Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng BH Cầu Giấy, Công ty BH Hà Nội: LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua đất nước đã có nhiều thay đổi lớn cả về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập mạnh mẽ hơn với nền kinh tế khu vực và thế giới. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Để phục vụ cho hoạt động buôn bán, giao lưu ngày một phát triển trong nền kinh tế - một nhu cầu bức thiết của xã hội thì điều tiên quyết là phải phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó cơ sở hạ tầng giao thông chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống ... Ebook Nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng BH Cầu Giấy, Công ty BH Hà Nội
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1249 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng BH Cầu Giấy, Công ty BH Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đường xá, cầu cống phải được mở rộng hơn và nâng cấp hơn để đảm bảo cho việc vận chuyển nhanh chóng, thuận tiện, mà trước hết là an toàn hơn.
Do sự tăng lên quá nhanh của các phương tiện giao thông (đặc biệt là xe cơ giới), nên mặc dù cơ sở hạ tầng giao thông đã có sự phát triển hơn nhưng tình hình tai nạn giao thông vẫn là vấn đề đáng lo ngại cho toàn xã hội. Tai nạn xảy ra kéo theo tổn thất về người và của, điều đó chẳng những gây đau đớn về mặt tinh thần cho người thân mà còn làm thiệt hại về kinh tế cho gia đình và xã hội. Vì vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời để đảm bảo về mặt tài chính cho các chủ xe mỗi khi phương tiện của họ không may gặp rủi ro, góp phần bảo vệ sự an toàn chung của xã hội.
Nhưng một thực tế hiện nay đó là số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe còn tương đối thấp so với tổng lượng xe cơ giới hiện đang lưu hành. Điều này có thể là do: Các sản phẩm bảo hiểm còn xa lạ với người dân, do vấn đề thu nhập, do các sản phẩm bảo hiểm vật chất xe chưa thực sự hấp dẫn, hoặc do hoạt động giám định - bồi thường của các công ty bảo hiểm chưa đáp ứng được mong muốn của khách hàng, gây mất lòng tin cho khách hàng…Vì vậy cần phải có những giải pháp hữu hiệu để khai thác tối đa nghiệp vụ này - một nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng rất lớn ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Chính vì lý do đó mà em quyết định chọn đề tài: : “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội” với mong muốn được đóng góp một số ý kiến để hoạt động này ngày càng được nâng cao, tạo niềm tin cho khách hàng vào công ty.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.s Tô Thiên Hương, các anh chị ở văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy để em có thể hoàn thành được chuyên đề thực tập của mình. Trong quá trình hoàn thành chuyên đề, do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
I. Sự cần thiết khách quan phải có bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.Lịch sử hình thành bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.1. Vai trò của ngành giao thông vận tải trong nền kinh tế.
Giao thông vận tải là một ngành dịch vụ, tham gia vào việc cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất và đưa sản phẩm đến thị trường tiêu thụ, giúp cho các quá trình sản xuất xã hội diễn ra liên tục và bình thường. Trong nền kinh tế quốc dân, giao thông và vận tải đường bộ được xem là một ngành giữ vị trí rất quan trọng, giao thông đường bộ được ví như “mạch máu” của nền kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân, giúp cho các hoạt động sinh hoạt được thuận tiện. Các mối liên hệ kinh tế, xã hội giữa các địa phương được thực hiện nhờ mạng lưới giao thông vận tải. Vì thế, những nơi nằm gần các tuyến vận tải lớn hoặc các đầu mối giao thông vận tải cũng là những nơi tập trung các ngành sản xuất, dịch vụ và dân cư. Nhờ hoàn thiện kỹ thuật, mở rộng cự li vận tải, tăng tốc độ vận chuyển mà các vùng xa xôi về mặt địa lí cũng trở nên gần. Những tiến bộ của ngành vận tải đã có tác động to lớn làm thay đổi sự phân bố sản xuất và phân bố dân cư trên thế giới. Ngành giao thông vận tải phát triển góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế, văn hoá ở những vùng núi xa xôi, củng cố tính thống nhất của nền kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước và tạo nên mối giao lưu kinh tế giữa các nước trên thế giới.
Với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, sự phân công lao động ngày càng mở rộng, là điều kiện phát triển của ngành giao thông vận tải nói chung. Tuy vậy có một thực tế là cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ nước ta còn nhiều yếu kém, không đồng bộ và chưa tương xứng với sự phát triển chóng mặt của các phương tiện xe cơ giới, có nhiều đoạn đường không đạt tiêu chuẩn về chất lượng, tỷ lệ nhựa thấp, đường có bề mặt rộng cho hai làn xe còn ít, nhiều con đường bị xuống cấp nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, chưa đủ điều kiện để một lúc có thể làm thay đổi toàn bộ cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Mặc dù trong những năm qua, để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà Nước ta đã đầu tư rất lớn cho cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ thông qua nguồn vốn từ ngân sách Nhà Nước và sự hỗ trợ từ nguồn vốn vay của các chính phủ nước ngoài, nguồn vốn này đã được sử dụng cho việc làm mới và nâng cấp nhiều con đường quan trọng, có ý nghĩa chiến lược để đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và các hoạt động kinh tế xã hội khác. Bên cạnh đó thời tiết khí hậu nước ta luôn có những diễn biến bất thường, mưa lớn lũ lụt xảy ra hàng năm làm xuống cấp nghiêm trọng nhiều đoạn đường, có đoạn còn bị phá hủy hoàn toàn.
Xe cơ giới là phương tiện phổ biến nhất của giao thông đường bộ với các tính năng linh hoạt, vận hành tốt ở các loại địa hình, thuận tiện trong việc chuyên chở hành khách và hàng hóa, đồng thời nó có tốc độ vận chuyển nhanh, lưu lượng xe lớn, chi phí rẻ hơn so với các loại hình vận chuyển khác cho nên rất được ưa chuộng. Hơn nữa, cùng với nhịp tăng trưởng nhanh, nhu cầu vận chuyển lưu thông hàng hóa giữa các vùng tăng nhanh, do đó sự gia tăng nhanh chóng của phương tiện xe cơ giới là điều tất yếu.
1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tai nạn xe cơ giới.
1.2.1. Nguyên nhân.
Xe cơ giới là phương tiện rất tiện ích trong giao thông vận tải đường bộ. Tuy nhiên mặt trái của hình thức vận chuyển này là vấn đề an toàn trong vận hành, là mức độ nguy hiểm lớn, khả năng gây tai nạn cao do số lượng đầu xe quá dày đặc, đa dạng về chủng loại lại bất cập về chất lượng. Theo thống kê của Ủy ban an toàn giao thông quốc gia thì có tới hơn 80% các vụ tai nạn giao thông là do hoạt động giao thông đường bộ gây ra và đều liên quan đến điều khiển xe cơ giới.Vậy nguyên nhân nào gây nên những vụ tai nạn này?
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên những vụ tai nạn xe cơ giới, nhưng chúng ta có thể gộp thành 3 nguyên nhân chính sau:
- Do người điều khiển xe khi tham gia giao thông.
+ Sử dụng chất kích thích khi tham gia giao thông như rượu, bia…
+ Cố tình vi phạm luật lệ an toàn giao thông như vượt đèn đỏ, đi vào đường cấm, đường ngược chiều…
+ Lạng lách, đánh võng, đua xe, phóng nhanh, vượt ẩu dẫn đến họ không làm chủ được tốc độ của mình.
+ Những người tham gia giao thông chưa được trang bị các kiến thức về luật an toàn giao thông một cách đầy đủ. Đồng thời chất lượng đào tạo lái xe ở các trung tâm còn kém.
+ Người tham gia giao thông không có giấy phép hợp lệ….
- Do bản thân xe tham gia giao thông.
+ Hệ thống an toàn của xe không đảm bảo tiêu chuẩn kĩ thuật đề ra.
+ Thời gian sử dụng xe đã quá lâu và xe đã quá cũ nát…
- Do cơ sở hạ tầng.
+ Đường xá, cầu cống còn kém chất lượng, mặc dù chúng ta đã cố gắng khắc phục nhưng vẫn không theo kịp tốc độ tăng của lượng xe tham gia giao thông, đặc biệt là nền kinh tế mở cửa và phát triển như hiện nay.
+ Địa hình ở nước ta khá phong phú và phức tạp, đồng thời thời tiết cũng phức tạp, thường xuyên xảy ra lũ lụt và có sương mù. Đây là nguy cơ tiềm ẩn của tai nạn giao thông.
1.2.2. Hậu quả.
Dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì những vụ tai nạn xe cơ giới cũng mang lại những hậu quả khó lường. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ (TNGTĐB) hiện nay là mối hiểm hoạ đối với đời sống con người. Thiên tai hay một cuộc chiến tranh nào rồi cũng có ngày kết thúc, nhưng TNGTĐB trong điều kiện sinh hoạt và sự phát triển của con người thì khó có thể khẳng định được hồi kết thúc. Từ năm 1996 đến hết năm 2007, ở nước ta xảy ra 233.831 vụ TNGTĐB, làm chết 114.906 người, làm bị thương 244.550 người. Tính trung bình mỗi ngày xảy ra 54 vụ TNGTĐB, làm chết 27 người và làm bị thương 56 người. Riêng thiệt hại về tài sản, vật chất (cả hữu hình và vô hình) là rất lớn, khó mà tính ra con số chính xác được. Theo ước tính trung bình mỗi năm Việt Nam tốn khoảng 900 USD cho vấn đề tai nạn giao thông.
Hệ lụy của TNGTĐB là một gánh nặng của xã hội. Phần lớn tổn thất về người (tính mạng, sức khoẻ) của loại tai nạn này nhằm vào những người có sức khoẻ, năng động và là lao động chính của nhiều gia đình. Sau khi vụ, việc giao thông đường bộ xảy ra, có thiệt hại về người và tài sản, nếu có: người điều khiển phương tiện vi phạm các qui định về an toàn giao thông bị kết án tù – xã hội phải lo; người chết do tai nạn – xã hội phải lo; người bị thương tích, tàn phế - xã hội phải lo điều trị và nuôi dưỡng; tài sản, công trình, phương tiện hư hỏng do tai nạn gây ra – xã hội phải lo sửa chữa, khắc phục…và còn rất nhiều tổn thất khác có liên quan – xã hội cũng phải lo với biết bao nỗi niềm xót thương, bức xúc, trăn trở.
Bảng 1 : Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam
(giai đoạn 1996-2007).
Năm
Số vụ tai nạn
(vụ)
Số người bị chết (người)
Số người bị thương (người)
Số vụ tai nạn xảy ra bq ngày (vụ)
1996
19.075
5.581
21.556
52,26
1997
19.159
5.680
21.905
52,49
1998
19.975
6.067
22.723
54,73
1999
20.733
6.670
23.911
56,80
2000
22.486
7.500
25.400
61,61
2001
25.040
10.477
29.188
68,60
2002
27.134
12.800
30.733
74,34
2003
19.852
11.319
20.400
54,39
2004
16.911
11.739
15.142
46,33
2005
14.141
11.184
11.760
38,74
2006
14.701
12.739
11.286
40,28
2007
14.624
13.150
10.546
40,07
(Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia)
Trước thực trạng của loại tai nạn này, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước tập trung chỉ đạo quyết liệt; các cấp, các ngành nỗ lực tổ chức thực hiện, huy động nhiều lực lượng, sử dụng nhiều phương tiện, triển khai đồng bộ nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa, kiềm chế tiến tới giảm dần TNGTĐB. Có lúc, có nơi lực lượng trực tiếp thực hiện công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ hoạt động “hết công suất”. Nhờ vậy mà TNGTĐB được kiềm chế và nếu xét theo xu thế phát triển chung có thể nói rằng tỷ lệ TNGTĐB giảm rất nhiều so với nhu cầu đi lại của con người và số phương tiện tham gia giao thông đường bộ ngày càng tăng; tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ có bước chuyển biến tích cực, dư luận phấn khởi, ủng hộ.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Tai nạn, rủi ro là điều mà không một cá nhân, tổ chức nào mong muốn. Nhưng trên thực tế thì tai nạn, rủi ro lại hàng ngày, hàng giờ vẫn luôn xảy ra đe dọa đến tính mạng, sự an toàn của mọi người với các mức độ khác nhau. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người cũng phần nào kiểm soát và hạn chế được một số rủi ro, song cũng chính bàn tay con người lại làm cho các rủi ro khác hoành hành giữ dội hơn.
Sự phát triển nhanh chóng của phương tiện cơ giới một mặt đem lại cho con người một hình thức vận chuyển thuận tiện, kịp thời, rẻ và đặc biệt phù hợp với nhu cầu của đại đa số dân cư Việt Nam hiện nay. Nhưng chính do tính cơ động cao nên nguy cơ gây ra rủi ro tai nạn của xe cơ giới là rất lớn.
Riêng ở Việt Nam, theo Ủy ban an toàn giao thông (ATGT) Quốc gia, trong vòng 12 năm từ năm 1995 đến năm 2007 số lượng phương tiện xe cơ giới tăng 26,83 lần từ 3.918.935 chiếc lên 24.650.681 chiếc, bình quân hàng năm tăng 16,8%. Trong đó ô tô tăng từ 340.779 chiếc đến 1.485.915 chiếc (tăng4,36 lần), mô tô tăng 6,47 lần từ 3.578.156 chiếc lên 23.164.766 chiếc. Qua bảng trên ta thấy, số lượng xe cơ giới tăng rất nhanh qua các năm đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2001, ô tô tăng 15,12 % từ 483.917 chiếc đến 557.092 chiếc, xe mô tô tăng 34,60 % từ 625.823 chiếc đến 2.148.219 chiếc. Tính đến hết năm 2007, tổng số lượng xe cơ giới của cả nước là 24.650.681 xe trong đó 1.485.915 ô tô và 23.164.766 mô tô. Mặc dù tốc độ gia tăng các loại phương tiện xe cơ giới cao như vậy nhưng tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng ngành giao thông vận tải đường bộ còn hạn chế, còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết. Số liệu thống kê cho thấy, năm 2007 cả nước có khoảng 254.523 km đường bộ thì chỉ có khoảng trên 50% được rải nhựa nhưng chất lượng kém và ngày càng xuống cấp trầm trọng. Điều này thể hiện sự yếu kém của cơ sở hạ tầng trong ngành giao thông nước ta.
Bảng 2 : Số lượng xe cơ giới tham gia giao thông từ năm 1995 – 2005
Năm
Ô tô (chiếc)
Mô tô (chiếc)
PTGTCGĐB (chiếc)
1995
340.779
3.578.156
3.918.935
1996
386.979
4.208.274
4.595.253
1997
418.768
4.827.219
5.245.987
1998
443.000
5.200.000
5.643.000
1999
465.000
5.585.000
6.050.000
2000
483.917
6.210.823
6.694.740
2001
557.092
8.359.042
8.916.134
2002
607.401
10.273.000
10.880.401
2003
675.000
11.379.000
12.054.000
2004
774.824
13.375.992
14.150.816
2005
891.104
16.086.644
16.977.748
2006
1.024.769
19.303.972
20.328.741
2007
1.485.915
23.164.766
24.650.681
( Nguồn : Ủy ban an toàn giao thông quốc gia)
Cùng với sự phát triển bất hợp lý, không đồng đều giữa số lượng phương tiện xe cơ giới với sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông vận tải là sư gia tăng các vụ tai nạn giao thông. Chỉ tính riêng tháng 2 năm 2008 đã xảy ra 1.067 vụ, làm chết 1.002 người, bị thương 767 người do tai nạn giao thông. So sánh tỷ lệ TNGT trên 10.000 phương tiện giao thông cơ giới đường bộ với tháng 02/2007 giảm 0,26 về số vụ; giảm 0,22 số người chết; giảm 0,29 số người bị thương. So với tháng 01/2008 giảm 01 vụ; giảm 21 người chết; tăng 130 người bị thương. Điểm đáng chú ý nhất ở đây chính là tai nạn xe cơ giới luôn chiếm tỷ lệ cao trong các loại hình giao thông vân tải, chiếm 93,7 % về số vụ, 94,13 % số người chết và 98,8% về số người bị thương, và tỷ lệ này luôn ở mức ổn định, không thay đổi nhiều qua các năm.
Tai nạn giao thông là vấn đề mang tính xã hội và chỉ có thể hạn chế một phần nào đó mà không thể kiểm soát một cách tuyệt đối được. Các nước đều phải đối mặt với tình trạng tai nạn giao thông ngày càng tăng, phải đối mặt với những thiệt hại không nhỏ về người và của mà chủ phương tiện gây ra. Tuy nhiên trên thực tế có những chủ phương tiện lại trốn tránh không thực thi, có khi gây tai nạn rồi bỏ trốn. Bởi thế việc giải quyết bồi thường trở nên khó khăn, lợi ích của người bị nạn không được đảm bảo, gây ảnh hưởng tiêu cực trong dư luận xã hội.
Làm thế nào để sẵn sàng có nguồn tài chính cho việc giải quyết bồi thường hậu quả các vụ tai nạn, bảo vệ quyền lợi của người bị hại? Đây là mối quan tâm không chỉ của Nhà Nước mà còn của các chủ xe và bản thân người bị thiệt hại. Nhiều biện pháp được áp dụng khi có tai nạn giao thông xảy ra như chủ phương tiện lập quỹ dự trữ, đi vay… nhưng các giải pháp này chỉ mang tính tạm thời, thụ động. Do vậy, các chủ phương tiện phải tìm kiếm các giải pháp hiệu quả hơn và bảo hiểm chính là giải pháp mang lại hiệu quả cao trong việc xử lý rủi ro do tai nạn giao thông gây ra. Quỹ bảo hiểm được lập dựa trên sự đóng góp một khoản tiền nhỏ của các chủ xe cho các công ty bảo hiểm để bồi thường những thiệt hại khi phương tiện của họ hoạt động gây ra tai nạn. Xuất phát từ vấn đề đó, bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời đáp ứng kịp thời nhu cầu khách quan này của xã hội và cũng là điều mong muốn của các chủ xe, chủ phương tiện.
2.2.Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Góp phần ổn định tài chính, khắc phục khó khăn cho chủ xe và lái xe khi có rủi ro xảy ra.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân gây nên, nhưng bất kể do nguyên nhân gì thì khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người khó khăn trong cuộc sống. Như chúng ta đã biết việc vận chuyển hàng hóa bằng phương tiện vận tải đường bộ trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay là điều tất yếu. Xe tải là loại xe có trọng lượng lớn, tính việt dã cao đáp ứng được nhu cầu chuyên chở hàng hóa lớn của các sơ sở và doanh nghiệp. Tuy nhiên nếu không may tai nạn xảy ra thì hậu quả của nó cũng thật khó lường, không những gây thiệt hại về vật chất mà có khi là cả tính mạng của con người. Khi có thiệt hại xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó cho người tham gia bảo hiểm.Nhờ vậy, việc kinh doanh sẽ ít bị gián đoạn, tài sản hàng hóa cũng được bù đắp, phần nào hạn chế được tổn thất cho chủ xe hoặc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, giúp cho họ nhanh chóng khắc phục hậu quả, khó khăn về mặt tài chính, ổn định đời sống và sản xuất. Nó còn đảm bảo quỹ tài chính của doanh nghiệp, tránh được những khoản chi bất thường gây mất cân đối, không làm ảnh hưởng nhiều đến các cá nhân, tổ chức có mối quan hệ trực tiếp đối với doanh nghiệp. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông người tham gia.
Góp phần tăng thu cho ngân sách cho Nhà Nước, để từ đó Nhà nước có điều kiện xây dựng mới và nâng cao cơ sở hạ tầng giao thông.
Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ ổn định tài chính, khắc phục khó khăn. Như vậy ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên khi không may họ gặp rủi ro. Mặt khác, hoạt động bảo hiểm này là bảo hiểm thương mại nên có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách Nhà nước thông qua các loại thuế, dẫn đến tăng thu cho ngân sách.Ngoài ra, từ một phần số tiền không phải chi trả bồi thường, nhà bảo hiểm có thể sử dụng để đầu tư tăng trưởng vốn, cùng với Nhà Nước đầu tư trở lại xây dựng hệ thống đường xá giao thông, cầu đường…nhằm nâng cao cơ sở hạ tầng, đảm bảo an toàn cho nhân dân và từ đó có điều kiện phát triển kinh tế hơn.
Góp phần ngăn ngừa tai nạn giao thông, hạn chế tổn thất.
Công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này luôn đi cùng công tác tuyên truyền, quảng cáo giúp mọi người nhận thức được vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới và những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra đối với phương tiện của mình. Do vậy họ sẽ tự giác chấp hành luật lệ an toàn giao thông vì lợi ích trước hết của chính bản thân họ. Bên cạnh đó, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng đi liền với việc giúp các cá nhân, tổ chức tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu rủi ro xuống mức thấp nhất có thể. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp một cách tích cực để thực hiện biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các biện pháp phòng tránh tai nạn, cùng ngành giao thông làm các biển báo nhắc nhở mọi người phải kiểm soát được tốc độ khi điều khiển phương tiện trên những đoạn đường nguy hiểm, những đoạn đường hay xảy ra tai nạn giao thông, đường lánh nạn…Còn đối với các chủ xe, lái xe là những người trực tiếp điều khiển các phương tiện giao thông, việc tham gia nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiện của chủ xe, thúc đẩy họ phải thực hiện các biện pháp an toàn khi lái xe và luôn chăm lo giữ gìn xe của chính mình.
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới góp phần làm tăng doanh thu cho các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Doanh thu phí mà các công ty bảo hiểm thu được thông qua việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là tương đối lớn so với các nghiệp vụ khác do đặc điểm của các phương tiện giao thông là ngày càng gia tăng cả về số lượng và chủng loại. Mặt khác, ý thức của người dân cũng ngày càng được nâng cao, họ quan tâm hơn đến các rủi ro có thể xảy ra đối với mình và cố gắng tìm mọi cách để đề phòng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Do đó, số lượng người tham gia loại hình bảo hiểm này ngày càng nhiều. Chính điều này đã làm cho doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên đáng kể.
Là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế - xã hội, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các chủ xe, lái xe khắc phục hậu quả, xoa dịu bớt những căng thẳng thường gặp giữa chủ xe , lái xe với nạn nhân của các vụ tai nạn, từ đó làm giảm bớt những bất đồng trong việc tham gia giao thông đường bộ,đảm bảo sự ổn định cho xã hội.
II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
1.Đối tượng tham gia bảo hiểm.
Xe cơ giới, theo quy định hiện hành là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Như vậy theo khái niệm này, xe cơ giới chiếm một số lượng lớn và một vị trí quan trọng trong ngành giao thông vận tải, một ngành kinh tế kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến hầu hết các ngành kinh tế, an ninh quốc phòng và đối ngoại; là sợi dây kết nối các mối quan hệ giao lưu, thông thương hàng hóa giữa các vùng, các khu vực với nhau, giữa trong nước và ngoài nước tạo điều kiện phát triển kinh tế và phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng cao của người dân. Với thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay, việc đi lại, vận chuyển bằng xe cơ giới là hình thức chủ yếu và phổ biến, được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế quốc dân.
Đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Để xác định là xe cơ giới, người ta thường dùng các tiêu thức sau:
Xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…).
Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn bằng chính động cơ gắn trên nó (khác với tàu hỏa, xe điện…).
Xe cơ giới phải có tối thiểu một chỗ ngồi cho người điều khiển.
Xe cơ giới được cấu thành từ nhiều bộ phận (khối động cơ,hệ thống nhiên liệu, hệ thống điện, hệ thống truyền lực, hệ thống lái, hệ thống phanh và hộp số, bộ phận thân vỏ). Các bộ phận này được lắp ráp ăn khớp với nhau theo một nguyên lý nhất định, mỗi cái có một chức năng nhất định. Hệ thống nhiên liệu sẽ chuyển hóa nhiên liệu thành cơ năng, cơ năng này được chuyền qua các bộ phận đến bánh xe - bộ phận duy nhất tiếp xúc với mặt đất để đẩy xe đi dưới sự điều khiển của con người.
Xe cơ giới được coi là nguồn nguy hiểm nên để trở thành đối tượng bảo hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo những tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật và các điều kiện pháp lý nhất định - phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy lưu hành xe.
Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm, người ta thường phân chia xe cơ giới thành các tổng thành. Trên cơ sở phân chia đó, bên bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm từng bộ phận xe. Trong các tổng thành, thân vỏ xe chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị và nếu có xảy ra tai nạn thì thân vỏ xe cũng chính là bộ phận bị ảnh hưởng nhiều nhất. Chính vì thế hiện nay các công ty bảo hiểm của Việt Nam thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc bảo hiểm thân vỏ xe.
Đối với xe mô tô: do giá trị xe thấp nên chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ xe.
Đối với xe ô tô: do chúng có giá trị lớn, vận tốc cao, khu vực lưu chuyển rộng, một khi rủi ro xảy ra thì chi phí sửa chữa rất tố kém. Đối tượng bảo hiểm ở đây chính là các xe ô tô vận chuyển hàng hóa, hành khách…có đủ điều kiện về mặt kỹ thuật (đã qua kiểm định an toàn kỹ thuật và các điều kiện về môi trường), có giấy phép lưu hành hoạt động trên lãnh thổ quốc gia. Riêng đối với các loại xe đua, xe tập lái, chạy thử sau khi sửa chữa thì chỉ được bảo hiểm khi có các thỏa thuận khác giữa hai bên. Chủ phương tiện ô tô có thể lựa chọn tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất xe và cũng có thể bảo hiểm từng bộ phận của chiếc xe. Tuy nhiên, nếu bảo hiểm bộ phận thì chỉ có thể bảo hiểm tổng thành thân xe. Đứng trên góc độ kinh tế kỹ thuật, thông thường xe ô tô được chia thành bảy tổng thành. Đó là:
Tổng thành thân vỏ.
Tổng thành động cơ.
Tổng thành hộp số.
Tổng thành cầu trước.
Tổng thành trục sau.
Tổng thành hệ thống lái.
Tổng thành săm lốp.
2. Phạm vi bảo hiểm.
Rủi ro, tai nạn gắn với sự lưu hành xe cơ giới rất đa dạng và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Từ những yếu tố khách quan như thời tiết, địa hình, chất lượng đường xá cho đến những yếu tố chủ quan từ phía chủ xe, lái xe như tình trạng quản lý, bảo dưỡng của chủ xe; ý thức, kỹ năng, kinh nghiệm của người lái xe…
Trước hàng loạt rủi ro, tai nạn, việc xác định phạm vi bảo hiểm và quy định loại trừ trong những mẫu đơn bảo hiểm của các công ty bảo hiểm rất cần thiết, để đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và pháp lý trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
2.1. Rủi ro được bảo hiểm.
Người bảo hiểm bồi thường cho Chủ xe tham gia bảo hiểm những thiệt hại vật chất xảy ra do những tai nạn bất ngờ, ngoài sự kiểm soát của lái xe, chủ xe, đó là:
- Những rủi ro thông thường gắn liền với hoạt động của xe: Đâm va, lật đổ…
- Những rủi ro bất thường dễ phát sinh khác (cháy, nổ…).
- Những rủi ro khách quan có nguồn gốc tự nhiên (bão, lũ lụt, sét đánh, động đất, mưa đá…).
- Rủi ro khách quan có nguồn gốc xã hội (mất cắp, mất cướp toàn bộ, đập phá…).
Bảo hiểm vật chất xe cơ giới có phạm vi thời gian bảo hiểm 24/24 giờ, trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm (điều này được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm).
Thông thường hợp đồng vật chất xe cơ giới có hiệu lực trên toàn lãnh thổ quốc gia. Trong hợp đồng mở rộng phạm vi bảo hiểm ra ngoài lãnh thổ quốc gia theo yêu cầu của người được bảo hiểm thì phải được sự chấp thuận bằng văn bản của người bảo hiểm.
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, người bảo hiểm sẽ bồi thường cho chủ xe:
- Chi phí sửa chữa, thay thế nhằm phục hồi xe nguyên vẹn như trước khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Trị giá các phụ tùng thay mới, trừ khấu hao ngoại trừ trường hợp tham gia bảo hiểm theo điều kiện “ mới thay cũ ”.
- Tổn thất toàn bộ thực tế hoặc ước tính (trong trường hợp xe bị tổn thất toàn bộ hoặc ước tính).
Ngoài ra người bảo hiểm còn thanh toán những chi phí cần thiết và hợp lý phát sinh trong tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm như:
+ Chi phí ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
+ Chi phí bảo vệ, kéo xe đến nơi sửa chữa gần nhất.
+ Chi phí giám định tổn thất.
Cũng cần lưu ý rằng trong thời hạn bảo hiểm, nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu xe cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn có hiệu lực đối với chủ xe mới nhưng phải thông báo cho bên bảo hiểm biết và chấp nhận. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí cho họ và làm thủ tục bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu.
Trong mọi trường hợp, tổng số tiền bồi thường của người bảo hiểm (bao gồm cả chi phí) rong một vụ tai nạn không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm.
2.2. Rủi ro loại trừ.
Loại trừ những tổn thất không phải là hậu quả của những sự cố ngẫu nhiên, khách quan, những tổn thất liên quan tới yếu tố chủ quan của chủ xe trong việc quản lý, bảo dưỡng xe, như:
- Hao mòn tự nhiên, hỏng hóc do sử dụng, lão hóa, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa, trong quá trình sửa chữa (bao gồm cả chạy thử).
- Hư hỏng về điện hoặc động cơ do xe hoạt động trong vùng bị ngập nước.
- Tổn thất đối với săm lốp trừ trường hợp tổn thất này xảy ra do cùng nguyên nhân và đồng thời với các bộ phận khác của xe trong cùng một vụ tai nạn.
- Hành động cố ý phá hoại của chủ xe, lái xe.
Loại trừ những trường hợp vi phạm pháp luật và/hoặc độ trầm trọng của rủi ro tăng lên, đó là những tai nạn xảy ra khi:
- Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ.
- Lái xe say rượu bia, có sử dụng ma túy, hoặc các chất kích thích khác trong khi điều khiển xe.
- Xe vận chuyển chất cháy nổ trái phép (không có giấy phép vận chuyển hoặc vận chuyển trái với quy định trong giấy phép vận chuyển).
- Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách theo quy định.
- Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ.
- Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn.
- Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử.
Loại trừ rủi ro có tính “xã hội” với hậu quả lan rộng như: chiến tranh, bạo loạn…
Những quy định loại trừ khác như:
- Loại trừ những thiệt hại có tính chất hậu quả gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại; ngừng sản xuất, sử dụng, khai thác.
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (trừ trường hợp có thỏa thuận riêng).
- Loại trừ thiệt hại do mất cắp bộ phận xe.
Ngoài ra, người bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường cho chủ xe khi:
- Chủ xe cung cấp thông tin không đầy đủ, trung thực khi kê khai các nội dung trong giấy bảo hiểm (về tình trạng xe, địa bàn hoạt động của xe).
- Không thực hiện đầy đủ các quy định về: thông báo tai nạn, trong việc đòi người thứ ba, vấn đề này phụ thuộc vào yêu cầu quản lý rủi ro của người bảo hiểm, vào những yếu tố khác của hợp đồng như là phí bảo hiểm.
3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
3.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH) và số tiền bảo hiểm (STBH).
GTBH của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Trong thực tế, việc đánh giá giá trị bảo hiểm của xe rất phức tạp nhất là ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều xe đã qua sử dụng, sửa chữa tân trang lại…Mặt khác, giá xe trên thị trường luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Do đó, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các nhân tố sau để xác định giá trị xe:
- Loại xe
- Năm sản xuất
- Mới độ mới, cũ của xe
- Thể tích làm việc của xi lanh…
Một phương pháp xác định GTBH mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể:
GTBH = Giá trị ban đầu – khấu hao (nếu có).
Về nguyên tắc để xác định giá trị xe một cách đầy đủ và chính xác nhất thì phải thành lập một hội đồng đánh giá giá trị hoặc tổ chức đấu thầu. Nhưng trong thực tế thì các bên không đủ chi phí và thời gian để làm như vậy với hàng trăm chiếc xe tham gia bảo hiểm. Do đó trước khi tham gia bảo hiểm các công ty bảo hiểm và các chủ xe sẽ tiến hành thỏa thuận đánh giá giá trị t._.hực tế của xe theo cách sau:
Đánh giá giá trị thực tế của xe theo thị trường: Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cùng chủ xe thỏa thuận xác định giá trị thực tế của xe trên thị trường kết hợp với giám định tình trạng thực tế của xe trong quá trình sử dụng. Việc xác định giá trị thực tế của xe trên thị trường căn cứ vào các yếu tố sau:
Giá mua ban đầu của xe.
Giá mới của xe cùng loại trên thị trường vào thời điểm hiện tại có tham khảo bảng giá trị xe mới do doanh nghiệp bảo hiểm ban hành hàng năm và giá xe tại các hãng xe ô tô trên cơ sở sự biến động về giá cả xe mới trên thị trường.
Xu hướng tiêu dùng các loại xe của thị trường, tình hình sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu của các xe cùng loại hay các phụ tùng thay thế.
Tình trạng hao mòn thực tế của xe: Có thể dựa vào các căn cứ sau để đánh giá:
Số km đã khai thác trên thực tế.
Số năm đã sử dụng xe, mục đích sử dụng xe.
Tần suất sử dụng xe hay hệ số khai thác.
Đặc điểm địa hình hoặc điều kiện đường xá của vùng hay tuyến mà xe thường xuyên hoạt động.
Tình trạng kỹ thuật và hình thức bên ngoài của xe trên thực tế.
Giá mua bán trên thị trường của các xe tương đối cùng loại.
Với các căn cứ và cách đánh giá trên, chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận đi đến thống nhất một giá trị xe tham gia bảo hiểm hợp lý. Nói chung mọi quá trình đánh giá xác định giá trị xe chỉ cho một kết quả tương đối, hợp lý để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên.
Trên cơ sở GTBH, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với STBH nhỏ hơn, hoặc bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định số tiền bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
+ Nếu chủ xe tham gia với STBH nhỏ hơn giá trị thực tế của xe thì được gọi là bảo hiểm dưới giá trị.
+ Nếu chủ xe tham gia với STBH bằng giá trị thực tế của xe thì được gọi là bảo hiểm ngang giá trị.
+ Nếu chủ xe tham gia với STBH lớn hơn giá trị thực tế của xe thì được gọi là bảo hiểm trên giá trị.
Trường hợp bảo hiểm bộ phận (thân vỏ xe ô tô), STBH được định trên cơ sở GTBH toàn bộ xe và tỷ lệ (%) về phần giá trị của bộ phận đó trên giá trị của toàn bộ xe (tỷ lệ này người bảo hiểm đã quy định cho từng loại xe).
3.2. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà Chủ xe có trách nhiệm phải thanh toán cho Bên bảo hiểm khi họ tham gia bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi người tham gia bảo hiểm đóng phí hoặc chấp nhận đóng phí theo quy định. Ở Việt Nam, các công ty bảo hiểm sẽ tiến hành thu phí bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài Chính. Phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau:
P = f + d
Trong đó: P: Phí thu mỗi đầu xe.
f: Phí bồi thường.
d: Phụ phí.
Căn cứ vào STBH, mức phí của hợp đồng bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới được xác định bằng tỷ lệ phí bảo hiểm nhân với STBH.
P = Sb * R
Trong đó: Sb: Số tiền bảo hiểm.
R : Tỷ lệ phí bảo hiểm.
Tỷ lệ phí ở công thức này do Bộ Tài Chính quy định và nó phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Xác suất thống kê những vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
Thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông xảy ra (nói chung).
Thời hạn bảo hiểm (ngắn hạn hoặc dài hạn).
Bảng 3: Biểu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới
(không tính khấu hao hay thay mới).
Giá trị thực tế
Tỷ lệ phí bảo hiểm cơ bản trên số tiền bảo hiểm
Xe ô tô
Xe mô tô, xe máy
Bảo hiểm toàn bộ
Bảo hiểm bộ phận
Xe sử dụng dưới 3 năm hoặc giá trị còn lại từ 70% trở lên so với giá trị xe mới.
1.5%
2.5%
1%
Xe sử dụng từ 3 đến 6 năm hoặc giá trị còn lại từ 50% đến 70% so với xe mới.
1.7%
2.7%
1.2%
Xe sử dụng trên 6 năm hoặc giá trị còn lại dưới 50% so với giá trị xe mới.
1.9%
2.9%
1.4%
(Nguồn: Biểu phí quy định của Bộ Tài Chính)
Tỷ lệ phí cơ bản thường áp dụng cho một năm hợp đồng, cùng với tỷ lệ phí cơ bản đó là quy định về tỷ lệ giảm phí đối với những hợp đồng có thời hạn dưới một năm.
Bảng 4: Biểu phí ngắn hạn theo quy định của Bộ Tài Chính.
Thời hạn bảo hiểm
Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Đến 03 tháng
30% Phí bảo hiểm năm
Trên 03 tháng đến 06 tháng
60% Phí bảo hiểm năm
Trến 06 tháng đến 09 tháng
90% Phí bảo hiểm năm
Trến 09 tháng đến 12 tháng
100% Phí bảo hiểm năm
(Nguồn: Biểu phí quy định của Bộ Tài Chính)
Ngoài ra, để phục vụ cho nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng, Bộ Tài Chính cũng đưa ra biểu phí dài hạn bổ sung.
Bảng 5: Biểu phí dài hạn theo quy định của Bộ Tài Chính.
Thời hạn bảo hiểm
Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm)
Trên 12 tháng đến 15 tháng
124% Phí bảo hiểm năm
Trên 15 tháng đến 18 tháng
144% Phí bảo hiểm năm
Trên 18 tháng đến 21 tháng
162% Phí bảo hiểm năm
Trên 21 tháng đến 24 tháng
168% Phí bảo hiểm năm
Trên 24 tháng đến 30 tháng
208% Phí bảo hiểm năm
Trên 30 tháng đến 36 tháng
240% Phí bảo hiểm năm
(Nguồn: Biểu phí quy định của Bộ Tài Chính)
Phương pháp tính phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới của nhiều công ty bảo hiểm trên thế giới luôn dựa vào một số yếu tố cơ bản sau:
- Loại xe (xác định bởi mác và năm sản xuất…). Do mỗi loại xe có những đặc tính kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên tỷ lệ phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân loại các xe thành các nhóm. Việc phân loại này dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, thiết bị an toàn, chống mất cắp, giá cả, chí phí sửa chữa, phụ tùng thay thế…Đối với các xe không thông dụng như xe kéo rơ mooc, xe chở hàng nặng… mức rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định trên mức phí cơ bản.
- Mục đích sử dụng xe. Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp cho người bảo hiểm có thể dự đoán được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ: một chiếc xe riêng của một gia đình chỉ phục vụ cho mục đích đi lại hàng ngày sẽ có mức độ rủi ro thấp hơn một chiếc xe dùng vào việc kinh doanh vận chuyển hành khách. Xe lăn bánh trên dường càng nhiều, rủi ro tai nạn càng lớn.
- Phạm vi và địa bàn hoạt động. Xe hoạt động trên phạm vi càng rộng, khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Và mức độ rủi ro còn phụ thuộc vào đặc điểm địa hình, số lượng xe, điều kiện tự nhiên… trên địa bàn mà xe đang hoạt động.
- Độ tuổi, giới tính, kinh nghiệm lái xe. Số liệu thống kê cho thấy rằng, các lái xe là nam giới và các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường giảm phí bảo hiểm cho các lái xe có tuổi từ 45 đến 55 tuổi. Tuy nhiên, đối với những lái xe từ 55 tuổi trở lên thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe đảm bảo để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm.
- Tiền sử lái xe. Liên quan tới các vụ tai nạn phát sinh, các hành vi vi phạm luật lệ an toàn giao thông…
Ngoài ra khi tính phí bảo hiểm còn tùy thuộc vào sự giới hạn phạm vi bảo hiểm và sự phân biệt giữa bảo hiểm xe lẻ và bảo hiểm cả đội xe. Cơ chế thưởng bằng việc giảm phí cũng được áp dụng như một biện pháp để giữ khách hàng. Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ phí bảo hiểm của các công ty bảo hiểm nhìn chung đều có sự phân biệt giữa xe mô tô và xe ô tô, giữa cách thức bảo hiểm toàn bộ và bộ phận xe.Tỷ lệ phí cũng được điều chỉnh cho những trường hợp mở rộng phạm vi bảo hiểm như rủi ro mất cắp bộ phận xe, trường hợp áp dụng mức miến thường tăng lên và theo số năm xe đã qua sử dụng.
Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau:
Số tháng xe đã hoạt động trong năm
Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm ×
12
Hoàn phí bảo hiểm: Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí cả năm nhưng trong năm xe không hoạt động hoặc được chuyển giao quyền sở hữu cho chủ xe khác mà không chuyển giao quyền lợi bảo hiểm vật chất xe. Trường hợp này, công ty bảo hiếm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng hợp đồng còn hiệu lực cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau
Số tháng không hoạt động
Phí hoàn lại = phí cả năm × × tỷ lệ hoàn lại phí
12
Đây là mức giảm phí và hoàn lại phí theo quy định của Bộ Tài Chính để tránh trường hợp trục lợi bảo hiểm của các công ty bảo hiểm. Ngoài ra, tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh của mình mà các công ty bảo hiểm có thể có thêm những ưu đãi với khách hàng của mình để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty.
Biểu phí đặc biệt. Trong những trường hợp đặc biệt khi khách hàng có số lượng xe tham gia nhiều, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng, cụ thể:
- Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm.
- Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó.
- Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty.
Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn (hoặc bằng) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn (hoặc bằng) mức tổn thất bình quân chung, thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung.
4. Hoạt động giám định và bồi thường tổn thất.
4.1. Quy trình xử lý tai nạn, giám định và xét bồi thường bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
Giám định và xét bồi thuờng phải tuân theo một quy trình chặt chẽ.
Giai đoạn 1 : Tiếp nhận và xử lý thông tin về tai nạn.
Ngay sau khi tai nạn xảy ra, chủ xe hoặc đại diện chủ xe cần thông báo ngay cho cơ quan công an, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc đơn vị đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm ở nơi gần nhất về tình hình tai nạn, thực hiện các biện pháp để hạn chế thiệt hại gia tăng. Chủ xe không được di dời, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của doanh nhiệp bảo hiểm trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền.
Khi chủ xe, lái xe hoặc đơn vị có liên quan trong vụ tai nạn khai báo về tai nạn bằng văn bản, thông qua điện thoại, hoặc tới khai báo trực tiếp thì bộ phận tiếp nhận khai báo có trách nhiệm giúp đỡ, huớng dẫn nguời khai lập tờ khai tai nạn xe cơ giới theo mẫu có sẵn của công ty. Trong trường hợp khai báo bằng điện thoại thì yêu cầu phía chủ xe trong vòng 05 ngày phải gửi văn bản thông báo tai nạn hay cử đại diện đến công ty để khai báo trực tiếp.
Những thông tin bước đầu phải nắm được là:
- Số xe, loại xe.
- Ngày và nơi xảy ra tai nạn.
- Tên lái xe, số Giấy phép lái xe.
- Số Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn vị bảo hiểm, nội dung bảo hiểm (trách nhiệm dân sự, vật chất xe…)
- Diễn biến tai nạn (có thể trình bày tóm tắt : gây tai nạn với ai, trong tình huống nào, hậu quả…)
- Nội dung đang được cơ quan nào giải quyết, địa chỉ, số điện thoại liên lạc…
- Chủ xe (đang sở hữu), địa chỉ, số điện thoại liên lạc.
- Đánh giá sơ bộ về thiệt hại.
Trong quá trình thu thập hồ sơ, các thông tin tai nạn phải được điền đầy đủ như mẫu tờ khai quy định.
Đơn vị giải quyết sẽ là đơn vị bảo hiểm gốc hoặc đơn vị nơi xảy ra tai nạn được ủy quyền theo thông báo giám định, bồi thường hộ. Ngay sau khi nhận được khai báo tai nạn, đơn vị giải quyết tai nạn phải mở hồ sơ giải quyết tai nạn, đồng thời thông báo cho khách hàng biết hướng giải quyết. Tùy theo tình hình mà yêu cầu chủ xe thực hiện những biện pháp cần thiết để hạn chế tổn thất, bảo vệ hiện trường, bảo vệ xe. Thống nhất với chủ xe, lái xe về thời gian, địa điểm giám định và chuẩn bị những điều kiện cần thiết về con người, về phương tiện cho công tác giám định.
Giai đoạn 2 : Giám định và thu thập hồ sơ tai nạn – tham gia giải quyết tai nạn.
Bước 1 : Thu thập hồ sơ tai nạn:
Ngay khi tiếp nhận khai báo tai nạn, đơn vị mở hồ sơ giải quyết tai nạn phải cử giám định viên xuống ngay hiện trường để tham gia xử lý tai nạn. Giám định viên phải có trách nhiệm:
Xin ý kiến lãnh đạo đơn vị hoặc phòng Công ty để chỉ thị cho chủ xe hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan ngăn ngừa, đề phòng hạn chế tổn thất.
Tiến hành ghi nhận tình huống tai nạn, giám định sơ bộ tổn thất, mức độ thiệt hại về người và tài sản, chụp hình hiện trường và các tổn thất.
Cần kiểm tra số sườn, số máy để đảm bảo rằng xe bị tai nạn là xe tham gia bảo hiểm. Đối với xe tham gia bảo hiểm vật chất cần phải có bản chà số máy, số khung.
Liên hệ ngay với cảnh sát giao thông hoặc cơ quan công an giải quyết vụ việc để tìm hiểu về tình hình tai nạn, mức độ lỗi dự kiến cũng như thông báo cho khách hàng trong việc giải quyết tai nạn, thu thập hồ sơ chứng từ để đủ cơ sở pháp lý đòi bồi thường.
Chụp ảnh mô tả rõ tổn thất vật chất của tài sản bị thiệt hại.
Bước 2 : Giám định tổn thất và nguyên nhân tai nạn:
Giám định tổn thất được thực hiện bởi các chuyên viên giám định. Tùy theo từng nước, từng loại hình doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau mà quy chế về chuyên viên giám định cũng khác nhau. Ở những nước phát triển, chuyên viên giám định do doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp chỉ định và lựa chọn. Nhưng phần lớn ở các nước chuyên viên giám định là chính nhân viên của bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm.
Chuyên viên giám định bảo hiểm phải công minh, cẩn thận và hiểu biết thấu đáo về từng nghiệp vụ bảo hiểm mà mình phụ trách. Phải thi hành công vụ một cách mẫn cán, chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ thị, ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm. Được phép mời các cộng sự làm việc nhưng phải có ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm, nếu là chuyên viên giám định của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu chuyên viên giám định do doanh nghiệp bảo hiểm chỉ định, lựa chọn sẽ được ủy nhiệm một số quyền hạn nhất định, song không được nhượng lại sự ủy quyền này cho người khác, lợi ích của họ phải độc lập với lợi ích của người tham gia bảo hiểm.
Yêu cầu trong công tác giám định tổn thất.
Ghi nhận thiệt hại phải đảm bảo chính xác, kịp thời, khách quan và trung thực. Ghi nhận thiệt hại tức là ghi lại thực trạng và xác định lại thiệt hại, mức độ trầm trọng và nguyên nhân gây thiệt hại. Công việc giám định chỉ được thực hiện khi bên tham gia bảo hiểm hay bên doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu. Để đảm bảo tính khách quan, mọi tổn thất về tài sản đều được Bảo Việt tiến hành giám định trực tiếp với sự có mặt của Chủ xe, các bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, nhằm xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại.
Đề xuất các biện pháp bảo quản và phòng ngừa thiệt hại, phải kịp thời và đúng quyền hạn. Khi rủi ro tổn thất xảy ra, chuyên viên giám định có nghĩa vụ can thiệp để giảm thiểu độ trầm trọng của tổn thất và tình trạng gia tăng thiệt hại. Sự can thiệp của chuyên viên giám định là đưa ra các biện pháp bảo quản và phòng ngừa thiệt hại như: Các biện pháp cứu hộ và an toàn đối với tài sản được bảo hiểm và tài sản, tính mạng của người thứ ba…Tuy nhiên chuyên viên giám định không được vượt quyền và làm thay người được bảo hiểm. Nếu phát hiện tổn thất có tính hệ thống, chuyên viên giám định phải tìm hiểu nguyên nhân, cách giải quyết và thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm đã ủy nhiệm lựa chọn mình làm người giám định.
Những thông tin mà chuyên viên giám định cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm là tự nguyện, nhưng nội dung của nó là tất cả những chi tiết về những sự kiện đã xảy ra và các vấn đề liên quan như: Thực trạng hiện trường nơi xảy ra tổn thất, tình trạng mất cắp, các quyết định của cơ quan công an và chính quyền địa phương…Những thông tin này sẽ không có giá trị nếu được cung cấp quá muộn, bởi vì nó không được đưa ra thảo luận và làm bằng chứng khi lập biên bản giám định tổn thất.
Quy trình giám định tổn thất.
Giám định bảo hiểm chỉ chấp nhận yêu cầu giám định trong những trường hợp xảy ra tai nạn, có tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Vì vậy đối với những trường hợp phát hiện không thuộc phạm vi bảo hiểm cần có ý kiến ngay để bên tham gia bảo hiểm có hướng giải quyết.
Tùy từng nghiệp vụ bảo hiểm mà tổ chức giám định tổn thất cho phù hợp. Có thể khái quát quy trình giám định theo các bước sau đây:
Chuẩn bị giám định: Trước khi tiến hành giám định phải chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ cần thiết liên quan đến đối tượng bảo hiểm như: Đơn bảo hiểm hoặc giấy yêu cầu bảo hiểm, loại hình bảo hiểm tham gia, hóa đơn sửa chữa, thay thế…Ngoài ra, nếu cần thiết còn phải chuẩn bị hiện trường giám định, thống nhất thời gian và địa điểm giám định, tổ chức mời các bên có liên quan trong khi giám định (công an, chính quyền địa phương, các nhà chuyên môn…).
Tiến hành giám định: Công việc giám định phải được tiến hành khẩn trương, ý kiến của chuyên viên giám định đưa ra phải chuẩn xác, hợp lý và nhất quán. Với những nghiệp vụ bảo hiểm phải giám định dài ngày, chuyên viên giám định phải bám sát hiện trường để theo dõi, thu thập thông tin và đưa ra các phương án giải quyết phù hợp. Trong quá trình giám định phải tập trung vào các công việc sau:
Kiểm tra lại đối tượng giám định.
Phân loại tổn thất.
Xác định mức độ tổn thất.
Nguyên nhân gây tổn thất.
Tổn thất của người thứ ba (nếu có).
Các chi phí liên quan...
Những ý kiến nêu ra trong quá trình giám định phải có cơ sở khoa học và thực tiễn, không được chủ quan, tùy tiện và vội vã khi đưa ra những kết luận.
Lập biên bản giám định: Đây là tài liệu chủ yếu để xét duyệt bồi thường hoặc chi trả bảo hiểm và khiếu nại người thứ ba. Vì vậy nội dung văn bản này phải đảm bảo tính trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể. Các số liệu phải phù hợp với thực trạng và không được mâu thuẫn khi đối chiếu với các giấy tờ có liên quan. Với những vụ tổn thât lớn, nghiêm trọng và phức tạp cần phải lấy ý kiến tập thể của những người có liên quan và lãnh đạo doanh nghiệp bảo hiểm trước khi hoàn tất biên bản giám định. Thông thường biên bản giám định được lập ở hiện trường và sau khi đã thông nhất phải lấy chữ ký của các bên có liên quan. Biên bản giám định chỉ cấp cho người có yêu cầu giám định. Không được tiết lộ nội dung giám định cho những người khác khi chưa có yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
Phương pháp giám định: Có hai phương pháp giám định đó là giám định trực tiếp và giám định gián tiếp.
Phương pháp giám định gián tiếp. Sử dụng trong những trường hợp đặc biệt (như tai nạn xảy ra quá xa, giám định viên không thể trực tiếp đến tại hiện trường để giám định được). Đối với trường hợp này, giám định viên có thể căn cứ vào biên bản của cơ quan chức năng, căn cứ vào ảnh chụp, các hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và kết quả điều tra, thẩm định của công ty bảo hiểm (khi cần thiết) để lập biên bản giám định.
Phương pháp giám định trực tiếp. Đây là phương pháp sử dụng để giám định hầu hết các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
Trong trường hợp thiệt hại nhẹ, nguyên nhân đơn giản, rõ ràng, số lượng bộ phận hư hỏng không nhiều, bằng quan sát bên ngoài đã có thể đánh giá, xác định được mức độ thiệt hại chỉ cần lập biên bản giám định đơn giản và một lần.
Trường hợp tai nạn cùng một lúc gây hư hỏng cho nhiều cụm chi tiết và khó đánh giá đủ thiệt hại bằng quan sát thông thường được, thì ngoài biên bản giám định ban đầu, giám định viên còn phải lập các biên bản bổ sung phát sing trong qua trình sửa chữa. Để không bỏ sót, biên bản giám định nên lập thành hệ thống theo cấu tạo hoặc theo tổng thành xe.
Trường hợp hư hỏng nặng, mức độ thiệt hại lớn, có thể gây đến hư hỏng cho cả các chi tiết trong cụm tổng thành có giá trị lớn như động cơ, hộp sơ… việc giám định bổ sung được thực hiện khi tháo dời các bộ phận, dự toán sửa chữa và có kèm theo bản đề xuất chấp nhận phương án sửa chữa.
Trường hợp tai nạn có dấu hiệu từ nguyên nhân loại trừ bảo hiểm, xuất phát từ hiện trường, từ dấu vết hư hỏng để sự đoán, lựa chọn phương án giám định, xác định nguyên nhân và cách đấu tranh thích hợp nhất. Nếu thấy cần thiết phải trưng cầu ý kiến của giám định chuyên môn, điều tra kỹ thuật hình sự.
Giai đoạn 3 : Tính toán bồi thường- luân chuyển và lưu trữ hồ sơ.
Bước 1 : Hồ sơ bồi thường:
Thu thập hồ sơ, chứng từ để phục vụ công tác bồi thường, hồ sơ bao gồm (có thể thu thập trực tiếp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp):
Thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường theo mẫu của Công ty.
Các giấy tờ chứng minh thiệt hại về tài sản như báo đơn sửa chữa, thay mới tài sản bị thiệt hại do tai nạn, các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện chỉ dẫn của công ty bảo hiểm.
Phiếu ghi nhận thông tin tai nạn (theo mẫu) có cảnh sát giao thông hoặc chính quyền địa phương xác nhận.
Có trách nhiệm bàn giao hồ sơ gốc giám định ngay khi hoàn tất và chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị và pháp luật về nội dung hồ sơ chứng từ giám định.
Khi thực hiện nhiệm vụ, giám định viên phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, không được hứa hẹn bồi thường, hướng dẫn các bên liên quan thực hiện các việc trái với quy định pháp luật, quy định của công ty gây tổn hại đến quyền lợi của Người được bảo hiểm và Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Bước 2 : Xét duyệt bồi thường: Thời gian giải quyết hồ sơ bồi thường tại các đơn vị không quá 05 ngày kể từ khi nhận hồ sơ có đủ chứng từ cần thiết và không quá 20 ngày từ khi xảy ra tai nạn. Trong trường hợp bồi thường hộ, đơn vị cần có thông báo cho đơn vị bảo hiểm gốc về hướng xử lý trước khi giải quyết cho khách hàng.
4.2.Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm.
Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm là vấn đề trọng tâm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi vì khi mua bảo hiểm, có nghĩa là khách hàng đã trả tiền cho các sản phẩm bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm một cách nhanh chóng và đầy đủ nếu không may họ bị tổn thất. Chính vào thời điểm tổn thất xảy ra, khi khách hàng bị thiệt hại về tài chính thì năng lực, sự trung thực, tính hiệu quả, sự tế nhị và tính nhân đạo của doanh nghiệp bảo hiểm được thừa nhận qua cách xử sự của mình với các nạn nhân của sự kiện bảo hiểm. Nếu giải quyết tốt thì đó là cách quảng cáo tốt nhất đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Trình tự giải quyết bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm được tiến hành như sau:
Mở hồ sơ khách hàng: Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và các giấy tờ có liên quan, bộ phận giải quyết bồi thường phải mở hồ sơ khách hàng và ghi lại theo thứ tự số hồ sơ (số hợp đồng) và thời gian. Sau đó kiểm tra, đối chiếu với bản hợp đồng gốc vế các thông tin liên quan đến bảng kê khai tổn thất. Tiêp theo phải thông báo cho khách hàng là đã nhận được đầy đủ các giấy tờ liên quan, nếu thiếu loại giấy tờ nào cũng phải thông báo nhanh chóng bổ sung hoàn thiện hồ sơ bồi thường.
Xác định số tiền bồi thường: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là môt loại hình bảo hiểm tài sản nên có đặc điểm là áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường mà bên được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Số tiền bồi thường được xác định căn cứ vào:
Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất.
Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm.
Thiệt hại thực tế và chi phí hợp lý đã thuận.
Các khoản chi phí khác được chấp nhận bồi thường như chí phí cẩu kéo phương tiện, chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất.
Nguyên nhân gây ra thiệt hại có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không.
Loại hình bảo hiểm vật chất mà chủ xe tham gia: Bảo hiểm toàn bộ xe hay chỉ bảo hiểm bộ phận xe? Xe tham gia bảo hiểm có đúng giá trị thực tế hay không?
Các khoản bị chế tài (nếu có).
Các khoản đòi bồi thường của người thứ ba gây tai nạn (nếu có).
Nguyên tắc tính số tiền bồi thường.
+ Trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế.
Số tiền bảo hiểm (STBH)
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại thực tế ×
Giá trị bảo hiểm (GTBH)
+ Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế
Theo nguyên tắc để tránh việc "lợi dụng" bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận STBH nhỏ hơn hoặc bằng GTBH. Nếu người tham gia bảo hiểm cố tình tham gia với STBH lớn hơn GTBH nhằm trục lợi bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ không có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu là vô tình tham gia bảo hiểm trên giá trị, công ty bảo hiểm vẫn bồi thường nhưng STBT chỉ bằng thiệt hại thực tế và luôn luôn nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe.
Trong thực tế, cũng có những trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế. Trường hợp này được gọi là bảo hiểm theo "giá trị thay thế mới". Để được công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm theo "giá trị thay thế mới", chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao và các điều kiện bảo hiểm là khá nghiêm ngặt.
+ Trường hợp tổn thất bộ phận.
Trong trường hợp này, chủ xe sẽ được giải quyết theo nguyên tắc một hoặc hai nêu trên. Tuy nhiên, các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng bảng tỷ lệ giá trị tổng thành xe.
+ Trường hợp tổn thất toàn bộ.
Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi:
+ Xe bị thiệt hại trên 75% hoặc đến mức không thể sửa chữa, phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe.
+ Xe bị mất cắp, mất cướp ( có kết luận của cơ quan chức năng ).
Trong trường hợp này STBT lớn nhất bằng STBH và phải trừ khấu hao cho thời gian xe đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị xe ngay trước khi xảy ra tổn thất.
Thông báo bồi thường:
Sau khi số tiền bồi thường được xác định, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thông báo chấp nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng. Thường có 3 hình thức bồi thường: Thanh toán bằng tiền mặt, sửa chữa tài sản, thay thế mới tài sản. Nếu số tiền bồi thường hoặc chi trả quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận với khách hàng về kỳ hạn thanh toán, thời gian, lãi suất trả chậm…
Phần lớn các vụ tổn thất được giải quyết bồi thường hoặc chi trả nhanh chóng, ngay sau khi khách hàng tập hợp được các giấy tờ chứng minh cần thiết cũng với đơn khiếu nại hoặc ngay sau khi chuyên viên giám định xác định được số tiền thiệt hại do tổn thất gây ra và lập biên bản giám định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc thanh toán bồi thường, chi trả đòi hỏi thời hạn dài, khiến khách hàng phật ý, thậm chí công phẫn.
Truy đòi người thứ ba: Cuối cùng, bộ phận thanh toán bồi thường phải áp dụng các biện pháp để tiến hành truy đòi người thứ ba nếu họ có liên đới trách nhiệm trong trường hợp tổn thất xảy ra hoặc với các nhà bảo hiểm khác trên thị trường tái bảo hiểm. Thực hiện truy đòi cũng phải nhanh chóng, kịp thời để quản lý tốt các nghiệp vụ bảo hiểm mà kết quả của chúng có liên quan đến kết quả truy đòi. Khi thiệt hại xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba, Bảo Việt bồi thường cho chủ xe và yêu cầu chủ xe bảo lưu quyền khiếu nại và chuyển quyền đòi bồi thường cho công ty bảo hiểm kèm theo toàn bộ hồ sơ, chứng từ có liên quan và hợp tác chặt chẽ với Bảo Việt đòi lại người thứ ba trong phạm vi số tiền đã được Bảo Việt bồi thường.
Bảo Việt miễn trừ đòi bên thứ ba (bên gây thiệt hại) bồi thường trong trường hợp các xe liên quan đến tai nạn đều bảo hiểm vật chất xe toàn bộ , đủ giá trị tại Bảo Việt.
5. Hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới cũng thỏa mãn những điều kiện trên và được ký kết giữa chủ xe và công ty bảo hiểm. Trong đó, giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cung cấp theo yêu cầu bảo hiểm của chủ xe là bằng chứng văn bản và cũng là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa công ty và chủ xe.
Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới bao gồm:
Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới: Là điều khoản quy định quyền lợi, trách nhiệm của chủ xe, Bảo Việt và được Bảo Việt cấp khi chủ xe cơ yêu cầu.
Giấy yêu cầu bảo hiểm (theo mẫu in sẵn): Để chủ xe yêu cầu bảo hiểm và thiết lập hợp đồng bảo hiểm. Là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Khi yêu cầu bảo hiểm, chủ xe phải kê khai đầy đủ và trung thực những nội dung trong Giấy yêu cầu bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm: Được Bảo Việt cấp cho chủ xe, là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Các điều khoản bảo hiểm bổ sung cho hợp đồng (chỉ áp dụng đối với bảo hiểm vật chất ô tô): Là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm được thỏa thuận bổ sung nếu chủ xe có yêu cầu.
Các thỏa thuận khác được lập thành văn bản giữa chủ xe và Bảo Việt.
Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Chủ xe phải thanh toán đủ phí bảo hiểm trước khi công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, trừ khi có thỏa thuận khác bằng văn bản. Trường hợp bên mua bảo hiểm chậm đóng phí bảo hiểm theo định kỳ mà không thông báo với công ty bảo hiểm, thỏa thuận ấn định lại thơi hạn đóng phí bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên chấm dứt hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục đóng phí bảo hiểm.
Khi chủ xe yêu cầu chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn, phải thông báo bằng văn bản cho công ty bảo hiểm trước 15 ngày kể từ ngày định chấm dứt hợp đồng. Nếu hợp đồng được hai bên thỏa thuận chấm dứt thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian còn lại, trừ trường hợp trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nếu trong trường hợp công ty bảo hiểm yêu cầu chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời hạn thì công ty phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe trước 15 ngày và hoàn lại phí bảo hiểm cho chủ xe tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
6. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Xét trên phương diện thống kê, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, không thể dùng một chỉ tiêu mà phải dùng một hệ thống các chỉ tiêu. Bởi vì, nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và rất phức tạp.
Nếu kí hiệu một chỉ tiêu chí phí nào đó là C và một chỉ tiêu kết quả nào đó là K, thì chỉ tiêu hiệu quả H được tính từ hai chỉ tiêu trên sẽ là:
H=K/C hoặc H=C/K
Như vậy, về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ ti._.
Như vậy trong những năm qua, phòng bảo hiểm Cầu Giấy đã có được kết quả và hiệu quả kinh doanh khá cao trong việc kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Đây là thành tích rất đáng khích lệ và tự hào của phòng, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung của công ty.
Nền kinh tế đất nước đang ngày càng một phát triển hơn, xu thế hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, có rất nhiều các doanh nghiệp, các loại hình kinh doanh mới ra đời, nhu cầu về vận chuyển do đó cũng tăng theo. Thu nhập của người dân đang được cải thiện nảy sinh nhiều nhu cầu vui chơi giải trí và du lịch...Với sự thuận tiện và nhiều tính năng ưu việt của mình hơn các phương tiện giao thông khác, chắc chắn lượng xe cơ giới lưu hành sẽ tăng lên đáng kể trong thời gian tới nhất là ô tô. Tuy nhiên, cùng với tiến trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế sẽ có nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài với khả năng tài chính mạnh, có trình độ quản lý hiện đại và chuyên nghiệp sẽ xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Điều này sẽ tạo ra một sức ép cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm.
Chương 3.Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Thuận lợi.
Hà Nội là trung tâm kinh tế - văn hóa của cả nước, nơi tập trung các khu công nghiệp lớn, có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đang hoạt động cùng với dân số hơn 5 triệu dân do đó nhu cầu về vận tải nhất là vận tải đường bộ rất lớn. Theo số liệu thống kê của ủy ban an toàn giao thông quốc gia, hiện nay, Hà Nội có khoảng 123.236 ô tô; 1,5 triệu mô tô đang lưu hành. Để đảm bảo sự ổn định về mặt tài chính trong kinh doanh, trong cuộc sống, họ cần có các sản phẩm bảo hiểm nói chung cũng như sản phẩm bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển.
Theo đánh giá của Bộ Tài Chính kể từ năm 1994 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân của thị trường bảo hiểm đạt 23%/năm. Số lượng các công ty bảo hiểm hiện nay ở thị trường nước ta là 24 công ty (kể cả môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm) với các hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu nhà nước, cổ phần, liên doanh, 100% vốn nước ngoài. Hiện nay đã có 14 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam-một thị trường mà theo đánh giá của giới kinh doanh là “đầy tiềm năng”. Môi trường này sẽ đem đến nhiều thuận lợi cho không chỉ riêng Bảo Việt Hà Nội mà còn cho tất cả các công ty bảo hiểm nói chung.
Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời ngày 7/12/2000.
Quốc hội đã chính thức thông qua Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam và có hiệu lực từ 1/4/2001. Đây là văn bản pháp lý quan trọng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Qua đó, chúng ta thấy được Nhà nước đã có những quan tâm kịp thời đến tình hình phát triển của lĩnh vực này trong việc đưa ra những văn bản pháp lý, chính sách tạo khuôn khổ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm xây dựng được mục tiêu hoạt động dễ dàng, đóng góp vào tiến trình phát triển chung của đất nước.
Bảo Việt Hà Nội là tổ chức trực thuộc Tổng công ty bảo việt Việt Nam, là doanh nghiệp bảo hiểm ra đời đầu tiên ở nước ta có bề dày kinh nghiệm trong kinh doanh, có tiềm lực tài chính mạnh (hiện nay tổng giá trị tài sản của Bảo Việt là trên 100.000 tỷ đồng)…Vì vậy, thương hiệu Bảo Việt rất có uy tín đối với các tổ chức, các doanh nghiệp cũng như người dân Việt Nam. Trên địa bàn thủ đô Hà Nội, Bảo Việt Hà Nội đều có văn phòng chi nhánh ở tất cả các quận huyện. Điều này đã tạo ra được một mạng lưới phân phối sản phẩm rộng lớn trên địa bàn thủ đô đồng thời tạo ra sự nhanh chóng, thuận tiện cho người được bảo hiểm trong việc giám định tổn thất, xét yêu cầu bồi thường khi xảy ra rủi ro.
Quận Cầu Giấy là một trong những quận nội thành lớn của thu đô Hà Nội. Địa bàn chủ yếu là dân cư, mức thu nhập khá ổn định, trình độ của người dân ngày càng được nâng cao do đó sự hiểu biết của họ về bảo hiểm cũng đã đưuọc nâng lên tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khai thác của phòng nói riêng và của công ty nói chung. Quận Cầu Giấy đang trên đà phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế văn hóa, nhiều dự án xây dựng, nhiều công trình nâng cấp cải tạo đang từng bước làm thay đổi bộ mặt của quận Cầu Giấy. Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc Việt Nam gia nhập WTO, thực hiện dần các cam kết để mở cửa thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cơ hội mới đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm.
Phòng Cầu Giấy có đội ngũ cán bộ, đại lý có kinh nghiệm trong khai thác và quản lý khách hàng. Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, phòng đã được sự chỉ đao của công ty cho phép mở rộng địa bàn khai thác sang các quận huyện khác chứ không chỉ gói gọn ở địa bàn quận Cầu Giấy. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều cho công tác khai thác của phòng vì phần lớn các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước đều nằm rải rác tại các quận gần trung tâm thành phố. Bên cạnh đó, phòng cũng nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của ban Giám đốc, các phòng ban chức năng trong công ty; sự giúp đỡ tận tình của Đảng ủy và chính quyền địa phương cùng các ban ngành Đoàn thể đóng trên địa bàn.
Khó khăn
Khó khăn chung.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam đã hình thành và đi vào hoạt động từ hơn 30 năm nay nhưng chỉ từ 8 năm trở lại đây thì mới thực sự trở thành một thị trường theo đúng nghĩa của nó, gồm nhiều nhà cung cấp với những sản phẩm đa dạng chứ không chỉ có một nhà cung cấp với số lượng sản phẩm hạn chế, không có cơ hội lựa chọn như trước đây. Việc thị trường này phát triển sôi động bên cạnh việc tạo ra thuận lợi, cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và phòng Bảo Việt Cầu Giấy nói riêng thì còn đưa lại những khó khăn thách thức lớn đó chính là sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty. Cầu Giấy là địa bàn có nhiều tiềm năng về bảo hiểm cộng thêm địa hình Cầu Giấy lại là cửa ngõ của thủ đô rất thuận lợi cho sự xâm nhập của các công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Do vậy trong quá trình cạnh tranh không tránh khỏi một số thị phần đã bị “san sẻ” cho nhiều công ty khác như Bảo Minh, Bảo Long, PJICO, Dầu khí…
Nhận thức của người dân và các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam về bảo hiểm còn hạn chế.
Đối với việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đòi hỏi các chi phí rất lớn cho công tác đào tạo cán bộ, trang thiết bị kỹ thuật giám định tổn thất, đánh giá rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất.
Dễ phát sinh hiện tượng trục lợi bảo hiểm (TLBH) từ phía khách hàng. Nói đến TLBH là người ta lại nghĩ đến bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Đây là nghiệp vụ dễ xảy ra hiện tượng trục lợi. Còn ở Việt Nam, theo ông Lê Quang Bình, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm (Bộ Tài chính), tuy chưa có những thống kê cụ thể, nhưng tình trạng TLBH đã xuất hiện từ lâu và đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, hình thức trục lợi phổ biến là việc kê khống tình trạng thiệt hại, cố ý tạo ra các tổn thất để lấy tiền đền bù, thông đồng với các cơ quan kiểm định để đưa ra các mức độ tổn thất không đúng... Đặc biệt, đã xuất hiện những vụ TLBH với quy mô lớn, điển hình gần đây nhất là hành vi đưa và nhận hối lộ ở Công ty Bảo hiểm Pjico, khi các đương sự câu kết với một số lãnh đạo cao cấp của doanh nghiệp này để chiếm đoạt số tiền lên đến hàng tỉ đồng. Điều đáng nói nhất ở nước ta là chế tài xử lý các hành vi TLBH còn quá thiếu. Theo nghị định về xử phạt hành chính, hành vi TLBH chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa 10 triệu đồng. Bộ luật Hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội TLBH. Kẻ TLBH chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ TLBH chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, do vậy không có tính răn đe. Nếu không có ngay những giải pháp phòng chống hiệu quả, hiện tượng TLBH sẽ gây ra những thiệt hại to lớn, kìm hãm sự phát triển của nền công nghiệp bảo hiểm còn rất non trẻ ở nước ta. Nhằm phòng chống TLBH một cách có hiệu quả, các chuyên gia của Bộ Tài chính cho rằng cần tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ.
+ Thứ nhất, về phía các doanh nghiệp bảo hiểm, phải tăng cường kiểm tra giám sát nội bộ, quản lý chặt các đại lý, không ngừng trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau, duy trì chặt chẽ mối quan hệ với khách hàng, làm tốt công tác tuyên truyền để người dân và các tổ chức không tham gia TLBH.
+ Về phía các cơ quan chức năng, cũng cần phải thường xuyên giám sát tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, hoàn thiện các chế tài xử phạt nghiêm khắc từ cấp vĩ mô cũng như cụ thể... Phải làm sao để các hành vi TLBH bị lên án về mặt đạo đức, trừng trị nghiêm khắc về mặt luật pháp.
Thực trạng hạ tầng kỹ thuật giao thông của thủ đô còn lạc hậu, không tương xứng, chưa có sự quy hoạch hợp lý. Mạng đường thành phố chỉ đáp ứng được chừng 45% nhu cầu đi lại, nhiều tuyến đường hẹp, mật độ giao cắt cao, hệ thống tín hiệu chưa thật hợp lý. Do vậy, khả năng xảy ra tai nạn giao thông rất cao.
Phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới rất cao, trong khi đó thu nhập của người dân còn hạn chế (thu nhập bình quân tính theo đầu nguời ở Việt Nam hiện nay khoảng 6,4 triệu đồng/người/năm). Đối với xe ô tô thì phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe vào khoảng 2 triệu đến 6 triệu đồng/xe, tùy thuộc vào số tiền bảo hiểm. Đối với xe mô tô phí bảo hiểm vật chất xe bình quân là 500.000 đồng/xe. Đây là một khoản tiền khá lớn mà các chủ xe thường không muốn bỏ ra.
Hệ thống các văn bản luật và dưới luật về bảo hiểm nói riêng cũng các văn bản pháp luật khác chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, thiếu sót.
Phần lớn các xe đã qua sử dụng, tân trang nên việc xác định giá trị bảo hiểm của xe là rất khó khăn.
Khó khăn riêng.
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ, đại lý còn nhiều bất cập, ý thức làm việc chưa cao, chưa có kế hoạch sắp xếp công việc sao cho phù hợp dẫn đến kết quả đạt được còn nhiều hạn chế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm như Bảo Minh, Bảo Long, PJICO đã dùng nhiều biện pháp để cạnh tranh như giảm phí, tăng hoa hồng và sử dụng nhiều chính sách đãi ngộ nhằm lôi kéo nguồn lao động gây ảnh hưởng không nhỏ đến thị phần bảo hiểm của Phòng.
Tiềm năng của thị trường rất lớn nhưng với lượng cán bộ, đại lý còn mỏng do đó không khai thác và tận dụng hết thị trường.
Sự quan tâm chỉ đạo, phối hợp giữa các phòng chức năng trong công ty còn nhiều hạn chế như chưa cập nhật và phổ biến kịp thời về ấn chỉ mới, việc quan tâm và đầu tư cho công tác tuyên truyền trang thiết bị phục vụ cho công việc còn nhiều bất cập gây khó khăn trong quá trình khai thác.
Phương hướng hoạt động của công ty Bảo Việt Hà Nội và phòng bảo hiểm Cầu Giấy trong thời gian tới.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp bảo Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt 8,5%, là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Tổng GDP đạt 1.144.000 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng (835 USD/đầu người). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt con số kỷ lục 20,3 tỷ USD bao gồm cả cấp mới và tăng vốn. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt 3,1% kế hoạch năm. Bên cạnh những thuận lợi đó, nền kinh tế nước ta cũng gặp không ít những khó khăn do tình hình thiên tai liên tiếp xảy ra đặc biệt là ở miền Trung. Sau cơn đại hạn là hàng trục trận lũ liên tục tàn phá, mở màn là trận lũ lịch sử, lớn nhất trong vòng 30 năm trở lại đây gần đầu tháng 8, tiếp theo là hoàn lưu bão số 3, bão số 5, 6 đợt lũ lớn (từ 03/10 – 14/11/2007). Ở phía Nam, từ tháng 10 đến cuối năm, đồng bằng sông Cửu Long và thành phố Hồ Chí Minh chịu những đợt cường triều lịch sử (có đợt được coi là cao nhất trong vòng 40 năm qua). Các vấn đề hạ tầng yếu kém chưa được cải thiện nhiều, được cảnh báo là lực cản của nền kinh tế tăng trưởng cao, những khiếm khuyết của cơ sở hạ tầng gây ra nhiều vấn đề cho cả các công ty trong nước và nước ngoài. Nạn kẹt xe trở nên bức xúc hơn bao giờ hết, ước tính thiệt hại do kẹt xe ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội khoảng 14.000 tỷ đồng/năm. Năm 2007 tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tiếp tục diễn ra gay gắt, xuất hiện thêm sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước mới thành lập như bảo hiểm Quân đội, Bảo Nông…Tính đến cuối năm 2007 đã có hơn 20 doanh nghiệp bảo hiểm với nhiều thành phần kinh tế hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Năm 2008, năm thứ hai Việt Nam gia nhập WTO, theo đó một số lĩnh vực trong nền kinh tế sẽ được điều chỉnh theo những quy định chung dẫn đến thay đổi chính sách kinh tế trong một số ngành. Điều này cũng sẽ ảnh hưởng nhất định đến thị trường bảo hiểm tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Quán triệt định hướng kinh doanh “ Đổi mới – hiệu quả - tăng trưởng”, công ty Bảo Việt Hà Nội đã đề ra mục tiêu cơ bản cho năm 2008 như sau:
+ Doanh thu phấn đấu: 265 tỷ đồng.
+ Hiệu quả đạt: 45 tỷ đồng.
+ Thu nhập bình quân đầu người tăng: 7%
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ mà Bảo Việt Hà Nội đề ra là: áp dụng các biện pháp một cách đồng bộ trong tất cả các hoạt động từ khâu khai thác, giám định bồi thường đến công tác tổ chức đào tạo cán bộ. Tiếp tục duy trì tốt quan hệ với các đầu mối như phòng Cảnh sát giao thông, cục Thuế Hà Nội, Cục đăng kiểm Việt Nam để khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, chú trọng công tác chăm sóc khách hàng đặc biệt là các khách hàng lớn.
Đóng góp vào sự thành công của công ty phải kể đến sự cố gắng không nhỏ của các văn phòng bảo hiểm khu vực mà trong đó có phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Năm 2008, phòng được công ty giao cho nhiệm vụ phải đạt được tổng doanh thu phí bảo hiểm là 9,2 tỷ đồng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ trên, lãnh đạo phòng đã đề ra kế hoạch khai thác cho tất cả 22 nghiệp vụ mà phòng đang triển khai dựa trên lợi thế mà phòng có được. Riêng đối với bảo hiểm vật chất xe cơ giới, phòng đặt ra kế hoạch là doanh thu phí bảo hiểm đạt 2,2 tỷ tăng 12,8% so với năm 2007. Đây là nhiệm vụ tương đối khó với phòng bảo hiểm Cầu Giấy đặc biệt là trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay tuy nhiên nó cũng phần nào thể hiện sự tin tưởng của ban lãnh đạo công ty cùng sự quyết tâm của các cán bộ phòng. Hy vọng rằng trong tương lai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới không những giữ vai trò chủ đạo mà còn là nghiệp vụ mnag lại hiệu quả cao nhất cho văn phòng Cầu Giấy nói riêng và cho công ty Bảo Việt Hà Nội nói chung.
Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Đối với công tác khai thác.
Về phía tổng công ty Bảo Việt Việt Nam.
+ Tăng cường hơn nữa hình thức tuyên truyền, quảng cáo về loại hình bảo hiểm vật chất xe cơ giới cho mọi người dân trong xã hội bởi vì trên thực tế chúng ta thấy việc quảng cáo mới chỉ được sử dụng phổ biến đối với các loại hình bảo hiểm nhân thọ mà chưa thấy thực hiện cho các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, nếu có cũng chỉ quảng cáo cho loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Quảng cáo được xem như là một công cụ hữu ích trong việc đưa thông tin về sản phẩm tới khách hàng. Mục đích của quảng cáo nhằm làm cho mọi người dân thấy được sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm. Quảng cáo là một công cụ truyền thông có tính kinh tế cao hơn so với bán hàng cá nhân vì nó tiếp cận được với số lượng khách hàng tiềm năng lớn hơn. Trên thực tế hiện nay có các hình thức quảng cáo khác nhau như sau:
- Quảng cáo thông qua hệ thông phương tiện thông tin như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình…
Quảng cáo thông qua các phương tiện ngoài trời như hệ thống bảng biểu, áp phích, biển chuyển động ở những điểm nút giao thông như ngã ba, ngã tư đường hay trên các quốc lộ lớn, các khu trung tâm mua sắm lớn để cho toàn dân thấy được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm.
Quảng cáo thông qua việc trích một nguồn kinh phí nhất định để tài trợ cho các cuộc thi lái xe giỏi, lái xe an toàn do Bộ giao thông vận tải tổ chức hàng năm.
Quảng cáo qua mạng internet. Ngày nay, khi mà công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão và trở thành một phần không thể thiếu được trong cuộc sống của con người thì việc phân phối sản phẩm bảo hiểm qua mạng internet tuy còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng đây là một phương tiện hữu ích để quảng bá sản phẩm bảo hiểm đến với mọi đối tượng.
Về phía công ty Bảo Việt Hà Nội.
+ Chú trọng hơn nữa công tác tuyển dụng đại lý, đào tạo đại lý không những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn có phẩm chất đạo đức tốt.
+ Có chính sách hoa hồng, tiền thưởng thỏa đáng đối với đại lý giỏi, làm việc có hiệu quả nhằm giữ họ ở lại lâu dài và hết mình phục vụ công ty, tránh để các đối thủ cạnh tranh lôi kéo các đại lý đó về phía họ.
+ Phối hợp với Bộ giao thông vận tải, Cục thống kê để xác định và nắm rõ số lượng xe cơ giới đang lưu hành trên địa bàn Hà Nội. Có như vậy mới xác định được tiềm năng của thị trường về loại hình bảo hiểm này.
+ Tổ chức các lớp học ngắn hạn có mời các chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm vật chất xe cơ giới để nâng cao trình độ cho các cán bộ trong công ty cả khâu khai thác lẫn khâu giám định và xét giải quyết bồi thường.
Về phía phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
Hiện nay trên thị trường lượng xe cơ giới tham gia bảo hiểm vật chất xe còn rất ít so với tổng số lượng xe đang lưu hành. Tính đến 1/12/2007, ở Hà Nội có khoảng hơn 320 nghìn ô tô, gần 4 triệu xe máy, trong khi đó tổng số lượng xe tham gia bảo hiểm vật chất xe tại Bảo Việt Cầu Giấy là 435 ô tô, không có xe máy nào tham gia bảo hiểm vật chất xe. Vì vậy, đẩy mạnh việc khai thác tối đa tiềm năng của thị trường bảo hiểm này luôn là điều mà phòng rất quan tâm. Do đó, tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau:
+ Tiếp tục phát huy thế mạnh của từng cán bộ, đại lý trong phòng để phân công và giao nhiệm vụ khai thác quản lý khách hàng sao cho phù hợp với năng lực, sở trường của người đó.
+ Tổ chức và sử dụng tốt mạng lưới đại lý (tập thể, cá nhân), mạng lưới đại lý chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, đội ngũ cộng tác viên nhằm phủ kín địa bàn.
+ Hàng tháng có sổ khai thác theo nghiệp vụ để chú ý kịp thời hạn tái tục với khách hàng.
+ Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc quản lý khách hàng và giữ vững mối quan hệ rất quan trọng nên cần tập trung duy trì những khách hàng cũ đặc biệt là những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống.
+ Giải quyết tốt mối quan hệ với hai Trung tâm đăng kiểm nhằm giành lại thị phần bị chia xẻ. Tiếp tục củng cố mối quan hệ với Ngân hàng Quốc tế chi nhánh Cầu Giấy, chi nhánh Hạ Long và chi nhánh Hoàng Quốc Việt; Showroom Huyndai Bắc Việt, Đông Nam, Giải Phóng, Công ty TOYOTA Thăng Long, TOYOTA Mỹ Đình nhằm đẩy mạnh doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe ô tô.
+ Phát triển và mở rộng mối quan hệ với hệ thống các ngân hàng, các công ty cho thuê tài chính, các hãng bán xe ô tô, các đại lý ủy quyền, các Showroom để thông qua các tổ chức này tìm kiếm nguồn khách hàng tiềm năng.
+ Tăng cường việc nắm bắt thông tin. Trong hoạt động kinh tế thì việc nắm bắt sớm các thông tin về chính trị, kinh tế, văn hóa, về lĩnh vực mà mình đang kinh doanh một cách chính xác có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì nếu có được các thông tin này, chúng ta sẽ biết được đâu là khách hàng tiềm năng, xác định được trọng điểm cần khai thác. Từ đó đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp cũng như các biện pháp cụ thể để khai thác tốt các khách hàng mới, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như ở nước ta hiện nay.
+ Mở rộng hơn nữa các kênh phân phối và mạng lưới phân phối sản phẩm. Để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường thì mạng lưới phân phối sản phẩm cần được mở rộng.
+ Xác định mục tiêu và kế hoạch kinh doanh để tổ chức phân công và giao doanh thu cụ thể cho từng cán bộ, đại lý.
Đối với công tác giám định.
Về phía Bảo Việt Hà Nội.
+ Công ty nên có các biện pháp để cải tiến và hoàn thiện quy trình giám định nhằm đơn giản hóa mọi thủ tục mang lại sự thuận tiện nhất cho các chủ xe. + Tăng cường kiểm tra, hướng dẫn về giám định bồi thường đối với các phòng bảo hiểm khu vực, tổ chức các khóa tập huấn ngắn hạn nhằm nâng cao chất lượng công tác giám định. Duy trì tốt chế độ trực 24/24h nhằm đáp ứng tối đa yêu cầu của khách hàng vào bất cứ lúc nào.
+ Tổ chức các cuộc nói chuyện với các chuyên gia giám định của các công ty giám định chuyên nghiệp, công ty nước ngoài về chủ đề giám định bồi thường vật chất xe cơ giới cũng như trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới để truyền đạt kinh nghiệm.
+ Bảo Việt Hà Nội nên có các chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với các giám định giỏi, công ty cần phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực trình độ của từng nhân viên để có thể sắp xếp công việc hợp lý và có các chính sách đãi ngộ về tiền lương, thưởng nhằm khuyến khích cán bộ tiếp tục kiên trì với công việc. Đồng thời phải có các biên pháp khiển trách , lỷ luật hợp lý đối với các giám định viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đối với những giám định viên không đủ chuyên môn đáp ứng công việc thì phải chuyển sang làm công tác khác.
+ Trang bị đầy đủ những phương tiện phục vụ cho công tác giám định bồi thường. Trong quá trình giám định, cán bộ cần có những phương tiện làm việc hiện đại giúp cho công tác giám định được tiến hành nhanh chóng và khoa học như thước ngắm, đèn pin, máy ảnh, phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc…Nhìn chung các phương tiện Bảo Việt Hà Nội trang bị cho các phòng bảo hiểm vừa đơn giản, vừa ít về số lượng, chưa đảm bảo cho công tác giám định. Trong các phương tiện đó nhất thiết phải có máy ảnh và điện thoại di động. Máy ảnh là công cụ để các giám định viên có thể chụp và ghi lại mọi góc độ của thiệt hại cần giám định từ đó xác định nguyên nhân tổn thất và làm cơ sở cho việc ghi hồ sơ bồi thường.
Về phía phòng bảo hiểm Cầu Giấy.
+ Bổ sung nguồn nhân lực cho công tác giám định nhằm nâng cao chất lượng cán bộ giám định. Để đảm bảo yêu cầu về khối lượng và chất lượng công việc hiện tại cần phải bổ sung thêm nhân lực cho công tác giám định của phòng vì số lượng giám định viên tại phòng còn rất mỏng. Hiện nay phòng chỉ có hai cán bộ giám định song một cán bộ vừa đóng vai trò là nhân viên giám định vừa thực hiện công tác thống kê của phòng. Do đó, có thể nói việc giám định của phòng đôi lúc gặp rất nhiều khăn. Với số vụ khiếu nại ngày càng một gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp thì việc bổ sung cán bộ giám định cho bảo hiểm vật chất xe cơ giới là đòi hỏi cấp thiết tránh tình trạng quá tải trong công việc.
+ Phòng nên cung cấp số điện thoại của các giám định viên cho khách hàng tham gia bảo hiểm để họ có thể liên lạc ngay với các giám định viên khi rủi ro xảy ra với tài sản của họ, rút ngắn thời gian đi lại của khách hàng và nâng cao uy tín của phòng.
Đối với công tác bồi thường.
Để có thể giữ vững cũng như có thể mở rộng được thị phần, một yếu tố quan trọng đó là nâng cao chất lượng phục vụ sau bán hàng cụ thể là công tác giải quyết giám định bồi thường. Đối với công tác này trong nhiều năm qua phòng đã cố gắng từng bước giải quyết theo tinh thần của ISO với những hướng như sau:
+ Đổi mới phong cách phục vụ, giải quyết tốt công tác giám định bồi thường nói chung để tạo niềm tin cho khách hàng giúp việc tái tục hợp đồng được thuận lợi. Khi có tổn thất rủi ro xảy ra, kịp thời cử cán bộ đại lý đến hướng dẫn giúp đỡ khách hàng nhanh chóng khắc phục hậu quả và giải quyết chế độ bồi thường theo đúng quy định, giữ uy tín đối với khách hàng.
+ Giải quyết hồ sơ nhanh chóng, kịp thời đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh của thị trường, với những hồ sơ đơn giản sau khi tra phí có thể giải quyết luôn không để nạn nhân phải đi lại nhiều. Đối với hồ sơ ô tô, xe máy, khi khách hàng khai báo giám định cần hướng dẫn khách hàng chi tiết cụ thể, rõ ràng về thủ tục thanh toán sao cho nhanh gọn, thuận tiện nhất.
Tiến hành rà soát, cải tiến lại các khâu bồi thường, đề ra các biện pháp rút ngắn, hợp lý hóa trong giải quyết bồi thường, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát công tác bồi thường.
Đứng trước tình hình khiếu nại gian lận bảo hiểm ngày càng tăng như: hợp lý hóa ngày tai nạn và hiệu lực bảo hiểm; lập hồ sơ giả, hiện trường giả; khai tăng số tiền tổn thất; cố ý gây tai nạn để trục lợi…Đối với những trường hợp này cần phải tiến hành điều tra khẩn trương, không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết tai nạn. Chỉ đưa ra ý kiến giải quyết khi đã hoàn thành công việc điều tra và có đủ bằng chứng về những việc đã nghi ngờ. Không để khách hàng biết kế hoạch, phương án điều tra tránh việc phản ứng tiêu cực từ phía khách hàng, gây khó khăn cho quá trình khai thác. Cán bộ phụ trách khâu bồi thường cần phối hợp chặt chẽ với giám định viên và khai thác viên để tìm biện pháp xử lý.
Việc giải quyết bồi thường chính xác, sát với thiệt hại thực tế cùng với việc phát hiện kịp thời các vụ gian lận, một mặt sẽ để lại ấn tượng tốt đối với các chủ xe mặt khác đối với các hồ sơ gian lận, khai thác viên sẽ rút ra được những kinh nghiệm quý báu để có thể đánh giá mức độ rủi ro một cách toàn diện hơn.
Trên đây em đã trình bày một số ý kiến của mình nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. Hy vọng rằng với sự cố gắng, nỗ lực và quyết tâm của tập thể cán bộ phòng, sự sáng tạo trong công việc và nhũng kinh nghiệm quý báu về nghiệp vụ chuyên môn sẽ là nhân tố chủ đạo đem lại thành công mới cho văn phòng Cầu Giấy không chỉ ở nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới mà còn ở các loại hình nghiệp vụ khác.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về hoạt động khai thác nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới giúp em ngày càng thấy được vai trò của việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới không những góp phần ổn định tài chính cho các chủ xe - người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra mà còn góp phần đảm bảo sự an toàn trong xã hội.
Không những vậy bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới còn là nghiệp vụ có thể mang lại doanh thu và lợi nhuận lớn cho các công ty bảo hiểm. Đây là nghiệp vụ bảo hiểm mới được khai thác và phát triển nên bước đầu còn gặp khó khăn. Nền kinh tế đất nước sẽ lớn mạnh hơn trong một thời gian không xa, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Vì vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới là nghiệp vụ hứa hẹn một tiềm năng rất lớn đối với các công ty bảo hiểm. Nếu được sự quan tâm, đầu tư đúng mức, chú trọng hơn nữa chắc chắn các công ty bảo hiểm sẽ có nhiều thành công hơn đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới trong tương lai.
Nhờ sự giúp đỡ của các cô giáo Th.s Tô Thiên Hương, cũng như các anh chị tại văn phòng bảo hiểm Cầu Giấy, em đã có được những kiến thức sâu rộng, có cái nhìn thực tế hơn về bảo hiểm nói chung cũng như bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng, cuối cùng em cũng hoàn thành được chuyên đề thực tập của mình. Mặc dù hết sức cố gắng, song đề tài cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo
Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Quản Trị Kinh Doanh Bảo Hiểm, NXB Thống Kê.
Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Kinh Tế Bảo Hiểm, NXB Thống Kê.
Tạp Chí Giao Thông Vận Tải 2006 – 2007.
Báo cáo hàng năm của Bảo Việt Hà Nội
Báo cáo tổng kết năm 2003 – 2007 của phòng bảo hiểm Cầu Giấy
Các khoản định mức chi của phòng bảo hiểm Cầu Giấy từ 2003 – 2007
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. TLBH Trục lợi bảo hiểm
2. ATGT An toàn giao thông
3. TNDS Trách nhiệm dân sự
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1. Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3
I. Sự cần thiết khách quan phải có bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3
1.Lịch sử hình thành bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 3
1.1. Vai trò của ngành giao thông vận tải trong nền kinh tế. 3
1.2. Nguyên nhân và hậu quả của tai nạn xe cơ giới. 4
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 8
2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 8
2.2.Vai trò của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 11
II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. 13
1.Đối tượng tham gia bảo hiểm. 13
2. Phạm vi bảo hiểm. 16
2.1. Rủi ro được bảo hiểm. 16
2.2. Rủi ro loại trừ. 17
3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm. 19
3.1. Giá trị bảo hiểm (GTBH) và số tiền bảo hiểm (STBH). 19
3.2. Phí bảo hiểm. 21
4. Hoạt động giám định và bồi thường tổn thất. 26
4.1. Quy trình xử lý tai nạn, giám định và xét bồi thường bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới. 26
4.2.Bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. 33
5. Hợp đồng bảo hiểm. 37
6. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh. 38
6.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ kinh tế. 39
6.2 Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh đứng trên góc độ xã hội. 39
6.3. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo khâu công việc. 40
Chương 2 . Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại phòng bảo hiểm cầu giấy, công ty bảo hiểm Hà Nội (giai đoạn 1994-2007). 42
I. Giới thiệu về công ty bảo hiểm Hà Nội và phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 42
1. Sự hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt Hà Nội. 42
2. Vài nét về phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 43
II. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 47
1. Công tác khai thác. 47
2. Công tác giám định và bồi thường tổn thất. 59
3. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. 64
4. Kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ. 65
Chương 3.Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 70
I. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 70
1. Thuận lợi. 70
2. Khó khăn 72
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại phòng bảo hiểm Cầu Giấy. 77
1. Đối với công tác khai thác. 77
2. Đối với công tác giám định. 80
3. Đối với công tác bồi thường. 82
KẾT LUẬN 84
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11365.doc