách nhiệm bảo vệ giữ gìn, tránh tình trạng: “Cha chung không ai khóc”. Mỗi người dân phải có ý thức hơn và cũng có đơn vị quản lý thường xuyên kiểm tra, bảo dưỡng và bảo vệ các công trình thuỷ nông được tốt hơn. - Khai thác và quản lý các công trình thuỷ nông tốt sẽ nâng cao được hệ số sử dụng nước hữu ích, giảm bớt lượng nước rò rỉ, thẩm thấu, nâng cao tính bền vững của hệ thống, giảm bớt chi phí tu sửa. Mặt khác, khai thác và quản lý tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện kế hoạch dùng nước, thực hiện chế độ và kỹ thuật tưới phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của nông nghiệp, ngăn ngừa được hiện tượng đất bị lầy hoá, tái mặn hoặc bị rửa trôi do tình trạng sử dụng nước bừa bãi gây nên. 3. Các mô hình tổ chức Công ty dịch vụ thủy nông Căn cứ vào tình hình công trình, điều kiện quản lý ở các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện nay Công ty KTCTTL được tổ chức quản lý theo các mô hình sau: a. Mô hình Công ty KTCTTL Liên tỉnh, Tỉnh * Công ty KTCTTL Liên tỉnh: Là Công ty quản lý hệ thống công trình tưới, tiêu cho diện tích thuộc 2 tỉnh trở lên, gồm 2 loại: - Quản lý công trình đầu mối và trục chính tưới, tiêu, phần công trình còn lại phân cấp cho địa phương quản lý. - Quản lý toàn bộ hệ thống từ đầu mối đến cống đầu kênh của hộ dùng nước quản lý (theo quy định phân cấp quản lý công trình thuỷ lợi hiện hành của Bộ NN & PTNT). Hệ thống công trình thuỷ lợi Liên tỉnh được Bộ NN & PTNT xem xét quyết định phân cấp cho tỉnh có diện tích được hưởng lợi lớn tổ chức Công ty KTCTTL quản lý hoặc Bộ NN & PTNT trực tiếp tổ chức quản lý. * Công ty KTCTTL Tỉnh: Là Công ty quản lý các hệ thống công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ, diện tích tưới, tiêu phân bổ rải rác trong phạm vi toàn tỉnh, có quy mô hợp lý và hoạt động có hiệu quả, trực thuộc Sở NN & PTNT quản lý. * Cơ cấu tổ chức của Công ty KTCTTL Liên tỉnh, Tỉnh. + Giám đốc, Phó giám đốc. + Bộ máy giúp việc (các phòng, ban). - Phòng Tổ chức lao động tiền lương, hành chính, quản trị (gọi tắt là Phòng Tổ chức - Hành chính): Quản lý công tác tổ chức, lao động, công tác hành chính quản trị. - Phòng quản lý nước & công trình: Quản lý, điều hành nước, quản lý vận hành, bảo vệ công trình thuỷ lợi. - Phòng tài vụ: Quản lý công tác tài chính, kế toán của Công ty. - Phòng Kế hoạch - kỹ thuật: Quản lý công tác kế hoạch, vật tư, thống kê, quy hoạch hệ thống, khảo sát thiết kế và khoa học kỹ thuật của Công ty. - Phòng cơ điện (được tổ chức với hệ thống có nhiều trạm bơm điện lớn có tổng công suất từ 20.000 Kw trở lên): Quản lý cơ, điện thuộc hệ thống của Công ty quản lý. Tuỳ theo quy mô khối lượng công tác quản lý, tình hình khu vực, từng Công ty KTCTTL có tổ chức số phòng như trên, hoặc nghép các bộ phận thành các phòng phù hợp với điều kiện cụ thể của Công ty mình (có tổ chức phòng kỹ thuật riêng và ghép bộ phận kế hoạch với tài vụ phòng kế toán - tài vụ, gọi là phòng kinh tế nhưng không được tổ chức nhiều hơn số phòng ghi trên. - Ban quản lý dự án đầu tư và xây dựng (gọi tắt là Ban quản lý dự án): Được thành lập khi Công ty được giao dự án đầu tư xây dựng và theo quy trình hiện hành của điều lệ xây dựng cơ bản của Chính phủ. Số lao động của Ban không thuộc biên chế lao động công ích. - Tổ kiểm toán nội bộ: Công ty tổ chức kiểm toán nội bộ trực thuộc Giám đốc Công ty theo Thông tư số 52/TT - BTC ngày 16/4/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các Doanh nghiệp Nhà nước. + Tổ chức sản xuất, dịch vụ gồm: Đơn vị dịch vụ công ích: - Các xí nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty gồm: . Xí nghiệp Công ty KTCTTL theo địa giới Huyện. . Xí nghiệp KTCTTL đầu mối và kênh trục chính. - Cụm thuỷ nông quản lý công trình đầu mối nhỏ, cụm quản lý theo tuyến kênh hoặc theo vùng khép kín trực thuộc xí nghiệp quản lý. Công ty KTCTTL có thể tổ chức kinh doanh theo nghiệp vụ công ích theo Điều 10 Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996 của Chính phủ gồm: - Xí nghiệp tư vấn khảo sát thiết kế: Được tổ chức theo khả năng kỹ thuật và nguồn dịch vụ trong và ngoài hệ thống. - Xí nghiệp xây lắp: Được tổ chức với Công ty có nhiều yêu cầu dịch vụ xây lắp, sửa chữa cơ điện. Công ty có ít yêu cầu dịch vụ xây lắp, sửa chữa thì tổ chức Đội sửa chữa công trình, cơ điện. Xí nghiệp tư vấn, xí nghiệp xây lắp hoặc đội sửa chữa đều là đơn vị có tư cách pháp nhân không đầy đủ, hạch toán phụ thuộc Công ty, được Công ty trang bị nhà xưởng, phương tiện vận chuyển, máy móc, dụng cụ sửa chữa tại xưởng và lưu động trong hệ thống. Các Công ty hạng III trở xuống không đủ điều kiện để tổ chức Xí nghiệp hoặc Đội sửa chữa thì tổ chức một tổ sửa chữa có 6-8 lao động trong số định biên hoạt động công ích để đáp ứng yêu cầu sửa chữa đột xuất trong hệ thống. Ngoài các đơn vị ghi trên, Công ty có thể tổ chức các đơn vị kinh doanh phụ khác như: Phát điện, trồng cây, nuôi cá, du lịch, khách sạn... Công ty KTCTTL chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ các hoạt động và sự cam kết của các đơn vị này. b. Mô hình Công ty KTCTTL liên Huyện Là Công ty KTCTTL quản lý hệ thống có diện tích tưới, tiêu từ hai huyện trở lên trực thuộc Sở NN & PTNT quản lý. Công ty liên Huyện được tổ chức như sau: + Giám đốc, Phó giám đốc. + Bộ máy giúp việc được tổ chức như Công ty Liên tỉnh, Tỉnh, số lao động được định biên tương xứng nhiệm vụ được giao. + Tổ chức sản xuất. - Đối với hệ thống lớn tổ chức Xí nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc, dưới Xí nghiệp thành viên là các Cụm thuỷ nông. Đối với Công ty từ hạng III trở xuống không tổ chức xí nghiệp thành viên mà chỉ tổ chức Trạm thuỷ nông trực thuộc Công ty, dưới trạm thuỷ nông là các Cụm thuỷ nông, đối với hệ thống nhỏ thì tổ chức Cụm thuỷ nông trực thuộc Công ty, không tổ chức trạm thuỷ nông. - Việc tổ chức kinh doanh phụ khác: Được thực hiện theo Điều 10 Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996 của Chính phủ. c. Mô hình Công ty KTCTTL Huyện Công ty KTCTTL Huyện là Công ty quản lý hệ thống công trình tưới, tiêu trong phạm vi huyện. Bộ máy gồm Ban giám đốc và được tổ chức không quá 4 phòng như Công ty liên Huyện nhưng số định biên ít hơn, tương ứng với chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao và chỉ tổ chức Cụm thủy nông trực thuộc Công ty. Công ty KTCTTL từ hạng IV không tổ chức phòng quản lý mà thành lập tổ giúp việc giám đốc từng lĩnh vực quản lý. Công ty KTCTTL huyện cũng được tổ chức các đơn vị kinh doanh, dịch vụ ngoài nhiệm vụ công ích theo Điều 10 Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996 của Chính phủ. 4. Quá trình hình thành và phát triển thuỷ lợi ở nước ta ở nước ta sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên: Vào mùa mưa thường bị úng lụt và mùa khô lại bị hạn hán. Ví dụ: Vào tháng 7/2000 dông lốc, lũ quét xảy ra ở một số tỉnh đã gây ra thiệt hại lớn: 291.114 ha lúa bị ngập, 24.757 ha lúa mất trắng. Do đó lũ lụt, hạn hán là mối đe doạ thường xuyên đến sản xuất và đời sống của nhân dân. (Báo cáo tổng hợp của Công ty) Từ bao đời nay, nhân dân ta sống chủ yếu dựa vào nghề trồng lúa nước. Trong điều kiện lao động thủ công, nhân dân ta đã phải đấu tranh với thiên nhiên , tìm ra các biện pháp hữu hiệu để tưới, tiêu nước, chống hạn và chống úng. Ví dụ như: tạo ra các ao, hồ, đập để trữ nước, mương máng để tưới, tiêu và đắp đê điều để chống lụt. Vì vậy, có thể nói lịch sử phát triển nông nghiệp Việt Nam gắn liền với lịch sử truyền thống làm thủy lợi. Từ thời Vua Hùng, người Lạc Việt đã biết sử dụng các đợt thuỷ triều lấy nước tưới ruộng đồng ở vùng đồng bằng. Cuối thời các Vua Hùng, một công trình dẫn nước tự chảy hứng nước trên núi chảy xuống mương đưa nước vào ruộng được hình thành ở Do Linh (Quảng Trị) nhờ phát hiện của nhà khảo cổ học Colanie. Đến các triều đại phong kiến (thời nhà Lý, Trần...)đã trực tiếp lãnh đạo đôn đốc việc đắp đê, đào sông ngòi. Sự hình thành các công trình thuỷ lợi cùng với việc khai thác, quản lý, sử dụng và bảo dưỡng chúng là kết quả của quá trình đúc kết những tri thức và kinh nghiệm của con người nhằm đảm bảo nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp và cho các ngành kinh tế khác. Dưới triều đại phong kiến, hệ thống công trình thuỷ lợi được phát triển mạnh mẽ dưới các hình thức đắp đê, đào sông ngòi như thời nhà Lý đắp đê sông Như Nguyệt, năm 1108 đắp đê Cơ Xá, năm 1129 đào sông Tô Lịch. Thời nhà Trần cũng chú trọng đến việc đào sông ngòi như năm 1256 và năm 1284 đã khơi đào lại sông Tô Lịch và khơi lại kênh Hào. Đến cuối thế kỷ XVIII đã đào các kênh Bảo Đình (1765), kênh Thương Mai (1785), kênh Ruột Ngựa (1792). Sang đầu thế kỷ XIX các kênh mới đào thêm như kênh Thoại Hà (1818), kênh Vĩnh Tế (1819-1822). Thời pháp thuộc, các hệ thống thuỷ nông được xây dựng có năng lực thiết kế phục vụ tưới, tiêu cho 298.000 ha ở Bắc Kỳ và 124.000 ha ở Trung Kỳ nhưng thực tế ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ mới tưới, tiêu được 300.000 ha. ở thời kỳ này các hệ thống thuỷ nông xây dựng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu cấp nước tưới, còn về tiêu hầu như chưa đặt ra. Sông Nhuệ là hệ thống duy nhất trong số 13 hệ thống thủy nông lớn ở nước ta ra đời từ những năm 30 trở về trước có thêm nhiệm vụ tiêu tự chảy ra sông Đáy. Từ ngày hoà bình lặp lại các hệ thống thuỷ nông xây dựng mới đều có cả hai chức năng tưới và tiêu nước. Những hệ thống đã xây dựng từ trước được bổ sung thêm các trạm bơm tiêu cho một số diện tích thấp không có khả năng tiêu tự chảy. Đến trước năm 1973 do trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp, nhiều vùng trũng rộng lớn còn bỏ hoang hoá hoặc chỉ cấy một vụ lúa, trong khi vào mùa lũ lượng nước cần tiêu trong đồng nhiều. Vì vậy, hàng loạt cống tiêu tự chảy được xây dựng trong thời kỳ này. Giai đoạn 1973-1976 vùng đồng bằng Bắc Bộ có 42 hệ thống được rà soát và quy hoạch lại để đảm bảo tưới ổn định 500.000 ha, tiêu gần 220.000 ha. Thời kỳ này nền nông nghiệp thâm canh đã có những bước tiến vượt bậc, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật được đưa vào sản xuất. Mặc dù lúa vẫn là cây lương thực quan trọng nhất nhưng màu và cây công nghiệp ngắn ngày đã được trồng trên diện tích rộng thành những vùng chuyên canh lớn. Từ sau năm 1976 phần lớn các địa phương đã hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông. Những năm gần đây hầu hết các hệ thống thuỷ nông lớn đều được rà soát, bổ sung quy hoạch để đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội. Trong mấy chục năm qua, công tác thuỷ lợi đã có bước phát triển rất nhanh. Hàng năm Nhà nước đã đầu tư khoảng 10% ngân sách và huy động sức dân rất lớn để xây dựng nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi. Tính đến nay, cả nước có 75 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn, rất nhiều hệ thống thuỷ lợi nhỏ, gần 600 hồ chứa vừa và lớn (với dung tích trên 1 triệu m3 và chiều cao đập trên 10m), trên 10.000 hồ đập nhỏ, trên 2000 trạm bơm điện lớn các loại với công suất lắp máy cho tưới trên 250 Mw và cho tiêu gần 300 Mw, gần 1000 cống tưới tiêu lớn dưới đê sông, đê biển, khoảng 8000 km bờ bao ngăn lũ cùng với hàng vạn km kênh mương và công trình trên kênh. Cơ sở vật chất kỹ thuật này đã tạo ra năng lực tưới cho trên 3 triệu ha đất canh tác, năng lực tiêu cho 1,4 triệu ha đất tự nhiên ở các tỉnh Bắc Bộ, ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1,6 triệu ha đất chua phèn ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ vậy đã khắc phục được tình trạng úng hạn, mở rộng diện tích gieo trồng, cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. 5. Hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 5.1. Khái niệm và phân loại hiệu quả a. Khái niệm và bản chất * Khái niệm: Mặc dù, còn nhiều quan điểm khác nhau song có thể khẳng định trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay mọi doanh nghiệp kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải xác định chiến lược kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh, phải phân bổ và quản trị có hiệu quả các nguồn lực và luôn kiểm tra quá trình đang diễn ra là có hiệu quả? Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh phải đánh giá được hiệu quả kinh doanh ở phạm vi doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận của nó. Có thể nói rằng mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh. Chúng ta hãy bắt đầu bằng các khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh tế. Có quan điểm cho rằng: “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”. Thực chất quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên giác độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét trên giác độ lý thuyết, hiệu quả chỉ có thể đạt được trên đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mức hiệu quả kinh doanh này sẽ cần rất nhiều điều kiện, trong đó đòi hỏi phải dự báo và quyết định đầu tư sản xuất theo quy mô phù hợp với cầu thị trường. Thế mà không phải lúc nào điều này cũng trở thành hiện thực. Nhiều nhà quản trị học quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỉ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó. Manfred Kuhn cho rằng: “Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”. Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy, có thể mô tả hiệu quả kinh doanh bằng công thức chung nhất như sau: H = K/C Trong đó: H - Hiệu quả kinh doanh K - Kết quả đạt được C- Hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả đó Hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất ._.trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào qui mô và tốc độ biến động của từng nhân tố. * Bản chất: Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (lao động, máy móc thiết bị, nguyên liệu, tiền vốn) trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm tù hiệu quả và kết quả. Kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị. Các đơn vị hiện vật cụ thể được sử dụng tùy thuộc vào đặc trưng của sản phẩm mà quá trình kinh doanh tạo ra, nó có thể là tấn, tạ, kg, m2, m3, lít,... Các đơn vị giá trị có thể là đồng, triệu đồng, ngoại tệ,... Kết quả cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh hoàn toàn định tính như uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm,... Cần chú ý rằng không phải chỉ kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,... Hơn nữa, hầu như quá trình sản xuất lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao giờ thì thì tiêu thụ được và thu được tiền về ... Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm tù tương đối. Cần chú ý rằng trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối: Tỉ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí luôn là số tuyệt đối, phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả của quá trình kinh doanh và không bao giờ phản ánh được trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất kinh doanh thì hiệu quả là phương tiện để có thể đạt được các mục tiêu đó. Hao phí nguồn lực của một thời kỳ trước hết là hao phí về mặt hiện vật, cũng có thể được xác định bởi đơn vị hiện vật và đơn vị giá trị. Tuy nhiên, thông thường người ta hay sử dụng đơn vị giá trị vì nó mang tính so sánh cao. Rõ ràng, việc xác định hao phí nguồn lực của một thời kỳ xác định cũng là vấn đề không đơn giản. Không đơn giản ở ngay sự nhận thức về phạm trù này: Hao phí nguồn lực được đánh giá thông qua phạm trù chi phí, chi phí kế toán hay chi phí kinh doanh? Cần chú ý rằng trong các phạm trù trên chỉ phạm trù chi phí kinh doanh là phản ánh tương đối chính xác hao phí nguồn lực thực tế. Mặt khác, việc có tính toán được chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay không cũng như có tính toán được chi phí kinh doanh đến từng bộ phận doanh nghiệp hay không còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh. Cũng cần chú ý rằng hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn nhân lực sản xuất trong một thời kỳ kinh doanh nào đó hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào. Vậy, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn nhân lực, phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh, phức tạp và khó tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó đều khó xác định một cách chính xác. b. Phân loại hiệu quả Hiệu quả có thể đánh giá ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau và thời kỳ khác nhau. Trên các cơ sở này, để hiểu rõ hơn bản chất của phạm trù hiệu quả cũng cần đứng trên từng góc độ cụ thể mà phân loại các loại hiệu quả. * Hiệu quả xã hội, kinh tế, kinh tế - xã hội. Thứ nhất, hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là giải quyết công ăn, việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao phúc lợi xã hội, mức sống và đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động, đảm bảo và nâng cao sức khoẻ cho người lao động, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường,... Hiệu quả xã hội thường gắn với các mô hình kinh tế hỗn hợp và trước hết thường được đánh giá và giải quyết ở góc độ vĩ mô. Thứ hai, hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt các mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Hiệu quả kinh tế thường được nghiên cứu ở giác độ quản lý vĩ mô. Cần chú ý rằng không phải bao giờ hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh cũng vận động cùng chiều. Có thể từng doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh doanh cao song chưa chắc nền kinh tế đã đạt hiệu quả kinh tế cao bởi lẽ kết quả của một nền kinh tế đạt được trong mỗi thời kỳ không phải lúc nào cũng là tổng đơn thuần của các kết quả của từng doanh nghiệp. Thứ ba, hiệu quả kinh tế- xã hội. Hiệu quả kinh tế- xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Hiệu quả kinh tế- xã hội gắn với nền kinh tế hỗn hợp và được xem xét ở góc độ quản lý vĩ mô. * Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và lĩnh vực hoạt động. Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (một đơn vị bộ phận của doanh nghiệp) trong một thời kỳ xác định. Thứ hai, hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động. Hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động là hiệu quả chỉ đánh giá ở từng lĩnh vực hoạt động (sử dụng vốn, lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu,...) cụ thể của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động không phản ánh hiệu quả tổng hợp mà chỉ phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp cấp doanh nghiệp phản ánh hiệu quả của tất cả các lĩnh vực hoạt động cụ thể ở cấp doanh nghiệp và các đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp có thể xuất hiện mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh ở từng lĩnh vực hoạt động, khi đó chỉ có chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp là phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động chỉ có thể phản ánh hiệu quả ở từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp mà thôi. * Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn. Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh ngắn hạn. Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá ở từng khoảng thời gian ngắn. Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn chỉ đề cập đến từng khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng, quý, năm, vài năm,... Thứ hai, hiệu quả kinh doanh dài hạn. Hiệu quả kinh doanh dài hạn là hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá trong khoảng thời gian dài, gắn với các chiến lược, các kế hoạch dài hạn hoặc thậm chí, nói đến hiệu quả kinh doanh dài hạn người ta hay nhắc đến hiệu quả lâu dài, gắn với quãng đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cần chú ý rằng, giữa hiệu quả kinh doanh dài hạn và ngắn hạn vừa có mối quan hệ biện chứng với nhau và trong nhiều trường hợp có thể mâu thuẫn với nhau. Về nguyên tắc, chỉ có thể xem xét và đánh giá hiệu quả kinh doanh ngắn hạn trên cơ sở vẫn đảm bảo đạt được hiệu quả kinh doanh dài hạn trong tương lai. Trong thực tế, nếu xuất hiện mâu thuẫn giữa hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, chỉ có thể lấy hiệu quả kinh doanh dài hạn làm thước đo chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vì nó phản ánh xuyên suốt quá trình lợi dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp. 5.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh a. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp Thứ nhất, các chỉ tiêu doanh lợi. Các chỉ tiêu doanh lợi thường được các nhà quản trị, các nhà tài trợ,... quan tâm xem xét. Đó thường là các chỉ tiêu cụ thể dưới đây: Doanh lợi của toàn bộ vốn. DVKD = (PR + TLVV)/VKD (1) Trong đó: DVKD - Doanh lợi toàn bộ vốn của một thời kỳ. PR - Lãi ròng thu được của thời kỳ tính toán. TLVV - Lãi trả vốn vay của thời kỳ đó. VKD - Tổng vốn của doanh nghiệp. Đối với các Doanh nghiệp Nhà nước, theo quy định của Bộ tài chính còn cần phải tính chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước. DVNN = PR / VNN (2) Trong đó: DVNN - Doanh lợi của toàn vốn Nhà nước của một thời kỳ. VNN - Tổng vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Thứ hai, chỉ tiêu hiệu quả theo chi phí. * Hiệu quả theo tiềm năng của một thời kỳ. HTN = TCKDTt / TCKDPD (3) Trong đó: HTN - Hiệu quả tính theo tiềm năng. TCKDTt - Chi phí thực tế phát sinh của kỳ. TCKDPD - Chi phí phải đạt. Chi phí phải đạt của một thời kỳ xác định thường được xác định trên cơ sở các định mức tiên tiến (chi phí định mức) hoặc chi phí kế hoạch của thời kỳ đó. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được sử dụng đánh giá hiệu quả kinh doanh ở phạm vi toàn doanh nghiệp cũng như từng đơn vị bộ phận bên trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên cũng được xác định dễ dàng đặc biệt ở các đơn vị bộ phận hạch toán độc lập. Tiêu chuẩn hiệu quả tốt nhất của các chỉ tiêu trên là giá trị bình quân đạt được của ngành, của khu vực hay của quốc tế trong thời kỳ đánh giá. b. Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn. Một là, số vòng quay toàn bộ vốn. SVVKD = TR / VKD (4) Trong đó: SVVKD - Là số vòng quay của vốn. Số vòng quay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Hai là, hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hiệu quả sử dụng vốn cố định được đánh giá trước hết bởi chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định: HTSCĐ = PR / TSCĐG (5) Trong đó: HTSCĐ - Hiệu suất sử dụng tài sản cố định. TSCĐG - Tổng giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ. Tổng giá trị bình quân của tài sản cố định trong kỳ là tổng giá trị còn lại của tài sản cố định, được tính theo nguyên giá của tài sản cố định sau khi đã trừ đi phần hao mòn tích luỹ đến thời kỳ tính toán. Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định, khả năng sinh lợi của tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định còn được đánh giá bằng chỉ tiêu suất hao phí tài sản cố định. Suất hao phí tài sản cố định là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định (= 1/H TSCĐ). Chỉ tiêu này cho biết giá trị tài sản cố định cần thiết để tạo ra 1 đồng lãi. Ngoài ra, còn đánh giá trên chỉ tiêu sức sản suất của tài sản cố định: SVTSCĐ = TR / TSCĐG (6) Trong đó: SVTSCĐ - Sức sản suất của tài sản cố định. TR - Doanh thu bán hàng. TSCĐG - Tổng giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ. Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng giá trị tài sản cố định đem lại mấy đồng doanh thu. Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định để xác định tính hiệu quả và nguyên nhân của việc sử dụng không có hiệu quả tài sản cố định. Thông thường, trước hết đó là do đầu tư tài sản cố định quá mức cần thiết, đầu tư vào tài sản cố định không dùng đến, sử dụng tài sản cố định không hết công suất,... Ba là, hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của thời kỳ tính toán được xác định: HVLĐ = PR / VLĐ (7) Trong đó: HVLĐ - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. VLĐ - Vốn lưu động bình quân của kỳ tính toán. Vốn lưu động bình quân của kỳ tính toán chính là giá trị bình quân của vốn lưu động có ở đầu kỳ và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Ngoài ra, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh thông qua chỉ tiêu số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm: SVVLĐ = TR / VLĐ (8) Trong đó: SVVLĐ - Số vòng luân chuyển vốn lưu động trong năm. Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nghịch đảo của chỉ tiêu trên là chỉ tiêu số ngày bình quân của một kỳ luân chuyển vốn lưu động: 365 365 x VLĐ  SNLC = ________ = ___________ (9) SVVLĐ TR Trong đó: SNLC - Số ngày bình quân của một vòng luân chuyển vốn lưu động. Tuy nhiên, các chỉ tiêu hiệu quả này cũng còn đang tiếp tục được tranh cãi. Bốn là, hiệu quả sử dụng vốn lưu động tính theo lợi nhuận. Chỉ tiêu này được xác định bằng tích của tỷ suất lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh với số vòng luân chuyển vốn lưu động: PR TR HVLĐ = _______ x _______ (10) TR VLĐ Như vậy, nếu cố định chỉ tiêu tỷ trọng lợi nhuận trong vốn kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động tỷ lệ thuận với số vòng quay của vốn lưu động. Tăng số vòng quay của vốn lưu động sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Thứ hai, Hiệu quả sử dụng lao động. Lao động là nhân tố sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, số lượng và chất lượng lao động là nhân tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở các chỉ tiêu năng suất lao động, mức sinh lời của lao động và hiệu suất tiền lương. Một là, năng suất lao động. Năng suất lao động bình quân của thời kỳ tính toán được xác định: APN = K / LBQ (11) Trong đó: APN - Năng suất lao động bình quân của kỳ tính toán (hiện vật, giá trị) K - Kết quả tính bằng đơn vị hiện vật hay giá trị. LBQ - Số lao động bình quân. Thời gian của một kỳ tính toán thường là một năm. Năng suất lao động năm chịu ảnh hưởng lớn của việc sử dụng thời gian lao động trong năm: số ngày làm việc trong năm, số giờ làm việc trong ngày, năng suất bình quân của mỗi giờ. Vì vậy, năng suất lao động bình quân năm còn được tính theo cho các khoảng thời gian ngắn hơn. Năng suất lao động bình quân/ giờ. APG = APN / N x C x G (12) Trong đó: APG - Năng suất lao động bình quân giờ. N - Số ngày làm việc bình quân/năm. C - Số ca làm việc/ ngày. G - Số giờ làm việc bình quân/ ca làm việc. Hai là, chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động. Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của một lao động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của một lao động cho biết mỗi lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một kỳ tính toán. Chỉ tiêu này có thể được xác định theo công thức cụ thể sau: PBQ = PR/ LBQ (13) Với PBQ - Lợi nhuận bình quân do một lao động tạo ra trong kỳ tính toán. Thứ ba, Hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Ngoài các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định còn có thể đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định thông qua chỉ tiêu hệ số tận dụng công suất máy móc thiết bị: HMMS = QTt / QTK (14) Trong đó: HMMS - Hệ số tận dụng công suất thiết bị máy móc. QTt - Sản lượng thực tế đạt được. QTK - Sản lượng thiết kế. Cần chú ý rằng nhiều chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được tính toán và sử dụng không chỉ ở phạm vi doanh nghiệp mà còn ở phạm vi các bộ phận nhỏ bên trong doanh nghiệp (như phân xưởng, tổ sản xuất...). Việc phân tích hệ thống chỉ tiêu này xuyên suốt ở các cấp khác nhau trong doanh nghiệp sẽ xác định được hiệu quả kinh doanh ở từng cấp, từng bộ phận và sự đóng góp của mỗi bộ phận vào hiệu quả kinh doanh chung. Tuy nhiên, tuỳ theo từng hoạt động cụ thể có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu riêng và tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động cho phù hợp. Cuối cùng, để việc đánh giá hiệu quả có ý nghĩa thì tiêu chuẩn hiệu quả phải được hình thành cho mỗi chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh cụ thể. Bên cạnh hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả mang tính định lượng ở trên, để kết quả đánh giá được chính xác cần kết hợp với những phân tích định tính bởi lẽ những kết quả và chi phí bỏ ra để đạt kết quả trong quá trình sản xuất kinh doanh đôi khi không thể lượng hoá được. Ví dụ như: thành quả trong việc xây dựng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, sự hài lòng của người tiêu dùng đôi khi không được thể hiện đủ trong doanh thu và lợi nhuận. Để đánh giá hiệu quả đầu tư dự án kinh doanh hoặc hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ và trang thiết bị lại doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp, do tính đặc thù của hoạt động này nên cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu đánh giá mang tính riêng biệt. 6. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông Công ty KTCTTL là đơn vị kinh tế độc lập, vì thế hiệu quả là mục tiêu lớn nhất của Công ty. Mục tiêu lớn nhất của Công ty là làm sao đạt được hiệu quả cao nhất mà ở đây là hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông phục vụ sản xuất nông nghiệp. Công ty qua các năm luôn phải tìm ra các biện pháp thích hợp để đạt được mục tiêu của mình trong quá trình hoạt động. Có thể nói dù doanh nghiệp hoạt động ở bất kỳ hình thức nào thì vấn đề hiệu quả vẫn được đưa lên hàng đầu trong quá trình phát triển, mà ở đây có thể là hiệu quả định lượng hay định tính. Mặt khác, hiệu quả là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục tiến hành các hoạt động theo mục tiêu đề ra đồng thời cũng là cơ sở để doanh nghiệp có điều kiện ngày càng phát triển hơn nữa theo kịp tiến trình phát triển của cả nước. Nếu nhiều năm liền Công ty không đạt được hiệu quả theo mục tiêu đề ra thì Công ty có thể bị giải thể cho nên dù muốn hay không thì vấn đề hiệu quả vẫn được đặt lên hàng đầu. Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu này, doanh nghiệp phải sản xuất sản phẩm (dịch vụ) cung cấp cho thị trường. Để sản xuất phải sử dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhất định. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh càng cao càng phản ánh việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất.Vì vậy, nâng cao hiệu quả là đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Các Công ty KTCTTL là các doanh nghiệp hoạt động công ích, nguồn vốn của Công ty có thể từ ngân sách Nhà nước, thu từ dân hoặc nguồn vốn tự có của Công ty. Do đó, Công ty luôn luôn phải đặt ra câu hỏi: “Làm sao để Công ty sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả nhất mà không lãng phí”. Vì thế, việc nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thủy nông là rất cần thiết đối với Công ty. Bên cạnh đó, hiệu quả dịch vụ thủy nông còn xuất phát từ yêu cầu của người hưởng lợi (người nông dân). Người nông dân trực tiếp hưởng thụ hiệu quả do hoạt động dịch vụ thủy nông mang lại. Họ được hưởng lợi đồng thời họ phải chịu trách nhiệm trở lại đối với Công ty. Người nông dân đánh giá hiệu quả dịch vụ thuỷ nông thông qua số lượng, chất lượng dịch vụ mà họ được hưởng. Công ty và hộ dùng nước phải có một bản hợp đồng ký kết về giá cả dịch vụ, thời gian hoàn thành, trách nhiệm, nghĩa vụ của Công ty và của người sử dụng dịch vụ. Nếu Công ty không làm tròn được trách nhiệm của mình thì người nông dân sẽ không ủng hộ và từ đó họ sẽ không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Công ty. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là Công ty muốn tồn tại và phát triển thì luôn luôn phải coi trọng vấn đề hiệu quả. 7. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển thuỷ lợi, thuỷ nông Nhận thức được vai trò to lớn của thuỷ lợi trong sản xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đầu tư cho những công trình thuỷ lợi. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV đã nêu: “Trong điều kiện sản xuất nông nghiệp nước ta hiện nay thì biện pháp kỹ thuật nhậy nhất để phát huy tính hơn hẳn là thuỷ lợi”. Đến nay Nhà nước đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng cho các công trình thuỷ lợi và các công trình này đã và đang phát huy có hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân ta đã tích cực và bền bỉ tham gia làm thuỷ lợi. Những năm qua Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư khá lớn cho xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống công trình thuỷ lợi, tập trung đầu tư xây dựng kiên cố hoá kênh mương. Năm 1999, vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi và xây dựng nông thôn tăng 58% so với năm 1998 trong đó đầu tư cho thủy lợi là 1.115 tỷ đồng. Nhờ các công trình thuỷ lợi được đưa vào sử dụng, phục vụ tưới tiêu và rửa chua mặn mà riêng vụ hè thu năm 1999 ở đồng bằng sông Cửu Long năng suất lúa bình quân đạt 41,4 tạ/ha, sản lượng lúa đạt 66.230.000 tấn; hàng chục vạn ha đất canh tác ở đồng bằng sông Hồng và hàng triệu ha đất canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long trước đây chỉ có một vụ bấp bênh, nay đã có thể thâm canh tăng vụ. Vì vậy, cuộc họp Quốc hội thảo luận về báo cáo Chính phủ 10/5/1999 cho rằng: “Có phải đi vay nước ngoài cũng phải tăng đầu tư cho thuỷ lợi”. Với phương châm: “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Vừa ích nước vừa lợi nhà”, trong những năm qua Nhà nước và nhân dân đã đầu tư khá lớn cho việc xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp công trình. Ví dụ như: năm 1999 hoàn thiện 70 công trình với tổng số vốn đầu tư là 3.041 tỷ đồng. Theo Nghị định 338 - HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng các Công ty KTCTTL được thành lập để khai thác, quản lý các hệ thống công trình thủy nông phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nhà nước quy định Công ty là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, lấy thuỷ lợi phí để trang trải chi phí đầu vào. Tuy nhiên, việc thu thuỷ lợi phí là công việc khó khăn, phức tạp nên các Công ty thuỷ nông gặp rất nhiều khó khăn, thu không đủ chi. Vì thế, các công trình thuỷ lợi hiện nay do sử dụng quá lâu đã hư hỏng, xuống cấp do không có kinh phí để sửa chữa, nâng cấp, chất lượng xây dựng công trình chưa đồng bộ, mặt khác đội ngũ cán bộ, công nhân ở các Công ty này trình độ còn yếu kém. Vì thế, những năm tới Đảng và Nhà nước ta cần đầu tư hơn nữa cho công tác thuỷ lợi cả về số lượng và chất lượng. Chương II: Thực trạng hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông tại Công ty KTCTTL Yên Khánh I. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội của huyện Yên Khánh ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông 1. Đặc điểm tự nhiên a. Vị trí địa lý Huyện Yên Khánh là một huyện đồng bằng thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng cách Thị xã Ninh Bình 4km về phía Đông Bắc. Huyện Yên Khánh gồm 19 xã và 1 thị trấn. Địa bàn nằm ở vị trí tương đối thuận lợi và giáp các vùng sau: - Phía Bắc giáp huyện Hoa Lư. - Phía Nam giáp huyện Kim Sơn. - Phía Tây giáp huyện Yên Mô. - Phía Đông giáp sông Đáy và tỉnh Nam Định. Huyện Yên Khánh có 15 km đường giao thông liên tỉnh chạy qua và được bao 2 mặt là sông. - Phía Đông Bắc là sông Đáy. - Phía Tây Nam là sông Vạc. Yên Khánh có vị trí khá thuận lợi cho các ngành nghề phát triển, nhất là các ngành nghề trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Với vị trí địa lý như trên tạo tiền đề cho hoạt động dịch vụ thuỷ nông đạt hiệu quả cao. Công ty KTCTTL Yên Khánh đã tận dụng những ưu thế này xây dựng hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ tốt cho nhu cầu sử dụng nước của hộ nông dân cũng như các HTX. b. Về địa hình Địa hình huyện Yên Khánh tương đối đa dạng, phía Bắc huyện địa hình phức tạp đồng ruộng xen lẫn với khu dân cư, diện tích đất màu tương đối lớn cốt đất không đều. Điều này chứng tỏ công tác tưới tiêu rất đa dạng và phức tạp cùng lúc có thể vừa tưới, vừa tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ thuỷ nông của Công ty hoạt động có hiệu quả cao. Điều này đã mang đến cho Công ty nhiều ưu thế trong quá trình khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Phía Nam huyện địa hình bằng phẳng xen kẽ là hệ thống sông ngòi, vì vậy việc tưới tiêu chủ yếu là hệ thống thuỷ triều, khá thuận lợi cho việc phục vụ tưới, tiêu cho các loại cây trồng. Cao độ ruộng đất trong toàn huyện được phân bổ như sau: Bảng 1: Phân loại đất theo cao độ chỉ tiêu 2000 2001 2002 DT(ha) CC% DT(ha) CC% DT(ha) CC% Tổng diện tích đất tự nhiên 13.779,29 100,00 13.779,29 100,00 13.779,29 100,00 * Chia theo độ cao + Vàn cao 2.823,27 40,49 2.848,30 20,67 2.867,50 20,81 + Vàn 7.235,70 52,50 7..227,52 52,45 7.215,31 52,36 + Vàn thắng và trũng 3.720,32 27,01 3.703,47 26,88 3.696,48 26,83 Nguồn: Phòng địa chính huyện Đất tự nhiên của huyện Yên Khánh tập trung ở độ cao + 0,7 đ 1,2 (đất vàn cao và đất vàn thấp) với 27,01% tổng diện tích tự nhiên do đó thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và thuỷ cầm (chăn nuôi vịt, ngan). Mặt khác, nó còn ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng các công trình và sử dụng hiệu quả các công trình. Địa hình huyện tương đối thuận lợi cho hoạt động dịch vụ thuỷ nông, độ cao của đất ở mức trung bình nên việc xây dựng công trình có phần thuận tiện, giảm chi phí xây dựng, thuận tiện trong việc quản lý vận hành hệ thống công trình. Đất trong toàn huyện chủ yếu ở độ cao trung bình ví dụ như năm 2000 đất vùng cao là: 2.823,27 ha, đất vùng thấp là: 3.720,32 ha, trong khi đó vùng đất trung bình là: 7.235,7 ha. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông. Nếu ở vùng đất quá cao thì việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi đó chi phí cho thuỷ lợi là rất lớn và sẽ xảy ra tình trạng một số khu vực nông dân không đủ kinh phí chi trả cho Công ty dịch vụ thuỷ nông. Còn ngược lại, ở vùng đất thấp thì việc tiêu úng sẽ vô cùng nan giải. Vì thế, với địa hình này Công ty đã có rất nhiều điều kiện thuận lợi thực hiện tốt việc tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Từ những đặc điểm địa hình như trên chúng ta thấy để phát triển nền nông nghiệp bền vững và nuôi trồng thủy sản, cần hoàn thiện công tác thuỷ nông để phục vụ việc tưới, tiêu kịp thời nhằm nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất. c. Thời tiết khí hậu Yên Khánh là huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa lạnh kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ ở thời gian này thấp nên thích hợp cho việc phát triển các loại cây vụ đông. Tuy nhiên, vào những ngày đông giá lạnh, nhiệt độ xuống thấp dưới 100C và kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến cây trồng vật nuôi và việc tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Mùa hạ thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều. Thời gian từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa trong mùa hạ thường chiếm trên 80% tổng lượng mưa cả năm. Vì thế, vào mùa hạ hệ thống công trình bị hư hại rất nhiều, việc bảo quản công trình gặp nhiều khó khăn. Lượng mưa lớn có năm gây ngập úng Công ty phải luôn luôn đưa ra biện pháp kịp thời để tránh gây thiệt hại nặng nề cho hệ thống công trình của Công ty cũng như tình hình mùa màng thu hoạch của nông dân. Trong điều kiện này, có những lúc hệ thống công trình máy móc thiết bị đã phải hoạt động hết công suất vì thế chi phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa công trình tương đối lớn. Theo thống kê của đài khí tượng thuỷ văn tỉnh Ninh Bình thì thời tiết khí hậu của huyện Yên Khánh như sau: Nhiệt độ trung bình trong năm khoảng 250C, nhiệt độ cao nhất là 36 - 390C vào các tháng 6, 7, 8 và thấp nhất là 5 - 70C vào các tháng 1, 2. Vào khoảng thời gian này lượng nước bốc hơi lên rất lớn thường gây ra tình trạng hạn hán, chân ruộng có nơi khô cạn, nứt nẻ. Vì thế, vấn đề thuỷ lợi trở thành vấn đề cấp bách, Công ty thường xuyên phải kiểm tra nước và tiến hành tưới kịp thời cho nông dân sản xuất bình thường. Trong thời gian này cán bộ công nhân viên Công ty không được lơ là nhiệm vụ mà phải tích cực theo dõi tình hình nước tại các cánh đồng để có biện pháp xử lý kịp thời giúp Công ty ngày càng nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động dịch vụ thủy nông. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm là 80 - 85%, độ ẩm cao nhất là 90%, thấp nhất là 75%. Số giờ nắng trung bình là 1500 - 1600 giờ/năm tương đương với 120 - 150 ngày. Tháng có dưới 100 giờ nắng là tháng 1, 2, 3, tháng có giờ nắng cao nhất là tháng 7, 8 với khoảng 190 giờ. Hướng gió thịnh hành trong vùng là gió Đông Nam (mùa hạ) gió Đông Bắc (mùa lạnh). Bão thường tập trung vào các tháng 7, 8, 9 hàng năm, kèm theo mưa to gây ngập úng, hư hại cây trồng. Vào các tháng 7, 8, 9 trên địa bàn huyện thường có lượng mưa lớn do lũ gây ra, dẫn đến tình trạng ngập úng ở cốt đất thấp và trũng. Vì vậy, thời gian này cần chuẩn bị chu đáo cho việc tiêu úng để tạo điều kiện cho nông dân yên tâm sản xuất nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. d. Tình hình đất đai Huyện Yên Khánh có tổng diện tích đất tự nhiên là 13.779,29 ha. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp của huyện trong mấy năm gần đây có xu hướng giảm, do diện tích đất nông nghiệp được sử dụng làm đường giao thông, làm trang trại, xây dựng các công trình công cộng và các doanh nghiệp. Tình hình đất đai của huyện được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình phân bổ và sử dụng đất đai của huyện Yên Khánh Chỉ tiêu ĐV 2000 2001 2002 DT (ha) CC(%) DT (ha) CC(%) DT (ha) CC(%) I. Tổng diện tích đất tự nhiên Ha 13.779,29 13.779,29 13.779,29 Đất nông nghiệp Ha 9.773,33 70,93 9.766,70 70,88 9.754,46 70,79 - Đất canh tác Ha 7.878,18 80,61 7.876,13 80,64 7.867,41 80,65 - Đất vườn tạp Ha 593,77 6,08 593,66 6,08 593,15 6,08 - Đất trồng cây hàng năm Ha 735,68 7,53 732,53 7,5 730,56 7,5 - Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản Ha 565,70 5,78 564,38 5,78 568,34 5,77 II. Một số chỉ tiêu bình quân - Đất NN/Hộ NN m2/hộ 2.966,19 2.945,37 2.942,53 - Đất canh tác /hộ NN m2/hộ 2.391,02 2.373,61 2.368,70 - Đất canh tác/khẩu NN m2/ng 591,28 590,04 587,78 Hệ số sử dụng ruộng đất Lần 2,06 2,07 2,07 III. Tổng diện tích đất gieo trồng Ha 16.269,58 16.311,22 16.324,83 Nguồn: Phòng Địa Chính huyện Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn (trên 70%) so với tổng diện tích đất tự nhiên. Điều này cho thấy, muốn phát triển kinh tế của huyện thì cần chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết. Nhưng hiện nay diện tích đất nông nghiệp đang có xu hướng giảm, cụ thể: Năm 2000 diện tích đất nông nghiệp 9.773,33 ha (chiếm 70,93%) đến năm 2002 di._. huyện đến cơ sở. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đai hoá. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; phấn đấu năm 2005 chuyển từ 700 - 900 ha đất trồng lúa có hiệu quả kinh tế thấp sang nuôi trồng cây, con nuôi có hiệu quả kinh tế cao. Tập trung chỉ đạo hoàn thành “Dồn điền, đổi thửa” trong năm 2004. Xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá theo từng vùng lúa, màu, rau quả, cây công nghiệp, con nuôi,... Tiến hành khảo sát, xây dựng mô hình cánh đồng có giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ ha/ năm. Đến năm 2005 mỗi xã, thị trấn có hai cánh đồng và 15 trang trại trở lên. Tổ chức thực hiện có hiệu quả dự án nuôi bò sửa, bò lai sin, lợn siêu nạc, phát triển nuôi tôm càng xanh, cá chim trắng ở các xã. Phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, khôi phục các nghề truyền thống và khuyến khích mở mang các ngành nghề mới... Phấn đấu đến năm 2005 mỗi xã có ít nhất 10 hộ sản xuất, kinh doanh có thu nhập 50 triệu đồng/ năm. Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các ngành dịch vụ, tài chính, ngân hàng, bưu điện, điện lực,... Thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển văn hoá - xã hội. Tăng cường quốc phòng an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. 1.2. Phương hướng phát triển của ngành thuỷ lợi * Mục tiêu chung: Là giữ độ an toàn cả khi có lũ lịch sử tái xuất hiện trên các triền sông để phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh trong huyện. Công tác thuỷ lợi phải được đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc, củng cố những công trình hiện có, xây dựng mới để đáp ứng yêu cầu về phòng chống lũ, bão và thực hiện tưới, tiêu chủ động, khoa học... + Về chống bão: Chống bão cấp 10 - 11 với mực nước triều trung bình và cấp 8, cấp 9 đối với thời điểm triều cao, giảm thiểu thiệt hại khi có bão cấp 12 trở lên. + Về chống lũ: Các tuyến đê Đáy, đê Vạc đảm bảo chống lũ an toàn với mực nước lịch sử năm 1985. + Về chống úng, chống hạn: Đảm bảo tưới, tiêu khoa học, cung cấp nước theo yêu cầu của sản xuất nông nghiệp. Không để xảy ra úng, hạn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá công tác thủy nông theo hướng từng bước hiện đại hoá công trình thủy lợi, kiên cố hoá kênh mương. 2. Một số chỉ tiêu cụ thể của ngành thuỷ lợi đến năm 2010 Đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng hợp lý tài nguyên nước để cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt và cải thiện môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, áp dụng các công nghệ tiên tiến, công nghệ tưới, tiêu tiết kiệm nước trong việc xây dựng và quản lý công trình thuỷ lợi. Cụ thể là: - Nâng cấp đê điều và phòng chống lụt bão. * Với mục tiêu: Đảm bảo an toàn đê điều, trong mọi tình huống bảo vệ an toàn tài sản của nhân dân, không để vỡ đê, chết người. Trong trường hợp bất khả kháng phải giảm nhẹ thiệt hại ở mức thấp nhất. Đồng thời thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đặc biệt là cơ sở hạ tầng vùng phân lũ, chậm lũ để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy, trong những năm tới chỉ tiêu đề ra là: + Về phòng lũ: Đối với đê Hữu Đáy chống được phân lũ 5000 m3/ s với mức nước tại Độc Bộ + 3,8 m. + Chống bão: Đảm bảo an toàn cho các công trình khi có bão cấp 10, cấp 11, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại khi có bão cấp 12 trở lên. + Đầu tư xây dựng công trình thủy lợi: Cần phải đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới, tiêu hướng vào sửa chữa và nâng cấp các công trình đã được xây dựng trước đây nhưng đã hư hỏng, xuống cấp, đặc biệt là các trạm bơm 4000 m3/ s trục ngang (thay thế bằng bơm trục đứng). + Nạo vét các trục tiêu liên xã, kiên cố 60% kênh tưới để khai thác tối công suất công trình đầu mối. Xây dựng các trạm bơm tiêu cục bộ, đảm bảo chủ động cho việc tưới và nâng cao hiệu quả tiêu lên 80 - 90% khi có lượng mưa khoảng 300 mm trong 3 ngày liên tục. 3. Phương hướng, mục tiêu phát triển của Công ty - Tăng cường quản lý, khai thác có hiệu quả hệ thống thuỷ nông, nâng cao tinh thần phục vụ, kết hợp với huyện và các HTX đầu tư thoả đáng cho kiên cố hoá kênh mương và thuỷ lợi nội đồng. - Bảo dưỡng thường xuyên các công trình đáp ứng kịp thời tưới tiêu theo yêu cầu sản xuất. Nâng diện tích tưới, tiêu tự chảy để tiết kiệm chi phí. - Từng bước đổi mới thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ, tiết kiệm điện, vật tư nhằm hạ giá thành tưới, tiêu. - Phấn đấu đảm bảo nguồn nước kịp thời tưới, tiêu với chất lượng và hiệu quả tốt nhất chống nhiễm mặn, chống hạn úng khắc phục bão lụt thiên tai. Tích cực cải tạo đất bằng biện pháp thau chua, rửa mặn lấy phù sa để tạo thêm độ phì nhiêu cho đất. - Tích cực kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn, giúp đỡ các HTX làm thuỷ lợi nội đồng, thực hiện nghiêm pháp lệnh bảo vệ công trình, khai thông dòng chảy. - Tích cực tận thu thuỷ lợi phí, kể cả nợ cũ để đáp ứng các nhu cầu chi phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo toàn phát triển vốn, đảm bảo đúng chính sách với người lao động, từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho người lao động. - Cán bộ công nhân viên toàn Công ty đoàn kết, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó. II. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thuỷ nông của Công ty 1. Củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống công trình thuỷ lợi trong huyện Hệ thống công trình thuỷ lợi có tầm chiến lược đối với phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề đặt ra cho ngành thuỷ lợi rất lớn là phục vụ cho nhiều ngành kinh tế khác nhau, với thực trạng công trình hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu cho sự phát triển. Để công trình thuỷ lợi thực sự trở thành một kết cấu hạ tầng quan trọng, đặc biệt nhất là để phát triển nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái trong giai đoạn mới của đất nước; trên cơ sở quy hoạch đã có, cần rà soát và quy hoạch lại hệ thống thuỷ lợi đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai, phù hợp với thời kỳ phát triển mới, thời kỳ của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực trạng công trình hiện nay đa số chưa phát huy hết năng lực thiết kế, một trong những nguyên nhân là do chưa đồng bộ, thời gian khai thác đã lâu chưa được đại tu nâng cấp, từ đó đã ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả chất lượng phục vụ của các doanh nghiệp. Để tăng cường công tác quản lý, xác lập mô hình thủy nông hợp lý, trước hết hệ thống công trình được củng cố, nâng cấp hoàn thiện. Khi công trình được hoàn thiện đồng bộ hệ thống kênh mương đã được kiên cố hoá, các công trình trên kênh có đầy đủ thiết bị đo đếm điều tiết nước, và tổ chức các công tác quản lý và phân phối nước trên toàn hệ thống, sẽ tạo điều kiện cho việc phân cấp quản lý và xã hội hoá công tác thủy nông. Cũng từ đó có cơ sở để xây dựng chính sách thủy lợi phí hợp lý, đồng thời khi công trình củng cố hoàn thiện thì đòi hỏi quản lý phải được nâng lên thích ứng phù hợp. Vì vậy, củng cố, nâng cấp, hoàn thiện công trình có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đổi mới quản lý thủy nông và nâng cao hiệu quả khai thác các hệ thống thuỷ lợi hiện có phục vụ đa mục tiêu là giải pháp nhanh nhất và kinh tế nhất phục vụ chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, kinh tế nông thôn hiện nay. Trên địa bàn huyện Yên Khánh công trình thủy lợi cần tiếp tục hoàn thiện và củng cố như sau: + Về công tác điều tra quy hoạch: Rà soát lại quy hoạch của từng vùng gắn với mục tiêu phát triển của huyện, bổ sung các trạm bơm tiêu cục bộ, củng cố các đường vùng. + Công tác đầu tư xây dựng: Sớm khởi công xây dựng và nâng cấp các trạm bơm như: Trạm bơm Đồng én, Chính Tâm, Cổ Quàng, Liễu Tường, Khánh Mậu, Khánh Hội; nạo vét các trục tiêu liên xã, kiên cố hoá 60 % kênh tưới. + Đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào quản lý và vận hành hệ thống, đưa công tác khai thác ngày càng đi vào chiều sâu, phát huy hết năng lực thiết kế công trình, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Từng bước hiện đại hoá máy đóng mở của các cống vùng triều bằng thuỷ lực, thay cánh cống thép cũ bằng vật liệu chống ăn mòn vùng triều như phun mạ kẽm, cửa com posite. Từng bước trang bị các thiết bị quản lý như máy đo chua, đo mặn, đo lưu tốc, đo độ lún... cho các công trình tưới... 2. Sắp xếp kiện toàn tổ chức Công ty Dù thực hiện xã hội hoá công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi, nhưng chắc chắn các doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực này. Vì thế, việc củng cố lại tổ chức Công ty là một trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với thực trạng tổ chức bộ máy hiện nay cần phải được kiện toàn cho phù hợp hơn để giảm chi phí trực tiếp và gián tiếp, nâng cao chất lượng hiệu quả. Sắp xếp tổ chức lại doanh nghiệp cần phải dựa trên các nguyên tắc sau: - Đảm bảo tính hệ thống của công trình thuỷ lợi. Do đặc điểm nổi bật của công trình thuỷ lợi là mang tính chất hệ thống liên hoàn, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính, vì vậy tổ chức doanh nghiệp phụ thuộc vào địa bàn phục vụ khi công trình thuỷ lợi nằm gọn trong địa bàn đó. - Bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Công trình thuỷ lợi là một hệ thống diễn ra trên một không gian rộng, gắn với nhiều địa phương, nhiều vùng lãnh thổ, do đó nguyên tắc này cần phải quán triệt trong sắp xếp tổ chức cũng như trong quản lý khai thác, bảo vệ công trình, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế. - Bảo đảm sự tách bạch cần thiết và mối quan hệ qua lại giữa vai trò quản lý Nhà nước và vai trò quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. - Bảo đảm phân công, phân cấp tối đa về quản lý kế hoạch, tài chính, quản lý công trình cho các đơn vị thành viên trong mỗi doanh nghiệp. - Bộ máy tổ chức phải gọn nhẹ, có hiệu lực, vận hành công trình an toàn để phát huy tối đa năng lực của máy móc thiết bị, nâng cao hiệu quả về mọi mặt trong quản lý. Cùng với việc đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp thì yếu tố nguồn lực trong doanh nghiệp hết sức quan trọng có tính chất quyết định đến hiệu quả hoạt động. Đáng chú ý nhất là đội ngũ cán bộ quản lý. Việc phân công bố trí cán bộ phải đảm bảo tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức chính trị, trình độ năng lực chuyên môn để đảm nhận và hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Bố trí sắp xếp cán bộ phải dựa trên cơ sở đòi hỏi của sản xuất “Từ việc bố trí người, tránh tình trạng từ người bố trí việc”. Sau khi sắp xếp lại doanh nghiệp, có biên chế phù hợp cần tiếp tục nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công nhân. Đây là một yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài. Muốn như vậy doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước bố trí kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, tay nghề cho đội ngũ. Từng bước thực hiện tiêu chuẩn hoá để đội ngũ công nhân đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. 3. Đổi mới một số chính sách đối với các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi Những năm qua các doanh nghiệp Nhà nước khai thác công trình thuỷ lợi đã cố gắng trên cả 3 nội dung của công tác quản lý là quản lý công trình, quản lý nước và quản lý kinh tế. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp đều rơi vào tình trạng tài chính khó khăn, công trình xuống cấp, đời sống người lao động thấp dẫn đến hiệu quả khai thác chưa cao. Về cơ chế chính sách trong quản lý vận hành, đã có Nghị định về thu thủy lợi phí 112/ HĐBT và chi theo Thông tư 90/ TCNN. Nhưng cơ chế tài chính của các doanh nghiệp không đảm bảo. Hầu hết các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đều rơi vào tình trạng thu không đủ chi, việc cấp bù của Nhà nước thực hiện không đầy đủ. Trong tình trạng tài chính của các doanh nghiệp như vậy, cần phải đổi mới hoàn thiện một số chính sách: Đổi mới chính sách thuỷ lợi phí. Mục tiêu là nâng mức thuỷ lợi phí lên cho phù hợp với chi phí của các doanh nghiệp KTCTTL và năng suất sản lượng lúa thu hoạch hiện nay. Ngày 28/11/2003 Chính phủ đã có Nghị định số 143/2003/ NĐ - CP “Quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi” trong đó có quy định khung mức thuỷ lợi phí mới, tuy nhiên khung giá mới chỉ được áp dụng khi có quyết định của UBND Tỉnh. Điều chỉnh, bổ sung Thông tư liên tịch 90/1997/ TTLT/ TC - NN: + Về chi phí nợ khó đòi: Nếu được lập quỹ dự phòng khó đòi vào chi phí như các doanh nghiệp khác thì trong cân đối sẽ không có sự chênh lệch. Vì vậy, cho phép các doanh nghiệp KTCTTL được trích lập quỹ dự phòng khó đòi vào kinh phí như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. + Về chính sách cấp bù: Khi cân đối xác định kết quả thu nhỏ hơn chi thì được Nhà nước câp bù, cần được cụ thể hơn, quy định trình tự từ lập kế hoạch đến lúc được cấp bù. 4. Nâng cao vai trò của cộng đồng, từng bước xã hội hoá công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp Trong cơ chế thị trường hiện nay các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế, với mô hình tổ chức hiện tại chưa thể giảm chi phí, chưa khuyến khích người lao động, còn tư tưởng bao cấp ỷ lại, trông chờ vào cấp bù của ngân sách. Về phía hộ dùng nước chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ công trình thuỷ lợi, nhiều nơi đã xâm phạm nghiêm trọng như lấn chiếm bờ kênh, hành lang bảo vệ công trình thậm trí một số công trình còn bị phá hoại, sử dụng nước còn lãng phí. Để khắc phục tình trạng trên, trong những năm gần đây Bộ NN&PTNT đã có nhiều văn bản hướng dẫn chỉ đạo các Công ty hình thành tổ chức thuỷ nông cơ sở. Nhà nước đã ban hành Luật tài nguyên nước, Luật HTX, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi và các quy định có liên quan đến quản lý nước và khai thác công trình thủy lợi. Đặc biệt ngày 10/1/1998 Bộ chính trị đã có Nghị quyết số 06 nhấn mạnh “...trước hết ưu tiên đầu tư nâng cấp, tăng cường công tác quản lý để nâng cao hiệu quả khai thác công trình hiện có, có chính sách khuyến khích nhân dân tham gia đầu tư và quản lý KTCTTL”. Hiện nay hệ thống quản lý công trình thủy lợi ở địa phương đã hình thành 2 cấp: Công ty KTCTTL (Nhà nước) quản lý các hệ thống công trình vừa và lớn, có kỹ thuật phức tạp. Tập thể HTX quản lý các công trình thuỷ lợi nhỏ, mạng lưới kênh mặt ruộng. Những năm qua, Cục thuỷ lợi đã và đang xây dựng mô hình PIM, thực hiện theo hướng chuyển giao cho nông dân quản lý, khai thác công trình trên địa bàn của họ với quy mô thích hợp, gắn quyền lợi và trách nhiệm của người dân trong quản lý vận hành theo phương châm: Của dân, do dân quản lý. Đây cũng là điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ mới, tạo tiền đề xã hội hoá về thủy lợi. Để phát huy tổ chức thuỷ nông cơ sở, đa dạng hoá hoạt động thủy nông, trước hết cần phải đề cập đến một số vấn đề về vai trò của cán bộ các ngành, các cấp, của người dân và chính quyền địa phương. Xây dựng chính sách tạo hành lang pháp lý cho tổ chức này hoạt động. Vai trò của cán bộ, trước hết là cán bộ các cấp, các ngành phải thông suốt tư tưởng đổi mới, phát huy vai trò lãnh đạo để hướng dẫn người dân hiểu rõ lợi ích và trách nhiệm của mình. Công trình thuỷ lợi phục vụ cho dân thì người dân nên tham gia đầu tư, xây dựng và vận hành duy tu. Quyền lợi của họ gắn liền với trách nhiệm. Nhà nước không làm thay (bao cấp) vì lâu nay càng bao cấp thì càng hư hỏng và thực tế không thể bao cấp nổi. Chính quyền các cấp có vai trò hết sức quan trọng, nơi nào chính quyền quan tâm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thuỷ lợi thì nơi đó công tác thuỷ lợi đạt hiệu quả cao. Với mô hình tổ chức thuỷ nông cơ sở bước đầu đã mang lại hiệu quả ở một số địa phương như: Tiết kiệm nước, không còn tình trạng nước chảy tràn lan như trước đây. Kênh mương được nạo vét thông dòng kịp thời, giảm được chi phí sữa chữa lớn, thu nộp thuỷ lợi phí đạt kết quả cao hơn. Đa dạng hoá, xã hội hoá hoạt động thủy nông còn đem lại hiệu quả trong khâu bảo vệ công trình. Đối với những công trình tiêu, công trình tưới phục vụ chống hạn, chống úng không hoạt động thường xuyên, hoạt động ít, nếu cứ bố trí công nhân trông coi bảo vệ thì chi phí sẽ rất lớn. Nên chuyển giao các công trình này cho địa phương quản lý, thì tiết kiệm được nhân công, việc trông coi bảo vệ công trình được thường xuyên và tốt hơn. 5. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trên lĩnh vực khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi Điều 29 pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi khẳng định: “Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi trong phạm vi cả nước”. Trên cơ sở đó phân công các ngành, các cấp, các cơ quan Nhà nước tuỳ theo chức năng quyền hạn của mình để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về quản lý thủy nông. Nội dung quản lý Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc ban hành các chính sách văn bản pháp quy về quản lý thuỷ lợi và tổ chức thực hiện văn bản đó. Quản lý thuỷ nông muốn hoạt động tốt không thể độc lập, thiếu vai trò quản lý của Nhà nước. Nâng cao vai trò của Nhà nước trước hết cần tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động quản lý Nhà nước trên lĩnh vực khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi. + Xây dựng và hoàn thiện Luật, các văn bản dưới luật có liên quan đến công tác khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, các văn bản này phản ánh được chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch, pháp chế, quy chế điều chỉnh khi có tranh chấp. + Coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đặc biệt là nông dân. + Kiểm tra giám sát và xử lý kịp thời các vi phạm về pháp luật có liên quan đến bảo vệ khai thác công trình thuỷ lợi. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện là điều kiện quan trọng, bảo đảm cho hệ thống pháp luật đi vào cuộc sống. Hiện nay, tình trạng vi phạm lấn chiếm hành lang bảo vệ công trình thuỷ lợi, chiếm dụng thuỷ lợi phí chưa được xử lý nghiêm, đây là gánh nặng cho các doanh nghiệp, cần phải được kiểm tra xử lý kịp thời, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi hoạt động tốt hơn. 6. Đẩy nhanh tiến độ kiên cố hoá kênh mương Yên Khánh là một huyện đồng bằng chủ yếu là nghề nông vì vậy thu nhập của nhân dân còn thấp, để nâng cao đời sống cho nhân dân thì một trong những biện pháp hạ giá thành trên đơn vị diện tích gieo trồng là dịch vụ nước, muốn vậy đòi hỏi hệ thống tưới, tiêu phải được hoàn chỉnh chống lãng phí nước, kịp thời đáp ứng yêu cầu sản xuất. Phong trào kiên cố hoá kênh mương đã phát triển xong tốc độ còn chậm nguồn kinh phí còn hạn chế, sự đóng góp của nhân dân có hạn nhưng chương trình này ngày càng phát triển và thu được kết quả tốt. Phát huy kết quả đạt được trong những năm qua căn cứ thực trạng hệ thống kênh sau trạm bơm điện của huyện và khả năng đóng góp của nhân dân, toàn huyện quyết tâm phấn đấu hoàn thành kiên cố hoá tuyến kênh trục chính sau trạm bơm điện của huyện vào năm 2005. Trong phần kinh phí thu đóng góp của nhân dân đa số địa phương thu theo diện tích được hưởng lợi từ trạm điện, một số địa phương thu theo toàn bộ diện tích đất canh tác của địa phương. Công ty cần thực hiện kiên cố hoá kênh mương ở nhiều hệ thống kênh tạo điều kiện cho việc tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Muốn vậy, Công ty cần huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau để tạo điều kiện cho hoạt động kiên cố hoá kênh mương ngày càng thực hiện thuận tiện hơn. Vấn đề kiên cố hoá kênh mương luôn là vấn đề nan giải mà Công ty cần mất rất nhiều thời gian để thực hiện một phần do công trình đã già cỗi nhưng vấn đề quan trọng nhất vẫn là nguồn kinh phí cho việc thực hiện kiên cố hoá kênh mương. 7. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn về ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty KTCTTL Yên Khánh Trong những năm gần đây lực lượng lao động của huyện Yên Khánh tương đối ổn định. Cho tới năm 2002 tổng cán bộ công nhân viên trong Công ty là 137 người, so với định mức lao động Công ty còn dư 8 người. Vì vậy, những năm tiếp theo Công ty sẽ giải quyết chế độ về hưu cho một số cán bộ công nhân viên theo đúng chế độ và ổn định tổ chức, đây là vấn đề hết sức khó khăn cho Công ty trong việc trả lương. Mặt khác, trình độ tay nghề bậc thợ tương đối cao vì vậy Công ty phải áp dụng cách trả lương là thợ bậc 6 và bậc 7 trả lương theo bậc 5 số còn dư để trả cho 8 lao động thừa. Vì trước kia tỉnh chưa giao kế hoạch tiền lương và kế hoạch sản xuất cho đơn vị năm 2002 tỉnh mới giao kế hoạch tiền lương và biên chế. Hàng năm Công ty tổ chức thi nâng bậc cho cán bộ công nhân viên để khuyến khích học hỏi nâng cao tay nghề chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học các lớp đại học tại chức và các lớp chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao sự hiểu biết, nhận thức cho từng cán bộ công nhân viên nhằm tăng thu nhập cho Công ty. Tăng cường các mặt quản lý kinh tế đi đôi với tiết kiệm, tăng cường thực hiện quy chế dân chủ trong Doanh nghiệp, thực hiện tốt chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Tổ chức các hình thức thi đua trong quản lý, vận hành và khai thác các công trình thuỷ lợi như: Thi đua giữ vệ sinh công cộng, bảo dưỡng công trình máy móc thiết bị, thi đua làm công tác thuỷ lợi nội đồng, thi đua trong công tác thu thuỷ lợi phí. Các đợt thi đua này được tổng kết và khen thưởng kịp thời. 8. Chính sách thu thuỷ lợi phí hợp lý Hiện nay mức thu thuỷ lợi phí để nâng cao hiệu quả thu và sử dụng thủy lợi phí, việc đầu tiên của Công ty là phải xây dựng một quy chế hoạt động cụ thể. Phải quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng nước, mức thu nộp thuỷ lợi phí, thời gian hoàn thành thuỷ lợi phí, chế độ quản lý và sử dụng thuỷ lợi phí. Thu nộp thuỷ lợi phí được thực hiện sau mỗi vụ thu hoạch và theo hợp đồng các HTX đã ký với Công ty KTCTTL. rên địa bàn còn thấp vì vậy việc đầu tư sửa chữa nâng cấp công trình còn gặp nhiều khó khăn, mặt khác một số HTX không nghiêm chỉnh chấp hành giao nộp thuỷ lợi phí cho Công ty. Điều đó đã gây ra không ít khó khăn cho Công ty, vì vậy Công ty phải có biện pháp cụ thể từng năm cho việc thu thuỷ lợi phí. Công ty tích cực đôn đốc việc thu thuỷ lợi phí, có mối quan hệ tốt đối với người sử dụng nước để nhân dân nhiệt tình tham gia nộp thuỷ lợi phí theo đúng mức và thời gian quy định. Công ty cần xác định mục tiêu phục vụ nhân dân là quan trọng, hết lòng vì nhân dân để dân tin và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với Công ty. Công ty cần thay đổi mức thu thuỷ lợi phí để tạo thêm nguồn kinh phí cho việc sửa chữa, bảo dưỡng và xây mới các công trình theo đúng yêu cầu của người sử dụng nước. Trong những năm tới Công ty nên quan tâm hơn nữa đến tình hình kinh tế, tài chính để tạo điều kiện tăng nguồn thu trong Công ty. 9. Giải pháp huy động, sử dụng vốn trong công tác thủy lợi Vốn là một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo hệ thống công trình được hoạt động bình thường, vốn được sử dụng cho duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa và xây mới các công trình, vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: Ngân sách Nhà nước cấp, trích từ nguồn thu thủy lợi phí, trích từ ngân sách xã, trích từ thuế nông nghiệp. Bảng 14: Nhu cầu về mức huy động vốn cho công tác thủy lợi từ 2002 - 2004 Đơn vị: Triệu đồng Loại công trình Nhu cầu về vốn Huy động vốn Nhà nước Nhân dân 1. Xây dựng các trạm bơm mới 700 550 150 2. Xây đập điều tiết cống thông nước 400 400 - 3. Lắp đặt giàn van, cánh đập lấy nước 250 250 - 4. Xây và nạo vét kênh 46.000 34.000 12.000 5. Sửa chữa nhà máy, bể hút trạm bơm 500 550 - 6. Đào đắp xử lý chống dò 200 150 50 7. Tôn đắp bờ vùng 1.200 1.200 - 8. Duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa máy bơm 2.500 2.000 500 9. Xây nhà kho nhà quản lý hội trường 500 500 - Tổng 52.250 39.550 12.700 Nguồn: Phòng kỹ thuật Công ty Công ty cần tăng cường hơn nữa các nguồn thu nhất là nguồn thu từ thuỷ lợi phí vì đây là nguồn thu chính của Công ty, thiết lập hệ thống thu thuỷ lợi phí mạnh mẽ để tăng doanh thu cho Công ty. Công ty nên lấy uy tín của mình để huy động các HTX cũng như các hộ dùng nước tích cực hơn nữa trong việc sử dụng nước của Công ty đồng thời tham gia đóng góp thuỷ lợi phí theo đúng hợp đồng và thời gian quy định. Công ty có mối quan hệ gần gũi hơn nữa với các HTX cũng như các hộ dùng nước để họ yên tâm tham gia bảo vệ công trình đồng thời tham gia đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với Công ty. Khi tiếp dân hoặc thăm các cơ sở, các công trình, làm việc với các HTX cán bộ, công nhân viên trong Công ty nên có thái độ thân thiện nhiệt tình với công việc hơn nữa để có lòng tin của nhân dân và từ đó nhân dân sẽ có trách nhiệm với nghĩa vụ của mình hơn. Thực tế qua một số HTX cho thấy nhân dân có nơi đã phê bình thái độ của một số cán bộ Công ty trong khi tiếp xúc, làm việc với dân cũng như các cán bộ xã. Đó cũng là điều mà Công ty cần chú ý nhắc nhở nhân viên của mình để hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao. Bảng trên là mức vốn dự kiến xây dựng từ năm 2002 đến năm 2004 của Công ty KTCTTL Yên Khánh. Tuy nhiên việc thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào khả năng hiện có của địa phương và Ngân sách Nhà nước. Qua bảng số liệu ta thấy, tổng nhu cầu về vốn từ năm 2002 - 2004 là 52.250 triệu đồng, Nhà nước cần hỗ trợ là 39.550 triệu đồng chiếm 75%. Nhân dân đóng góp là 12.700 triệu đồng chiếm 25% trong tổng số vốn đầu tư, như vậy 1 năm Nhà nước cần đầu tư là: 39.550/3 = 13.183 triệu đồng. Qua đây ta thấy Nhà nước đã rất quan tâm đến dịch vụ thủy nông vì nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu do đó Nhà nước luôn có chủ trương, chính sách phát triển ngành thuỷ lợi theo hướng ngày càng tiến bộ hơn. Vì vậy, Công ty cần tích cực hơn nữa để hoạt động thuỷ nông ngày càng lớn mạnh từ đó làm tăng năng suất cũng như sản lượng cho nhân dân trong huyện để tạo thêm cơ hội đầu tư của Nhà nước cũng như nguồn thu từ dân sẽ tăng lên. Hàng năm Công ty KTCTTL Yên Khánh trích từ 10 - 20% tổng thuỷ lợi phí thu được đầu tư nâng cấp sửa chữa, tu bổ và xây mới các công trình trong phạm vi Công ty quản lý và hỗ trợ một phần cho các HTX, còn nhân dân đóng góp bằng công lao động. Như vậy, công tác huy động vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của Công ty, hiện nay Công ty cần rất nhiều vốn để đầu tư sửa chữa công trình cũng như xây mới công trình theo yêu cầu của người sử dụng nước. Vì vậy, Công ty cần phải nỗ lực hơn nữa để tăng nguồn thu từ đó tăng thu nhập và cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên chức trong Công ty. Kết luận Trong các ngành sản xuất dịch vụ phục vụ nông nghiệp thì thuỷ lợi được coi là một ngành mũi nhọn, chiếm vị trí quan trọng trong phát triển sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Thuỷ lợi luôn đi trước một bước để tạo tiền đề cho nông nghiệp phát triển bền vững, góp phần làm tăng năng suất, sản lượng lương thực. Vì thế thuỷ lợi luôn được nhấn mạnh là: “Biện pháp hàng đầu trên mặt trận sản xuất nông nghiệp”. Do đó trong những năm qua Nhà nước đã quan tâm nhiều tới công tác xây dựng và phát triển thuỷ lợi với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” bằng việc quy hoạch lại các hệ thống thuỷ lợi, đầu tư cải tạo, nâng cấp, tu sửa và xây mới hệ thống các công trình. Đào tạo nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty nhằm đảm bảo tưới, tiêu chủ động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp với mục tiêu phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Thực hiện mục tiêu, đường lối của Đảng và Nhà nước, Công ty KTCTTL Yên Khánh đã thực hiện tưới, tiêu phục vụ nước đầy đủ, kịp thời cho sản xuất nông nghiệp bằng hệ thống các công trình thuỷ nông trên địa bàn huyện với ba hình thức tưới, tiêu. Nhìn chung các năm qua Công ty đã phục vụ tưới, tiêu cho sản xuất nông nghiệp đầy đủ, kịp thời. Hàng năm Công ty đã tưới, tiêu hơn 90% tổng diện tích gieo trồng trong toàn huyện. Song hiệu quả phục vụ sản xuất của hệ thống chưa hết năng lực theo thiết kế, do hệ thống các công trình tưới, tiêu được xây dựng đã lâu, các trục kênh tưới chưa được nạo vét thường xuyên, trình độ năng lực của đội ngũ công nhân viên trong Công ty còn hạn chế. Vì vậy, việc điều tiết nước còn gặp nhiều khó khăn. Đứng trước những khó khăn vướng mắc đó, Công ty KTCTTL Yên Khánh cần phải nâng cao vai trò của mình hơn nữa trong quản lý điều hành, tu sửa, xây dựng mới các hệ thống công trình thuỷ nông. Công ty phải chủ động tưới, tiêu với diện tích đã được ký kết hợp đồng giữa Công ty với các HTX theo yêu cầu sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Trên cơ sở phục vụ tưới, tiêu, kết quả thu thuỷ lợi phí tôi đánh giá công tác thuỷ nông qua các chỉ tiêu số liệu của Công ty qua 5 năm. Qua đánh giá các chỉ tiêu tôi thấy đời sống của cán bộ công nhân viên trong Công ty đã được nâng cao song so với mặt bằng chung của các ngành thì lương của cán bộ công nhân viên trong Công ty KTCTTL Yên Khánh còn rất thấp, mặc dù kết quả tưới, tiêu ngày càng tốt hơn, tỷ lệ thu nộp thuỷ lợi phí đúng hạn ngày càng tăng. Mặt khác căn cứ vào thực trạng công tác thuỷ nông ở Công ty, chúng tôi đề xuất những định hướng và giải pháp giúp cho công tác thuỷ nông ngày càng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn như: Giải pháp về tổ chức, vận hành, quản lý, giải pháp về vốn, giải pháp về thủy lợi phí, giải pháp về nâng cấp, tu sửa và xây dựng mới công trình. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình “Kinh tế thuỷ lợi” - Trường đại học thủy lợi năm 1997. 2. Giáo trình quản trị kinh doanh của trường đại học kinh tế quốc dân - Hà Nội. 3.Báo cáo tình hình và nhiệm vụ của Công ty KTCTTL huyện Yên Khánh tại Đại hội đại biểu công nhân viên chức Công ty năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004. 4. Bùi Huy Đạt - Nguyễn Điền - “Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn đến đổi mới” NXB chính Chính trị Quốc gia 1996. 5. Franh Ellis: “Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển - NXB Nông nghiệp Hà Nội 1995”. 6. “Kinh tế thuỷ nông” - KS. Nguyễn Bá Uân - NXB Nông nghiệp Hà Nội 1996. 7. “Về chính sách phát triển nông nghiệp ở Việt Nam” - Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Hà Nội 1997. 8. Thông tư số 134/1999/ TT - BNN - QLN ngày 25/9/1999 hướng dẫn việc tổ chức thực hiện kiên cố hoá kênh mương. 9. Tuyển chọn một số văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2001. 10. Nghị quyết của Chính phủ số 143/2003/NĐ - CP ngày 28/11/2003. 11. Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36235.doc
Tài liệu liên quan