CHƯƠNG 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
1.1. Những khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm về xúc tiến XK (XTXK)
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về XTXK. Có thể tạm chia
ra làm hai loại khái niệm về XTXK: khái niệm truyền thống (khái niệm hẹp) và khái niệm
hiện đại (khái niệm rộng).
1.1.1.1. Khái niệm truyền thống về XTXK
Cách tiếp cận này xem XTXK là một "P" của Marketing hỗn hợp, bao gồm sản
phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối (Place) và xúc tiến (Promotion). Đồ
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Chính phủ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thời, chủ
thể của hoạt động XTXK là DN trong mối tương quan với khách hàng. Một số khái niệm
tiêu biểu thuộc loại này:
1) Philip Kotler [1] "Xúc tiến là hoạt động thông tin tới khách hàng tiềm năng. Đó
là các hoạt động trao truyền, chuyển tải tới khách hàng những thông tin cần
thiết về DN, sản phẩm của DN, phương thức phục vụ và những lợi ích khác mà
khách hàng có thể thu được từ việc mua sản phẩm hay dịch vụ của DN cũng như
những thông tin phản hồi lại từ phía khách hàng để từ đó, DN tìm ra cách tốt nhất
nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng"
2) Theo Viện Nghiên cứu Thương mại [2], các nhà lý luận của các nước tư bản
quan niệm xúc tiến là hình thái quan hệ giữa người bán và người mua, là một
lĩnh vực hoạt động định hướng vào việc chào hàng một cách năng động và hiệu
quả nhất. Các nhà kinh tế học ở các nước Đông Âu thì cho rằng xúc tiến là một công
cụ, một chính sách thương mại nhằm làm năng động và gây ảnh hưởng định hướng
giữa người bán và người mua, là một hình thức hoạt động tuyên truyền nhằm mục tiêu
đạt được sự chú ý và chỉ ra những lợi ích của khách hàng tiềm năng về hàng hoá và
dịch vụ.
3) UNESCAP [3] cho rằng "Giống như xúc tiến thương mại, đó là những hoạt
động được thiết kế nhằm gia tăng kim ngạch XK của một DN hay một quốc gia.
Bao gồm việc tham gia hội chợ, khảo sát thị trường, các chiến dịch quảng
cáo…"
1
1.1.1.2. Khái niệm hiện đại về XTXK
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, bản chất của thương mại quốc tế cũng có
những biến đổi sâu sắc. Đi liền với những cơ hội mới là những thách thức lớn lao đòi hỏi
phải có những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa chính phủ và DN để thúc đẩy XK phát
triển. Điển hình là một số khái niệm sau :
1) Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) [4] quan niệm XTXK bao trùm cả tầm
vi
mô (DN) và vĩ mô (chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại) và cả trong
ngắn hạn lẫn dài hạn.
Trước mắt Dài hạn
DN Quá trình XK Phát triển kinh doanh XK
(Marketing XK) (Marketing quốc tế)
Chính phủ và các tổ chức XTXK Phát triển XK
hỗ trợ thương mại (TSIs)
Quan niệm này của ITC là rất rộng và chứa đựng tất cả các biện pháp nhằm phát triển XK
trên bình diện quốc gia. Có hai loại biện pháp là gián tiếp và trực tiếp. Các biện pháp gián
tiếp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao tính cạnh tranh bền vững cho DN
như cải thiện năng suất, chất lượng, cải cách hệ thống thuế, tài chính, hành chính, cơ sở hạ
tầng, giảm chi phí đầu vào ... Các biện pháp trực tiếp nhằm kích thích nhu cầu, bao gồm
nội dung XTXK truyền thống cùng với nỗ lực của chính phủ trong đàm phán hội nhập
kinh tế quốc tế.
2) G. Albaum, J. Strandskov và E. Duerr trong “Quản trị XK và Marketing quốc
tế” [5] quan niệm XTXK bao gồm các chính sách và chương trình do các tổ
chức của chính phủ thực hiện nhằm đẩy mạnh hoạt động XK. Các chương trình
này có thể được tài trợ và thực hiện một cách độc lập bởi chính phủ hoặc phối hợp giữa
chính phủ với các DN.
3) Định nghĩa của Todaro Micheal [6] "XTXK là những nỗ lực có chủ đích của
chính phủ nhằm gia tăng khối lượng XK của một quốc gia thông qua những
chính sách khích lệ và các biện pháp khác, qua đó thu được nhiều ngoại tệ để
cải thiện cán cân thanh toán quốc gia"
2
Tác giả hoàn toàn tán đồng quan điểm XTXK theo nghĩa rộng. Đó không còn là công việc
riêng lẻ của các DN nhưng phải có sự phối hợp giữa chính phủ, các tổ chức xúc tiến
chuyên nghiệp và cộng đồng DN. Do đó, tác giả quan niệm về XTXK như sau "XTXK là
những nỗ lực chung của cả quốc gia nhằm gia tăng kim ngạch XK của đất nước thông qua
các biện pháp kinh tế và phi kinh tế, nhờ đó thu được nhiều ngoại tệ hơn góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc gia"
1.1.2. Xúc tiến XK và xúc tiến thương mại (XTTM)
Ngày nay, thuật ngữ XTTM (trade promotion) phổ biến hơn so với XTXK (export
promotion) tuy trong hầu hết trường hợp, XTTM vẫn mang ý nghĩa của XTXK. Thực ra,
XTTM là một thuật ngữ bao hàm ba nội dung: XTXK, xúc tiến nhập khẩu và XTTM trên
thị trường nội địa. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát triển, XTTM thường được đồng
nhất với XTXK do tầm quan trọng của XK đối với phát triển kinh tế quốc gia.
e Kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc trong thập niên 50 ~ 60 của thế kỷ 20
và thực tiễn của các nước đang phát triển cho thấy XTTM cũng chính là XTXK.
Điều này được phản ánh một cách rõ rệt trong hoạt động XTTM của các quốc
gia này.
e Tài liệu huấn luyện về XTTM của UNESCAP cũng xem XTTM cũng là XTXK
[7].
e Diễn đàn “Định nghĩa lại XTTM”[8] do ITC khởi xướng vào năm 1999 nhấn
mạnh đến sự hợp tác giữa chính phủ, TSIs và cộng đồng DN đặt chiến lược XK
quốc gia là trọng tâm của hoạt động XTTM, đồng thời nhấn mạnh đến các giải
pháp về XTXK trong bối cảnh thương mại thế giới có nhiều biến động như hiện
nay.
Tại Việt Nam, nội dung của nhiều văn bản pháp luật quan trọng cũng thể hiện quan điểm
xem XTTM và XTXK là một.
e Chiến lược Phát triển Kinh tế - xã hội 2001 - 2010 nêu “Chủ động và tích cực
thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế
giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi
cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hoá phương thức kinh doanh phù
3
hợp với xu thế mới của thương mại thế giới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, XTTM,
thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan
đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế …”[9]
e Quan điểm của chính phủ “... . Công tác thị trường, XTTM có ý nghĩa rất quan
trọng, phải được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho
XK. Các chương trình XTTM, mở rộng thị trường cần được cụ thể hóa và gắn
với hoạt động đối ngoại, tranh thủ ngoại giao hỗ trợ việc ký kết các Hiệp định khung,
các Thỏa thuận và các Hợp đồng dài hạn có giá trị lớn với các quốc gia, các Tổ chức
quốc tế, các thị trường lớn để tạo đầu ra ổn định và từ đó có cơ sở cho đầu tư đổi mới
công nghệ, nâng cao giá trị nội địa hóa, giá trị gia tăng hàng XK…”[10]
Xét cho cùng, việc đồng nhất XTXK với XTTM cũng không trái với nguyên lý chung là
XTXK là một bộ phận của XTTM. Để diễn tả chính xác nội dung sự việc, tác giả vẫn sử
dụng thuật ngữ XTXK. Nhưng để tôn trọng nguyên tắc khách quan, tác giả sẽ giữ nguyên
cách sử dụng thuật ngữ XTTM của tài liệu được trích dẫn.
1.1.3. Xúc tiến XK và phát triển XK
Khái nịêm phát triển XK khác với XTXK ở chỗ phát triển XK nhắm đến việc sản xuất ra
các sản phẩm mới và/hoặc xâm nhập vào những thị trường mới. Mục tiêu của các hoạt
động phát triển XK là xác định các cơ hội đang có và khuyến khích sự phát triển của các
ngành công nghiệp mới hoặc đầu tư vào các thiết bị sản xuất mới nhằm thoả mãn những
như cầu mới của thị trường quốc tế.
Nói rộng hơn, phát triển XK cũng bao hàm vấn đề điều chỉnh sản phẩm, nghĩa
là sử dụng các thiết bị sản xuất có sẵn để sản xuất ra những sản phẩm mới thay vì chỉ sản
xuất những sản phẩm truyền thống nhằm xâm nhập các thị trường mới.
Khái niệm phát triển XK như thế đòi hỏi nhiều nỗ lực, tài lực và kiên trì hơn là XTXK
truyền thống. Điều này lý giải vì sao phát triển XK không phải lúc nào cũng được áp dụng
ở nhiều quốc gia.
1.1.4. Tầm quan trọng của xúc tiến XK
4
Có thể xem vai trò của XTXK cũng chính là vai trò của XK đối với nền kinh tế của một
quốc gia:
e Giúp gia tăng thị phần hàng hoá của quốc gia trên thị trường quốc tế.
e Tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao vị thế của sản phẩm XK trên thị trường
quốc tế.
e Lành mạnh hoá tình hình tài chính quốc gia, đảm bảo sự cân đối trong cán cân
thanh toán, giảm tình hình nhập siêu.
e Đảm bảo nguồn ngoại tệ mạnh, tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, phục vụ quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia.
e Tạo công ăn việc làm, cải thiện mức sống nhân dân.
e Khai thác các lợi thế tuyệt đối và tương đối của quốc gia, kích thích các ngành
kinh tế phát triển.
e Giúp phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các quốc gia trên thế giới. Như vậy,
XTXK không chỉ là một nhiệm vụ kinh tế thuần tuý nhưng thật sự là một yêu cầu cấp bách
và khách quan đối với tất cả các quốc gia đang phát triển hoặc đang trong giai đoạn
chuyển đổi kinh tế.
1.2. Phân loại xúc tiến XK
Có thể phân loại XTXK theo nội dung (thông tin, khảo sát thị trường, quảng cáo,
hội chợ, triển lãm …) hoặc chủ thể của hoạt động XTXK (DN, chính phủ, cơ quan
XTXK, các hiệp hội DN …) … Luận văn sẽ phân loại XTXK theo chủ thể của hoạt
động này.
1.2.1. Xúc tiến XK của DN
DN luôn phải giải quyết ba vấn đề quan trọng trong kinh doanh :
1) Có nên tham gia vào thị trường quốc tế không ? Điều này tuỳ thuộc tình hình
cạnh tranh trên thị trường nội địa; tình hình hội nhập kinh tế; các cơ hội mới trên
thị trường quốc tế; thông tin; vận tải …
2) Đâu là thị trường mục tiêu cho sản phẩm, dịch vụ của DN ? Đó có thể là một
quốc gia, một khu vực hoặc thị trường toàn cầu. Điều này phụ thuộc vào chiến
lược của DN.
5
3) Công ty sẽ xâm nhập thị trường mục tiêu bằng phương thức nào để đưa sản
phẩm, dịch vụ đến với người tiêu dùng ?
Dựa trên các thông tin kinh tế có độ tin cậy cao và kết quả khảo sát thị trường, các DN có
thể ra quyết định về chiến lược, chính sách phù hợp xâm nhập thị trường mục tiêu. Một
khi đã thành công, DN cần phải tiếp tục củng cố và mở rộng thị phần, phát triển kinh
doanh thông qua các chiến lược cụ thể.
Kinh nghiệm cho thấy đa số DN đều gặp khó khăn về thị trường và thông tin trong XK.
Hơn nữa, đối với các DNVVN, chi phí cho công tác XTXK là một vấn đề nan giải. Vì thế,
các DNVVN rất cần sự hỗ trợ từ các tổ chức XTXK.
1.2.2. Xúc tiến XK quốc gia
Hai chủ thể chịu trách nhiệm chính về XTXK ở tầm quốc gia là các tổ chức XTXK của
chính phủ và các hiệp hội DN.
e Các tổ chức XTXK chính phủ
Ngoài chức năng thiết lập một hành lang pháp lý thông suốt, một môi trường thuận lợi cho
hoạt động kinh tế, chính phủ còn thành lập các tổ chức XTXK nhằm hỗ trợ các DN trong
các hoạt động XTXK một cách hữu hiệu.
Các tổ chức XTXK chính phủ có tiềm lực vượt trội hơn so với DN, hiệp hội DN và
các tổ chức XTXK khác. Đó là cơ sở vật chất hiện đại, mạng lưới rộng khắp trong
và ngoài nước, kinh phí hoạt động lớn, nhân sự ưu tuyển và ưu thế chính trị trong
đối ngoại.
Các tổ chức XTXK chính phủ có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động XTXK
của quốc gia. Đặc biệt, các tổ chức này là chỗ dựa quan trọng cho các DNVVN trong
XTXK.
e Hiệp hội DN
Các hiệp hội DN cũng có vai trò to lớn trong các hoạt động XTXK của quốc gia. Hiệp hội
DN thường là các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, do các DN cùng ngành lập ra
nhằm bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động kinh doanh. Do đó, ưu điểm của
hiệp hội trong XTXK là dễ định hướng trong thu thập thông tin, có thị trường mục tiêu
chung, đối tượng phục vụ hẹp và tính chuyên môn cao.
1.2.3. Xúc tiến XK quốc tế
6
Hầu hết các quốc gia ngày này đều nỗ lực mở cửa thị trường, tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế vì những lợi ích to lớn do thương mại quốc tế mang lại. Các học thuyết lợi thế so
sánh của David Ricardo (1772 - 1823) và của E. Hecksher - B. Ohlin khẳng định thương
mại quốc tế có tính tất yếu khách quan và mang lại lợi ích cho mọi quốc gia, giàu cũng
như nghèo, tuy mức độ có khác nhau.
Chính vì thế, các tổ chức quốc tế ngày nay đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hoá
thương mại và đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Các nỗ lực XTXK của quốc tế được thực hiện
thông qua nhiều phương thức khác nhau:
1) Pháp chế hoá hoạt động thương mại quốc tế thông qua các cơ quan hàng đầu
như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO),
Phòng Thương mại Quốc tế (ICC)
2) Thúc đẩy các hoạt động nhằm thuận lợi hoá môi trường thương mại quốc tế
thông qua vai trò của các cơ quan như Tổ chức Hải quan Quốc tế (WCO), Tổ
chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO)
3) Hỗ trợ cơ chế đối thoại, các khu vực mậu dịch tự do nhằm thúc đẩy tiến trình hội
nhập thương mại quốc tế diễn ra nhanh hơn như Diễn đàn về Thương mại và
Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF),
Diễn dàn Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các khu vực mậu dịch tự do như
Asean, EU, Nafta.
4) Hỗ trợ các quốc gia kém phát triển về kỹ thuật XTTM thông qua Trung tâm
Thương mại quốc tế (ITC), về tài chính thông qua Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Ngân hàng Thế giới (WB)
Ngoài ra, còn có sự tham gia tích cực của nhiều tổ chức XTXK quốc tế khác. Tất cả đã
góp phần tích cực giúp thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng và vững chắc. Nếu
tổng giá trị hàng hoá thương mại thế giới của năm cơ sở 1948 (năm đầu tiên của Hiệp định
chung về Thuế quan và mậu dịch - GATT) chỉ là 58 tỷ USD thì đến năm 2002 vừa qua,
con số này đã lên đến 6.272 ngàn tỷ USD. Nghĩa là chỉ sau gần 50 năm theo đuổi tự do hoá
thương mại, giá trị thương mại quốc tế đã tăng hơn 100 lần. Ngoài ra, khi mới thành lập
các thành viên của GATT chỉ chiếm khoảng 60% giá trị thương mại quốc tế thì con số này
đã tăng lên đến hơn 90% vào năm 2002.
7
1.3. Các tổ chức XTXK chính phủ
1.3.1. Tại sao vai trò các tổ chức XTXK chính phủ ngày càng quan trọng ?
Lịch sử phát triển ngoại thương của nhiều nước cho thấy trước đây, các tổng công ty
thương mại (GTCs) của Nhật Bản như Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo .. hoặc "chaebols"
của Hàn Quốc như Samsung, Deawoo, Huyndai … đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động XK quốc gia.
Đối với các nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, các công ty thương mại nhà nước (STEs)
cũng có vai trò tương tự. Ở New Zealand và Canada, các STEs được tổ chức dưới hình
thức các ủy ban marketing cho từng loại sản phẩm như sữa, táo, lê, lúa mì ... Nhìn chung,
dù dưới hình thức nào, các GTCs hoặc STEs thường nhận được rất nhiều ưu đãi của chính
phủ so với các DN khác.
Tuy nhiên, môi trường luật thương mại quốc tế ngày nay có khuynh hướng đối xử
bình đẳng đối với mọi DN, đặc biệt khuyến khích sự vương lên của các DNVVN.
WTO đã có những quy định riêng về các GTCs để hạn chế sự lạm dụng vị thế của
nó. Dưới sức ép của WTO và tình hình cạnh tranh quốc tế, chính phủ các nước buộc
phải cải tổ lại các GTCs. Sự suy yếu của các GTCs có tác động gián tiếp đến XK
của quốc gia và của các DNVVN do trước đây họ thường XK thông qua các GTCs
này.
Trong bối cảnh đó, vai trò của các DN tư nhân và DNVVN trong XK đang ngày được đề
cao. Tuy nhiên, do các DN này còn thiếu kinh nghiệm và khả năng để tự làm XTXK, do
đó họ phải dựa vào các tổ chức XTXK chính phủ, hiệp hội dianh nghiệp và các tổ chức hỗ
trợ thương mại khác. Vì thế, vai trò của các tổ chức XTXK chính phủ sẽ ngày càng trở nên
quan trọng hơn.
1.3.2. Chức năng của các tổ chức XTXK chính phủ
Các tổ chức XTXK chính phủ có thể đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau tuỳ theo quốc
gia, tuy nhiên chức năng chính của họ vẫn là XTXK
1) Hỗ trợ tổng quát hoạt động XK quốc gia, hỗ trợ các DN xác định sản phẩm xuất
.khẩu và thị trường tiêu thụ, tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá thương
hiệu, giúp thuận lợi hoá thương mại và các hoạt động khác liên quan.
8
2) Lãnh đạo việc phối hợp soạn thảo, theo dõi thực hiện và điều chỉnh chiến lược
XK quốc gia, thiết kế các mối liên hệ chức năng nhằm thực hiện chiến lược hiệu
quả, tư vấn cho chính phủ về chính sách thương mại hiện hành và kiến nghị
những sửa đổi nếu cần thiết.
3) Hợp tác kinh tế với các cơ quan quốc tế, tổ chức các đoàn khảo sát thị trường,
hội chợ thương mại, triển lãm, trao đổi thông tin và tài liệu, hội thảo về các chủ
đề liên quan đến thương mại.
4) Phát triển XK, mục tiêu là phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới để XK cũng
như xâm nhập các thị trường mới.
5) Thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài. 6)
Hỗ trợ tín dụng XK.
7) Thuận lợi hoá thương mại, đặc biệt một số quốc gia xem việc thuận lợi hoá
thương mại cũng quan trọng không kém XTXK như Singapore
Ví dụ, Jetro (Nhật Bản) có các chức năng như sau : 1) Xúc tiến XK, 2) Xúc tiến nhập khẩu,
3) Xúc tiến đầu tư, 4) Xúc tiến chuyển giao công nghệ, 5) Thành lập và điều hành các tiện
ích hội chợ thương mại và 6) Chức năng nghiên cứu, đề xuất đường lối, chính sách
(think-tank).
Như vậy, chức năng của các tổ chức XTXK chính phủ phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế. Đối với các quốc gia đang phát triển thì XTXK luôn là ưu tiên quan trọng nhất.
Tuy nhiên, với các quốc gia đã phát triển như Nhật bản, ngoài XTXK họ còn nhấn mạnh
đến cả xúc tiến nhập khẩu nhằm giúp nền kinh tế phát triển cân đối.
1.3.3. Yêu cầu về mặt tổ chức của các cơ quan XTXK chính phủ
Các tổ chức XTXK chính phủ cần có một số các điều kiện sau về mặt cơ cấu tổ chức để
thành công trong hoạt động.
1) Có vị trí trong cơ cấu của chính phủ để sử dụng những phương tiện và quyền
hạn cần thiết nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao.
2) Tự chủ về quản lý các nguồn lực và tổ chức hoạt động. Nguồn lực phải được
đảm bảo tương xứng với chức năng được giao phó.
3) Có đại diện của cộng đồng DN tham gia điều hành. Nếu không, nhiệm vụ khó
thực hiện hiệu quả do thiếu sự hậu thuẫn của cộng đồng DN.
9
Tất cả các điều kiện trên đều quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn là quyền tự chủ và
ngân sách phải được đảm bảo để các tổ chức XTXK chính phủ có thể tự chủ hoàn toàn
trong hoạt động.
1.3.4. Vị trí của tổ chức XTXK trong bộ máy chính phủ
Qua khảo sát các tổ chức XTXK trên thế giới, UNESCAP đã khái quát như sau
1) 33% trong tổng số các tổ chức XTXK trực thuộc một bộ trong chính phủ. Tuy
nhiên, các tổ chức XTXK đó thường bị lệ thuộc vì nhiều ràng buộc khác nhau.
2) 10% trong tổng số các tổ chức XTXK độc lập hoàn toàn với chính phủ. Các tổ
chức XTXK này có quyền tự chủ cao trong hoạt động nhưng trong nhiều trường
hợp, họ lại thực hiện nhiều chức năng ngoài phạm vi của XTXK.
3) 7% trong tổng số các tổ chức XTXK là hoàn toàn do cộng đồng DN lập và điều
hành, có thể trực thuộc phòng thương mại hoặc hiệp hội DN. Số lượng các tổ
chức XTXK này ít vì khả năng tài trợ của các DN có hạn.
4) Phần còn lại (50%) là các tổ chức XTXK tuy vẫn do chính phủ thành lập và
được ngân sách tài trợ hoàn toàn nhưng có quyền tự chủ cao (tuy thực tế không
phải lúc nào họ cũng có quyền tự chủ hoàn toàn do thiếu kinh phí hoặc can thiệp
từ chính phủ). Đây được xem là mô hình tốt nhất hiện nay cho các tổ chức XTXK
chính phủ. Đa số các tổ chức thuộc loại này đều có mối quan hệ đặc biệt với một bộ
trong chính phủ, thường là bộ Thương Mại và/hoặc Bộ Công Nghiệp, cũng có khi là
bộ Ngoại thương, Ngoại giao hoặc Tài chính.
1.3.5. Cơ cấu tổ chức
Trong thực tế, không có một mô hình tổ chức lý tưởng duy nhất cho mọi cơ quan XTXK.
Cơ cấu này cần được điều chỉnh theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nhìn chung, một
tổ chức XTXK nên có các bộ phận quan trọng sau đây 1) Bộ phận phát triển sản phẩm
và thị trường, chịu trách nhiệm xác định,
nghiên cứu các sản phẩm có tiềm năng XK. Đây là nơi quy tụ những chuyên gia
về thị trường, thủ tục XNK và các quy định khác liên quan đến thị trường mục
tiêu. Họ tư vấn cho các DN cách xâm nhập thị trường mục tiêu.
2) Bộ phận thông tin thương mại là hạt nhân của tổ chức XTXK vì nó có nhiệm
vụ đáp ứng mọi yêu cầu của DN liên quan đến thông tin về thị trường XK. Nếu
10
bộ phận này có liên kết chặt chẽ với trung tâm thông tin quốc gia thì việc cung cấp chất
lượng chắc chắn là tốt hơn. Ví dụ : Phòng dịch vụ thông tin của Jetro hoặc Phòng
thông tin thương mại của Kotra.
3) Bộ phận nghiên cứu chuyên về môi trường pháp lý, điều kiện thương mại của
các quốc gia khác. Bộ phận này giám sát quá trình xâm nhập thị trường nước
ngoài và những tác động đến thương mại nước sở tại. Dựa vào đó, tổ chức
XTXK sẽ cố vấn cho chính phủ về chính sách xâm nhập thị trường nước ngoài. 4) Bộ
phận tư vấn cho cộng đồng DN về thủ tục thương mại, lưu thông,
marketing, chi phí, giá cả, chất lượng sản phẩm, tính tương thích của sản phẩm,
bao bì XK, chào hàng và các vấn đề pháp lý khác.
5) Bộ phận tổ chức khảo sát thị trường, hội chợ quốc tế, đảm nhiệm vấn đề hậu
cần cho các cuộc triển lãm và chuẩn bị tài liệu marketing và xuất bản.
6) Bộ phận xúc tiến đầu tư : Nếu tổ chức XTXK được giao cả nhiệm vụ thu hút
vốn đầu tư nước ngoài FDI. Ví dụ Phòng xúc tiến đầu tư của Kotra aøv Jetro.
7) Bộ phận đào tạo cho tổ chức XTXK và các DN XK. Tuy nhiên, theo
UNESCAP thì tốt hơn nên uỷ thác việc này cho một tổ chức chuyên môn độc
lập và chỉ đáp ứng những nhu cầu đào tạo đặc biệt. Ví dụ : Phòng phát triển
nhân lực của Kotra
8) Bộ phận quản trị về quản lý ngân sách, kế toán, nhân sự. Bộ phận này có thể
báo cáo trực tiếp cho cấp lãnh đạo cao nhất.
Cơ cấu tổ chức cũng không nên bất di bất dịch mà cần được xem xét lại hàng năm nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tế hoạt động XK tốt hơn.
1.3.6. Mạng lưới thương vụ ở nước ngoài
Đây là cánh tay nối dài hết sức quan trọng của tổ chức XTXK. Thương vụ có vai trò cung
cấp thông tin về thị trường nước sở tại, hỗ trợ các đoàn tham gia hội chợ, khảo sát thị
trường và theo dõi các chính sách thương mại của nước sở tại. Có nhiều hình thức tổ chức
thương vụ ở nước ngoài.
1) Nếu tổ chức XTXK chính phủ được tự chủ trong hoạt động thì nên trực tiếp thiết
lập, bổ nhiệm nhân sự và cấp ngân sách cho hệ thống thương vụ. Đây là cách
11
làm tốt nhất đảm bảo tổ chức XTXK có toàn quyền chỉ đạo và kiểm soát hoạt động của
thương vụ ở nước ngoài.
2) Nếu tổ chức XTXK là cơ quan trực thuộc một bộ trong chính phủ, họ cần phải
thiết lập một cơ chế hợp tác nhằm thông qua đó nối kết tổ chức XTXK, các cơ
quan khác thuộc bộ với hệ thống thương vụ ở nước ngoài một cách gián tiếp.
Đây chính là trường hợp của Vietrade hiện nay.
3) Nếu chưa có khả năng lập văn phòng thương vụ riêng thì nên thông qua bộ
Ngoại giao để bổ nhiệm một quan chức thuộc đại sứ quán hoặc lãnh sự quán làm
tham tán thương mại hỗ trợ cho tổ chức XTXK trong nước. Tương tự như ở trên,
điều quan trọng là phải thiết lập được kênh thông tin thông suốt giữa vị tham tán
thương mại này và tổ chức XTXK ở trong nước.
4) Với những thị trường mới, thay vì thành lập thương vụ, tổ chức XTXK có thể
thương lượng và bổ nhiệm một doanh nhân có uy tín của nước sỡ tại Đại diện
thương mại danh dự (Honorary Trade Representative - HTR). HTR phải là một
nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng đến việc phát triển thương mại song phương, có
khả năng tư vấn hoạt động thương mại và hỗ trợ các đoàn khảo sát thị trường. DEP của
Thái Lan có một số Honorary Trade Advisor (HTA) tương tự như thế.
Theo kinh nghiệm của các tổ chức XTXK, các thương vụ chỉ hoạt động hiệu quả khi có
các điều kiện sau
1) Tổ chức XTXK chính phủ phải hỗ trợ toàn diện hoạt động của thương vụ và
theo dõi kết quả hoạt động của họ. Phải có một bộ phận của tổ chức XTXK chịu
trách nhiệm hỗ trợ các thương vụ và liên kết thương vụ với các bộ phận khác
của tổ chức XTXK
12
Sơ đồ 1 - Mô hình tổ chức của một cơ quan XTXK
Cơ quan quản trị cao cấp
e Định hướng chiến lược e
Quyết định chính sách
Bộ phận hành chính,
tài chính và nhân sự
Bộ phận phát triển
thị trường, nghiên
cứu và tư vấn Bộ phận phát triển sản
phẩm, nghiên cứu công
nghiệp, các chương trình
XK
Bộ phận hoạch định và nghiên cứu
e Giám sát sự phát triển thương mại
quốc tế.
Bộ phận thương vụ ở
nước ngoài
Bộ phận thông tin
thương mại (TIS)
e Thu thập thông tin
thương mại.
e Phổ biến thông tin
qua các báo cáo,
ấn phẩm.
e Thư viện thông tin e
Yêu cầu thông tin
e Nghiên cứu và tư vấn về các vấn đề Bộ phận dịch vụ tư vấn
chính sách thương mại e Tư vấn về chính sách thương mại.
e Tìm kiếm nguồn tài trợ XK e
Đào tạo về quản trị XK
Nguồn : UNESCAP
2) Các tham tán thương mại cần phải được đào tạo tương xứng về mặt chuyên môn
nhằm hoàn thành tốt vai trò của họ, đồng thời cần phải hiểu biết tường tận về lợi
ích quốc gia trong mối quan hệ với thị trường mục tiêu.
3) Các tham tán thương mại phải về nước hàng năm (hoặc ít nhất hai năm một lần)
để báo cáo về những phát triển mới nhất trong hoạt động thương mại và duy trì
các quan hệ với cộng đồng DN và các cơ quan chính phủ liên quan với thị
trường mục tiêu. Chế độ bổ nhiệm tham tán thương mại phải có thời hạn với một cơ
chế luân chuyển nhằm khuyến khích họ nâng cao trình độ chuyên môn.
1.3.7. Cơ quan điều hành tổ chức XTXK
Cơ quan điều hành tổ chức XTXK có hai chức năng quan trọng: lãnh đạo tổ chức XTXK
và liên kết tổ chức XTXK với cộng đồng DN.
Tốt nhất nên có các đại diện của cả chính phủ lẫn các DN và các TSIs trong cơ quan điều
hành. Nếu cơ quan điều hành chỉ gồm toàn các quan chức chính phủ, hiệu quả hoạt động
của tổ chức XTXK thường kém hiệu quả do không nắm chắc nhu cầu
13
thực sự của DN. Ngược lại, nếu cơ quan điều hành chỉ gồm đại diện của giới DN, tổ chức
XTXK sẽ thiếu sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ trong hoạt động.
Theo Profiles of TPO do ITC xuất bản thì có rất ít tổ chức XTXK chính phủ chỉ có toàn
đại diện của chính phủ hoặc của giới DN trong cơ quan điều hành. Đa số trường hợp là có
đại diện của cả hai bên. Dĩ nhiên, cộng đồng DN sẽ có ưu thế hơn nếu các đại diện của họ
chiếm đa số trong cơ quan điều hành.
Đại diện chính phủ tham gia cơ quan điều hành có thể đến từ bộ Thương mại, bộ Công
nghiệp, bộ Tài chính hay Bộ Ngoại giao. Ngân hàng trung ương cũng nên có đại diện
trong cơ quan điều hành.
Nếu tổ chức XTXK trực thuộc một bộ trong chính phủ thì không có ban điều hành vì Bộ
trưởng hoặc vụ trưởng sẽ trực tiếp lãnh đạo tổ chức XTXK. Đây là trường hợp của
Vietrade hiện nay.
1.3.8. Ngân sách hoạt động
Ngân sách của tổ chức XTXK có thể từ nhiều nguồn khác nhau. Bản chất của ngân sách
có ảnh hưởng đến tính ổn định và hiệu quả của các chương trình XTXK Vì XTXK là dịch
vụ công nên chính phủ thường tài trợ phần lớn cho các hoạt động của tổ chức XTXK Tuy
nhiên ngân sách không phải là nguồn tài chính lý tưởng cho tổ chức XTXK chính phủ vì
những nhược điểm sau :
e Không phải lúc nào cũng có đủ ngân sách tài trợ cho mọi hoạt động.
e Ngân sách được phân bổ hàng năm và thường có biến động khá lớn. Do đó, tổ
chức XTXK sẽ gặp khó khăn khi thực hiện các chương trình trung hạn.
e Ngân sách thường bị cắt khi quốc gia gặp khó khăn (vì nhiều quốc gia đang phát
triển không xem XTXK là lĩnh vực cần được ưu tiên)
e Ngân sách được cấp thường kèm theo những ràng buộc về mặt quản lý, do đó vô
tình hạn chế tính tự chủ của tổ chức XTXK trong điều hành hoạt động.
Có thể tránh những bất lợi trên bằng cách đa dạng hoá nguồn ngân sách của tổ chức
XTXK. Một số giải pháp có thể bao gồm thu phí dịch vụ, trích từ thuế nhập khẩu, lệ phí
cấp quota, phí hải quan, phí phát hành chúng thư xuất xứ (C/O) hoặc tổ chức đấu thầu
quota ...
14
Cần thận trọng khi cho phép tổ chức XTXK chính phủ thu phí dịch vụ để tạo kinh phí.
Thường các dịch vụ này là hoàn toàn miễn phí tại các quốc gia đang phát triển. Vì thế thu
phí sẽ không khuyến khích các DNVVN sử dụng dịch vụ của tổ chức XTXK. Chỉ nên đặt
vấn đề thu phí sau khi chất lượng các dịch vụ được các DN đánh giá cao và các DN đã trở
thành những nhà XK chuyên nghiệp.
Hội phí cũng có thể đóng góp một phần ngân sách. Các DN thành viên sẵn sàng đóng hội
phí nếu họ được hưởng một số ưu đãi nào đó, như được nhận các ấn phẩm miễn phí và các
trợ giúp đặc biệt từ thương vụ nước ngoài.
Thu từ các chương trình hợp tác kỹ thuật quốc tế có thể là một nguồn quan trọng của tổ
chức XTXK ở các nước đang phát triển. Cần lưu ý là nguồn tài trợ này chỉ có với một số
hoạt động đặc biệt và chỉ nên xem là nguồn bổ sung, không phải là nguồn thay thế.
Tóm lại, tổ chức XTXK nên có nhiều nguồn thu ngoài ngân sách. Tuy nhiên, không phải
lúc nào các nguồn phụ thu này cũng khả thi nên chính phủ vẫn phải đảm bảo phần lớn kinh
phí hoạt động. Các nguồn thu khác chỉ nên xem là nguồn phụ. Chiến lược quản trị tốt nhất
của một tổ chức XTXK là phát triển một nguồn tài chính hỗn hợp để tránh bị phụ thuộc
vào một nguồn thu duy nhất.
1.4. Một số kinh nghiệm của các tổ chức XTXK nước ngoài
“Xúc tiến thương mại theo lối truyền thống đã không còn đủ để nâng cao tính cạnh tranh
quốc tế. Nếu chiến lược XK quốc gia chỉ xoay quanh những chương trình hành động nay
cũng không còn khả năng đáp ứng với những thách thức mà chúng ta đang đối mặt ...”
J. Denis Bélisle, Giám đốc điều hành ITC, Geneve
Những thay đổi liên tục và to lớn trong môi trường thương mại quốc tế đòi hỏi các nhà
hoạch định chiến lược của DN lẫn chính phủ cần phải đánh giá lại, và có thể phải định
nghĩa lại cách tiếp cận của họ về XTXK. Tác giả xin giới thiệu một số kinh nghiệm của
các tổ chức XTXK nước ngoài có thể áp dụng vào Việt Nam.
1.4.1. Các đặc điểm của một tổ chức XTXK thành công
1) Có tính chất của một cơ quan công lập lẫn tính chất của một hiệp hội DN. 2)
Nhân sự không bị lệ thuộc vào chính phủ.
15
3) Tài chính độc lập tương đối với ngân sách chính phủ, có sự đóng góp của các
DN nhằm trang trải một phần kinh phí hoạt động.
4) Chế độ đãi ngộ đặc biệt so với các cơ quan chính phủ để giữ chân được những
chuyên gia giỏi.
1.4.2. Nhu cầu ngắn hạn và dài hàn của các DN
Các DN thường yêu cầu tổ chức XTXK hỗ trợ về những nhu cầu ngắn hạn như thông tin;
hỗ trợ kinh phí hoặc các vấn đề nảy sinh từ thực tế. Họ ít quan tâm đến việc khắc phục
những nhược điểm quan trọng trong quản lý hoặc sản xuất vì bản thân nhiều DN vẫn chưa
ý thức được về những nhược điểm đó. Các tổ chức XTXK phải làm sao để vừa thoả mãn
các nhu cầu hiện tại đồng thời giúp họ khắc phục những nhược điểm để nâng cao tính
cạnh tranh.
1.4.3. Mục tiêu là nâng cao khả năng cạnh tranh toàn diện của DN
Cách mạng thông tin đã làm cho thương mại trực tuyến giữa các DN (B2._.B) phát triển
mạnh mẽ. Kết quả là các DN không chỉ cạnh tranh trên cơ sở giá và chất lượng mà còn
phải chịu sức ép về khả năng đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng. Thành công trên thị
trường quốc tế sẽ ngày càng phụ thuộc vào tính thích nghi, linh hoạt, thông tin nhanh nhạy
và đáp ứng nhanh của DN. Tóm lại, DN muốn tồn tại phải có khả năng cạnh tranh toàn
diện.
Do đó, tổ chức XTXK không nên chỉ quan tâm đến việc đẩy mạnh XK mà còn phải hỗ trợ
DN điều chỉnh để thích nghi tốt với môi trường kinh doanh đang thay đổi nhằm thoả mãn
yêu cầu cạnh tranh toàn diện.
1.4.4. Xác định đúng đối tượng phục vụ
Tổ chức XTXK phải xác định nhóm DN nào là đối tượng chính cần phải hướng đến. Đối
tượng phục vụ sẽ quyết định nội dung và quy mô chiến lược hoạt động của tổ chức
XTXK.
Nhóm X : Nhóm DN XK nhiều kinh nghiệm. Hiệu quả hỗ trợ là rất cao trong thời gian
ngắn. Đây là nhóm dễ được các tổ chức XTXK lựa chọn vì dễ thuyết phục chính phủ
duyệt chi ngân sách.
Nhóm Y : Nhóm DN có tiềm năng nhưng thiếu kinh nghiệm XK. Hiệu quả hỗ trợ sẽ
thấp hơn nhóm X và cần nhiều thời gian hơn. Nhu cầu hỗ trợ của nhóm Y cũng đa
16
Bảng 1 - Lựa chọn đối tượng phục vụ của tổ chức XTXK
Tiềm năng XK của DN
Thấp Trung bình Cao
Nhu cầu cần hỗ Thấp X
trợ từ tổ chức Trung bình Y Y
XTXK Cao Z Y Y
dạng và rất khác biệt so với nhóm X. Các tổ chức XTXK thường có khuynh hướng không
chú ý đến nhóm này. Nhưng xét theo quan điểm toàn diện, họ nên tập trung hỗ trợ nhóm Y.
Tuy nhiên do số DN nhóm Y rất nhiều, khó có khả năng phục vụ từng DN nên tốt nhất là
hỗ trợ thông qua hiệp hội doanh nghiệp hoặc theo nhóm liên quan (cluster), qua đó giúp
củng cố các mối liên hệ giữa các DN với nhau.
Nhóm Z : Nhóm DN có nhu cầu hỗ trợ rất lớn nhưng tiềm năng XK lại thấp. Về mặt logic
thì họ không có đủ điều kiện để được hỗ trợ. Trong thực tế các DN nhà nước thường rơi
vào nhóm này nên chính phủ vẫn dành ưu đãi cho họ vì nhiều lý do tuy hiệu quả hỗ trợ là
rất thấp..
1.4.5. Nâng cao năng lực sản xuất của các DN trung bình
Nếu chọn nhóm Y làm đối tượng phục vụ chính, tổ chức XTXK phải chú trọng nâng cao
năng lực sản xuất song song với phát triển thị trường XK.
Với các quốc gia đang phát triển, sản xuất kém thường là hạn chế lớn nhất trong hoạt động
XK. Các vấn đề thường gặp phải là nguồn nguyên liệu không ổn định; kỹ thuật sản xuất
lạc hậu; thiết kế nghèo nàn, chất lượng kém, năng lực sản xuất không đủ để đáp ứng các
đơn hàng dù nhỏ nhất … Kinh nghiệm cho thấy có rất ít chiến lược XK trực tiếp giải quyết
những khó khăn này cho DN. Do đó, phát triển sản xuất nội địa phải là một nội dung căn
bản của chiến lược XTXK của các quốc gia đang phát triển để hướng đến một khả năng
cạnh tranh toàn diện.
1.4.6. Cắt giảm chi phí kinh doanh
Nhất thiết phải cắt giảm các chi phí gián tiếp mà các DN phải gánh chịu khi tham gia XK
như điện thoại quốc tế, Internet, hải quan, kiểm định, vận tải, chứng chỉ chứng nhận chất
lượng ISO... Tổ chức XTXK cũng cần thiết kế các chương trình giúp cắt giảm đồng bộ
các chi phí liên quan đến đầu vào sản xuất thông qua đơn
17
giản hoá thủ tục và giảm chi phí trong lĩnh vực hành chính công, tài chính, ngân hàng...
1.4.7. Rút ngắn quá trình quốc tế hoá DN
Quá trình quốc tế hoá DN thường diễn ra lần lượt từ thấp đến cao, từ thị trường nội địa tiến
ra thị trường quốc tế, từ XK thử nghiệm cho đến XK chuyên nghiệp. Tuy nhiên, có thể
giúp các DN đi tắt trong quá trình này và đây phải là nhiệm vụ của các tổ chức XTXK
chính phủ. Phần Lan đã làm rất tốt công tác này. Họ đã quy tụ các DNVVN trong các
ngành công nghiệp hướng về XK và hỗ trợ các DN này tiến hành các hoạt động quốc tế
hoá ngay từ ban đầu, thay vì làm từng bước theo lối truyền thống là phát triển trên thị
trường nội địa rối mới từng bước XK.
1.4.8. Chú trọng phát triển các khách hàng lâu bền
Các nghiên cứu đều chứng minh rằng chi phí để tìm một khách hàng mới thường lớn gấp
ba lần chi phí để duy trì một khách hàng cũ. Điều này cho thấy chiến lược phát triển thị
trường cũng cần phải thay đổi. Thay vì giúp các nhà XK tìm khách hàng mới theo từng
hợp đồng riêng lẻ (spot business) như khuynh hướng của nhiều chương trình hỗ trợ hiện
nay, tổ chức XTXK nên hỗ trợ các DN xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, tập
trung vào các công ty đa quốc gia và các công ty khác phải dựa vào dịch vụ ngoài
(outsourcing) để duy trì hoạt động sản xuất của họ.
1.4.9. Kết hợp XTTM và xúc tiến đầu tư
Đối với nhiều nước đang phát triển, thu hút vốn FDI là con đường ngắn nhất để có năng
lực XK đạt tiêu chuẩn quốc tế, tiếp cận thị trường XK và có lợi thế cạnh tranh nhanh nhất.
Chủ tịch Hiroshi Yokokawa của Jetro lập luận "Thương mại và đầu tư ngày nay không
còn có thể tách rời trong kinh tế toàn cầu. Các tổ chức XTXK khó mà XTTM hiệu quả nếu
không quan tâm đến xu thế đầu tư toàn cầu... Ví dụ, FDI sẽ làm gia tăng sản lượng hàng
hoá của nước chủ nhà. Không thể kể hết những ví dụ chứng minh FDI đã góp phần lớn
vào XK ở các quốc gia đang phát triển. Nói tóm lại, thương mại và đầu tư là hai mặt
không thể tách rời và do đó, các biện pháp xúc tiến chung cả hai lĩnh vực này là phù hợp"
[11]. Đó là lý do Jetro, Kotra và các tổ chức XTXK đã kết hợp XTXK và xúc tiến đầu tư
trong hoạt động của họ.
1.4.10. Vai trò của tổ chức XTXK trong chiến lược XK quốc gia
18
Theo phân tích của ITC, có ba nguyên nhân chính làm hoạt động XTXK ở các quốc gia
đang phát triển kém hiệu quả là:
1) Thiếu một sự liên kết chặt chẽ giữa tổ chức XTXK và cộng đồng DN. Do đó,
hoạt động của tổ chức XTXK thường không đáp ứng những nhu cầu thiết thực
của giới DN.
2) Thiếu một sự liên kết chiến lược giữa tổ chức XTXK và các cơ quan TSIs.
Những mối liên kết này là cực kỳ cần thiết nhằm đảm bảo hỗ trợ tổng lực cho
cộng đồng DN. Các tổ chức XTXK thường chú trọng XTXK mà quên mất cần
phải cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh ở trong nước.
3) Tổ chức XTXK không có ảnh hưởng trực tiếp trên hệ thống thương vụ ở nước
ngoài.
4) Nhiều quốc gia sau khi đã đưa ra chiến lược XK thì mọi việc coi như chấm dứt. Để
khắc phục tình trạng này, ITC khuyến cáo tổ chức XTXK phải chủ động xây dựng cơ chế
liên kết giữa chính phủ, các TSIs và cộng đồng DN trong quá trình soạn thảo, thực hiện và
đánh giá chiến lược XK quốc gia. Trong đó, tổ chức XTXK (TPO) chính phủ phải đóng
vai trò trung tâm.
19
Sơ đồ 2 - Mạng lưới liên kết trong thực hiện chiến lược XK quốc gia
Nguồn : ITC (1999), Redefining trade promotion- The need for a strategy responses
Tóm lại, cộng đồng DN cần phải đóng một vai trò tích cực hơn trong quá trình hoạch định
chiến lược XK quốc gia. Đồng thời, tổ chức XTXK phải nỗ lực đáp ứng những nhu cầu
toàn diện của cộng đồng DN.
CHƯƠNG 2 - THỰC TRẠNG CÁC TỔ CHỨC XTXK CHÍNH PHỦ
2.
2.1. Khái quát
Việt Nam bắt đầu tiến hành cải cách kinh tế từ năm 1986, tuy nhiên hoạt động xúc tiến XK
(XTXK) của Việt Nam đến đầu thập niên 90 vẫn còn mang tính tự phát và tản mạn, vai trò
XTXK của chính phủ trong giai đoạn này còn chưa thể hiện rõ.
Ngày 18/11/1996, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết số 01-NQ/TW về mở rộng và nâng cao
hiệu quả kinh tế đối ngoại, yêu cầu chính phủ "Nghiên cứu thành lập trung tâm khuếch
trương thương mại để làm tốt công tác thúc đẩy XK và là đầu mối đặt quan hệ, trao đổi
kinh nghiệm với các tổ chức tương tự ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, có kế
hoạch cụ thể cho các tổ chức kinh tế của ta đặt VPĐD ở nước ngoài để nghiên cứu thị
trường, tìm đối tác XK".
Sau khi có chủ trương của Đảng, hoạt động XTXK đã phát triển nhanh chóng trong những
năm tiếp theo. Lần lượt các tổ chức XTXK của Việt Nam đã hình thành, bao gồm Cục
XTTM (Vietrade); các trung tâm XTTM địa phương; các hiệp hội ngành nghề; hệ thống
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, cùng với làn sóng đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam, các tổ chức XTXK nước ngoài, hiệp hội DN nước ngoài và hàng ngàn VPĐD
doanh nghiệp nước ngoài đã vào hoạt động tại Việt Nam. Như vậy, "phần cứng" hay bộ
khung của mạng lưới XTXK quốc gia xem như đã cơ bản thành hình.
Bên cạnh đó, "phần mềm" hay chiến lược, nội dung hoạt động và phối hợp giữa các tổ
chức XTXK nói trên vẫn còn đang bị các DN trong nước chỉ trích mạnh mẽ. Điều đó cho
thấy hoạt động của các tổ chức XTXK vẫn chưa đi sát với nhu cầu thực tiễn và còn phải
cải thiện nhiều mặt.
Tuy nhiên, điều quan trọng là nhận thức về vai trò của XTXK đã được khẳng định ở cả ba
cấp: chính phủ, các tổ chức XTXK và cộng đồng DN.
2.2. Chiến lược, luật và các chính sách chi phối hoạt động XTXK
2.2.1. Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001 - 2010
21
Chiến lược phát triển XNK giai đoạn 2001-2010 được chính phủ xây dựng nhằm cụ thể
hoá những định hướng nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX thông qua.
Chiến lược đã định hướng nội dung cơ bản của công tác XK giai đoạn này là nỗ lực gia
tăng tốc độ tăng trưởng XK, chuyển dịch cơ cấu XK theo hướng nâng cao giá trị gia tăng,
gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao,
thúc đẩy XK dịch vụ ... mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh,
hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Chiến lược đã đề ra các chỉ tiêu XK cụ
thể như sau:
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2010
Tăng trưởng XK hàng hoá và dịch vụ Bình quân 15%/năm
Kim ngạch XK hàng hoá 13,5 tỷ USD 54,6 tỷ USD
Kim ngạch XK dịch vụ 2 tỷ USD 8,1 tỷ 2010
2.2.2. Luật và các chính sách
Luật và các chính sách quan trọng liên quan đến XTXK giai đoạn 1999 ~ 2004 được tóm
tắt và trình bày theo trình tự thời gian trong phụ lục 3 của luận văn.
2.3. Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ
Mạng lưới các tổ chức XTXK chính phủ của Việt Nam bao gồm : e
Cục XTTM (Vietrade) trực thuộc Bộ Thương mại.
e Cơ quan hỗ trợ XTXK thuộc một số bộ, ngành.
e Trung tâm/phòng XTTM địa phương.
e Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
e Trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài.
2.3.1. Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade)
2.3.1.1. Lịch sử hình thành
Tiền thân của Vietrade là Ban XTTM của Bộ Thương mại được thành lập vào tháng
12/1998. Sau đó, Thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 78/2000/QĐ-TTg ký ngày
10/08/2000 chính thức thành lập Cục XTTM trực thuộc Bộ Thương mại. Vietrade là tổ
chức XTXK quốc gia, có vị trí tương tự các tổ chức IE Singapore, DEP (Thailand),
Matrade (Malaysia), Jetro (Nhật Bản), Kotra (Hàn Quốc) ...
2.3.1.2. Nhiệm vụ và tổ chức
22
Nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Vietrade được Bộ TM quy định tại
Quyết định 1116/2000/QĐ-BTM ngày 10/08/2000. Nhiệm vụ của Vietrade có thể được
tóm tắt trong các lĩnh vực sau:
e Quản lý nhà nước : Quản lý, hỗ trợ, hướng dẫn và giám sát các hoạt động
XTTM theo Luật Thương mại; kiến nghị về chính sách, biện pháp hỗ trợ DN;
Hỗ trợ và hướng dẫn các tổ chức XTTM trong nước tổ chức các hoạt động
XTTM, xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động XTTM. e Hỗ
trợ DN : Cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh, thực hiện các dự án hỗ trợ
kỹ thuật phục vụ DN, hỗ trợ DN tìm kiếm đối tác, tổ chức hội chợ triển lãm ở
nước ngoài, thực hiện chương trình truyền hình thương mại, Đào tạo kỹ năng tổ
chức các họat động XTTM và phát triển thương mại điện tử.
e Quan hệ quốc tế : Hỗ trợ các DN nước ngoài phát triển kinh doanh tại Việt
Nam và hợp tác quốc tế về phát triển thương mại.
e Cơ cấu tổ chức :
Bộ Thương Mại
Ban Tư Vấn
VIETRADE
Cục Trưởng
Bộ phận XTTM và hỗ trợ DN
Phòng Hợp tác quốc tế
Phòng E-Commerce và Thông tin
Phòng Hành chính Tổng hợp
Nguồn : Vietrade (2003), Vietnam Exports
2.3.1.3. Kinh phí hoạt động
Văn phòng đại diện trong nước
Văn phòng đại diện và Trung tâm
Thương mại nước ngoài
Các dự án hỗ trợ XK và các tổ chức
liên quan
Căn cứ vào tài liệu hoạt động sự nghiệp năm 2003 và 2004 của Vietrade, tác giả đã thống
kê được kinh phí hoạt động của Vietrade theo các nội dung chính như sau:
23
Bảng 2 : Kinh phí hoạt động sự nghiệp của Vietrade 2003 ~ 2004
Đơn vị : Triệu đồng
STT Nội dung hoạt động 2003 2004
1 Biên tập, phát hành ấn phẩm, thông tin, quảng bá 2.161,5 693,0
2 Đào tạo, tập huấn, hội nghị tại Việt Nam 703,5 404,0
3 Khảo sát thị trường, hội chợ, triển lãm, hội nghị ... 631,3 1.205,5
4 Triển lãm, toạ đàm, giao dịch thương mại tại Việt Nam 518,0 400,5
5 Chương trình, hoạt động khác 1.985,1 2.100,0
6 Truyền hình thương mại - 90,0
7 Công nghệ thông tin - Thương mại điện tử - 1.107,0
Tổng cộng 6,000.0 6,000.0
Nguồn : Vietrade
2.3.2. Các tổ chức XTTM thuộc các bộ, ngành khác
2.3.2.1. Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng)
Đây là cơ quan nổi bật nhất trong số các tổ chức XTTM của các bộ, ngành. Đối
tượng phục vụ chủ yếu của Cục Kinh tế (Bộ Quốc phòng) là các DN quân đội . Cục
Kinh tế đã tham gia rất tích cực các chương trình XTTM trọng điểm trong các năm
2003 và 2004. Nhờ những hoạt động XTTM này, Cục Kinh tế đã giúp các DN quân
đội "mở một cánh cửa ra thế giới để các DN quân đội (vốn xưa nay đóng kín) giới
thiệu mình với các đối tác và tạo điều kiện cho đối tác tiếp cận nhanh nhất đến DN
quân đội"[12]
2.3.2.2. XTTM ở các bộ, ngành khác
Hầu hết các bộ như Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ... đều có các bộ phận chuyên trách hỗ trợ các DN trực
thuộc về chính sách, khuyến khích XK. Đó có thể là các vụ chức năng, viện nghiên cứu,
các trung tâm thông tin, trường đào tạo, báo chí chuyên ngành ...hỗ trợ công tác quản lý,
phát triển sản xuất, kinh doanh.
2.3.3. Trung tâm /Phòng XTTM địa phương.
Hiện nay, toàn quốc đã có 59 Trung tâm/Phòng XTTM tại 58 tỉnh và thành phố. Danh
sách các đơn vị này được trình bày trong phần phụ lục 5.
2.3.3.1. Tình hình chung [13]
24
Tính đến tháng 9/2004, ngoài 6 tỉnh chưa có tổ chức XTTM là Hà Giang, Lai Châu, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Dak Nông và Trà Vinh, đa số các địa phương còn lại đều đã thành lập
xong tổ chức XTTM. Tuy nhiên, còn có sự khác biệt về mô hình tổ chức và quản lý các
trung tâm này giữa các địa phương như sau :
e 30 trung tâm XTTM thuộc sở Thương mại.
e 21 phòng XTTM thuộc Sở Thương mại.
e 5 trung tâm XTTM thuộc UBND.
e 2 trung tâm XTTM thuộc Sở Kế hoạch -Đầu tư.
e 1 trung tâm XTTM thuộc văn phòng UBND.
Về chức năng nhiệm vụ, phần lớn các trung tâm XTTM địa phương chỉ tập trung quản lý
và hỗ trợ các hoạt động XTTM nội địa, bên cạnh đó cũng có địa phương giao thêm cả
chức năng xúc tiến đầu tư và du lịch. Tp. HCM, Hà Nội và Bình Định vừa có Trung tâm
XTTM thuộc UBND lẫn Phòng XTTM thuộc Sở Thương mại. Về mặt quản lý nhà nước,
Vietrade được phân công quản lý theo ngành dọc đối với các trung tâm XTTM thuộc Sở
Thương mại.
Trong số các tổ chức XTTM địa phương, chỉ có một số rất ít là có hoạt động XTXK thực
sự. Trong số các tổ chức này, Trung tâm XTTM & Đầu tư (ITPC) của Tp. HCM là đơn vị
có hoạt động XTXK điển hình, có ảnh hưởng tích cực không chỉ đối với Tp. HCM mà còn
với các địa phương lân cận.
2.3.3.2. Trung tâm XTTM và Đầu tư (ITPC) Tp. Hồ Chí Minh
ITPC là cơ quan trực thuộc UBND Tp. HCM. Tiền thân của ITPC là Trung tâm Khuếch
trương Xuất cảng Sài Gòn được thành lập vào ngày 28/11/1964. Ngày 01/11/2001,
UBND Tp. HCM ra quyết định số 104/2001/QĐ-UB thành lập ITPC. Ngày 17/01/2002,
UBND Tp. HCM ra quyết định số 04/2002/QĐ-UB về việc ban hành Quy chế tổ chức và
hoạt động của ITPC. Như vậy, ITPC thực sự là tổ chức XTTM lâu đời nhất của Việt Nam.
So với Vietrade, vị trí và chức năng của ITPC có những khác biệt đáng lưu ý sau:
e Chức năng : ITPC là cơ quan chuyên trách về cả XTTM lẫn xúc tiến đầu tư của
Tp. HCM.
25
e Cơ chế quản lý : Trung tâm chịu sự chỉ đạo trực tiếp và toàn diện của UBND
thành phố, Trung tâm có trách nhiệm báo cáo các mặt hoạt động của Trung tâm
cho UBND thành phố.
e Nhân sự : Ban giám đốc ITPC do chủ tịch UBND thành phố bổ nhiệm, miễn
nhiệm. Ngoài chỉ tiêu biên chế được giao, ITPC được tuyển dụng thêm chuyên
viên, cộng tác viên và trả lương từ nguồn thu hợp pháp của Trung tâm. Trung
tâm được sử dụng một phần doanh thu từ các hoạt động có thu để thêm thu nhập cho số
cán bộ, công chức của cơ quan.
e Kinh phí hoạt động : ITPC là đơn vị sự nghiệp có thu, hạch toán theo phương
thức gán thu bù chi. ITPC được ngân sách hỗ trợ một phần theo kế hoạch được
duyệt. Phần còn lại, ITPC được phép thu từ các dịch vụ khác. Ngân sách của
ITPC gồm 3 phần :
o Kinh phí hỗ trợ của ngân sách thành phố.
o Thu từ các hoạt động dịch vụ gắn với chức năng, nhiệm vụ chuyên môn.
o Vốn vay, vốn hợp tác, vốn viện trợ từ các tổ chức quốc tế và trong nước.
2.3.4. Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài
Thương vụ là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Thương mại. Với quyết định thành lập thêm
13 thương vụ trong hai năm 2004-2005, Việt Nam sẽ có tất cả 55 cơ quan thương vụ hoạt
động tại hải ngoại. [14]
2.3.4.1. Nhiệm vụ
Quyết định 0251/QĐ-BTM của Bộ Thương mại đã quy định nhiệm vụ của các Thương vụ
như sau:
e Hỗ trợ công tác XK hàng Việt Nam vào thị trường nước sở tại : e Thu thập, phân
tích, xử lý thông tin về thị trường, chính sách của nước sở tại e Tìm hiểu nhu cầu
nhập khẩu của nước sở tại.
e Lập phòng giới thiệu hàng mẫu, cataloges, hồ sơ khách hàng e Trả lời
nhanh chóng, đầy đủ, cụ thể các yêu cầu của DN trong nước. e Hỗ trợ các
DN Việt Nam sang hoạt động xúc tiến tại nước sở tại. e Đại diện cho quyền
lợi thương mại của Việt Nam ở nước sở tại
2.3.4.2. Một số quy định quan trọng [15]
26
e Tham tán thương mại chịu trách nhiệm thực hiện quản lý và sự chỉ đạo trực tiếp
của Bộ trưởng Bộ Thương mại về chuyên môn, nghiệp vụ, định hướng phát triển
thị trường, mặt hàng XK của Việt nam vào nước sở tại đồng thời chịu sự chỉ đạo
về mặt chính trị và quản lý của đại sứ Việt nam ở nước sở tại.
e Trường hợp hai năm liên tục mà kim ngạch XK vào thị trường nước sở tại
không tăng trưởng, Bộ TM sẽ xem xét để quyết định vệc duy trì hoặc không duy
trì thương vụ hoặc thay đổi Tham tán thương mại.
2.3.5. Trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam (TT-GTSPVN) ở nước ngoài
TT-GTSPVN ở nước ngoài là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Vietrade. Các trung tâm
này có chức năng triển khai hoạt động XTTM và hỗ trợ DN Việt Nam phát triển XK theo
quy định. Đến nay, Việt Nam đã thành lập hai TT-GTSPVN tại New York (Hoa Kỳ) và
Dubai (UAE).
2.3.5.1. TT-GTSPVN tại New York
Ngày 20/5/2004, Bộ Thương mại đã khánh thành TT-GTSPVN tại New York. Trung tâm
này đặt tại tầng 6, tòa nhà West 26th Street, New York với diện tích trên 300m2 bao gồm
khu trưng bày giới thiệu sản phẩm và khu văn phòng làm việc của doanh nghiệp được
trang bị phương tiện làm việc theo tiêu chuẩn Mỹ, để các DN sử dụng với chi phí thấp.
Hiện tại có gần 100 DN tham gia gửi catalogues, hàng mẫu trưng bày và đăng ký sử dụng
VPĐD. Các DN này được coi là thành viên và được Trung tâm hỗ trợ trong các hoạt động
XTTM. Trung tâm đã lựa chọn và đang mời các DN tham gia một số hội chợ quan trọng,
tiêu biểu cho các ngành hàng của Việt Nam trong các tháng cuối năm 2004 và năm 2005,
kết hợp tổ chức hội thảo, trưng bày và gặp gỡ khách hàng ngay tại văn phòng Trung tâm.
TTTM Việt Nam tại New York mới khai trương nên các hoạt động trên mới chỉ ở giai
đoạn đầu và vừa làm vừa thử nghiệm.
2.3.5.2. TT-GTSPVN tại Dubai (UAE)
TT-GTSPVN tại Dubai (UAE), được Bộ Thương mại khai trương ngày 12/07/2004 nhằm
hỗ trợ các DN giới thiệu sản phẩm tại thị trường UAE. Dubai cũng là cửa ngõ để Việt
Nam xâm nhập vào khu vực Arập, Bắc Phi, Nam Âu và Trung Á
27
TT-GTSPVN tại Dubai có 4 nhiệm vụ chính: quảng bá hình ảnh quốc gia và thương hiệu
sản phẩm Việt Nam; cung cấp thông tin và hướng dẫn các DN nước ngoài kinh doanh
thương mại, đầu tư và du lịch với Việt Nam; hỗ trợ các DN Việt Nam tìm kiếm đối tác...
TT-GTSPVN tại Dubai có diện tích trên 300 m2 bao gồm khu trưng bày giới thiệu sản
phẩm và khu VPĐD của DN.
2.3.5.3. Điều kiện tham gia các TT-GTSPVN
DN Việt Nam có thể tham gia các TT-GTSPVN theo 3 hình thức
(1) Gửi catalogue, đơn chào hàng và ủy thác cho TT trưng bày, giới thiệu, giao dịch
(2) Đăng ký sử dụng một diện tích nhất định tại TT để trưng bày hàng
(3) Thuê diện tích và cử cán bộ làm việc thường xuyên tại TT.
DN không cần đặt cọc nếu tham gia theo hình thức (1) nhưng phải đặt cọc một số tiền nhất
định nếu đăng ký tham gia theo hình thức (2) và (3).
Năm đầu tiên, các DN được Nhà nước tài trợ 100% tiền thuê diện tích trưng bày. Năm thứ
hai và ba, Nhà nước sẽ hỗ trợ 1/3 chi phí. Từ năm thứ 4, DN chịu hoàn toàn chi phí. Theo
dự kiến, có thể Bộ Thương mại sẽ mở tiếp TT-GTSPVN tại Nga.
2.4. Những thành tựu cơ bản của các tổ chức XTXK chính phủ
Để đánh giá những thành tựu (cũng như những hạn chế nhu sẽ trình bày trong phần
2.5), tác giả đã dựa vào cả nguồn dữ liệu thứ cấp lẫn những thông tin từ kết quả khảo sát
một số doanh nghiệp. Nôi dung các câu hỏi khảo sát và danh sách các doanh nghiệp trả lời
được trình bày trong phần phụ lục. Trong phần đánh giá thành tựu và hạn chế sau đây, tác
giả chỉ xin đưa ra kết quả thăm dò đã qua xử lý. Ngoài ra, tác giả chỉ xem xét đánh giá hoạt
động của hai tổ chức tiêu biểu là Vietrade và ITPC vì đây là các tổ chức XTXK chính phủ
mạnh nhất hiện nay.
Nhìn chung trong những năm qua, các tổ chức XTXK chính phủ đã đạt được những kết
quả nhất định như sau:
2.4.1. Góp phần làm thay đổi nhận thức của xã hội về vai trò của XTXK
Hoạt động của các tổ chức XTXK chính phủ đã tác động tích cực và góp phần làm thay
đổi cái nhìn của Chính phủ, các DN và xã hội về tầm quan trọng của XTXK.
28
DN quan niệm về vị trí của XTXK
Rất quan
trọng
69%
Cực kỳ
quan trọng
Khá quan 21%
Lý do DN tham gia hoạt động XTXK
do các tổ chức XTXK Chính phủ chủ trì
Được bảo vệ quyền 45%
lợi
Tăng uy tín cho 62%
doanh nghiệp
72%
Được hỗ trợ kinh phí
Cơ hội tiếp cận các 79%
dịch vụ khác
trọng Mở rộng quan hệ 90%
10% kinh doanh
0% 20% 40% 60% 80% 100%
Nguồn: Phiếu thăm dò DN
Doanh nhân vốn là những người hết sức nhạy bén với thị trường nên họ rất coi trọng
XTXK. Kết quả khảo sát cho thấy có đến 21% DN được hỏi xem XTXK là cực kỳ quan
trọng, 69% xem là rất quan trọng, chỉ có 10% cho rằng XTXK có vai trò khá quan trọng.
Đồng thời, họ cũng cho biết tại sao lại tham gia vào những hoạt động của các tổ chức
XTXK chính phủ. Mỗi DN có thể có nhiều lý do khác nhau khi tham gia. Trong đó, mở
rộng kinh doanh là lý do quan trọng nhất (90%), kế tiếp là hy vọng tiếp cận các dịch vụ
khác của các tổ chức XTXK chính phủ (79%), được hỗ trợ kinh phí cũng chiếm tỷ lệ khá
cao (72%), các lý do khác là giúp tăng uy tín cho DN (62%) và được bảo vệ quyền lợi tốt
hơn là thực hiện xúc tiến riêng rẽ (45%).
Phía chính phủ cũng đã có những động thái thể hiện có đổi mới tư duy về XTXK. Sự kiện
các DN Việt Nam được phép tháp tùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đi công du ở
nước ngoài đã trở thành thông lệ. Ngoại giao đã chuyển dần sang giai đoạn phục vụ lợi ích
kinh tế. Có thể còn phải mất một thời gian nữa chúng ta mới có các vị lãnh đạo cao cấp
xuất hiện để quảng cáo cho quốc gia (như Tổng thống Roh Moo-Hyun quảng cáo cho du
lịch Hàn Quốc trên CNN) hoặc tiếp thị món khoai tây chiên tận bàn tại Tp. HCM (như
Thống đốc Gary Locke của bang Washingston, Hoa Kỳ) nhưng những biến chuyển trong
thời gian vừa qua là rất đáng ghi nhận.
Phó Thủ tướng Vũ Khoan phát biểu tại Hội nghị XTTM toàn quốc 2004 "... . Trong mấy
năm gần đây, các cơ quan quản lý Nhà nước, DN đã có chuyển biến nhận thức tốt trên 3
vấn đề. Thứ nhất, trước đây hiểu sản xuất là quyết định thì nay đã biết tiêu thụ còn quan
trọng hơn cả sản xuất. Thứ hai là chuyển từ có cái gì thì bán cái
29
đó nay là bán cái gì thị trường cần. Thứ ba là từ chỗ làm ra, ai cần thì đến mua nay muốn
bán được hàng phải đi "rao", tức là XTTM"
Nguồn : Báo Thương mại, 21/09/2004
Tóm lại, cả chính phủ lẫn DN nay đã nhận ra tầm quan trọng của XTXK. Vấn đề còn lại là
phối hợp như thế nào để chuyển từ nhận thức thành các chương trình XTXK một cách
hiệu quả.
2.4.2. Mạng lưới XTXK quốc gia đã hình thành
Chỉ sau ba năm kể từ khi Vietrade được thành lập, Việt Nam nay đã có được một
mạng lưới XTXK chính phủ tương đối hoàn chỉnh. Bao gồm cơ quan XTXK trung
ương (Vietrade); các trung tâm XTTM địa phương và thương vụ ở hải ngoại. Bên
cạnh các tổ chức XTXK chính phủ, còn có VCCI và hơn 200 hiệp hội DN cũng
đang tích cực hỗ trợ các DN XTXK. Một số DN tư nhân cũng nhạy bén cung cấp
các dịch vụ XTXK như thông tin, môi giới thương mại, tổ chức hội chợ, triển lãm ...
Riêng ITPC đã có kế hoạch mở VPĐD tại San Francisco (Hoa Kỳ), Cao Hùng (Đài
Loan), Đức, Singapore, Campuchia, Lào và Vân Nam (Côn Minh) ..
Ngoài những tổ chức XTXK của Việt Nam, mạng lưới các VPĐD và các DN nước
ngoài đang hoạt động tại Việt Nam cũng có những tác động tích cực đến XTXK
quốc gia. Du lịch cũng là kênh XTXK hiệu quả. Nhiều sản phẩm của Việt Nam đã
được XK qua đường du lịch. Điển hình là làn sóng khách du lịch Nhật Bản đến Việt
Nam mua hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian qua. Đó cũng là một minh chứng
sống động cho sự gắn kết chặt chẽ giữa thương mại, đầu tư và du lịch trong bối
cảnh toàn cầu hoá ngày nay.
2.4.3. Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia
Một trong những khó khăn của các DN trong XTXK là vấn đề kinh phí. Thật vậy, theo kết
quả khảo sát DN của tác giả thì khó khăn về kinh phí đứng vị trí thứ hai (62%) chỉ sau
thông tin (76%). Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia ra đời nhằm hỗ trợ một phần
kinh phí quan trọng cho các DN.
Cơ sở thực hiện chương trình XTTM trọng điểm quốc gia là Thông tư 86/2002/TTBTC
ngày 27/9/2002 của Bộ Tài Chính. Theo đó, hàng năm Nhà nước sẽ trích
30
Doanh nghiệp gặp khó khăn gì trong XTXK ?
Thiếu trợ giúp về kỹ thuật 28%
Thiếu nhân sự 38%
Thiếu kinh nghiệm 45%
Thiếu kinh phí 62%
Thiếu thông tin 76%
0% 20% 40% 60% 80%
Nguồn: Phiếu thăm dò DN
0,25% tổng kim ngạch XK năm trước (trừ dầu thô) để tạo nguồn kinh phí thực hiện
chương trình trong giai đoạn 2003 - 2005. Riêng đối với các địa phương có nguồn thu
ngân sách vượt kế hoạch và các nguồn tài chính hợp pháp khác thì UBND tỉnh, thành phố
có thể thành lập quỹ hỗ trợ XK của địa phương để sử dụng chi XTXK. Mức hỗ trợ tối đa
cho mỗi chương trình XTTM trọng điểm là từ 50% ~ 70% chi phí tuỳ theo nội dung hoạt
động. ối tượng được hỗ trợ là các DN thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia chương trình
XTTM trọng điểm.
Các hoạt động XTXK thuộc diện được hỗ trợ bao gồm : Cung cấp thông tin thương mại,
tuyên truyền XK và lập trung tâm dữ liệu hỗ trợ DN ; tư vấn XK ; đào tạo nâng cao năng
lực và kỹ năng kinh doanh XK cho DN ; hội chợ triển lãm hàng XK ; khảo sát, tìm kiếm
thị trường XK ; quảng bá thương hiệu quốc gia và sản phẩm XK đặc trưng quốc gia ; chi
phí ban đầu xây dựng cơ sở hạ tầng XTTM (lập kho ngoại quan, trung tâm XTTM, giới
thiệu sản phẩm XK ở trong và ngoài nước); nghiên cứu ứng dụng phát triển thương mại
điện tử phục vụ XK và các hoạt động XTTM khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Năm 2003, chính phủ đã phê duyệt 184 đề án cho 24 đơn vị chủ trì với tổng kinh phí là
234,575 tỷ đồng, trong đó phần Nhà nước hỗ trợ là 150,154 tỷ đồng. Năm 2004, Chính
phủ đã phê duyệt 143 đề án của 28 đơn vị chủ trì với tổng kinh phí hơn 263 tỷ đồng, phần
hỗ trợ của Nhà nước hơn 168 tỷ đồng.
Đây được xem là hoạt động XTXK thành công nhất của chính phủ trong hai năm qua và
đã mang lại những kết quả cụ thể như sau:
31
e Hơn 1000 lượt DN thuộc mọi thành phần kinh tế đã có cợ hội trực tiếp tham gia
hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường nước ngoài ...
e Qua hội chợ triển lãm và khảo sát thị trường nước ngoài năm 2003 do chương
trình tổ chức, đã có 162 hợp đồng với tổng trị giá 81,95 triệu USD được ký kết.
e Với tư cách là cơ quan chủ trì chương trình, vị thế của nhiều hiệp hội DN vốn
yếu kém nay đã được cải thiện rõ rệt. Qua những chương trình xúc tiến thành
công và thất bại, năng lực và kinh nghiệm tổ chức của họ cũng được nâng cao.
e Trực tiếp hỗ trợ quảng bá hình ảnh và thương hiệu của sản phẩm và DN Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
2.4.4. Đã triển khai một số dịch vụ XTXK cơ bản
2.4.4.1. Cung cấp thông tin thương mại
1. Vietrade
Β Xuất bản sách và tư liệu XTXK : Với các DN Việt Nam, Vietrade phát hành
một số ấn phẩm giới thiệu về thị trường nước ngoài ("Giới thiệu thị trường nước
ngoài", "XK sang Pháp", "XK sang thị trường EU" ...), kỹ năng thương mại
quốc tế ("Đường tới hợp đồng", "Công tác đại diện thương mại ở nước ngoài"
...), thông tin tổng quát ("Danh sách các tổ chức hỗ trợ thương mại trên thế
giới"). Với các DN nước ngoài, các ấn phẩm được phát hành bằng tiếng Anh,
Nhật, Trung Quốc giới thiệu sản phẩm và DN Việt Nam (Bản tin VietBiz xuất
bản 2 tháng/kỳ, "Sản phẩm và làng nghề Việt Nam", "Vietnam Export
Directory"...); về luật pháp Việt Nam ("Trade and Investment of Vietnam",
"Buying from Vietnam"). Vietrade cũng phát hành các dĩa CDs giới thiệu từng
ngành hàng dệt may, da giày, thủy sản, thực phẩm và đồ uống, thủ công mỹ
nghệ và nội thất ...
Β Thư viện, Vietrade đang duy trì hai thư viện thông tin tại Hà Nội và Tp. HCM
với quy mô còn hạn chế.
Β Website của Vietrade ( được thể hiện song ngữ
Việt-Anh gồm các chủ đề chính như tin tức, cơ hội kinh doanh, cơ sở dữ liệu,
chuyên mục và mạng lưới XTTM.
2. ITPC
32
Β Xuất bản sách và tư liệu XTTM và đầu tư : Ấn hành "2002-2003 Export
Import Directory" và "2004-2005 Vietnam Export-Import-Investment Directory"
giới thiệu 15.000 DN của Tp. HCM và một số tỉnh. Thực hiện tủ sách XTTM
ĐT trên cơ sở trích dịch, biên soạn, tổng hợp dữ liệu từ nhiều nguồn. Β Lập cơ sở dữ
liệu nghiên cứu về thị trường nước ngoài.
Β Thư viện ITPC cung cấp thông tin qua mạng và các ấn phẩm.
Β Website được trình bày s._.ời Việt Nam ở nước ngoài
có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
nước ngoài và quốc tế, có khả năng tìm kiếm đối tác và làm cầu nối với các doanh nghiệp,
tổ chức trong nước ...Mặc dù sống xa Tổ quốc, đồng bào luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh
thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng
tộc, gắn bó với gia đình, quê hương"
Trên cơ sở nghị quyết 36/NQ-TƯ, cần thiết phải cụ thể hóa những chính sách, biện pháp
cụ thể nhằm tạo điều kiện cho những doanh nhân Việt kiều hợp tác và tham gia tích cực
vào các chương trình XTXK cụ thể tại nước sở tại.
e Mang hình ảnh Việt Nam đến với thế giới nhiều hơn
Cần phải tiến hành quảng cáo thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng
nước ngoài về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam để Việt Nam trở nên quen thuộc
với thế giới hơn. Đây là yếu tố quan trọng trong phát triển thương mại, đầu tư, du lịch.
Điều quan trọng là phải tiến hành các chiến dịch truyền thông hoặc quảng cáo ấy một cách
chuyên nghiệp. Điều này có thể thực hiện thông qua việc phối hợp với hơn 80 công ty tư
vấn nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
59
3.2.1.4. Hỗ trợ DN ứng dụng Internet một cách hiệu quả
Như đã trình bày ở trên, mạng Internet là một công cụ chiến lược đối với hoạt động kinh
doanh XK của các DN Việt Nam, đặc biệt đối với mô hình B2B. Tuy nhiên, điều đáng tiếc
là tỷ lệ DN biết tận dụng những lợi thế của mạng Internet để phục vụ kinh doanh hiện vẫn
còn ở mức thấp.
Theo nghiên cứu của Tập đoàn Momentum Research Group, hiện có tới 61% công ty Mỹ
và 47% công ty châu Âu đang ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Ở Việt Nam
tính đến tháng 11/2002 chỉ có 2.000 trong số 60.000 DN bắt đầu ứng dụng Internet trong
kinh doanh [29]. Còn theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam, số lượng trang web
mà các DN Việt Nam đăng ký để phục vụ cho hoạt động kinh doanh là 10.362, chỉ chiếm
khoảng 8,63% tổng số DN hiện có.
Nhìn chung, việc ứng dụng internet trong việc kinh doanh của các DN Việt Nam còn thấp.
Ngoài những lý do khách quan về cơ sở hạ tầng ... trở ngại quan trọng nhất vẫn là nhận
thức của các DN.
Hiện nay Vietrade đã có một phòng phụ trách thương mại điện tử (E-commerce). Tuy
nhiên, theo tác giả thì Vietrade và các tổ chức XTXK chính phủ khoan hãy đề cập đến
e-commerce vì cơ sở kỹ thuật, ngân hàng, luật pháp lẫn thói quen của người dân hiện nay
hoàn toàn chưa phù hợp để triển khai e-commerce.
Thay vào đó, điều mà các tổ chức XTXK chính phủ cần làm là thúc đẩy và hỗ trợ các cơ
quan chính phủ, DN sử dụng một cách hiệu quả mạng máy tính và Internet đang có sẵn để
phục vụ cho việc phát triển XNK. Cụ thể là:
e Các bộ, ban ngành trực thuộc trung ương và UBND tỉnh, thành phố cần xây
dựng mạng thông tin cho các đơn vị trực thuộc. Nhưng điều quan trọng là phải
liên tục cập nhật thông tin, tránh tình trạng sau khi tổ chức khai trương website
rầm rộ nhưng sau đó không hề cập nhật thông tin như đã từng xảy ra với một số sở, ban
ngành ở Tp. HCM.
e Thành lập các portal quốc gia để người bán và người mua có chỗ tự giới thiệu và
giao dịch. Hiện nay Việt Nam đã thiết lập được một số portal theo kiểu này
chẳng hạn như www.vnemart.com (hoặc www.vnemart.com.vn) chuyên về giao
dịch hàng TCMN do VCCI phối hợp với VDC thực hiện; cổng thông tin và sàn
60
giao dịch thương mại điện tử Việt-Trung do VCCI và Uỷ ban Xúc tiến Mậu dịch Quốc
tế Trung Quốc hợp tác xây dựng vừa chính thức khai trương (23/09/2004) tại
hoặc cổng
thương mại điện tử Việt Nam-châu Phi cũng đang được gấp rút xây dựng để có thể
sớm ra mắt cộng đồng DN vào tháng 10/2005. Để hỗ trợ cho việc phát triển thêm các
portal này, đề nghị hỗ trợ kinh phí thiết lập và duy trì portal trong 3 năm đầu từ nguồn
hỗ trợ xúc tiến thương mại hàng năm. Sau đó sẽ chuyển giao cho Hiệp hội DN hoặc
Phòng Thương mại quản lý, lấy thu bù chi. Do lĩnh vực này còn khá mới nên ta cần
học hỏi cách làm của một số nước trong khu vực trong việc phát triển các portal
chuyên về xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và công ty như
www.chinaproducts.com, www.chinaexporter.net
của Trung Quốc.
e Phổ biến rộng rãi kiến thức và quy định về đăng ký tên miền tại Việt Nam và
quốc tế. Mục tiêu chủ yếu là nâng cao nhận thức về đăng ký tên miền và tránh
tranh chấp tên miền trong tương lai.
3.2.1.5. Xúc tiến xây dựng các tập đoàn thương mại mạnh
Cần phải thúc đẩy việc hình thành một số công ty thương mại phi chính phủ hướng về XK
mạnh theo mô hình GTCs của Nhật Bản và Hàn Quốc.
e Về mặt tư tưởng, phải xoá bỏ tận gốc những quan điểm lạc hậu về tầng lớp
thương nhân vẫn còn tồn tại như hiện nay.
e Về cơ chế, cần bổ sung những biện pháp khuyến khích việc đầu tư vào lĩnh vực
thương mại, đặc biệt đối với thương mại hướng về XK hàng Việt Nam ra nước
ngoài. Chính phủ cũng có thể đầu tư thành lập mới những công ty cổ phần
chuyên XK hàng hoá Việt Nam.
e Về con người, cần phải có chiến lược thu hút được nguồn nhân lực trẻ đang
phục vụ cho các công ty thương mại và VPĐD nước ngoài về làm việc cho các
công ty thương mại Việt Nam. Có thể thực hiện được điều này nếu có chế độ đãi
ngộ hợp lý cùng với môi trường làm việc tốt. Đây là cách làm nhanh và hiệu quả
nhất để có được nguồn nhân lực chuyên nghiệp phục vụ cho việc phát triển
XNK.
61
3.2.1.6. Xúc tiến thành lập các kho ngoại quan của hàng Việt Nam ở các thị
trường trọng điểm, kết hợp hỗ trợ các DN mở VPĐD
Mô hình Trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài mà Bộ Thương mại đã khai
trương tại New York và Dubai là những nỗ lực rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, điều đó vẫn
chưa đủ để tăng cường khả năng xâm nhập của hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. Thay vì
trực tiếp đầu tư, chính phủ nên có chính sách khuyến khích các DN thành lập thêm các
kho ngoại quan (bonded warehouses) tại các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản,
Hoa Kỳ, Châu Phi, Trung Đông. Nội dung này đã được đề cập trong chương trình XTTM
trọng điểm quốc gia nhưng rất tiếc cho đến nay vẫn chưa có nhiều những dự án thuộc loại
này. Cho đến nay có lẽ chỉ có công ty Viet Euro là đang xúc tiến thành lập công ty cổ phần
xây dựng và kinh doanh kho ngoại quan tại Đức. Các ưu điểm của mô hình kho ngoại
quan này là:
e Phản ứng nhanh với những đơn đặt hàng của khách hàng
e Tăng tính cơ động trong việc chào, bán hàng
e Mở ra khả năng cung ứng hàng trực tiếp cho các đối tượng mới như các hệ
thống siêu thị lớn, các hiệp hội DN, DN người Việt, DNVVN bản xứ (lâu nay
hàng Việt Nam chủ yếu được xuất qua trung gian, đại lý của các hệ thống siêu
thị và những nhà buôn nhỏ)
e Khắc phục được trở ngại về thời gian giao hàng.
e Nắm bắt phản hồi của khách hàng về sản phẩm trực tiếp và nhanh chóng.
Bên cạnh đó, có thể khai thác mặt bằng của kho ngoại quan để cho các DN nào có nhu cầu
mở VPĐD. Mặc dù DN nào cũng biết những lợi ích to lớn mà VPĐD ở nước ngoài có thể
mang lại nhưng cho đến nay cũng chỉ có một vài DN có khả năng mở VPĐD tại nước
ngoài như Vinatex, Saigon Tourist, Tổng công ty Cao su, Công ty kinh doanh thủy hải sản,
Acecook Việt Nam, Vissan, Biti's ...
Theo báo cáo của Phòng Thị trường thương nhân nước ngoài (Sở Thương mại Tp. HCM),
tính đến hết ngày 31-5-2004, đã có 19 DN đăng ký mở VPĐD tại nước ngoài nhưng chưa
thấy hoặc địa chỉ đăng ký còn bỏ trống, 7 công ty khác đã trả lại 8 giấy chứng nhận đăng
ký thành lập VPĐD tại 8 nước. Nguyên nhân chính là do chi phí của cho một VPĐD ở
nước ngoài quá cao.
62
Ví dụ, nếu muốn đặt VPĐD tại Úc, DN phải ký quỹ 200.000 USD, phải nhận 2 người bản
xứ làm việc tại VPĐD với mức lương 30.000 USD/năm. Ngay cả ở
Mô hình kho ngoại quan kết hợp với VPĐD (tầng trên) tại Duesseldorf, Đức [30]
Campuchia, chưa tính chi phí duy trì VPĐD, chỉ riêng giá sinh hoạt, tiêu dùng, dịch vụ
đều đắt hơn ở Việt Nam khoảng 15%. Như vậy, kho ngoại quan kết hợp với VPĐD có thể
là một giải pháp phù hợp đối với các DN Việt Nam.
Ngoài ra, chính phủ cũng có thể cho các DN thuê lại một phần diện tích trong các cơ quan
đại diện ngoại giạo ở nước ngoài để mở VPĐD. Đây cũng là cách làm của Tổng Lãnh sự
quán Singapore tại Tp. Hồ Chí Minh.
3.2.1.7. Tranh thủ sự hợp tác quốc tế trong XTXK
Tổ chức XTXK và chính phủ các quốc gia phát triển thường có những chương trình xúc
tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Jetro của Nhật Bản là một điển hình. Một
trong ba nội dung hoạt động của Jetro tại Việt Nam là XTXK hàng Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản thông qua các hoạt động sau:
e Cử chuyên gia kỹ thuật về dệt may và chế biến nông sản từ Nhật Bản sang tổ
qqchức hội thảo hoặc trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật nhằm hỗ trợ cho DN có nhiều
triển vọng XK, đồng thời giới thiệu về thị trường Nhật Bản.
e Mời đại diện các DN Việt Nam sang Nhật Bản theo chương trình hợp tác Châu
Á (Asian Cooperation - AC) và chương trình Nghiên cứu XK sang Nhật Bản
(Export to Japan Study Program - EJSP) để trực tiếp nghiên cứu thị trường, tìm
hiểu kỹ thuật sản xuất và trao đổi với các DN Nhật Bản.
e Cử chuyên gia có kinh nghiệm về thị trường hàng may mặc và thủ công mỹ
nghệ theo chương trình STAR (Senior Trade Advisor) sang Việt Nam cung cấp
63
thông tin về thị trường và kỹ thuật cho các DN Việt Nam. Những sản phẩm do
chuyên gia chọn mua đã được giới thiệu cho khách hàng Nhật Bản tại khu vực
triển lãm của Jetro tại Tokyo và các thành phố lớn khác của Nhật Bản.
e Tổ chức triển lãm XTXK hàng dệt may và thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam, mời
đoàn mua hàng Nhật Bản sang trực tiếp xem hàng và đàm phán hợp đồng với
các công ty có triển vọng XK của Việt Nam.
e Hỗ trợ các nhà XK Việt Nam tham gia các triển lãm tổ chức tại Nhật Bản (như
International House Ware Show, International Gift Show và International
Furniture Fair)
e Cung cấp thông tin về các DN Nhật Bản và giới thiệu sản phẩm của các công ty
Việt Nam với khách hàng Nhật Bản thông qua "Trade Inquiry". Ngoài ra, các
công ty Việt Nam muốn tự giới thiệu về mình cũng như muốn trực tiếp tìm kiếm
khách hàng hoặc nhà đầu tư Nhật Bản tiềm năng có thể truy cập vào Chương trình Xúc
tiến Quan hệ Thương mại (Trade Tie-up Promotion Program - TTTP) trên website của
Jetro.
Như vậy, Jetro hoạt động cùng hướng với các tổ chức XTXK của Việt Nam. Tại Thái Lan,
Jetro cũng đã hợp tác rất thành công với chính phủ Thái Lan trong chương trình "mỗi làng
một sản phẩm" XK (One Tambon One Product - OTOP). Ngoài Jetro, cũng còn rất nhiều
các tổ chức XTXK và tổ chức nước ngoài khác như Kotra, Sippo, Cetra, ITC, CBI,
Thương vụ Ý, Pháp, Cộng hoà Sec tại Việt Nam ...đều là những đối tác XTXK quan trọng
của Việt Nam.
3.2.2. Một số giải pháp vi mô
Những ý tưởng đưa đến các giải pháp được trình bày trong phần này chủ yếu căn cứ
vào tài liệu "TPO Best Practices" được ITC giới thiệu. Rất tiếc chưa có mô hình
hoạt động nào của tổ chức XTXK Việt Nam được giới thiệu trong tài liệu này. Tác
giả đã lựa chọn một vài những ý tưởng có thể áp dụng ngay để xây dựng giải pháp
nhằm cải thiện hiệu quả và phương thức hoạt động của các XTXK chính phủ Việt
Nam.
3.2.2.1. Nâng chất lượng thông tin cung cấp cho DN
64
Chú trọng và đầu tư đúng mức vào việc thu thập thông tin sơ cấp, đặc biệt là thông tin về
thị trường mục tiêu, về các đối tác tiềm năng do các thương vụ, các trung tâm XTXK ở
nước ngoài gửi về. Để làm được điều này, cần làm một số việc sau: e Các thương vụ Việt
Nam ở nước ngoài cần phải thuê nhân viên bản xứ làm công
tác thu thập thông tin và thăm dò thị trường tương tự như Jetro, Kotra, Cetra và
tất cả các VPĐD nước ngoài ... đang làm tại Việt Nam từ lâu nay. Chắc chắn chi
phí thuê chuyên gia nước ngoài là khá cao (có thể phải trả cao hơn lương của
tham tán thương mại) tuy nhiên đây là một khoản đầu tư đáng làm vì chất lượng
thông tin thu thập được chắc chắn sẽ có độ tin cậy cao hơn so nếu chính người
Việt Nam tự làm lấy vì một trong những rào cản quan trọng là ngôn ngữ.
e Công tác thu thập thông tin của thương vụ cần phải làm một cách có hệ thống,
có sự phối hợp giữa các văn phòng thương vụ và căn cứ vào nhu cầu thực sự của
DN. Nhu cầu này cần phải được xác định dựa vào chiến lược XNK quốc gia, của
các hiệp hội doanh nghiệp. Bên cạnh những yêu cầu về thông tin đột xuất, cần
phải xây dựng những báo cáo thường niên và chuẩn mực về thị trường nước sở
tại để giúp các doanh nghiệp định hướng hoạt động tốt hơn. Một trong những ví
dụ hay đó là báo cáo so sánh chi phí kinh doanh và đầu tư tại các quốc gia Châu
Á do Jetro thực hiện hàng năm.
e Chú trọng cung cấp thông tin đã qua xử lý, đặc biệt là những thông tin mang tính
chất tình báo. Đã đến lúc chúng ta không thể tránh né đề cập đến thông tin tình
báo trong kinh doanh bởi vì những thông tin càng có giá trị thì lại càng có tính
chất tình báo.
Tình báo thương mại, tại sao không ?
Ông L.K.Key - Giám đốc điều hành Công ty China Promotion kiêm Tổng Thư ký Ban Tổ chức
Triển lãm hội chợ Hồng Kông - tỏ ra ngạc nhiên khi ở Việt Nam rất ngại nói đến tình báo
thương mại. “Vấn đề tình báo thương mại là vấn đề không thể thiếu đối với hầu hết các nước
trên thế giới”. Tình báo thương mại ở Hồng Kông hoạt động độc lập, họ tự tìm hiểu về khách
hàng mà không chờ đợi vào sự giúp đỡ của Chính phủ ...
Theo ông Key, Chính phủ VN nên hỗ trợ để thành lập tình báo thương mại. Chỉ cần khoảng 10
người, mỗi người tập trung nghiên cứu chuyên sâu theo từng lĩnh vực riêng khác nhau, họ phải
nắm kỹ “như lòng bàn tay” về lĩnh vực họ được phân công và họ sẽ rất hữu ích cho công tác xúc
tiến thương mại và đầu tư.
Nguồn : Vietnam Economy (19/07/2004)
65
Một trong những dịch vụ cung cấp thông tin hữu hiệu của Jetro cho các DN Nhật bản là
Jetro-file. Đây là tập hợp các báo cáo về thị trường hải ngoại được thu thập và xử lý bởi
trụ sở chính và 76 văn phòng Jetro hải ngoại theo những tiêu chí thống nhất. Mỗi báo cáo
chứa đựng thông tin chi tiết về quốc gia, tình hình kinh tế, các số liệu thống kê và thông tin
cần thiết khác cho thương mại và đầu tư. Các DN Nhật có thể xem các báo cáo này (bằng
tiếng Nhật và được trình bày theo một quy cách thống nhất cho dễ so sánh) trực tiếp qua
mạng Internet hoặc tải xuống tại địa chỉ
Tính đến tháng 3/2003, đã có khoảng 38.000 DN đăng ký sử dụng hệ thống Jetrofile,
trung bình có 16.000 lượt truy cập vào địa chỉ này mỗi tháng. Jetro cũng báo cho các DN
biết qua e-mail mỗi khi có thông tin mới được cập nhật vào Jetro-File. Không chỉ thông
tin về thị trường nước ngoài, Jetro còn cung cấp thông tin hết sức chi tiết về các khía cạnh
của nền kinh tế Nhật Bản tại địa chỉ với
khoảng 73 báo cáo chi tiết (20~99 trang/báo cáo) về các sản phẩm mà Nhật Bản có nhu
cầu như thực phẩm, quần áo, giải trí và thể thao, gia dụng, máy móc thiết bị ...Các báo cáo
này được thực hiện trong giai đoạn 1997 ~ 2004.
Thực ra, ITPC của Tp. HCM cũng đã có dịch vụ tương tự [31]. Tuy nhiên, do thông
tin chậm cập nhật (số liệu thống kê chủ yếu năm 2000) nên có phần kém hấp dẫn.
Điều kiện quan trọng giúp Jetro thu thập được số liệu sơ cấp là nhờ vào hệ thống 76
văn phòng ở hải ngoại. Tuy nhiên, tác giả tin rằng các tổ chức XTXK chính phủ
Việt Nam trong hoàn cảnh còn nhiều thiếu thốn như hiện nay vẫn có thể làm tốt
dịch vụ này qua hợp tác chặt với các tổ chức XTXK nước ngoài, mua lại thông tin
của các hãng tin lớn như Reuters hoặc đơn giản nhất là chịu khó thu thập thông tin
thứ cấp có giá trị có sẵn trên mạng Internet và dịch lại cho các DNVVN của Việt
Nam.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức hội chợ, triển lãm
Các tổ chức XTXK chính phủ cần phải nâng cao hơn chất lượng của khâu tổ chức cho DN
tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài. Để làm được việc này đòi hỏi phải có sự phối
hợp đồng bộ giữa nhiều cơ quan khác nhau như xuất nhập cảnh, hải
66
quan (để chuyên chở hàng hoá dùng cho triển lãm), thiết kế gian hàng, in ấn tài liệu giới
thiệu, truyền thông ...
Cần phải thông tin đầy đủ về hội chợ, triển lãm cho các DN quan tâm biết để họ chuẩn bị
tốt hơn. Sau khi kết thúc, cần phải lấy ý kiến phản hồi ngay của các DN tham dự để rút
kinh nghiệm cho những lần tham dự sau.
Trong điều kiện kinh phí XTXK còn hạn chế, các DN không thể tham dự tất cả mọi
hội chợ liên quan đến ngành của họ. Tuy nhiên, một trong những biện pháp khắc
phục đó là tổ chức các gian hàng thông tin của Việt Nam tại các hội chợ quốc tế mà
các DN không thể tham dự vì lý do kinh phí. Chi phí thuê và hoạt động gian hàng sẽ
do Vietrade chịu, các doanh nghiệp chỉ cần gửi cataloge, danh thiếp ... đến để trưng
bày. Cách làm này vừa tiết kiệm nhưng cũng không kém phần hiệu quả nếu tổ chức
tốt.
3.2.2.3. Cải thiện hoạt động thông qua "Chỉ số hài lòng của khách hàng"
(Customer Satisfaction Index - CSI) và một số tiêu chí hoạt động (Key
Performance Indicators - KPIs)
Song song với việc tái tổ chức lại Vietrade và các tổ chức XTXK chính phủ khác, cần phải
xây dựng phương thức đánh giá hiệu quả hoạt động của nó. Một trong những phương
pháp hiệu quả đang được áp dụng tại một số quốc gia là xây dựng những tiêu chí đánh giá
hiệu quả hoạt động của tổ chức XTXK.
Đơn cử trường hợp của Australian Trade Commission (Austrade). Austrade sử dụng một
số KPIs như sau nhằm định hướng hoạt động của nhân viên Austrade và xác định mức độ
thành công của Austrade:
e Chỉ số hài lòng của khách hàng (CSI)
e Tác động đến XK - Số DN và kim ngạch XK e Tác
động các nhà XK mới - Số DN mới tham gia e Đầu tư ra
nước ngoài - Số DN và vốn đầu tư
e Mức độ am hiểu của cộng đồng về các dịch vụ XTXK của Austrade e Tỷ
lệ dân chúng tin rằng XK đóng góp quan trọng cho nền kinh tế
67
Trong đó, chỉ số CSI có vai trò quan trọng. Thực ra, đây là một kỹ thuật trong quản trị
được áp dụng trong các DN từ lâu. Xét cho cùng thì dịch vụ của các tổ chức XTXK cũng
là một dạng sản phẩm.
Tham khảo thêm kinh nghiệm áp dụng chỉ số CSI của các tổ chức XTXK ở Tây Ban Nha
( Hy Lạp ( và Na Uy
( chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau: e Mục tiêu :
Đánh giá mức độ hài lòng của các DN đối với từng loại dịch vụ của
các tổ chức XTXK nhằm cải thiện dịch vụ và xác định sớm những yếu tố kém hiệu quả
(Copca - Tây Ban Nha), đánh giá hiệu quả của dịch vụ (Hepo-Hy Lạp) hoặc chứng
minh tính hiệu quả của dịch vụ với những tổ chức tài trợ hoặc DN tham gia (NTC-Na
Uy)
e Cách làm : Copca và Hepo gửi những bản câu hỏi đã được chuẩn bị trước đến
các DN tham gia các hoạt động XTXK Sau đó, Copca sẽ thuê một tổ chức độc
lập sẽ tiến hành phân tích kết quả thu được. Với Hepo thì nhân viên sẽ tự phân
tích lấy. Các bản trả lời không được dưới dạng vô danh vì Copca và Hepo đều muốn
xác định rõ những thành công hoặc thất bại với từng DN cụ thể. Tổ chức độc lập sẽ
báo cáo trực tiếp những điểm khách hàng không hài lòng với lãnh đạo Copca. Với
những DN không trả lời, Copca sẽ tìm hiểu trực tiếp để thuyết phục họ cho biết ý kiến.
Trên cơ sở ý kiến phản hồi, các tổ chức XTXK này sẽ phân tích và điều chỉnh cá hoạt
động của họ. Hepo cũng tổ chức trưng cầu ý kiến DN về những hội chợ mà họ muốn tham
dự. Hepo và NTC cũng dùng kết quả khảo sát để xác định hiệu quả của dịch vụ lẫn mức độ
hài lòng của DN.
Theo Copca, tốt hơn là sử dụng các tổ chức độc lập để điều tra và phải hết sức linh hoạt
nếu muốn lấy ý kiến các DN ngay sau khi kết thúc hoạt động. Ngoài ra, nếu tìm hiểu mức
độ hài lòng của DN thì nên khảo sát trong vòng tối đa 3 tháng sau khi sự kiện kết thúc.
Ngược lại, để xác định hiệu quả hoạt động thì cần phải đợi ít nhất là 1 năm sau.
Với Hepo, họ đã lập tức điều chỉnh nội dung các buổi huấn luyện sau khi biết các DN
muốn tham khảo nhiều case-study hơn, ngoài ra họ cũng biết được những loại
68
hình quảng bá dịch vụ nào là hiệu quả hơn để áp dụng cho những sự kiện sắp tổ chức.
Riêng NTC cho biết để cải thiện dịch vụ điều quan trọng là cần phải có những chương
trình đồng tài trợ giữa hai bên: chính phủ và các DN.
Chỉ số hài lòng của khách hàng Finpro 2001
Đánh giá chung
Dịch vụ khách hàng & Marketing
Dịch vụ liên quan đến sản phẩm
Dịch vụ tư vấn
Dịch vụ phát triển và cảI cách
Hệ thống Trung tâm Thương mạI Finpro
3.90
3.79
3.88
3.90
4.00
4.07
1.00 2.00 3.00 4.00 5.00
Nguồn : Báo cáo hoạt động 2001 Finpro
Như vậy, nếu áp dụng cách làm của Copca, Hepo hay NTC để biết CSI của các DN ngay
sau những hoạt động như hội chợ, triển lãm, hội thảo, đào tạo ... và có tinh thần cầu thị
nghiêm túc thì chắc chắn các tổ chức XTXK chính phủ Việt Nam sẽ nhanh chóng cải thiện
được chất lượng dịch vụ của họ.
3.2.2.4. Phát triển các DN XK và mặt hàng XK mới
Đây là một nội dung quan trọng của phát triển XK. Như đã trình bày trong chương 1,
chiến lược XK của quốc gia sẽ kém bền vững nếu các tổ chức XTXK chỉ tập trung vào
phục vụ cho các DN XK và các sản phẩm XK hiện tại mà xem nhẹ việc hỗ trợ các DN va
sản phẩm có tiềm năng XK. Hiện nay, các tổ chức XTXK chính phủ ở Việt Nam chưa chú
trọng đến nội dung này.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì các DNVVN hiện đang chiếm tỷ lệ 95% ở Việt Nam. Để
thực hiện điều này, một trong những giải pháp đơn giản và ít tốn kém nhất đó là giúp các
DN có tiềm năng XK tự kiểm tra mức độ sẵn sàng tham gia XK qua mạng Internet. Vụ
Thương mại của Áo - AWO đã thiết kế trên website của tổ chức này
( một công cụ tương tác có tên là Export Fitness Test dưới
dạng hỏi đáp. Nhờ đó các DNVVN có thể tự xác định họ có nên khởi sự XK hay chưa
hoặc nếu chưa thì họ cần phải làm những gì để có thể bắt đầu XK.
69
Hội đồng Phát triển Thương mại Hongkong (HKTDC) lại có cách tiếp cận khác
[32]. Họ cho thành lập một số nhóm tư vấn trực tiếp (one-to-one) dành cho các
DNVVN. Mỗi nhóm đặc trách về một vấn đề như quản lý tín dụng trong XK, quản
trị tài chính dành cho các DNVVN, triển vọng và xu hướng của một số thị trường
XK chọn lọc, luật thương mại áp dụng cho các DNVVN, thủ tục khai báo hải quan,
lập chiến lược marketing quốc tế ...Nhân viên R&D của HKTDC và một số tổ chức
tư vấn chuyên nghiệp sẽ tham gia chương trình dưới sự điều hành chung của
HKTDC.
3.2.2.5. Cần đầu tư xây dựng trung tâm triển lãm hội chợ tầm cỡ quốc gia tại
Tp. HCM
Tp. HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, nhưng nơi đây không có một trung
tâm lớn tầm cỡ quốc gia để phục vụ cho việc tổ chức thường xuyên hội chợ, triển lãm và
các sự kiện XTTM quan trọng khác. Đây quả là một thiếu sót lớn trong công tác XTXK
quốc gia.
Trung tâm Triển lãm Hội chợ quốc tế Tp. HCM (HIECC) ra đời từ năm 1994 với quy mô
1 ha chỉ vừa đủ cho khoảng 200 - 300 gian hàng. So với các nước khác, HIECC chưa thể
đáp ứng được yêu cầu tổ chức các hội chợ có quy mô quốc tế. Ngoài ra, khuôn viên của
HIECC đã trở nên quá tải trong việc giải quyết nơi để xe cho khách tham quan.
Tuy Sở Thương mại đã có dự án xây dựng trung tâm hội chợ, hội nghị mới cho Tp. HCM
tại khu vực Kỳ Hoà 1 hoặc Saigon Tourist đang dự kiến xây dựng trung tâm tuơng tự tại
khu Nam Sàigòn [33]. Tuy nhiên, các dự án này vẫn còn đang triển khai và phải mất nhiều
thời gian nữa mới có thể hoàn tất.
Theo tác giả thì song song với việc cơ cấu lại các tổ chức XTXK chính phủ, chính
phủ nên nghiên cứu đầu tư xây dựng một trung tâm hội chợ - triển lãm - hội nghị
tầm cỡ quốc gia tại Tp.HCM. Sau khi hoàn tất, chính phủ nên giao cho Vietrade
quản lý và khai thác trung tâm này để tạo nguồn thu bổ sung cho kinh phí hoạt
động.
3.2.2.6. Nâng cao hiệu quả của chương trình XTTM trọng điểm quốc gia
70
e Thống nhất đầu mối quản lý và thực hiện chương trình: Hiện nay, chương
trình XTTM trọng điểm hàng năm do Bộ Thương mại phê duyệt theo sự uỷ
quyền của Thủ tướng, còn việc chi hỗ trợ lại do Bộ Tài chính quyết định. Cách
làm này đã gây ách tắc trong thực hiện. Sau khi hệ thống XTXK chính phủ đã được tổ
chức lại theo đề xuất ở điểm 3.2.1.3 ở trên, chính phủ nên xem xét giao hẳn việc xét
duyệt và chi hỗ trợ cho Vietrade.
e Tài trợ 100% một số khoản chi phí nào đó: Thay vì tài trợ 50% hoặc 70% tổng
chi phí tham dự chương trình của DN, nên chuyển sang tài trợ 100% một số
khoản nhất định nào đó như vé máy bay khứ hồi, chi phí khách sạn (có quy định
mức tối đa), chi phí thuê gian hàng, chi phí thiết kế gian hàng, phí đi lại ... Đó
thường là những khoản chi chủ yếu và dễ kiểm tra. Sau đó, DN chỉ cần nộp hoá
đơn chi gốc cho cơ quan chủ trì để được hoàn 100% khoản chi theo quy định.
Như vậy, việc hoàn chi phí cho các DN chắc chắn sẽ đơn giản và nhanh chóng
hơn, khắc phục được tình trạng chậm trễ như hiện nay. Đây cũng là cách mà
Matrade, Kotra và nhiều tổ chức XTXK khác đang áp dụng đối với các DN của
họ.
e Duyệt xét chương trình XTTM trọng điểm sớm hơn: Chính phủ cần phải thông
qua các chương trình XTTM trọng điểm cho năm tới sớm hơn, tốt nhất là trong
quý 4 của năm trước. Vì có nhiều hoạt động hội chợ, triển lãm ở nước ngoài
được tổ chức ngay vào đầu năm sau. Để tham dự các kỳ hội chợ, triển lãm này, DN và
đơn vị chủ trì cần phải có thời gian chuẩn bị và đăng ký ngay từ quý 4 của năm trước.
e Tài trợ cho các nhà nhập khẩu nước ngoài đến Việt Nam: Chương trình cũng
nên có nội dung tài trợ các DN nước ngoài đến tham dự hội chợ, triển lãm tại
Việt Nam, hoặc khảo sát thị trường Việt Nam theo lời mời của các tỉnh, thành
phố liên quan, DN Việt Nam hoặc hiệp hội ngành nghề tương ứng. e Hỗ trợ các DN
Việt Nam chi phí tham gia đấu thầu ở nước ngoài ... e Hỗ trợ các DN (đặc biệt là
DNVVN) vận dụng những tiện ích căn bản của
máy tính và Internet phục vụ kinh doanh như hỗ trợ lập website ít nhất với hai ngôn
ngữ Việt-Anh; hướng dẫn tổ chức và lưu trữ thông tin một cách hợp lý và
71
khoa học; tìm kiếm thông tin trên mạng Internet; sử dụng e-mail trong chào
hàng, giao dịch với các đối tác nước ngoài; sử dụng Microsoft Powerpoint để
giới thiệu về DN một cách chuyên nghiệp; thiết kế brochure qua các hình thức in
ấn, dĩa CDs hoặc thậm chí e-card một cách thẩm mỹ, chuyên nghiệp ... Những
vấn đề trên tưởng chừng hết sức nhỏ nhặt nhưng trong thực tế còn rất nhiều DN
Việt Nam chưa quan tâm đúng mức hoặc không thực hiện được do trở ngại về
mặt kinh phí.
Trên đây là một số giải pháp cả vĩ mô và vi mô được xây dựng chủ yếu dựa vào tình
hình thực tế của các tổ chức XTXK chính phủ kết hợp với những kinh nghiệm của
các tổ chức XTXK nước ngoài. Chắc chắn những đề xuất trên vẫn chưa phải là
những giải pháp đầy đủ và tối ưu. Tuy nhiên, tác giả tin tưởng rằng nếu được thực
hiện, các giải pháp trên sẽ góp phần tích cực và nhanh chóng cải thiện chất lượng
hoạt động.
72
KẾT LUẬN
Cùng với quá trình hội nhập, khái niệm biên giới kinh tế và bảo hộ mậu dịch sẽ dần dần
biến mất. Các DN đang chuyển dần từ cạnh tranh nội địa thuần tuý sang cạnh tranh quốc
tế ngay trong thị trường nội địa. Do đó, cải thiện khả năng cạnh tranh không phải chỉ
nhằm mục tiêu XK mà trước hết, đó là yêu cầu bắt buộc để tồn tại của bất kỳ DN nào.
Trong bối cảnh đó, bản chất của XTXK ở tầm quốc gia cũng phải thay đổi. Từ chỗ tìm
mọi cách để bảo hộ hàng nội hoá và xâm nhập thị trường mục tiêu, XTXK ngày nay phải
nhắm đến cả mục tiêu XK lẫn gia tăng khả năng cạnh tranh của DN.
Để đạt được mục tiêu đó, các tổ chức XTXK chính phủ cần phải thay đổi chiến lược hoạt
động. Thực tế cho thấy khái niệm và cách làm XTXK theo nghĩa hẹp ngày nay là không
đủ. Nghĩa là không thể chỉ tập trung vào những hoạt động có mục đích khuyến khích nhu
cầu nhập khẩu của khách hàng. Nhưng các tổ chức XTXK chính phủ cần phải đóng một
vai trò tích cực trong nỗ lực cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh nhằm cải thiện khả
năng cạnh tranh của các DN.
Để làm được điều đó, các tổ chức XTXK của chính phủ cần phải có một vị thế pháp
lý tương xứng. Kinh nghiệm cho thấy đa số các tổ chức XTXK quốc gia đều được
tổ chức theo hình thức công lập nhưng được tự chủ về tài chính và quản trị. Chính
nhờ đặc điểm này mà các tổ chức XTXK chính phủ có tầm ảnh hưởng chính trị và
linh hoạt cần thiết để liên kết các tổ chức liên quan nhằm thực hiện chiến lược XK
quốc gia.
Về cơ bản, chính phủ Việt Nam đã thiết lập được một mạng lưới các tổ chức XTXK chính
phủ ở các cấp khác nhau. Đó là cơ quan XTXK quốc gia (Vietrade), các trung tâm XTXK
địa phương, mạng lưới thương vụ và các trung tâm giới thiệu hàng Việt Nam ở nước ngoài.
Đồng thời, cơ sở pháp lý thúc đẩy hoạt động XTXK cũng đã được ban hành ở những mức
độ khác nhau.
Trong những năm qua, các tổ chức XTXK chính phủ đã góp phần tích cực vào kết quả
hoạt động XK của Việt Nam. Đặc biệt chương trình XTTM trọng điểm quốc gia đã thu hút
sự tham gia tích cực của các DN. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan và chủ quan,
hoạt động của các tổ chức XTXK chính phủ vẫn chưa đi đáp ứng
73
được trọn vẹn nhu cầu của cộng đồng DN. Điển hình là chất lượng thông tin, đào tạo, hội
thảo ... vẫn còn thấp; khâu tổ chức các chương trình hội chợ, triển lãm ...vẫn còn thiếu
chuyên nghiệp ... Và quan trọng nhất là tính hệ thống của toàn bộ mạng lưới các tổ chức
XTXK chính phủ vẫn còn rất thấp.
Để khắc phục những nhược điểm trên, cần phải có những giải pháp đồng bộ cả về
mặt tổ chức lẫn cơ chế. Các giải pháp này cần dựa vào tình hình thực tế của các tổ
chức này, vào ý kiến đóng góp của các DN và kinh nghiệm từ các tổ chức XTXK
nước ngoài. Trên cơ sở đó, luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp vĩ mô và
vi mô mà theo tác giả là quan trọng và có tính khả thi cao trong hoàn cảnh của Việt
Nam hiện nay.
Tác giả mạnh dạn nghiên cứu về đề tài còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam này với mong
muốn góp một phần nhỏ bé trong lĩnh vực nghiên cứu về XTXK. Tuy nhiên, do khả năng
còn hạn chế nên chắc chắn nội dung luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
quý Thầy Cô, các nhà chuyên môn và các bạn học viên góp ý thêm để nội dung nghiên
cứu của tác giả sẽ trở nên hoàn chỉnh hơn.
74
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1624.pdf