Mục lục
Trang
Lời nói đầu 3
Chương I: Tầm quan trọng của việc phát triển khu công nghiệp,khu chế xuất ở Việt Nam. 5
I. Khu công nghiệp, khu chế xuất là gì ? 7
II. Tại sao phải hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ? 7
1. Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam sẽ góp phần thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng. 7
2. Khu công nghiệp, khu chế xuất tạo thêm công ăn việc làm. 8
3. Khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ t
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu công nghiệp, Khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo ra mối liên hệ ngược trở lại với nền kinh tế. 9
III. Các điều kiện cần thiết để hình thành phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. 10
IV. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của
khu công nghiệp, khu chế xuất. 12
1. Các yếu tố bên trong. 12
2. Các yếu tố bên ngoài. 13
V. Quy chế quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất. 15
VI. Kinh nghiệm đầu tư phát triển và quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất ở một số nước trên thế giới. 18
Chương II: Thực trạng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam. 33
I. Các loại hình khu công nghiệp ở nước ta. 33
II. Tình hình chung. 35
III. Về phân bố khu công nghiệp, khu chế xuất. 35
IV. Về hình thức đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng và đầu tư sản xuất kinh doanh. 45
V. Tốc độ triển khai. 46
VI. Về cơ chế quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất. 50
1, Sơ lược nội dung chính sách quản lý của Nhà nước đối với
khu công nghiệp, khu chế xuất 50
2, Tình hình thực hiện các chính sách quản lý đối với
khu công nghiệp, khu chế xuất 52
3, Những mặt làm được. 58
VII. Những khó khăn tồn tại. 58
VIII. Nguyên nhân tồn tại. 63
Chương III: Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của
khu công nghiệp, khu chế xuất. 65
I. Định hướng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới 65
II. Hệ thống các quan điểm cơ bản cần được nhận thức rõ trong quá trình đưa ra các giải pháp 68
III. Giải pháp về cơ chế quản lý và đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất 70
1, Xem xét lại quy hoạch phát triển khu công nghiệp 70
2, Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với khu công nghiệp,
khu chế xuất 72
3, Hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống luật pháp, tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho việc phát triển khu công nghiệp 73
4, Có chính sách huy động vốn 74
5, Có chính sách thuê đất hợp lý hơn 75
6, Cần có chính sách thuế hợp lý để thực sự khuyến khích hoạt động của các khu công nghiệp 75
7, Đào tạo tay nghề công nhân cung ứng cho các khu công nghiệp,
khu chế xuất 76
8, Thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp,
khu chế xuất 77
Kết luận 79
Tài liệu tham khảo 80
Lời nói đầu
Để thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, trong xu thế quốc tế hoá đời sống ngày càng mạnh mẽ. Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác phải tìm kiếm con đường để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn từ các nước tư bản phát triển, và đó là một trong những tác nhân chủ yếu làm nảy sinh loại hình kinh tế mới: khu công nghiệp, khu chế xuất.
Cho đến nay, loại hình khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung đã được nhiều nước trên thế giới ứng dụng thành công. Với kinh nghiệm của các nước đi trước và phân tích tình hình thực tế của Việt Nam, Đảng và nhà nước ta đã quyết định cho xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một con đường thích hợp, một hướng đi đúng đắn, mang tính tất yếu trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta. Vì phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ mang lại lợi ích to lớn, tác động không nhỏ đến đầu tư sản xuất công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, làm cho thu nhập quốc dân tăng nhanh và vững chắc. Đồng thời trong các khu công nghiệp việc phân nhóm các nhà máy được tiến hành một cách có hệ thống, việc bảo vệ môi trường được đảm bảo. Đây là lợi ích cơ bản và lâu dài đối với một nước đang phát triển như nước ta, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua, phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đã đem lại thành công bước đầu, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, vạch ra những vấn đề còn tồn tại bất cập là việc làm cần thiết để khu công nghiệp, khu chế xuất tiếp tục phát triển ổn định vững chắc trong những điều kiện của Việt Nam.
Do tầm quan trọng của vấn đề phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài " Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam"
Nội dung của đề tài này được chia thành ba phần chính:
Phần I: Tầm quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam.
Phần II: Tình hình phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam và những vấn đề còn tồn tại.
Phần III: Giải pháp để phát triển hiệu quả hoạt động của
khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đây là một vấn đề kinh tế hết sức phức tạp, do trình độ bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm và kến thức thực tế còn ít, luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ, bổ sung, góp ý của thầy giáo để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Tầm quan trọng của việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam
I. Khu công nghiệp, khu chế xuất là gì ?
Khu công nghiệp, khu chế xuất là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. Trong khu công nghiệp, khu chế xuất có doanh nghiệp chế xuất.
Khu chế xuất là một khu công nghiệp tập trung sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ liên quan đến sản xuất và xuất khẩu. Khu chế xuất là một khu khép kín có ranh giới địa lý được xác định, biệt lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuất bằng hệ thống tường rào khu chế xuất, được hưởng chế độ ưu đãi về nhiều mặt: nhập khẩu nguyên vật liệu, thuế, công ty được cung cấp cơ sở hạ tầng tốt và các điều kiện khác để người sản xuất kinh doanh ở đây có lợi nhuận cao nhất
Khu công nghiệp và khu chế xuất khác nhau ở chỗ:
+ Khu chế xuất xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu, còn khu công nghiệp được mở ra với tất cả các ngành công nghiệp, kể cả sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Do vậy khu công nghiệp có thể bao gồm cả doanh nghiệp chế xuất.
+ Các công ty 100% vốn trong nước có thể được vào khu công nghiệp, khác với khu chế xuất chỉ liên kết với các công ty vốn nước ngoài
+ Các công ty sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ được hưởng một số ưu đãi nhất định. Trong đó, đặc biệt ưu đãi đối với những hãng sản xuất hàng xuất khẩu, do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ được hưởng ưu đãi như trong khu chế xuất và cũng sẽ được hưởng ưu đãi trong khu công nghiệp
Khu công nghiệp là một hình thức tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng và hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý. Do đó việc phân bố công nghiệp phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có hiệu quả, có đất để mở rộng và nếu có thể liên kết thành các cụm công nghiệp. Quy mô khu công nghiệp và quy mô xí nghiệp công nghiệp phải phù hợp với đặc điểm công nghệ chính gắn với điêù kiện kết cấu hạ tầng
- Có khả năng cung cấp nguyên vật liệu trong nước hoặc nhập khẩu tương đối thuận lợi, có cự ly vận chuyển thích hợp
- Có nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm
- Có khả năng đáp ứng nhu cầu lao động cả về số lượng và chất lượng với chi phí tiền lương thích hợp
- Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp, đặc biệt đất trồng lúa, nhằm giữ được an toàn lương thực cho quốc gia trong chiến lược dài hạn
- Kết hợp chặt chẽ việc phát triển các khu công nghiệp với quy hoạch đô thị, phân bố dân cư
- Phát triển công nghiệp gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng
Do vậy việc lựa chọn vị trí để xây dựng các khu công nghiệp là rất quan trọng vì nó vừa đảm bảo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế trong giai đoạn trước mắt, đồng thời làm cơ sở xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng cần thiết nhằm phát triển mạnh và có hiệu quả các khu công nghiệp cho giai đoạn sau. Việc xây dựng các khu công nghiệp đòi hỏi phải phát huy được thế mạnh, tiềm năng kinh tế của từng vùng.
Còn đối với khu chế xuất mặc dù quy chế khu chế xuất ở từng nước có quy định cụ thể khác nhau. Song những đặc trưng sau đây được coi là đặc điểm của một khu chế xuất điển hình.
- Nhập khẩu tự do nguyên vật liệu và không hạn chế về số lượng. Đây là một ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước. Mặt khác các công ty trong khu chế xuất cũng phải nộp thuế doanh thu, thuế xuất khẩu cho những mặt hàng họ sản xuất ra và xuất khẩu. Hơn nữa để khuyến khích mối liên hệ phát triển giữa các hãng trong khu chế xuất với nền kinh tế trong nước, nếu những hãng này mua nguyên vật liệu trong nước họ sẽ nhận được một số sự hỗ trợ khác. Tuy nhiên những hàng hoá sản xuất trong khu chế xuất không được bán trong nội địa, chỉ khi hàng hoá này bị người nước ngoài từ chối thì có thể được đem bán trong nội địa.
- Những hãng trong khu chế xuất thường được cung cấp thủ tục hải quan nhanh chóng cho việc nhập vật liệu và xuất khẩu hàng hoá. Một bộ phận làm trung gian giữa Chính phủ và hãng được thành lập để giảm chi phí không cần thiết cho hãng này. Hơn nữa họ còn được miễn thực hiện nhiều quy định, mà những quy định này được áp dụng trong nước như: hạn chế những hãng, công ty sở hữu bởi nước ngoài, hạn chế người nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước, hạn chế người nước ngoài quản lý, kiểm soát điều hành kĩ thuật trong công ty.
- Những hãng trong khu chế xuất được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt như: đường xá, điện thoại, điện tín... Hơn nữa họ còn được trợ cấp trong sử dụng một số yếu tố như: tỉ lệ thuế, điện nước rất thấp.
Nghiên cứu và áp dụng thành công mô hình kinh tế này sẽ góp phần to lớn trong việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam nói riêng và phát triển nền kinh tế đất nước nói chung trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II. Tại sao phải hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất?
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nêu lên chỉ có thể đạt được bằng con đường phát triển và dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất có ý nghĩa vô cùng quan trọng
1, Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam sẽ góp phần thu hút đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thục hiện mục tiêu tăng trưởng.
Trong cuộc đua tranh phát triển kinh tế hiện nay, vấn đề tăng trưởng nhanh và lâu bền đang đặt ra gay gắt đối với các quốc gia, đặt biệt là đối với nước ta. Nếu không thực hiện được mục tiêu này thì nước ta sẽ tụt hậu rất xa so với các nước phát triển. Việc sử dụng vốn nước ngoài để phát triển là sự cần thiết, là cách thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ. Khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần quan trọng cho việc tăng thu ngoại tệ và tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Khu công nghiệp, khu chế xuất với những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước đã trở thành môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó giúp cho nước chủ nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp cận kĩ thuật và công nghệ mới. Theo Ngân hàng Thế giới, các dự án thực hiện trong khu chế xuất hầu hết do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc do các liên doanh với nước ngoài thực hiện (khoảng 43% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài và 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy khu công nghiệp, khu chế xuất đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Ví dụ: ở Đài Loan và Malaixia, trong những năm đầu phát triển, khu công nghiệp, khu chế xuất đã thu hút khoảng 60% số vốn FDI.
Khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ví dụ như Malaixia, giá trị xuất khẩu từ khu chế xuất chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50% và giá trị mới tạo ra ở các khu chế xuất nói chung là khoảng 25%. Trong đó có tới 70% là chi phí về lao động, 30% còn lại là chi phí về thuê nhà, tiện nghi giao thông, dịch vụ... vì thuế thu nhập ròng về ngoại tệ từ khu chế xuất chỉ khoảng 15-20% giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên đó cũng là một con số đáng kể đối với những nước đang khan hiếm ngoại tệ.
2, Khu công nghiệp, khu chế xuất tạo thêm công ăn việc làm:
Việc tăng công ăn việc làm là hệ quả trực tiếp và tất yếu của việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới, đến nay tổng số việc làm chỉ tính riêng trong các khu chế xuất đã lên tới 4-5 triệu chỗ (con số này tăng nhanh so với thập kỷ 80 là 500.000 chỗ). Trong đó, Châu á là nơi tạo nhiều việc làm nhất, chiếm tới 76,59% tổng số chỗ.
Việt Nam là nước đông dân, tốc độ tăng dân số là khá cao so với các nước trong khu vực. Về thực chất, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp có tỉ lệ nửa thất nghiệp cao. Thêm vào đó, số người thất nghiệp ở đô thị ngày càng tăng và chủ yếu là những người vừa đến tuổi lao động, do dan số tăng nhanh so với các thập kỷ trước. Vì vậy vấn đề tạo thêm công ăn việc làm cũng là mục tiêu quan trọng trong những năm tới và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất chính là một biện pháp để tăng thêm việc làm.
3, Khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ tạo ra mối liên hệ ngược tác động trở lại nền kinh tế.
Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ tạo ra mối liên hệ ngược, thúc đẩy sự phát triển của các khu vực kinh tế khác. Bởi vì, thông qua sử dụng nguyên vật liệu trong nước và các dịch vụ gia công chế biến sản phẩm cho khu công nghiệp, khu chế xuất từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế khác và nền kinh tế cùng phát triển. Việt Nam cũng hi vọng tác dụng này sẽ phát huy khi chúng ta phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Bởi vì Việt Nam là một đất nước phong phú về lao động và tài nguyên rừng, biển, khoáng sản... đó là một tiềm năng để cung cấp nguyên liệu cho các khu công nghiệp, khu chế xuất.
ở một số nước tỉ lệ vật liệu trong nước cung cấp cho khu công nghiệp, khu chế xuất khá cao. ở Hàn quốc tỉ lệ này tăng từ 3% năm 1971 lên 34% năm 1979 và duy trì từ đó đến nay. Thông qua dịch vụ lắp ráp và chế biến sản phẩm cho khu công nghiệp, khu chế xuất số lao động tăng đáng kể. ở Hàn Quốc, năm 1985, số lao động này chiếm tới 25,7% trong đó đặc biệt là dịch vụ dệt, may số lao động chiếm tới 61% trong tổng số lao động của ngành.
Và một yếu tố quan trọng là thông qua phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất chúng ta hi vọng sẽ tiếp xúc với khoa học kĩ thuật hiện đại, học hỏi phương thức quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ lành nghề của công nhân. khu công nghiệp, khu chế xuất còn cho phép khắc phục dược những yếu kém và kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội trên những vùng rộng lớn của đất nước. Mặc dù chúng ta đang có chương trình triển khai trên quy mô lớn việc xây dựng kết cấu hạ tầng này nhưng việc triển khai nó trong thực tế đòi hỏi chúng ta những nguồn vốn hết sức lớn, cần thời gian dài và một quá trình tổ chức phức tạp. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để nâng cấp cơ sở hạ tầng của nó nhanh chóng đạt đến trình độ cao mà các doanh nghiệp thường đòi hỏi.
Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đưa các doanh nghiệp trong nước tập trung thành những trung tâm để dễ bề quản lý. Đồng thời trong các khu công nghiệp việc phân nhóm các nhà máy được tiến hành một cách có hệ thống do đó việc đảm bảo môi trường được đảm bảo.
Khu công nghiệp, khu chế xuất nếu được xây dựng thành công sẽ trở thành một mô hình kinh tế năng động có hiệu quả cao. Nơi đây sẽ đào tạo các cán bộ kĩ thuật ,cán bộ quản lý có trình độ cao, đủ sức vươn xa hơn ra thị trường thế giới. Khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một bước đột phá về cách làm ăn mới,một tấm gương cho nhiều doanh nghiệp rút kinh nghiệm tạo nên sức hút với cả bên ngoài và với cả bên trong góp phần tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế.
Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một đòi hỏi khách quan, một bước đi cần thiết và có nhiều tác dụng thực tiễn.
III. Các điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất .
1, Sự phù hợp của khu công nghiệp đó với quy hoạch phát triển hệ thống khu công nghiệp trong phạm vi cả nước, kế hoạch phát triển ngành kinh tế kĩ thuật cũng như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
Khi xây dựng các khu công nghiệp cần xem xét các phương hướng mặt hàng sản xuất chủ yếu trong khu công nghiệp đó có phù họp với định hướng phát triển ngành kinh tế-kĩ thuật tương ứng hay không, kể cả định hướng thị trường tiêu thụ sản phẩm, bắt buộc phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm hay được phép tiêu thụ một tỷ lệ nhất định tại thị trường Việt Nam.
Vai trò và vị trí của khu công nghiệp trong quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương là yếu tố hết sức quan trọnh khi quyết định thành lập, bao gồm việc tạo ra năng lực cơ sở hạ tầng mới ở địa phương, hình thành các khu dân cư mới và yêu cầu giải quyết các vấn đề phát sinh.
Việc thành lập các khu công nghiệp phải phù hợp với định hướng phát triển công nghệ của các ngành kinh tế-kĩ thuật, kể cả yêu cầu phát triển công nghệ, kĩ thuật cao, hiện đại đối với một số ngành mũi nhọn.
2, Các dự án thành lập khu công nghiệp phải thể hiện đầy đủ các yêu cầu và có giải pháp khả thi trong việc phát triển và kinh doanh cơ sở hạ tầng, trước hết là cơ sở hạ tầng kĩ thuật như giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, thoát nước và xử lý nước thải.
Khi xem xét cơ sở hạ tầng khu công nghiệp cần tính toán đầy đủ khả năng cung cấp từ bên ngoài, các đầu mối kĩ thuật, nhu cầu đầu tư và khả năng thực hiện, Trong khu công nghiệp, yếu tố này thường bị bỏ qua hoặc xem xét sơ sài trong khi nó đóng vai trò hết sức quan trọng, nhiều khi là quyết dịnh đảm bảo cơ sở hạ tầng tối thiểu cho hoạt động của khu công nghiệp.
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội còn nghèo nàn như tình trạng chung hiên nay, khi quyết định thành lập khu công nghiệp có nghĩa là sẽ tập trung hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn lao động vào một địa bàn chật hẹp nên việc giải quyết toàn diện, đồng bộ các yếu tố liên quan đến đời sống của số lao động này cùng với gia đình họ là yếu tố hết sức quan trọng bao gồm nhà ở với các điều kiện và phương thức thực hiện hợp lý hệ thống thương nghiệp đi lại...
Bao trùm lên toàn bộ vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp phải xác định được nhu cầu tổng vốn đầu tư và phương thức tổ chức thực hiện. Doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, dù đó là doanh nghiệp Việt Nam hay doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, phải đóng vai trò chủ đạo trong việc khâu nối đồng bộ hoá các khâu có liên quan để đảm bảo vận hành khu công nghiệp có hiệu quả.
3, Yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định nhất khi xem xét thành lập các khu công nghiệp là kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp.
Trong số các khu công nghiệp được quyết định thành lập, một số khu công nghiệp kể cả liên doanh với nước ngoài đã xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh đồng bộ và tương đối hiện đại song vẫn chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư vào. Điều này, ngoài các yếu tố chung của môi đầu tư của đất nước, còn có phần do chủ quan của doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng và nếu kéo dài tình trạng không thu hút được các nhà đầu tư thì sẽ gây thiệt hại cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng nói riêng và đất nước nói chung.
Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng đưa ra giá cho thuê đất lại quá cao so với mức giá của các dự án ngoài khu công nghiệp ở gần đó. Ngoài ra trong nhiều trường hợp họ còn áp dụng phương thức trả tiền thuê lại đất một lần cho thơì gian quá dài, thậm chí đến 50 năm nên làm cho nhiều nhà đầu tư ngần ngại khi quyết định đầu tư vào khu công nghiệp.
Tóm lại, việc hình thành các khu công nghiệp mà mục tiêu cuối cùng là các xí nghiệp sản xuất công nghiệp cùng với cơ sở hạ tầng hiện đại, bảo vệ môi trường trong sạch là quá trình lâu dài, phức tạp. Khi ra quyết định thành lập các khu công nghiệp đó, nếu xét kĩ các vấn đề nêu trên thì cơ bản sẽ tránh được nhiều rủi ro, tránh được lãng phí đầu tư có thể xảy ra.
IV. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển của khu công nghiệp, khu chế xuất
1, Các yếu tố bên trong:
1.1.Vị trí địa lý:
Trong 10 yếu tố thành công của khu công nghiệp, khu chế xuất của hiệp hội các khu chế xuất thế giới đã tổng kết thì có hai yếu tố thuộc về yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên. Đó là:
Gần các tuyến giao thông đường bộ, đường hàng không, đường biển.
Có nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động.
Rõ ràng việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các khu vực này sẽ tạn dụng được đầu vào sẵn có, làm giảm chi phí vận chuyển, có điều kiện mở rộng trong điều kiện khu công nghiệp thành công.
1.2. Vị trí kinh tế xã hội:
Các trung tâm đô thị vừa là trung tâm kinh tế, vừa là trung tâm chính trị. Do đó sẽ là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất, cơ sở vật chất kĩ thuật tốt, đội ngũ lao động có trình độ cao, chuyên môn giỏi. Do vậy hiện nay ở nước ta các khu công nghiệp, khu chế xuất chủ yếu tập chung ở các thành phố lớn để tận dụng các diều kiện sẵn có, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
1.3. Kết cấu hạ tầng:
Đây là yếu tố (xuất phát điểm) có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mối quan tâm là vị trí thì với các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng: điện, nước, công trình công cộng khác đường xá, cầu cống... Tác động trực tiếp đến giá thuê đất, ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư.
1.4. Khả năng vốn đầu tư.
ở các nước trên thế giới vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thường chủ yếu là vốn nhà nước. Những năm ngần đây ở nước ta đã huy động được nguồn vốn liên doanh khá lớn chủ yếu do phương thức BOT, BTO, BT vốn nước ngoài. thường chiếm 70% vốn pháp định , bên Việt Nam góp 30% thường là giá trị sử dụng đất.
Khuyến khích phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất trong những năm gần đây nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách vĩ mô và có hỗ trợ trong việc vay tín dụng, tạo các quỹ hỗ trợ đầu tư...
1.5. Thị trường trong nước.
Đối với các công ty nước ngoài, mục tiêu đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất là tận dụng thị trường nước chủ nhà, đưa nguồn vốn và hoạt động sinh lợi tránh tình trạng ứ đọng vốn, đồng thời có thể tận dụng được nguồn tài nguyên nhân công rẻ cộng với thị trường rộng lớn.
Nghiên cứu thị trưòng là một trong các hạng mục phải xem xét trong quá trình lập dự án nghiên cứukhả thi.
2. Các yếu tố bên ngoài:
2.1. Vốn đầu tư nước ngoài.
Trong khi các nước đang phát triển gặp phải tình trạng thiếu vốn thì các công ty xuyên quốc gia đang có nguồn vốn lớn mong muốn có một môi trường đầu tư có lợi nhất song không phải bất kỳ đâu họ cũng bỏ vốn vào đầu tư.
2.2. Yếu tố thị trường.
Các sản phẩm chế xuất bán ra trên thị trường giá cả. Do đó đối với các nhà sản xuất chiến lược thị trường, mở rộng thị trường là những vấn đề có tính quyết định.
2.3. Yếu tố chính trị.
Quan hệ chính trị tốt đẹp sẽ là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế. Thông thường những tác động này thể hiện ở:
Việc giành cho các nước kém phát triển điều kiện ưu đãi về vốn đặc biệt là vốn ODA, các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản cho vay ưu đãi.
- Tạo điều kiện xuất nhập khẩu nguyên vật liệu, sản phẩm, thiết bị công nghệ.
- Ký kết các hiệp ước thương mại giữa các Chính phủ cho phép các tổ chức kinh tế, cá nhân, các đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia.
Sơ đồ biểu hiện các nhân tố tác động đến việc phát triển khu công nghiệp.
Vị
trí
địa
lý
Vị
trí
kinh
tế
xã
hội
Kết cấu
hạ
tầng
Khả năng vốn đầu
tư
Khả
năng
thị
trường
trong nước
Vốn đầu tư nước ngoài
Các yếu tố chính trị
Thị trường nước ngoài
Các yếu tố cơ bản
Yếu tố bên ngoài
Yếu tố bên trong
V . Quy chế quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất:
1. Những quy định chung.
Nghị định 36/CP của Chính phủ về thành lập quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Điều 1 có ghi " Nhà nước bảo hộ, khuyến khích, đối xử bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh tế, cá nhân, các tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo trong nước và nước ngoài đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao(gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp có quy định riêng cho từng loại khu).
Điều 3 " Đối tượng áp dụng của luật khu công nghiệp bao gồm:
Nhà đầu tư trong nước.
Nhà đầu tư ngoài nước.
Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhà đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và là người nước ngoài thường trú ở Việt Nam.
Các tổ chức nghiên cứu khoa học, đào tạo, các tổ chức hành chính sự nghiệp, quản lý nhà nước có liên quan.
Điều 5: Trong luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
"Khu công nghệ cao" là khu tập trung các đơn vị gồm công ty phát triển khu công nghệ cao quản lý cung cấp các hạ tầng kĩ thuật và các tiện ích phục vụ cho phát triển khu công nghệ cao, các đơn vị hoạt động phục vụ cho hoạt động phát triển khu công nghệ cao bao gồm nghiên cứu- triển khai khoa học-công nghệ, đào tạo, các doanh nghiệp công nghiệp kĩ thuật cao và các doanh nghiệp dịch vụ có liên quan. Khu công nghệ cao có ranh giới địa lý xác định, có khu dân cư riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
" Công ty phát triển khu công nghiệp" là công ty được thành lập và hoạt động theo quy định của luật này phục vụ cho phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
" Doanh nghiệp khu chế xuất" là doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu trong khu chế xuất.
" Doanh nghiệp khu công nghiệp" là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, gồm công ty phát triển khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất.
" Doanh nghiệp sản xuất khu công nghiệp" là doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp, được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp.
" Doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp" là doanh nghiệp được thành lập trong khu công nghiệp, thực hiện dịch vụ các công trình kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất công nghiệp và các dịch vụ khác.
" Công nghệ kĩ thuật cao" là ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao để sản xuất ra sản phẩm kĩ thuật cao.
2. Quản lý nhà nước về khu công nghiệp.
Điều 54 ghi "Nội dung quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao bao gồm:
1, _ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển.
2, _ Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
3, _ Hướng dẫn các ngành, các địa phương trong việc thực hiện các hoạt động khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
4, _ Cấp, thu hồi giấy phép, giấy đăng kí các loại.
5, _ Tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
6, _ Quy định việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
7, _ Thúc đẩy, kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Điều 55 " Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Giúp Chính phủ quản lý nhà nước các khu công nghiệp bao gồm cơ quan quản lý nhà nước về khu công nghiệp.
Cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp trung ương.
Cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh.
Cơ quan quản lý khu công nghệ cao.
Điều 57: Chính phủ quy định cụ thể quan hệ công tác trong quản lý nhà nước về khu công nghiệp giữa các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh với cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp trung ương và cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, cơ quan quản lý khu công nghệ cao.
Điều 58: Cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan quản lý trực tiếp các khu công nghiệp trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh do Thủ tướng Chính phủ thành lập, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1. Cụ thể hoá và hướng dãn thực hiện các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật.
2. Xây dựng và tổng hợp kế hoạch hàng năm phát triển khu công nghiệp trình các cơ quan có thẩm quyền, tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch này.
3. Chủ trì tổ chức kiểm tra định kỳ để đánh giá tình hình thực hiện các quy định của quyết định cho phép đầu tư, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp khu công nghiệp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, giải quyết những vấn đề phát sinh, thực hiện đúng quy định của quyết định cho phép đầu tư và quy định của pháp luật
4. Thẩm định và cấp quyết định cho phép đầu tư cho các nhà đầu tư kinh doanh đầu tư vào khu công nghiệp theo quy định của Chính phủ.
5. Thực hiện các nội dung quản lý, cấp giấy đăng ký thuê lại đất (cấp đồng thời với quyết định cho phép đầu tư ), quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, quản lý thương mại, quản lý xây dựng theo quy hoạch chi tiết và thực hiện các thủ tục hành chính nhà nước liên quan đến đầu tư, xây dựng, đấu thầu, quản lý lao động và một số nội dung quản lý nhà nước khác do Chính phủ quy định.
6. Phối hợp công tác với các cơ chuyên ngành ngân hàng, hải quan, thuế vụ, bưu điện, công an, bảo hiểm và các cơ quan chuyên ngành cần thiết khác tổ chức thực hiện giải quyết tại chỗ các phát sinh có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này.
7. Thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân và đào tạo nguồn nhân lực cho khu công nghiệp.
8. Bảo đảm thực hiện các hoạt động, theo đúnh pháp luật và các quy định áp dụng cho khu công nghiệp và bảo hộ người lao động và tài sản trong khu công nghiệp không bị xâm phạm.
Điều 59: Cơ quan quản lý khu công nghệ cao là cơ quan quản lý nhà nước một khu công nghệ cao do Thủ tướng Chính phủ thành lập, thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như cơ quan quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh quy định tại điều 58 luật này và các quy định như sau:
1. Được nhà nước giao đất để phát triển khu công nghệ cao và thống nhất quản lý trong khu công nghệ cao.
2. Giải quyết những vấn đề liên quan đến quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực, quản lý các loại dịch vụ liên quan đến hoạt động khu công nghệ cao.
3.Phối hợp với uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quy hoạch, hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng khu dân cư, các cơ sở khácphục vụ đời sống người lao động làm việc trong kh._.u công nghệ cao và quản lý các cơ sở này, đến khi có đủ điều kiện giao cho cơ quan quản lý hành chính địa phương quản lý theo quy định hiện hành.
VI. Kinh nghiệm đầu tư phát triển và quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất ở một số nước Đông á.
* Khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi và một số tiểu khu vực khác. Trong phần này , xin chỉ đề cập đến khu công nghiệp, khu chế xuất ở một số nước Đông á.
1. Từ những thành tựu của các nước đi trước:
1.1- Đài Loan.
Trong hơn ba thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến và theo dõi sự xuất hiện và phát triển với tốc độ cao đến chóng mặt của "các con rồng Châu á" trong đó Đài Loan được coi là hiện tượng đặc thù.
Đài Loan thuộc loại hình kinh tế hải đảo đất chật người đông, tài nguyên nghèo nàn (Diện tích khoảng 3600km2, chủ yếu là đồi núi, dân số 21,5 triệu người, mức độ phụ thuộc kinh tế trong nước vào hoạt động ngoại thương rất lớn. Chính phủ Đài Loan hiểu rằng họ không thể dựa vào phát triển nông ngư nghiệp mà phải chọn cho mình một phương thức thích hợp khác để phát triển kinh tế và họ đã chọn phương thức phát triển công nghiệp nhất là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động.
Như vậy ngay từ đầu Đài Loan đã xác định được vai trò quan trọng của khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước mình. Việc Đài Loan tập trung các xí nghiệp công nghiệp vào các khu công nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích.
Thứ nhất, trong khu đất dành cho xây dựng khu công nghiệp có thể chủ động xây dựng hạ tầng kĩ thuật theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này khiến cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước sẵn sàng đầu tư và xây dựng nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ hai, nhờ bố trí sản xuất tập trung nên việc tổ chức sản xuất (như cung cấp điện nước, vân tải nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất và sản phẩm, xử lý nước thải...) cũng thuận lợi hơn tạo điều kiện trực tiếp cho việc giảm tối đa chi phí của các xí nghiệp.
Sau cùng nhờ có khu công nghiệp nên đã giảm dần và tiến tới chấm dứt xây dựng nhà máy riêng lẻ, phân tán trong nội thành, nội thị hoặc chiếm đất nông nghiệp, ngư nghiệp đặc dụng để xây dựng nhà máy, góp phần sử dụng hiệu quả quỹ đất nông nghiệp với vốn eo hẹp của Đài Loan, các khu công nghiệp thường được bố trí tại những vùng đất cằn cỗi hoặc lấn biển.
Một ví dụ minh hoạ điển hình cho ích lợi của việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là vào những năm 60-70 người ta đã chuyển 192,3 ha đất nông nghiệp (chủ yếu là đất trồng mía) để xây dựng ba khu công nghiệp: Cao Hùng, Nam Tử, Đài Trung.
Hãy thử phân tích:
- Nếu trồng mía, mỗi ha cho thu hoạch 1,4 triệu USD/ năm, và tạo việc làm cho 40 lao động. Như vậy 192,3 ha trồng mía đã tạo ra 269,22 triệu USD/ năm và tạo ra việc làm cho 7500-8000 lao động.
- Khi chuyển 192,3 ha khu chế xuất, hiệu quả sử dụng đất tăng vọt chỉ tính trong 3 quí đầu năm 1995, ba KCX đã đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 61,136 tỷ USD, nhập khẩu 32,363 tỷ USD, xuất siêu 28,773 tỷ USD, thu hút 95000 lao động. Đại bộ phận giá trị hàng xuất khẩu là được sản xuất trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
Trong 30 năm qua, hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao đã đóng vai trò rất quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Đài Loan, phân bố rộng khắp hầu như huyện nào cũng có khu công nghiệp. Mỗi khu công nghiệp là hạt nhân thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh trong vùng.
Trong đó đặc biệt là khu công nghệ cao Hsinchu, khu công nghệ cao này đã đạt được những kết quả rất đa dạng, góp phần nâng cao năng lực công nghệ nội sinh và phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao của Đài Loan. Đây là một mẫu hình gần gũi với những quan điểm xây dựng khu công nghệ cao Hoà Lạc của ta.
Khu công nghệ cao Hsinchu được bắt đầu xây dựng vào năm 1980 theo quyết định của Chính Phủ Đài Loan, do Uỷ ban khoa học nhà nước Đài Loan chuẩn bị tổ chức triển khai. Khu nằm cách Đài Bắc 80 km về phía Tây Bắc, trên diện tích quy hoạch là 2.100 ha, cách sân bay quốc tế Đài Bắc gần 80 km đường bộ, có 2 đường cao tốc dẫn tới khu. Khu được xây dựng phát triển theo 3 giai đoạn: giai đoạn 1 trên diện tích 270 ha, giai đoạn 2 mở thêm 110 ha, hiện nay đang triển khai phát triển giai đoạn 3 trên diện tích 170 ha.
Từ lúc chỉ có 59 công ty tham gia đầu tư vào năm 1986, sau 10 năm (đến cuối năm 1995) số công ty gia nhập khu đạt 180. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ các công ty gia nhập khu tăng trung bình hàng năm là 8,33%. Đến cuối năm 1995 có 42.257 người làm việc tại khu so với 8.276 người năm 1986 tăng hơn 5 lần. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng nhân lực trung bình trong khu là 13,8%. Điều đáng lưu ý là các công ty của Đài Loan chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ với số nhân viên trung bình của một công ty là 235. Ngay ở lĩnh vực phát triển nhất là mạch tích hợp, số nhân viên trung bình của một công ty cũng chỉ khoảng 400 người.
Cơ cấu nhân lực trong khu năm 1995, 1,23% có trình độ Ph.D (521 người), 11,44% cao học (4837 người), 18,58% đại học (7852 người), 22,77% trung cấp (9624 người) và 37,89% phổ thông. Với tỷ lệ 31,5% nhân viên có bằng đại học trở lên rõ ràng ở đây đội ngũ trí thức Đài Loan được tập trung với mật độ rất cao. Tuổi bình quân toàn khu năm 1995 là 30,1 trong đó số người từ 20 đến 39 tuổi chiếm 85,8%. Điều này rất phù hợp với một khu mới được thành lập để thu hút các nhà khoa học trẻ. Tuy nhiên tuổi bình quân cán bộ quản lý khá cao (khoảng 45 tuổi).
Sau 15 năm hoạt động, khu đã thu được những kết quả vượt mong đợi của Chính Phủ Đài Loan. Như một đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của Đài Loan, lưu lượng trao đổi hàng hoá năm 1995 giữa khu Hsinchu với thế giới bên ngoài đạt tới 857.234 tấn, trong đó nhập khẩu 257.874 tấn và xuất khẩu 599.360 tấn. Năm 1995 các công ty trong khu bán ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ với tổng doanh số đạt 10.940 tỷ USD, bằng 3,6% tổng thu nhập nội địa của Đài Loan và chiếm tới 30% tổng doanh số thực hiện từ khi thành lập. Doanh số trung bình các hãng trong thời kì 1991-1995 là 35,8 triệu USD, gấp 1,73 lần mức vốn trung bình của các công ty. Doanh số bình quân trên đầu người trong khu năm 1995 là 258.890 USD, gấp 18 lần GDP trên đầu người của Đài Loan. Trung bình trong thời kỳ 1991-1995 doanh số bình quân trên đầu người trong khu đạt trên 177 ngàn USD. Tốc độ tăng dân số trung bình hàng năm trong 5 năm 1991-1995 là 35,99% gấp hơn 5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế của Đài Loan nói chung.
Về chuyển giao sáng tạo công nghệ, ở khu các sáng chế được đưa vào áp dụng với quy mô lớn. Chỉ tính riêng 3 năm 1991-1993 có 673 sáng chế của các công ty nước ngoài được đưa vào áp dụng. Đặc biệt tỉ trọng các sáng chế thuộc lĩnh vực mạch tích hợp và thiết bị ngoại vi máy tính đã được đưa vào áp dụng rất cao, tương ứng là 82% và 97%.
Do đầu tư có trọng điểm vào lĩnh vực công nghệ hiện đại, khu đã dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin và giúp Đài Loan vươn nhanh trên thị trường thế giới.
1.4- Thái Lan:
ý tưởng xây dựng các khu công nghiệp ở Thái Lan được hình thành từ 40 năm trước. Đến nay ở Thái Lan đã có khoảng 440 khu công nghiệp đang hoạt động, tất cả các khu công nghiệp này đều được phân chia theo các vùng khác nhau nhưng tựu chung đều nằm dưới sự quản lý của Cục công nghiệp Thái Lan (gọi tắt là IEAT).
Về tổ chức quản lý: Trước đây các nhà đầu tư vào Thái Lan tự mua đất để xây dựng nhà máy, tuy nhiên điều này khiến cho nhà nước không thể trực tiếp quản lý được, nhất là về mặt bảo vệ môi trường. Năm 1972 IEAT được thành lập với các chức năng chính sau:
- Điều tra xây dựng kế hoạch, thiếp lập và xây dựng các khu công nghiệp.
- Cấp giấy phép đầu tư.
- Quy định ngành nghề và quy mô của cơ sở công nghiệp sẽ được cấp giấy phép đầu tư vào khu công nghiệp
- Quản lý các nhà đầu tư trong khu công nghiệp (bao gồm các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ...) quản lý sử dụng đất và tuân thủ các quy định (bao gồm cả công việc liên quan đến vệ sinh, y tế, ảnh hưởng môi trường)
- Quy định giá mua bán cho thuê động sản và bất động sản.
- Phát hành ngân phiếu hoặc các loại tín phiếu khác nhằm mục đích đầu tư.
Tổ chức hệ thống của IEAT gọn tập trung và trực tiếp nên công việc luôn được giải quyết một cách nhanh chóng và thuận tiện.
Chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, nhà nước không ưu đãi cho vay vốn. Tuy nhiên nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều có thể dành cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Bên cạnh các ưu đãi trong đó, khu chế xuất còn được hưởng các ưu đãi khác như được miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu sản xuất, miễn hoàn toàn các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế phụ thu.
Dịch vụ "một cửa": mọi khách hàng đều muốn đầu tư vào khu công nghiệp chỉ cần đến IEAT là đầy đủ các thông tin cần thiết. Họ sẽ giới thiệu mạng lưới khu công nghiệp, ngành nghề khuyến khích đầu tư, vị trí các khu công nghiệp, các vốn đãi, các thủ tục cần thiết. Sau một ngày được hướng dẫn chu đáo và làm song thủ tục, một tuần sau họ có thể nhận được giấy phép và có thể bắt tay ngay vào xây dựng nhà xưởng. Trường hợp ở xa có thể thông qua Internet để tìm hiểu khu công nghiệp mình quan tâm, lô đất mình lựa chọn sau đó Fax cho IEAT. Nếu được chấp nhận sẽ đến Bangkok để ký hợp đồng. Mặc dù có quy định chế độ một cửa nhưng IEAT luôn đặt ra nhiệm vụ tự hoàn thiện để giải quyết nhanh chóng yêu cầu của khách hàng. Bởi vì "một cửa" nhưng nhà đầu tư phải chờ đợi lâu cũng có nghĩa là "nhiều cửa". Từ đó IEAT tự khẳng định vị trí và vai trò của mình trong việc thu hút đầu tư và hoàn thành nhiệm vụ phát triển công nghiệp cân bằng của Thái Lan.
Môi trường một trong năm mục tiêu xây dựng khu công nghiệp Thái Lan là đảm bảo môi trường trong sạch. Thái Lan đưa ra nguyên tắc cân bằng- người gây ô nhiễm môi phải đền bù thiệt hại. Do vậy khi thành lập khu công nghiệp phải có dự án thiết kế xây dựng một hệ thống xử lý nước thải và được cơ quan có thẩm quyền về môi trường xem xét và phê duyệt. Mọi chất thải phải được xử lý và giải phóng một cách triệt để, nhà đầu tư phải tự chi trả chi phí xử lý nước thải, nước thải qua xử lý để làm lạnh nhà máy điện và tưới cây trong KCN. Vì vậy khu công nghiệp Thái Lan luôn được đánh giá là khu công nghiệp xanh và sạch đẹp.
1.5- Malaixia:
Khi giành được độc lập năm 1963, Liên bang Malaixia là một quốc gia xuất khẩu hàng tiêu dùng thành đạt với mức thuế từ thấp đến vừa phải, hầu như không có hạn chế về số lượng, và có những người lãnh đạo tin tưởng vào thương mại tự do và cạnh tranh, Nền kinh tế được xây dựng trên một diện tích rộng lớn quanh các cảng tự do Singapore và Penang và đã trở thành cơ sở hạ tầng tuyệt vời. Singapore trở nên một gia đình công nghiệp hùng mạnh và tách ra khỏi Malaixia năm 1965. Trong khi đó thể chế cảng tự do của Penang nhanh chóng mất hiệu lực do hậu quả của chính sách bảo hộ ban đầu rất nhu nhược của liên bang dành cho các ngành công nghiệp mới. Chứng kiến sự thành công của công nghiệp chế biến ở Singapore và Hồng Công và ở các khu chế xuất ở Đài Loan(Trung Quốc), và mong muốn được chia sẻ sự thịnh vượng trong xuất khẩu và công ăn việc làm, các nhà lãnh đạo Penang đã cố gắng rất nhiều để thành lập các EPZ (Expoet Proccessing Zone) ở Malaixia. Năm 1971, liên bang đã ban hành luật về khu thương mại tự do kêu gọi các c
Tuy nhiên, trong 15 năm đầu tiên (từ 1972-1987), Malaixia tách riêng các khu chế xuất khỏi phần còn lại của nền kinh tế và bỏ qua các mối liên hệ giữa khu chế xuất và kinh tế trong cả nước. Nhà nước trở nên tích cực hơn trong việc phát triển các ngành công nghiệp mới, tăng cường bảo hộ bằng thuế quan và phổ biến các loại thuế này.
Việc miễn thuế chỉ được cho phép như là ngoại lệ cho tận khi có những cải cách vào cuối những năm 1980 và cũng như ở hầu hết các nước, các mối liên hệ ngược giữa khu chế xuất và nền kinh tế không bao giờ có hiệu quả. Một hệ thống hàng nhập kho (kho hàng chế biến có giấy phép được thử nghiệm năm 1975 như là phương án đối lập với khu chế xuất, song có rất ít thành công vì môi trường chính sách bên ngoài khu chế xuất khó có thể cải thiện và rất khó có thể buộc người ta thực hiện việc dự phòng khi sản xuất phân tán. Tuy nhiên hệ thống này vẫn tiếp tục phát triển và ngày nay có 151 công ty sử dụng hệ thống hàng nhập kho với 75.000 công nhân, các công ty ở khu thương mại tự do có khoảng 104.000 công nhân.
Năm 1987, Malaixia bắt đầu một chiến lược công nghiệp mới, trong đó những khu chế xuất đã thành công và những đòi hỏi của chúng được thoả mãn như là những nguyên tắc chỉ đạo để tăng trưởng. Các khu chế xuất được liên kết ngày càng chặt chẽ với phần còn lại của nền kinh tế , phần phải cung cấp ngày càng nhiều các sản phẩm đầu vào cho các xí nghiệp mới của nước ngoài và các liên doanh. Các trở ngại nhân tạo được tháo dỡ, và một hệ thống cấp vốn cho xuất khẩu kiểu Triều Tiên được hình thành như một bộ phận của chiến lược này. Theo hệ thống mới, các nhà cung cấp nội địa trong hệ thống xuất khẩu sẽ được tài trợ trước khi đưa hàng lên tàu. Các mục tiêu trọng tâm là đẩy mạnh đầu tư nước ngoài và phát triển một nền công nghiệp địa phương có sức cạnh tranh quốc tế. Các ngành chế xuất, bao gồm cả các cơ sở ở khu chế xuất đã đạt được mức tăng trưởng đáng ngạc nhiên trong cơ cấu chính sách mới. Xuất khẩu từ khu chế xuất đã tăng từ 14% trong tổng xuất khẩu của cả nước năm 1982 lên tới khoảng 24% năm 1990.
1.2- Trung Quốc:
Trong hai thập kỷ qua, điểm đáng chú ý nhất trong toàn bộ bức tranh kinh tế của Trung Quốc là việc phát triển kinh tế và công nghệ trong đó khu phát triển kinh tế, các khu khai thác phát triển kinh tế và công nghệ. Trong đó khu phát triển kinh tế và công nghệ Quảng Châu- GETDD (Viết tắt của Guang Zhou Economic and Technologycal Development Distric) là một trong những khu khai thác cấp nhà nước đầu tiên được phê chuẩn ở Trung Quốc.
Ngày 28/12/1984 GETDD được khởi công xây dựng, đây là khu kinh tế có mô hình "hướng ngoại" theo phương châm "lấy công nghiệp hiện đại thu hút vốn nước ngoài,và thu hút ngoại tệ làm chính, tất cả nhằm phát triển công nghệ mới và công nghệ cao.
Nằm ở trung tâm phát triển Quảng Châu- Hồng Công- Ma Cao cách trung tâm thành phố Quảng Châu 32 km, cách Thẩm Quyến 120 km, cách sân bay quốc tế Bạch Vân 35 phút đi bằng ô tô và theo đường biển, cách Hồng Công 60 hải lý GETDD có các đường cao tốc tiêu chuẩn quốc tế chạy kề bên đường cao tốc Quảng Châu- Thẩm Quyến. Các cảng trong khu có khả năng tiếp nhận những tàu có tải trọng lớn trong đó cảng Container Hoàng Phố là cảng lớn nhất vùng Hoa Nam.
GETDD được quy hoạch xây dựng trên diện tích 30 km2 chia làm 4 khu vực. Tính đến năm 1995 GETDD đã hoàn thành giai đoạn I trên diện tích 6,6 km2 với hệ thống hạ tầng và tiện ích công cộng chất lượng cao. Hệ thống giao thông hoàn chỉnh khả năng cung cấp điện trên 125 triệu kwh/ năm cấp nước 70 nghìn m3/ngày, hệ thống xử lý nước thải có công suất 30 nghìn m3/ngày, tổng đài viễn thông 16 nghìn số.
GETDD có môi trường sạch và đẹp 30% diện tích toàn khu là các thảm cây xanh, có cỏ và hoa trong khu đó có trường học hiện đại, nhà trẻ, bệnh viện và trạm kiểm dịch. Ngoài ra còn có các khu vực dịch vụ như cửa hàng bách hoá, các khu chợ chuyên doanh, sân bãi bể bơi. Để phục vụ các hoạt động kinh doanh hiện nay có 6 chi nhánh ngân hàng, 3 cơ quan tài chính, các văn phòng luật sư, kiểm toán và các trung tâm dịch vụ tin học, đào tạo tư vấn. Đã có 230 xí nghiệp được xây dựng xong và 25 triệu m2 nhà đượcc xây dựng các dự án nhà ở. Hiện nay, các doanh nghiệp trong khu đã có giao dịch buôn bán với trên 50 nước và vùng lãnh thổ. Nhiều công ty xuyên quốc gia hàng đầu trên thế giới cũng đã tham gia đầu tư vào GETDD và lớn nhất là Mỹ, Nhật Bản, Singapore, Hà Lan...
Tính đến tháng 10 năm 1995 GETDD đã đạt tổng vốn đầu tư nước ngoài là 926 triệu USD và kim ngạch xuất khẩu đạt 1,81 tỷ USD. Tổng kết trong 10 năm (1985-1995) bình quân hàng năm tổng giá trị sản lượng công nghiệp tăng 10%, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng 40%.
Hiện nay Trung quốc có "5 đặc khu kinh tế", nhiều vùng "kinh tế mở cửa" và nhiều khu "khai thác kinh tế kỹ thuật". Tính chất các đặc khu kinh tế của Trung Quốc gần giống như "khu chế xuất" của một số nước Châu á đã làm. Sản xuất có đặc trưng, gắn bó hữu cơ với thị trường bên ngoài. Sự phát triển xuất khẩu của các nước đó làm mở rộng sự tham gia tư bản nước ngoài vào công nghệ chế biến của họ. Thu hút vốn bằng các biện pháp ưu đãi về thuế , lãi suất... Tuy là khu chế xuất có tính chất giống nhau, nhưng căn cứ tình hình cụ thể của từng nước, đòi hỏi phải có sự đánh giá, phân tích thận trọng, đầy đủ và toàn diện các đặc khu riêng của nó. ở Trung quốc, ngoài những ý đồ chiến lược nói trên, còn kèm theo cả mục tiêu phấn đấu biến đặc khu kinh tế thành thị trường tài chính quốc tế. Đó là mục tiêu rất cao của Trung Quốc.
Trung Quốc đã xây dựng đặc khu kinh tế và quyết định lấy đặc khu kinh tế Thẩm Quyến làm đặc khu dẫn đầu về " sản xuất hướng ngoại". Diện tích của Thẩm Quyến là 2020 km2. Đặc khu kinh tế chỉ có 327,5 km2, nhưng có vị trí địa lý hết sức ưu việt. Khi xây dựng đặc khu, Trung Quốc đánh giá Thẩm Quyến là một trong những nơi hội tụ của nền văn minh Đông- Tây, sẽ là nơi gặp nhau và thi đua giữa 2 chế độ XHCN và TBCN. Vì Thẩm Quyến chỉ cách Hồng Công một con sông, có 2 chế độ và 2 nền kinh tế khác nhau. Thẩm Quyến có nhiều cảng tốt, gần sân bay, với hàng loạt các đường ô tô cao tốc: Thẩm Quyến- Sán Đầu, Thẩm Quyến- Châu Hải. Thẩm Quyến lại là ga đầu mối cuối cùng của các tuyến đường sắt chính: Quảng Châu- Bắc Kinh, Thẩm Quyến- Bắc Kinh, Bắc Kinh- Cửu Long, Bắc Kinh- Thượng Hải. Với những ưu thế nói trên, nên trong những năm qua, khi chưa được chọn là đơn vị dẫn đầu thí điểm về "sản xuất hướng ngoại" phát triển tổng hợp các ngành nghề công, nông thương nghiệp, ngoại thương, tài chính, vận tải du lịch... thì trên trên thực tế Thẩm Quyến cũng đã làm rất tốt và đã có tác dụng thúc đẩy giúp cho “sản xuất hướng ngoại” của nội địa
Mục tiêu phấn đấu cụ thể của Thẩm Quyến:
+ Lấy công nghiệp làm chính, trong đó tỷ trọng ngành dịch vụ tương đối lớn. Mục đích của đặc khu là thu hút vốn nước ngoài, mà ngành công nghiệp là ngành thu hút nhiều vốn và cũng là ngành phát huy được đầy đủ tác dụng của đất đai và lao động, là thế mạnh của Thẩm Quyến. Công nghiệp là cơ sở vật chất để phát huy các ngành kinh tế ngoại thương và thương nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ...
+ Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến chọn loại hình " kĩ thuật tương đối tiên tiến" là loại nhiều kĩ thuật và tri thức, vừa thích ứng với cách mạng kĩ thuật mới vừa phù hợp với ý đồ chiến lược của đặc khu là đưa nền công nghiệp tiến lên theo chiều hướng "cao cấp hoá", hướng vào các ngành vi điện tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học. Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến lại khởi hành vào thời kì cách mạng khoa học mới, cho nên những hạng mục thu hút vốn đầu tư của nước ngoài phải là những hạng mục công nghiệp tiên tiến.
+ Về phương hướng phát triển là nền kinh tế "hướng ra ngoài". Tuy nhiên, vẫn có thể hướng thứ yếu "hướng vào trong", nhưng hướng thứ yếu ở vị trí phục tùng và phối hợp. Nghĩa là "hướng vào trong" phải trên tiền đề "hướng ra ngoài", tức là đẩy mạnh các hoạt động liên kết kinh tế ngang với trong nước để phát huy đầy đủ các "cửa ngõ", như việc Thẩm Quyến liên kết với 28 tỉnh, thành phố trong những năm qua.
+ Cho đến nay, mô hình kinh tế đặc khu ở Trung Quốc vẫn còn có những ý kiến khác nhau, gần đây đã đi đến thống nhất. Mô hình cơ chế kinh tế đặc khu là: Ra sức phát huy tác dụng điều tiết của thị trường dưới sự chỉ đạo của kế hoạch nhà nước. Nghĩa là thị trường điều tiết là chính, nhưng cũng có sự khống chế vĩ mô của nhà nước .
Thẩm Quyến là mộ trong 4 đặc khu kinh tế được thành lập vào tháng 8/1980 chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn nền móng, giai đoạn hình thành, giai đoạn nâng cao.
Năm năm đầu phải xây dựng cơ sở hạ tầng, 5 năm tiếp theo mới thực sự đi vào đầu tư các hạng mục công trình. Trong 10 năm tổng giá trị công nghiệp từ 60 triệu (nhân dân tệ) tăng lên 11650 triệu, tăng 193 lần. Về kim ngạch xuất khẩu, từ 9 triệu USD tăng lên 2.170 triệu USD, tăng 232 lần. Đến nay đã có 120 nước vào đàm phán, giao dịch đầu tư và du lịch, đó là cũng là cách làm khích lệ các nơi đi lên theo tấm gương "đặc khu Thẩm Quyến".
Điều có ý nghĩa ở đây không phải là đơn vị được chọn dẫn đầu về "sản xuất hướng ngoại", đó chỉ là bề nổi bên ngoài. ý nghĩa quan trọng bậc nhất chính là ở chỗ Trung Quốc biết tận dụng lợi thế của nước đi sau, biết cách học tập, chọn lựa kinh nghiệm nước ngoài một cách sáng tạo. Điều quan trọng hơn cả là họ đã Trung Quốc hoá được những điều đã học được, nên đã tránh được cả 2 cực là "ếch ngồi đáy giếng" và "sùng bái văn minh nước ngoài ". Do đó Trung Quốc đã sử dụng đầy đủ lợi thế của đặc khu để huy động sức mạnh tập thể của đất nước, tạo ra hàng xuất khẩu, nên không chỉ phạm vi đặc khu mà cả hàng hoá nội địa đều tránh được thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi hạ giá thành, kích thích nội nhu và ngược lại thúc đẩy tăng cường cho đầu tư tái sản xuất mở rộng. Đó là một cách làm đáng được nghiên cứu, học tập trong việc vận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước.
1.3- Hàn Quốc:
Đầu những năm 1970, Hàn Quốc đã thành lập 2 khu chế xuất Masan (1970) và Iri (1974), để thu hút đầu tư nước ngoàivào các hoạt động xuất khẩu. Nhờ có một chiến lược phát triển hướng ngoại bắt đầu từ thập kỷ 60, xuất khẩu của nước này đã tăng từ dưới 100 triệu USD năm 1963 tới 1 tỷ đô la năm 1970. Khi ấy, vào đầu những năm 1970, nước này vẫn còn chưa biết rằng họ có thể trở thành một nước xuất khẩu các sản phẩm chế biến chủ yếu hay không nếu không có dòng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào những hoạt động xuất khẩu chọn lọc. Họ cũng chưa biết được hệ thống nhập khẩu miễn thuế trên cả nước có thể có hiệu quả hay không trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nếu như các khu chế xuất không được thành lập. Hàn Quốc đã sử dụng tất cả các công cụ chính sách có thể, bao gồm cả khu chế xuất, và tất cả các dự trữ có thể sử dụng (bao gồm vay nước ngoài và đầu tư trực tiếp của nước ngoài), vào đường lối phát triển hướng ngoại của họ. Hai khu chế xuất đã thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Trong vòng 2 hay 3 năm, có khoảng 100 xí nghiệp của nước ngoài và xí nghiệp liên doanh (hầu hết của Nhật) đã hoạt động trong khu chế xuất, với giá trị xuất khẩu 175 triệu USD. Xuất khẩu tăng với tỉ lệ trung bình hàng năm 41% trong giai doạn từ 1975 đến giữa những năm 1980, gần bằng tỉ lệ tăng của xuất khẩu trong cả nước 46% mỗi năm. Tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ khu chế xuất đạt 890 triệu USD năm 1985, bằng 2,5% tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chế biến của cả nước. Tỷ lệ phần trăm nhỏ của xuất khẩu từ khu chế xuất trong tổng số cho thấy rằng các công cụ so ng song có hiệu quả không kém
Thật ra, hầu hết xuất khẩu của Hàn Quốc là từ các khu công nghiệp chứ không phải từ các khu chế xuất. Năm 1986 số lượng lao động trong các khu chế xuất, bao gồm gần 36.000 người, chỉ bằng chưa đến 1% tổng số lao động của ngành chế biến. Cũng như vậy, năm 1990, 90% xuất khẩu của Hàn Quốc là dựa trên hệ thống miễn thuế và hệ thống rút lại thuế và 8% dựa trên hệ thống hàng nhập kho, bao gồm 3% từ các khu chế xuất, 1% khác là theo những loại chính sách khác, chẳng hạn như xuất khẩu để tái nhập khẩu.
Bằng những đóng góp của khu chế xuất và đầu tư nước ngoài vào sự mở rộng của xuất khẩu trong những năm 1970, chi phí cho xây dựng và hoạt động của các khu chế xuất không những chỉ được bồi hoàn. Các khu chế xuất cũng tỏ ra hiệu quả trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty địa phương tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài, thu nhập các kĩ năng mới nhất của nước ngoài, và mở rộng các mối quan hệ với thị trường. (Đa số các nhà đầu tư nước ngoài trong năm 1970 đều ở các khu chế xuất). Sự đóng góp của các dự trữ trong nước vào việc mở rộng xuất khẩu cũng rất gây ấn tượng, và vượt xa mọi mong đợi của các nhà hoạch định chính sách, những người đã đánh giá quá thấp những kĩ năng sản xuất và quản lý của công nhân và các nhà quản lý Triều Tiên.
Những kĩ năng này được tiếp thu trong thời kì thuộc giai đoạn 1945-1960. Nhờ có những kĩ năng sản xuất xuất khẩu và khả năng quản lý trong nước này (cái mà hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu), Hàn Quốc đã có thể dựa chủ yếu vào các công ty thương mại nước ngoài trong quan hệ với thị trường bên ngoài và các khoản vay nước ngoài trong việc đảm bảo các dự trữ tài chính. Các khả năng này giúp cho Hàn Quốc trở thành người cạnh tranh thống trị trên thị trường thế giới về xuất khẩu các phế phẩm công nghiệp nhẹ trong những năm 1960-1970.
2. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước đi trước.
a, Về vai trò của nhà nước:
Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở những nước trên là vai trò của nhà nước. Ví dụ, khu công nghệ cao Hsinchu của Đài Loan, trước giai đoạn 1980, uỷ ban khoa học nhà nước đứng ra chủ trì việc thành lập khu.
Trong giai đoạn thành lập khu, nhà nước Đài Loan đã tiến hành hàng loạt các hoạt động đầu tư nhằm: xây dựng hạ tầng cơ sở, xây dựng sẵn nhà xưởngcho thuê, cung cấp nhà ở cho chuyên gia hoặc người Hoa về nước, xây dựng trường học với 2 loại (sử dụng tiếng Trung và song ngữ), xây dựng khu giải trí.
Trong suốt quá trình hoạt động của khu, uỷ ban khoa học nhà nước đã lập Cục quản lý khu để quản lý và hỗ trợ các công ty hoạt động theo đúng các mục tiêu và định hướng đã đề ra cho khu. Về tổ chức, Cục bao gồm các bộ phận hành chính và các đơn vị dịch vụ trực thuộc. Cục thực hiện các hoạt động : lập kế hoạch và đầu tư, xây dựng nhà xưởng, quản lý đất đai và nhân lực, dịch vụ thông tin, thương mại và công cộng.
Hoạt động của Cục dựa trên nguồn kinh phí do nhà nước Đìa Loan cấp và các khoản phí dịch vụ thu từ các công ty tham gia vào khu. Trong thời kì 1983-1994 nhà nước Đài Loan đã đầu tư 447 triệu USD cho Cục quản lý khu phần chủ yếu là dành cho thuê đất, xây dựng cơ sở hạ tầng và vận hành Trường cao đẳng thực nghiệm quốc gia.
b. Về các mục tiêu chủ yếu mà các nước đã xác định đó là:
+ Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
+ Khắc phục ô nhiễm môi trường, sự phân bố doanh nghiệp rời rạc, kết cấu hạ tầng kỹ thuật bất hợp lý.
+ Khắc phục tình trạng phân bố công nghiệp quá tập trung ở thủ đô và các thành phố lớn.
+ Thu hút lao động, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
c. Về vị trí xây dựng các khu công nghiệp:
Phần lớn khu công nghiệp ở các nước đều được bố trí ở cácđịa điểm thuận lợi như: Gần cảng biển, cảng hàng không, gần đường quốc lộ, thuận lợi về giao lưu hàng hoá và liên hệ với nước ngoài. Các khu công nghiệp có gianh giới xác định, được bố trí trên diện tích khá lớn (ví dụ khu Maptapphut- Nam Thái Lan có hơn 100 km2). Điểm lưu ý ngày nay đối với những nước công nghiệp đã phát triển và những nước công nghiệp mới (NICs) vị trí chọn bố trí khu công nghiệp có thể là các vùng đất cằn cỗi hoặc đất lấn biển (ví dụ khu Cao Hùng, Nam Tử, Đài Trung ở Đài Loan). Hơn nữa, để tạo ra bộ mặt phát triển kinh tế và đô thị trong cả nước các khu công nghiệp được bố trí rộng khắp (ở Đài Loan hầu như huyện nào cũng có khu công nghiệp là một trung tâm thúc đẩy kinh doanh vùng đó).
d. Lựa chọn thời gian xây dựng:
Phải lựa chọn thời gian thích hợp để xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất. Khu thương mại tự do Penang (Malaixia) thành công là do việc xây dựng khu này diễn ra trong thời đại bùng nổ của ngành công nghiệp điện tử. Điều đó tạo không khí thuận lợi kích thích đầu tư tư bản. Còn khu chế xuất Bataan (Philipin) không thành công vì nó phát triển trong bối cảnh nền kinh tế thế giới bị suy thoái bảo hộ buôn bán và giá dầu mỏ leo thang làm cho thị trường xuất khẩu xủa các xí nghiệp khu chế xuất không ổn định giá cả, gây nhiều bất lợi trong buôn bán quốc tế
e. Về lựa chọn đối tác và thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp:
Hầu hết các nước đều sử dụng cả hai cách huy động lực lượng và vốn đầu tư trong nước và ngoài nước cho xây dựng, kinh doanh cơ sở hạ tầng và kinh doanh trong khu công nghiệp. Hình thức đầu tư có thể là nhà nước, tư nhân, hợp doanh giữa nhà nước và tư nhân, hoặc liên doanh giữa trong nước và ngoài nước. Các nước đều có các quyết định ưu đãi đối với các doanh nghiệp thông qua Luật về khu công nghiệp.
f. Về công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển khu công nghiệp:
Các nước đều coi đây là một vấn đề chiến lược trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nên đều coi trọng công tác dự báo, đánh giá xu hướng phát triển, phát triển quy hoạch khu công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. Theo kinh nghiệm ở Đài Loan cứ 3 năm 1 lần tiến hành kiểm tra đánh giá lại tính phù hợp của quy hoạch khu công nghiệp so với thực tế để điều chỉnh, bổ sung quy hoạch.
g. Về tổ chức bộ máy quả lý nhà nước đối với khu công nghiệp:
Hầu hết các nước đều có cơ quan chuyên trách về quản lý khu công nghiệp. Chính quyền Trung ương thống nhất quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp. Khi mọi hoạt động của khu công nghiệp đi vào nề nếp mới tiến hành phân cấp quản lý cho các địa phương.
h. Về đào tạo và huấn luyện nhân lực:
Một trong những nhân tố quan trọng để các nước có thành công về khu công nghiệp, khu chế xuất là có sự chuẩn bị và phát triển nguồn nhân lực hợp lý, mà biểu hiện cụ thể là khu công nghệ cao Hsinchu. Với 2 trường đại học (Thanh Hoa, Giao Thông) và đội ngũ giáo viên có chất lượng cao. Khu thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo và huấn luyện nhân lực cho các công ty trong khu dưới nhiều hình thức.
Để chi cho công tác đào tạo và huấn luyện, khu đã huy động các nguồn tài trợ khác nhau. Đặc biệt Chính phủ Đài Loan thực hiện mức chi thường xuyên đến 50%, một số trường hợp chi đến 100% kinh phí. chính sách
Tham gia vào quá trình này đáng chú ý còn có Quỹ khoa học và công nghệ Tự Cường (TCFST) và trường cao đẳng thực nghiệm quốc gia (NEHSSIP). Quỹ khoa học và công nghệ Tự Cường là tổ chức chi lợi nhuận thành lập 1973 từ trường Đại học Thanh Hoa với mục tiêu phối hợp các hoạt động giữa các tổ chức nghiên cứu của tư nhân và Chính phủ để đào tạo nhân tài, hỗ trợ ._.ng diện tích là 1701 ha, trong đó Hà Nội chiếm 2 khu công nghiệp với diện tích 64 ha (giai đoạn I), Đồng Nai chiếm 5 khu công nghiệp với diện tích 741 ha, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 4 khu công nghiệp với diện tích 374 ha, Bình Dương chiếm 4 khu công nghiệp với diện tích 374 ha, Cần Thơ chiếm 1 khu công nghiệp với diện tích 100 ha (giai đoạn I), Bà Rịa- Vũng Tầu 1 khu công nghiệp với diện tích 75 ha. Đến khi các doanh nghiệp trong diện tích 3500 ha đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra được giá trị sản lượng 16 tỷ USD và thu hút được khoảng 12 triệu lao động.
Thực hiện phương hướng trên vừa có ý nghĩa chiến lược vừa là giải pháp lớn góp phần đảm bảo nhịp độ tăng trưởng công nghiệp những năm 2000- 2005. Đến năm 2005 GDP bình quân khoảng 800 USD/ năm, tỷ trọng nông nghiệp khoảng 17-18%, công nghiệp và xây dựng 35-36%, dịch vụ 46-47% GDP.
Do nhu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu quy hoạch chính trong các đô thị lớn, xây dựng công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản để phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi sinh môi trường đi đôi với việc phát triển, làm giàu và tạo việc làm cho nhân dân lao động thì hầu hết các tỉnh đều có nhu cầu hình thành khu công nghiệp với quy mô vừa khoảng 100 ha. Tất nhiên, phải phù hợp với khả năng huy động vốn để phát triển công trình hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp, sự phát triển của các doanh nghiệp trên địa bàn lãnh thổ và khả năng thu hút đầu tư. Việc phát triển này không chỉ mang ý nghĩa kinh tế xã hội mà còn mang cả ý nghĩa an ninh quốc phòng.
Quy hoạch phát triển khu công nghiệp đến năm 2010 bao gồm các mục tiêu chủ yếu sau:
- Việc xây dựng hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao trên phạm vi cả nước phải mang tính phù hợp chung đối với quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và quốc gia.
- Các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao phải được xây dựng trên những vùng đất chủ yếu là đất xấu, cằn cỗi, không thể canh tác hoặc phát triển nông nghiệp cho năng suất cao. Việc lựa chọn địa điểm xây dựng như vậy vừa tận dụng được đất đai lại vừa có thể làm giàu đất đai đó lên nhiều lần so với sản xuất nông nghiệp.
- Xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao phải đặc biệt đảm bảo đúng quy định về an toàn môi sinh, môi trường.
- Như dự kiến năm 2005 sẽ hình thành 100 khu công nghiệp, khu công nghệ cao thì tổng diện tích đất khoảng 10000 ha.
Không ít ý kiến cho rằng, chú trọng phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000 là thiếu cơ sở vững chắc, là phát triển tràn lan. Cần phải xác dịnh rõ ràng việc xây dựng cả 100 khu công nghiệp, khu chế xuất là không đơn giản mà điều này đòi hỏi ở chúng ta một quá trình phấn đấu không mệt mỏi trong nhiều năm.
Bên cạnh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao được xây dựng tại các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước thì đối với một số địa phương có điều kiện để hình thành địa bàn trọng điểm để phát triển công nghiệp để tạo khả năng phát huy các nguồn lực sẵn có như nguyên liệu, lao động, đất đai... thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Do vậy tại các địa phương có khả năng trên, nên chăng chúng ta cũng có xu hướng xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất với quy mô vừa và nhỏ cho phù hợp với khả năng thực tế của vùng.
Nhìn chung, quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp từ nay đến năm 2010 mới chỉ nêu lên những hướng đi chủ yếu dựa vào những kết quả ban đầu đã đạt được. Măc dù quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp đã được Thủ tướng phê duyệt nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều khó khăn vướng mắc cần phải sửa đổi từng bước trong quá trình hình thành và xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trên phạm vi cả nước.
Trong giai đoạn tới việc hình thành các khu công nghiệp mới cần được cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo tính khả thi trên cơ sở đáp ứng các điều kiện sau:
+ Phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng vùng, lãnh thổ.
+ Ngành nghề kêu gọi đầu tư vào khu công nghiệp phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành kinh tế kỹ thuật.
+ Phản ánh đầy đủ nhu cầu và có biện pháp khả thi về huy động vốn để xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội cả trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp.
+ Có phương án khả thi trong việc thu hút đầu tư nhất là đầu tư nước ngoài trong những năm tới.
II. Hệ thống các quan điểm cơ bản cần được nhận thức rõ trong quá trình đưa ra các giải pháp:
1. Quan điểm về phát triển cơ cấu công nghiệp nhiều thành phần:
Để động viên, khai thác mọi nguồn lực thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, coi trọng, chý ý khai thác nguồn nội lực của từng vùng, từng địa phương.
Bên cạnh những mặt tích cực do lợi thế của công nghiệp quốc doanh mang lại, thành phần này đã bộc lộ những hạn chế khó khắc phục như kém năng động, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, sức cạnh tranh kém. Nhằm tăng cường tính năng động sáng tạo ra sức cạnh tranh đồng thời khai thác và huy động mọi nguồn lực về vốn, công nghệ, quản lý để đẩy nhanh phát triển công nghiệp theo hướng đa dạng hoá cần lựa chọn mô hình hợp lý để có thể thu hút các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển có sự hỗ trợ và định hướng của Nhà nước. Với quan điểm này chúng ta chủ trương xây dựng các khu công nghiệp có quy mô từ 15 đến 20 ha, hạ tầng kỹ thuật được đầu tư vừa phải phù hợp với khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ là hợp lý, có khả năng khai thác được nhiều nguồn nội lực của các thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp. Các khu công nghiệp vừa và nhỏ được phân bố xen kẽ và kết hợp với các khu chế xuất trên dưới 100 ha, có hạ tầng kỹ thuật hiện đại đã được hình thành trên địa bàn.
2. Quan điểm hiệu quả trong đầu tư phát triển khu công nghiệp:
Hiệu quả trong đầu tư phát triển khu công nghiệp phải được nhận thức một cách đầy đủ và đúng đắn bao gồm hiệu quả kinh tế trực tiếp mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và hiệu quả xã hội giải quyết tối ưu các mục tiêu kinh tế xã hội của mỗi địa phương vùng lãnh thổ có phân bố khu công nghiệp như: tác động chuyển dịch cơ cấu, tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường sinh thái vùng lãnh thổ. Với quan điểm này vận dụng vào điều kiện thực tiễn ở nước ta những năm qua có thể nhận thấy: Vấn đề "lạm phát khu công nghiệp" tỉnh nào cũng muốn xây dựng khu công nghiệp bởi vì đều muốn thúc đẩy và đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội một cách nhanh chóng". nhưng vấn đề là có đủ điều kiện để đầu tư hạ tầng và đáp ứng được lợi ích của các doanh nghiệp và nhà đầu tư hay không.
3. Quan điểm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp:
Góp phần giải quyết cơ bản vấn đề ô nhiễm môi trường đô thị do các cơ sở sản xuất gây ra. Nhằm đảm bảo sự phát triển bền vũng cho từng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Môi trường các khu vực đô thị như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do các cơ sở sản xuất, chế biến công nghiệp đang hoạt động không coi trọng đầu tư xử lý chất thải công nghiệp. Trong những năm tới nếu không có những giải pháp đồng bộ thì tình trạng ô nhiễm tiếp tục gia tăng. Và một trong những giải pháp đó là hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất.
4. Quan điểm toàn diện và đồng bộ trong đầu tư phát triển
khu công nghiệp:
Hình thành và phát triển công nghiệp theo mô hình khu công nghiệp chỉ là một trong nhiều vấn đề của tổ chức sản xuất và quản lý công nghiệp theo lãnh thổ. Phát triển hệ thống công nghiệp theo lãnh thổ có tác dụng quan trọng, thúc đẩy phát triển tổng thể kinh tế xã hội theo vùng lãnh thổ. Với quan điểm toàn diện và đồng bộ, muốn phát huy hiệu quả mô hình khu công nghiệp phải giải quyết tốt mối quan hệ đối với các bộ phận khác như: Đầu tư phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghệp, thương mại, dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực, quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông, điện nước, khu dân cư, đô thị vùng lãnh thổ gắn liền với phát triển khu công nghiệp.
Đồng thời giải quyết đồng bộ các vấn đề như đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, cải cách bớt các thủ tục phiền hà, ách tắc, cửa quyền trong xét duyệt đầu tư theo hướng "một cửa". Và hoàn thiện môi trường đầu tư tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp trong thời gian trước mắt cũng như trong giai đoạn tiếp theo.
III. Giải pháp về cơ chế quản lý và đầu tư phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất:
1. Xem xét lại quy hoạch phát triển Khu công nghiệp:
Việc xây dựng khu công nghiệp trước hết phải xuất phát từ hiệu quả kinh tế xã hội, không thể quyết định một cách chủ quan. Hơn nữa sau khủng hoảng kinh tế khu vực, khả năng tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam chưa mạnh, cho nên trong quy hoạch phát triển khu công nghiệp trong những năm tới cần có những điều chỉnh thích hợp.
Không thành lập thêm các khu công nghiệp mới, cần soát xét kỹ tất cả các khu công nghiệp, tập trung vốn đầu tư hoàn thành xây dựng hạ tầng chonhững khu công nghiệp đang xây dựng dở dang, tạm hoãn các khu công nghiệp chưa xây dựng hoặc ít có triển vọng thu hút đầu tư. Tình trạng "vừa cấp giấy phép vừa tiến hành quy hoạch" như ở một số nơi hiện nay đang gây ra nhiều khó khăn lúng túng, lãng phí và thiếu đồng bộ.
Đối với các địa phương nằm trong vùng quy hoạch dự định hình thành khu công nghiệp, khu chế xuất phải có sự thông báo rộng rãi cho nhân dân biết và tiến hành nhanh việc cắm cột mốc để ngăn chặn tình trạng xâm chiếm, mua bán đất bất hợp pháp, gây khó khăn cho việc giải toả đền bù về sau.
Trung ương cần định hướng các khu công nghiệp cần phát triển trong cả nước và trong toàn khu vực, tránh tình trạng lạm phát khu công nghiệp, ứ đọng vốn đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng cần xem xét lại giá cho thuê đất để có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, cũng như việc thu tiền thuê đất không nhiều so với hiệu quả khi đầu tư đem lại.
Không nên coi khu công nghiệp, khu chế xuất là "con gà đẻ trứng vàng" chỉ có thể coi là phương tiện để giải quyết mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội sắp xếp lại dân cư, chỉnh trang đô thị. Cần tập trung vốn cho các công trình trọng điểm, không nên dàn trải. Nhiệm vụ của chúng ta trước mắt chưa phải là mau chóng tăng số lượn ccs khu công nghiệp mà trước hết là naang chất.
Để chấm dứt tình trạng quy hoạch xây dựng khu công nghiệp không đồng bộ, thì ngay sau khi phê duyệt cho dự án xây dựng hạ tầng một khu công nghiệp, chính phủ cần cân đối các nguồn vốn, kể cả các hình thức huy động vốn kế hoạch xây dựng đồng bộ hạ tầng cả trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp theo yêu cầu của tiến trình phục vụ sản xuất các doanh nghiệp khu công nghiệp và đời sống của dân cư khu vực.
Muốn vậy phải thực hiện tốt kế hoạch đền bù, giải phóng mặt bằng. Nhà nước cần có chính sách đền bù thống nhất và hợp lý đồng thời ở từng khu vực cần xây dựng và thực hiện phương án đền bù, giải phóng mặt bằng nhanh có hiệu quả. Chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng phải được hạch toán vào giá thành cho thuê lại đất, nhằm thúc đẩy công ty phát triển hạ tầng cũng như các cơ quan chức năng quan tâm đến hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
Các trung tâm công nghiệp lớn có thể thành lập những khu công nghiệp chuyên ngành: khu công nghiệp may, khu công nghiệp chế biến hải sản, khu công nghiệp cơ khí... Với cách này vừa tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu công nghiệp, vừa phát triển tốt các loại hình dịch vụ chuyên ngành trong đó có việc xử lý chất thải gây ô nhiễm.
Khi xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất nên chọn vị trí hợp lý như: nằm gần sân bay, hải cảng, và chúng được nối với các công trìmh này bằng đường giao thông thuận tiện, hoặc nằm trên vùng đô thị chính, có nhân công nhàn rỗi rẻ tiền, có cơ sở hạ tầng chấp nhận được và một hoạt động dịch vụ thuận lợi. Một điều quan trọng khác là các ưu thế trường học và dịch vụ y tế phù hợp, điều kiện sống tương đối dễ chịu và nhà ở cho các nhà quản lý và gia đình họ
Cùng với vị trí thích hợp, khu công nghiệp, khu chế xuất cần phải cung cấp đầy đủ tiện nghi, phải được nối liền với đường giao thông, có những nhà xưởng tiêu chuẩn cho thuê, có chỗ cho những nhà đầu tư muốn thuê đất và tự xây dựng nhà xưởng của họ, và các tiện nghi phụ trợ bao gồm từ nhà cửa cho các cơ quan hành chính và dịch vụ cho bến ô tô buýt, bãi để ô tô và hàng rào cao xung quanh phần đã triển khai của khu. Mắc được đường điện thoại là một thành quả không nhỏ ở nhiều nước đang phát triển, nơi mà những người muốn có điện thoại thường phải đợi đến vài năm.
Xây dựng theo giai đoạn tuỳ theo nhu cầu về không gian là một nguyên tắc mấu chốt để thành công ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Rất nhiều khu công nghiệp trong thời gian đầu đã xây dựng quá nhiều các tiện nghi đi trước nhu cầu, gặp phải tỷ lệ chiếm chỗ thấp và không bao giờ bồi hoàn được các chi phí. Cũng có những chuẩn mực về quy mô đem lại kết quả tốt nhất, đó là từ không dưới 15 ha đến 200 ha. Dịch vụ cũng là một yếu tố chủ chốt để thành công. Những khu được quản lý tốt thường cung cấp những dịch vụ mà các công ty trong khu cần nhất, bao gồm đảm bảo vệ sinh, dọn rác và bảo dưỡng các loại. Mỗi khu chắc chắn còn nhiều loại dịch vụ thuận lợi như phòng cháy, dịch vụ ngân hàng và bưu điện, giới thiệu việc làm, cung cấp thực phẩm, trung tâm trông trẻ, các tổ chức dậy nghề, và các dịch vụ kinh doanh thông thường. Ban quản lý khu luôn phải sẵn sàng giúp đỡ các công ty trong việc giao thiệp với chính quyền, bố trí các tiện nghi công cộng và với các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ bên ngoài khu.
Việc quản lý khu, các dịch vụ và không khí kinh doanh là tối quan trọng, song năng lượng, kỹ năng và các tài nguyên dùng để hấp dẫn các nhà đầu tư tương lai cũng không kém ý nghĩa. Nếu như không thu hút được các nhà đầu tư thích hợp thì tất các thứ còn lại chỉ là con số không.
Cần có sự phối hợp đa mục tiêu việc xây dựng khu công nghiệp. Khi xây dựng khu công nghiệp chúng ta sẽ tập trung các cơ sở sản xuất hiện có trong thành phố vào đây. Để di chuyển ra địa điểm mới đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiền để thuê đất chi phí cho di chuyển nhà máy... đồng thời phải bán địa điểm cũ. Để giải quyết vấn đề này cần chính sách ban điều phối chung có nhiệm vụ dịch chuyển giá trị cơ sở sản xuất cũ để khấu trừ vào chi phí di chuyển. Đồng thời sử dụng cơ sở cũ vào mục tiêu kinh doanh thích hợp, ch1/4ng hạn xây dựng các khu chung cư cao tầng để bán.
2. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với
khu công nghiệp khu chế xuất:
Đây là việc làm cần thiết. Cần thực hiện tốt cơ chế một cửa giao quyền cho ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, cấp giấy phép xây dựng cơ bản và một số chức năng khác sao cho ban quản lý thực sự là người chủ, thực sự tự chủ và thực sự rạo ra động lực.
Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạ quản lý Nhà nước của ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh (quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất trên địa bàn, lãnh thổ) được mở rộng thêm một số nhiệm vụ quản lý thông qua việc thực hiện cơ chế uỷ quyền của các bộ, ngành trung ưng và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh như: cấp giấy phép đầu tư nước ngoài, xét duyệt kế hoạch và quản lý xuất nhập khẩu, cấp giấy chứng chỉ xuất xư hàng hoá, thực hiện một số chức năng về quản lý lao động... Một số nội dung quản lý thuộc lĩnh vực chuyên ngành như hải quan, công an, thuế vụ... Thực hiện theo phương thức đặt cơ quan đại diện đủ thẩm quyền giải quyết trực tiếp công việc tại từng khu công nghiệp, cụm khu công nghiệp. Xoá bỏ dần chế độ xét duyệt từng trường hợp cụ thể, đối với một số thủ tục có thể ban hành điều lệ mẫu theo đó ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh xây dựng và tổ chức thực hiện.
Các quy định chung về tổ chức cán bộ cũng đã được ban hành, tạo hành lan để các doanh nghiệp khu công nghiệp tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh, các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ cần giám sát và thực hiện các biện pháp chế tài khi ccs doanh nghiệp vi phạm các quy định mẫu và hướng dẫn chung đã nêu, hạn chế đến mức thấp nhất việc xét duyệt từng trường hợp một.
Đồng thời xoá bỏ những khác biệt trong đối xử giữa các dự án đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư trong nước sẽ khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đưa dự án vào các khu công nghiệp và khả năng "lấp đầy" các khu công nghiệp sẽ mau chóng được thực hiện bằng cách nhanh chóng triển khai Luật doanh nghiệp, trước hết là bãi bỏ 84 "giấy phép con", sẽ giảm nhẹ gánh nặng cho doanh nghiệp ĐTTN khi đưa các dự án vào khu công nghiệp.
3. Hoàn thiện và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, toạ môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển khu công nghiệp:
Xây dựng ban hành mới một số cơ chế chính sách còn thiếu, bổ sung sửa đổi một số chính sách đã có nhưng không còn phù hợp để tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hình thành "luật chơi" hoàn chỉnh cho hoạt động của các khu công nghiệp.
Từ phía chính sách, yếu tố chủ chốt gây nên thất bại hoặc sự nghèo nàn của khu công nghiệp, khu chế xuất là ban hành các chính sách cần thiết quá chậm nhiều các điều lệ, điều luật không thích hợp ảnh hưởng tới khu công nghiệp, khu chế xuất. Ví dụ như: thể thức thuế quan cứng nhắc, phiền hà, tốn thời gian. Do đó trong khu cần phải có chính sách hợp lý, quyền sở hữu phải được xác định rõ ràng và bảo hộ một cách đáng tin cậy, còn sự can thiệp và kiểm tra của luật pháp phải giảm tới mức tối thiểu, để tránh những chậm chễ vô lý hoặc đắt giá gây ra bởi chính quyền. Quyền thuê và thải công nhân với chi phí lao động thấp là đặc biệt quan trọng. Việc giao dịch giữa các công ty trong khu cần được để thực sự tự do, không có điều tiết.
Đối với chính sách khu chế xuất, khả năng tiếp cận nhanh chóng và chắc chắn với tư liệu sản xuất nhập khẩu với giá hạ có lẽ là yếu tố quan trọng nhất để tăng khả năng nhận được tư liệu sản xuất cần thiết và đúng lúc các công ty, nhằm đảm bảo thời hạn giao hàng và giảm thời gian chờ đợi và chi phí lưu kho, thứ chi phí có thể chiếm một phần đáng kể trong tổng chi phí sản xuất. Vì thế, việc cơ quan thuế quan giải phóng các tư liệu sản xuất nhập khẩu và hàng xuất khẩu nhanh chóng, với chi phí thấp là cực kì quan trọng. Chế độ nhập khẩu miễn thuế và không hạn chế đối với tư liệu sản xuất và thiết bị cũng có ý nghĩa quyết định. Ngoài ra còn phải có 1 chế độ chính sách đầu tư nước ngoài rõ ràng, cho phép thành lập xí nghiệp 100% sở hữu nước ngoài và đảm bảo việc chuyển lợi nhuận về nước và thanh toán nhanh chóng các nghĩa vụ bằng ngoại tệ.
Về mặt pháp lý thì khu công nghiệp nước ta chưa được thừa nhận là một thực thể kinh tế. Trong khi đó, hệ thống quốc tế cũng như các nước trong khu vực coi khu công nghiệp là một dạng của đơn vị kinh tế đặc biệt mà ở đó người ta áp dụng các quy định khác, quy định chung về kinh tế và hành chính nhằm có tốc độ phát triển nhanh khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn khu vực nhất định. Vị trí pháp lý của khu công nghiệp như là một đơn vị kinh tế chính là vấn đề mấu chốt nhất cần được luật hoá trong luật khu công nghiệp từ đó mới có thể thực hiện được việc quy đinh khác với quy định chung để phát huy đầy đủ thế mạnh của khu công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Có chính sách cơ chế huy động vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp - khu chế xuất, xác định rõ trách nhiệm của các đối tác có liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. Đặc biệt khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho họ làm quen với lĩnh vực kinh doanh có lợi này và tạo thêm việc làm.
Tuy nhiên cần quản lý chặt chẽ đối với liên doanh, nhất là việc kiểm soát gia vật tư, thiết bị nhập khẩu và phía Việt Nam phải "chia sẻ" lợi ích cũng như rủi ro với bên nước ngoài. Nếu tìm được các đối tác có năng lực tài chính và khả năng vận động đầu tư thì cần tận dụng thời cơ, không hạn chế thành lập liên doanh để đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp.
5. Cần có chính sách thuế đất hợp lý hơn, nên miễn tiền thuế đất hoặc chỉ thu tượng trưng với mức thấp nhất để phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Phải coi việc giải phóng mặt bằng để lập khu công nghiệp thuộc loại đất sử dụng vào mục đích công cộng vì lợi ích quốc gia thì mới có chính sách đền bù và giải toả nhanh.
Cho phép các doanh nghiệp thuê lại đất trong khu công nghiệp cũng có đầy đủ các quyền theo quy định của pháp luật, ít nhất phải có quyền chuyển nhượng để tạo điều kiện cho họ tiếp tục cho thuê lại mới thuận lợi cho việc thu hút đầu tư lấp đầy khu công nghiệp.
6. Cần có cơ chế chính sách tài chính và thuế hợp lý để thực sự khuyến khích hoạt động của các khu công nghiệp.
Muốn vậy phải nới lỏng việc sử dụng thị trường nội địa cho các khu công nghiệp tại Việt Nam sử dụng thị trường trong nước đối với những sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất nhưng kém hiệu quả và sức cạnh tranh. Song nên khuyến khích họ từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, hạn chế hình thức đơn thuần gia công để vừa đảm bảo chiến lược hướng về xuất khẩu nhưng cũng không coi nhẹ thị trường nội địa.
Có thể giảm thuế đối với các dự án đầu tư trong nước, và có thể gia thêm thời hạn miễn thuế đối với các dự án đầu tư trong nước để xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa dự án đầu tư nước ngoài và dự án đầu tư trong nước. Và tuỳ theo từng trường hợp việc miễn thuế có thể là toàn bộ hay từng phần và có thể kết hợp với các khuyến khích khác như: miễn trừ khấu hao hoặc trả sau, không hạn chế mức thua lỗ, giảm thuế cho các khoản lợi nhuận tái đầu tư.
Các khuyến khích về tài chính bao gồm việc miễn mọi chế độ quản lý về ngoại hối, đảm bảo cho chuyển về nước không hạn chế số lợi nhuận thu được... và một số các biện pháp khuyến khích khác như:
- Trợ cấp về thành tích xuất khẩu.
- Có trao giải thưởng hàng năm cho các công trình sáng tạo hoặc cải tiến sản phẩm .
- Trợ cấp khấu hao nhanh.
- Trợ cấp lãi suất vay tín dụng.
- Trợ cấp một phần chi phí cho tài sản cố định, chi phí đào tạo công nhân.
7. Đào tạo tay nghề công nhân cung ứng cho các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Tập trung đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ lao động đang chuẩn bị làm việc trong các khu công nghiệp - khu chế xuất vì vấn đề này đang là điểm yếu trong giáo dục - đào tạo của chúng ta, hiện nay sự khan hiếm lao động kỹ thuật đã bộc lỗ rõ ở nhiều tỉnh miền Đông nam Bộ nước ta, nơi có nhiều khu công nghiệp. Do vậy vấn đề lao động kỹ thuật và lao động quản lý phải là giải pháp cần được quan tâm trước hết. Tương lai thành công hay không thành côn phần lớn phụ thuộc vào đội ngũ những nhà lao động và những nhà quản lý này.
Do khu công nghiệp và khu chế xuất hầu hết đang ở giai đoạn xây dựng và hoàn thiện, mới chỉ có ít nhà máy nên số lương chưa cần nhiều nhưng những năm tới chắc chắn chúng ta phải cần tới một số lượng lớn.
Do đó chúng ta phải có một kế hoạch đào tạo sát thực với nhu cầu và đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư. Điều tất yếu không thể đào tạo một cách ồ ạt mà trung âm phải xuống tận nơi, phối hợp từng huyện xã để phát phiếu học nghề đăng ký theo trình độ. Nên đào tạo trình độ tiếng Anh, ôn tập văn hoá và đào tạo mọi người làm quen với tác phong công nghiệp.
Đào tạo công nhân về mặt kỉ luật lao động như đi làm đúng giờ, yên lặng và thói quen làm việc. Điều này, trước mắt là yêu cầu cần thiết để các xí nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất đạt được kết quả tốt trong sản xuất kinh doanh. Song về lâu dài nó góp phần vào việc hình thành tập quán và tâm lý lao động của nền công nghiệp hiện đại cho công nhân.
Các trung tâm huấn luyện tay nghề có thể được thành lập theo chuyên ngành: cơ khí, điện tử - công nghiệp may... Nguồn kinh phí để thành lập các trung tâm là nguồn việc trợ từ ODA, địa phương góp phần xây dựng đất xây dựng trường, một phần kinh phí đào tạo tuyển dụng của doanh nghiệp.
Một vấn đề quan trọng là học phí cho người lao động. Theo đánh giá của một lãnh đạo huyện ngoại thành Hà Nội, mức giá từ 700.000 - 800.000 đồng cho một lao động cộng cả xin việc là một con số quá cao so với đời sống và thu nhập của một gia đình nông dân hiện nay. Hiện trạng đó đòi hỏi phải có một chính sách đào tạo riêng cho người các địa phương tại những nơi đã phải nhường đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất.
8. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp,
khu chế xuất:
Các giải pháp ở trên về quy hoạch phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất, về hoàn thiện chính sách quản lý, đào tạo lực lượng lao động cho khu công nghiệp và khu chế xuất... nếu được thực hiện tốt thì nó sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Dưới đây là một số giải pháp bổ sung:
Trước hết cần thay đổi tư duy về khu công nghiệp. Nếu hiểu theo luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và Nghị định 36/CP về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất khu công nghệ cao thì "Khu công nghiệp là khu chuyển sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập". Nếu chỉ dừng lại ở khái niệm như vậy thì khu công nghiệp của ta là một túi đựng các doanh nghiệp công nghiệp. Trong khi đó, theo kinh nghiệm ở nhiều nước để khu công nghiệp thực sự trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp phục vụ các doanh nghiệp cần phát triển các khu dân cư, cơ sở khám chữa bệnh, trường học,... biến khu công nghiệp thành một khu kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, như một thành phố công nghiệp.
Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài các nước muốn tiếp nhận vốn đều phải tìm cách tạo môi trường đầu tư thuận lợi trong đó bao gồm cả môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện đi đôi với môi trường kinh doanh thuận lợi. Môi trường pháp lý lành mạnh, tiến bộ phù hợp với thông lệ quốc tế là một tiêu chí để nhà đầu tư lựa chọn quyết định đầu tư. Môi trường pháp lý đó phải có định hướng rõ ràng hỗ trợ có định hướng rõ ràng hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động ở nước sở tại một cách dễ dàng, thuận lợi nhất.
Về môi trường kinh doanh, chúng ta phải tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi trong đó bao gồm các yếu tố như kết cấu hạ tầng phải tương đối hiện đại, hệ thống luật pháp và tư pháp tốt, hệ thống thông tin và tư vấn tốt, hệ thống tài chính và tiền tệ ổn định, có hiệu quả, an ninh kinh tế và an toàn xã hội được đảm bảo
Phải có hình thức tuyên truyền vận động quảng cáo trên các phương tiện truyền thông để cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thấy rõ lợi ích và quyền lợi khi vào các khu công nghiệp hoạt động.
Những ý kiến trên có thể mới chỉ đề cập tới một vài khía cạnh của vấn đề. Muốn đẩy mạnh việc lấp đầy các khu công nghiệp hiện có cần tiến hành hàng loạt các biện pháp cấp bách trong đó điều quan trọng trước hết là phải tạo một số sân chơi bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cũng như giữa các nhà đầu tư trong nước thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Kết luận
Là một nước đi sau, trong việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư nước ngoài. Song với lợi thế là nước đi sau Việt Nam có điều kiện phân tích những bài học kinh nghiệm thành công và dặc biệt là cả những bài học không thành công của các nước đi trước để từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho việc hoạch định và thực thi một chiến lược đúng đắn về phát triển và quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất là một vấn đề mới ở Việt Nam, trong những năm qua chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể có ý nghĩa không nhỏ đối với qúa trình sử dụng phát triển đất nước, tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất còn chưa hiệu quả. Có thể nói bức tranh toàn cảnh của khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam còn nhiều mảng sáng, tối khác nhau nhưng suy cho cùn hiện tượng đó là khó tránh khỏi đối với một mô hình mới.Vấn đề đặt ra lúc này là trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng hiện nay và dự báo triển vọng những năm tới để đưa ra các giải pháp hợp lý từ đó phát huy được hiệu quả của loại hình kinh tế này.
Việc xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất suy cho cùng phải xuất phát từ mục đích tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào chương trình sản xuất hướng về xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới trong xu thế quốc tế hoá đời sống ngày càng mạnh mẽ. Số lượng, chất lượng, quy mô khu công nghiệp, khu chế xuất không thể tách rời mà ngược lại phải gắn bó với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như chiến phát triển kinh tế đề ra.
Xây dựng khu công nghiệp - khu chế xuất thành công sẽ trở thành mô hình kinh tế năng động có hiệu quả cao, đem lại nhiều triển vọng cho đất nước.
Tài liệu tham khảo
1. Các khu chế xuất Châu á - Thái Bình Dương và Việt Nam - Mai Ngọc Cường - NXB Thống kê-1995
2. Chiến lược phát triển khu công nghiệp tập trung - Viện chiến lược –
Bộ Kế hoạch đầu tư -1995
3. Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước - Khoa Khoa học
quản lý ĐHKTQD - NXB Khoa học kỹ thuật 1998
4. Khu công nghiệp khu chế xuất với cơ hội đầu tư vào Việt Nam –
Tạp chí kinh tế dự báo UBKHNN 12/1993)
5. Công báo số 35 ngày 30/12/1998
Quyết định số 989/QĐ-TTg chuẩn bị thành lập khu công nghệ cao - TPHCM
6. Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ về ban hành quy chế khu công nghiệp - khu chế xuất, khu công nghệ cao
7. Tạp chí thông tin khu công nghiệp (các số năm 1998, 1999)
8. Tạp chí "con số và sự kiện" (các số năm 1999) - Tổng cục Thống kê
9. Tạp chí "Kinh tế và dự báo" (các số năm 1998, 1999), Bộ Kế hoạch và đầu tư.
10. "Thời báo kinh tế Việt Nam" (các số năm 1999, 2000) Hội Kinh tế Việt Nam
11. Tạp chí "Nghiên cứu kinh tế" (các số năm 1998, 1999, 2000)
Viện kinh tế học
12. Tạp chí "Đầu tư" (các số năm 1998, 1999, 2000, Bộ Kế hoạch
và đầu tư.
13. Một số tư liệu lưu tại thư viện Trung tâm hợp tác nghiên cứu
Việt Nam (CVSC)
14. Công báo số 31/99-QĐ TTg về việc phê duyệt chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và KCN Việt Nam đến năm 2000.
15.Tham khảo “ Luận văn tốt nghiệp” của Khuất Quang Huy K37A- ĐHKTQD-HN.
16. Giáo trình “ Quản lý kinh tế " Chủ biên Đỗ Hoàng Toàn,Mai Văn Bưu- Khoa Khoa học quản lý - KTQD
17. Tạp chí “ Phát triển kinh tế "_ ĐHKTQD-HN (các số năm 1999, 2000).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0014.doc