Nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tiền lương & các khoản trích theo lương ở Công ty Xây dựng điện & dịch vụ PTNT

Lời nói đầu Công cuộc cải cách kinh tế ở nước ta được khởi xướng từ Đại hội VI. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang giành được những thành tựu to lớn, đó là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Cùng với sự đổi mới đó, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang có những bước phát triển cả về hình thức, quy mô và hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải luôn quan t

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tiền lương & các khoản trích theo lương ở Công ty Xây dựng điện & dịch vụ PTNT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm đến công tác quản lý nguyên vật liệu, quản lý nhân công... nhằm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để thu được lợi nhuận cao hơn. Để đạt được mục đích sử dụng lao động một cách tiết kiệm, có hiệu quả mà vẫn mang lại nhiều lợi ích kinh tế thì doanh nghiệp phải làm tốt công tác quản lý lương và các khoản trích theo lương. Công tác chi trả lương và các khoản trích theo lương được thực hiện sẽ kích thích tinh thần làm việc của người lao động, góp phần tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhận thức được vai trò của công tác quản lý lương và các khoản trích theo lương của doanh nghiệp. Trong thời gian thực tập tại công ty Xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn em đã chọn đề tài: “ Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương ở công ty Xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn” làm chuyên đề thực tập. Chuyên đề này gồm 3 phần: Phần I. Một số lý luận cơ bản về tiền lương và các khoản trích theo lương Phần II. Thực trạng công tác quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty Xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn. Phần III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý tiền lương và các khoản trích theo lương ở công ty Xây dựng điện và dịch vụ phát triển nông thôn. Phần I Một số vấn đề lý luận cơ bản về tiền lương và các khoản trích theo lương trong các doanh nghiệp Khái niệm, bản chất và chức năng của tiền lương 1.Khái niệm tiền lương Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp đồng thời cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó, lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Để đảm bảo tiến hành liên tục quá trình tái sản xuất, trước hết cần phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động. Tiền lương( tiền công) chính là phần thù lao lao động biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng công việc của họ. 2. Bản chất của tiền lương Tiền lương là một phạm trù kinh tế phức tạp mang tính lịch sử có ý nghĩa chính trị- kinh tế-xã hội to lớn và ngược lại tiền lương cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của xã hội, của tư tưởng chính trị. Trong xã hội tư bản, người công nhân chỉ được nhận tiền sau một thời gian nhất định của mỗi tuần, cuối mỗi tháng, có nghĩa là chính người lao động đã ứng trước sức lao động cho nhà tư bản, chứ không phải nhà tư bản ứng trước tiền công cho công nhân. Chúng ta đều biết rằng giá trị hàng hoá do người công nhân sáng tạo ra bao gồm: C + v + m Trong đó: C : là giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào hàng hoá V+m : là giá trị mới do người lao động sáng tạo ra Nhà tư bản đã trích một phần( tức là v) để trả lương cho công nhân, còn phần kia( m) nhà tư bản hưởng. Nếu như hàng hoá chưa bán được, nhà tư bản lấy tiền bán hàng do công nhân sáng tạo ra trong thời gian trước để trả lương cho công nhân. Điều đó chứng tỏ rằng chính giai cấp công nhân đã tạo ra quỹ tiêu dùng để nuôi bản thân mình và cũng tạo ra giá trị thặng dư đủ nuôi sống và làm giàu cho nhà tư bản. Trong xã hội chủ nghiã, tiền lương không phải là giá cả của sức lao động mà là một phần giá trị vật chất trong tổng sản phẩm xã hội dùng để phân phối cho người lao động theo nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng theo lao động". Tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra cân bằng trong phân phối thu nhập quốc dân. ởViệt Nam, trong thời kỳ bao cấp, phần thu nhập quốc dân được tách ra làm quỹ lương và phân phối cho người lao động theo kế hoạch, tiền lương chịu sự chi phối trực tiếp của nhà nước thông qua các chế độ, chính sách của tiền lương do hội đồng bộ trưởng ban hành. Tiền lương chủ yếu bao gồm hai bộ phận: phần trả bằng tiền dựa trên hệ thống thang lương, bảng lương và phần trả bằng hiện vật thông qua hệ thống tem, phiếu, sổ ( phần này chiếm tỷ lệ lớn). Theo cơ chế này, tiền lương không gắn chặt với số lượng và chất lượng lao động, không đảm bảo một cuộc sống ổn định cho cán bộ công nhân viên. Vì vậy nó không tạo ra được một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong cơ chế thị trường, sức lao động cũng có giá trị như các loại hàng hoá khác, có thể kích động ( tăng, giảm) phụ thuộc vào quan hệ cung cầu sức lao động. Nếu cung lớn hơn cầu sức lao động thì tiền lương giảm xuống. Ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu sức lao động tiền lương sẽ được nâng lên. Mặt khác giá trị sức lao động bằng giá trị tư liệu mức hoạt cần thiết để bù đắp lại sức lao động đã hao phí. Nếu giá cả tư liệu sinh hoạt thay đổi thì tiền lương danh nghĩa cũng được thay đổi. Tiền lương trong cơ chế thị trường chịu sự điều tiết của nhà nước hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động dựa trên số lượng và chất lượng lao động. Mặc dầu căn cứ vào giá trị sức lao động để xác định mức tiền lương, nhưng tiền lương mà người lao động nhận được lại căn cứ vào mức lao động đóng góp ( căn cứ vào số lượng và chất lượng tiêu hao). Thước đo số lượng và chất lượng lao động tiêu hao là thời gian lao động, trình độ nghề nghiệp của mỗi người hoặc số lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Như vậy ai làm được nhiều sản phẩm và có trình độ nghề nghiệp cao thì sẽ nhận được nhiều tiền lương. Bởi vậy trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiền lương đã trở thành một phương tiện quan trọng, đòn bẩy kinh tế để khuyến khích động viên người lao động hăng say sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Hiểu rõ bản chất tiền lương chúng ta sẽ đưa ra những chính sách ngày càng hoàn thiện để giúp người lao động yên tâm hơn trong công tác và tạo điều kiện để tiền lương phát huy hết chức năng của nó. 3. Chức năng của tiền lương 3.1. Chức năng thước đo giá trị Tiền lương là tiền trả cho sức lao động, tức là giá cả của hàng hoá sức lao động mà người sử dụng và người cung ứng thoả thuận với nhau theo luật cung cầu giá cả trên thị trường lao động. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc đã cống hiến cho doanh nghiệp. Khi tiền lương trả cho người lao động ngang với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra trong qúa trình thực hiện công việc xã hội có thể xác định chính xác hao phí sức lao động của toàn thể cộng đồng thông qua tổng quỹ lương cho toàn bộ người lao động. Điều này có ý nghĩa quan trọng giúp nhà nước hoạch định về các chính sách, chiến lược về lao động và tiền lương. 3.2. Chức năng tái sản xuất sức lao động Quá trình tái sản xuất sức lao động được thực hiện bởi việc trả công cho người lao động thông qua tiền lương. Theo Mác " sức lao động là toàn bộ khả năng về thể lực và trí tuệ tạo nên cho con người khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, sức lao động là sản phẩm của lịch sử luôn được hoàn thiện và nâng cao nhờ thường xuyên được khắc phục và phát triển. Bản chất của tái sản xuất sức lao động là duy trì và phát triển sức lao động nghĩa là đảm bảo cho người lao động có một khối lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để có thể duy trì phát triển sản xuất ra sức lao động, đồng thời nâng cao chất lượng sức lao động" 3.3. Chức năng kích thích sức lao động Về nguyên tắc, tiền lương phải được nâng lên sẽ làm cho người lao động có hiệu quả làm việc, có năng suất cao. Tiền lương được nâng lên sẽ làm cho người lao động say mê làm việc, phát huy tinh thần làm việc sáng tạo, có trách nhiệm hơn, tự học hỏi để nâng cao trình độ nghiệp vụ về khoa học kỹ thuật. Từ đó giúp họ làm việc có hiệu quả nhất với mức lương xứng đáng mà họ được hưởng. 3.4. Chức năng giám sát sức lao động Thông qua việc trả lương người sử dụng lao động sẽ tiến hành kiểm tra, theo dõi, giám sát sức lao động một cách sát sao, chặt chẽ nhất để đảm bảo tiền lương chi ra phải đem lại kết quả và hiệu quả rõ rệt. Hiệu quả tiền lương không thể tính theo tháng mà tính theo từng ngày, từng ca, từng giờ ở toàn doanh nghiệp, từng bộ phận hay từng người lao động. ở đây giải thích tại sao lương tháng của một công nhân thấp nhưng tính theo ngày lại cao. Vì họ không làm đủ ngày công trong tháng quy định. Nhà nước giám sát lao động bằng chế độ tiền lương đảm vảo quyền lợi tối thiểu mà người lao động được hưởng từ người sử dụng lao động cho việc hoàn thành công việc tránh người sử dụng lao động vì sức ép, vì lợi nhuận mà tìm mọi cách giảm chi phí từ đó có chi phí tiền lương trả cho người lao động. Nhờ chức năng này mà người sử dụng lao động quản lý một cách chặt chẽ về số lượng và chất lượng lao động của mình để trả công xứng đáng cho sức lao động. 3.5. Chức năng điều hoà lao động Nhà nước thông qua hệ thống chế độ, chính sách về tiền lương như hệ thống thang lương, bảng lương, các chế độ phụ cấp theo ngành, theo khu vực để làm công cụ điều tiết lao động tạo điều kiện cho người lao động cảm thấy thoả mãn, tránh tình trạng tập trung ở một số công việc và khu vực trọng điểm. Như vậy tiền lương đã góp phần tạo ra một cơ cấu lao động hợp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển cân đối giữa các ngành và các vùng trên toàn quốc. Các phương pháp xác định quỹ tiền lương của doanh nghiệp Quỹ tiền lương bao gồm: quỹ tiền lương theo đơn giá và kết quả sản xuất kinh doanh, quỹ tiền lương của giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng.Riêng đối với các doanh nghiệp xây dựng đơn giá tiền lương trên đơn vị sản phẩm cần có quỹ tiền lương bổ sung cho thời gian, không tham gia sản xuất theo chế độ của nhà nước. Tổng quỹ tiền lương nói trên là chi phí hợp lệ trong giá thành sản phẩm và chi phí lưu thông để trả công lao động, hơn nữa làm căn cứ xác định lợi tức chưa thuế của doanh nghiệp. Phương pháp xác định đơn giá tiền lương Đơn giá tiền lương tính trên một đơn vị sản phẩm(sản phẩm quy đổi) Đơn giá tiền lương tính trên một đơn vị sản phẩm được xác định bằng tổng các thông số a, b, c dưới đây: Tiền lương theo đơn vị sản phẩm ở các nguyên công, công đoạn trong quá trình công nghệ sản xuất(cá nhân hay tổ đội bao gồm) - Hệ số và mức lương theo cấp bậc công việc - Định mức lao động(định mức số lượng, định mức thời gian) - Hệ số và mức phụ cấp lao động các loại theo quy định của nhà nước nếu có gồm: phụ cấp khu vực, phụ cấp độc hại, phụ cấp nguy hiểm, phụ cấp trách nhiệm. Tiền lương trả theo thời gian cho công nhân chính và phụ trợ ở khâu còn lại trong dây chuyền công nghệ sản phẩm nhưng không có điều kiện trả lương theo sản phẩm được phân bổ cho đơn vị sản phẩm bao gồm: Hệ số và mức lao động theo cấp bậc công việc được xác định ở mỗi khâu công việc. Định mức thời gian ở mỗi khâu công việc. Hệ số và mức phụ cấp lương các loại (nếu có) Tiền lương của viên chức chuyên môn, thừa hành, phục vụ tiền lương chức vụ và phụ cấp chức vụ của lao động quản lý được phân bổ cho các đơn vị sản phẩm bao gồm: Hệ số và mức lương bình quân của viên chức chuyên môn, thừa hành, phục vụ, tiền lương chức vụ. Định mức lao động của viên chức chuyên môn, thừa hành, phục vụ. Hệ số và mức phụ cấp lương các loại như điểm a, kể cả phụ cấp chức vụ(nếu có) Đơn giá tiền lương được tính trên tổng doanh thu trừ tổng chi phí: Đơn giá tiền lương được xác định theo công thức sau: Kt1 = Vkh Tổng doanh thu kế hoạch – tổng chi phí kế hoạch(không có tiền lương) Trong đó: + Kt1 : là đơn giá tiền lương + Vkh : là quỹ tiền lương kế hoạch tính theo chế độ của doanh nghiệp(không bao gồm tiền lương của giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng) được tính = tổng số lao động định biên hợp lý * tiền lưong bình quân theo chế độ, kể cả hệ số và mức phụ cấp lương các loại như điểm a (nếu có). +Tổng doanh thu kế hoạch: là tổng doanh thu kế hoạch bao gồm toàn bộ số tiền thu được về tiêu thụ sản phẩm ,hàng hóa, kinh doanh dịch vụ chính và phụ theo quy định của nhà nước. + Tổng chi phí kế hoạch: là tổng chi phí kế hoạch bao gồm toàn bộ các khoản chi phí hợp lệ, hợp lý trong giá thành sản phẩm và phí lưu thông(chưa có tiền lương) và các khoản phải nộp ngân sách theo quy định hiện hành của nhà nước(trừ thuế lợi tức). Đơn giá tiền lương tính lợi nhuận Kt1 = Vkh Pkh Trong đó:Kt1 : là đơn giá tiền lương Vkh : là quỹ tiền lương kế hoạch Pkh : là lợi nhuận kế hoạch xác định theo quy định hiện hành của nhà nước Đơn giá tiền lương tính trên doanh thu Kt1 = vkh Tổng doanh thu kế hoạch Trong đó: các ký hiệu giống ở phần 1.2. Xác định quỹ tiền lương thực hiện Quỹ tiền lương thực hiện bao gồm:(a +b) quỹ tiền lương của giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng. Quỹ tiền lương xác định theo đơn giá tiền lương(tính như quy định phần II)và kết quả sản xuất kinh doanh như sau: Bước 1. Quỹ tiền lương thực hiện theo đơn vị sản phẩm = Đơn giá tiền lương * Tổng sản phẩm, hàng hóa thực hiện + Quỹ tiền lương bổ sung Quỹ tiền lương bổ sung là tiền lương trả cho thời gian không tham gia sản xuất theo chế độ được hưởng lương cho công nhân(chính và phụ trợ) gồm: nghỉ phép năm, nghỉ phép việc riêng, nghỉ lễ, nghỉ theo chế độ lao động nữ… Bước 2. Quỹ tiền lương thực hiện theo tổng doanh thu – tổng chi phí = Đơn giá tiền lương * Tổng doanh thu thực hiện – tổng chi phí thực hiện(chưa có tiền lương) Tổng doanh thu thực hiện và tổng chi phí thực hiện đã loại trừ các yếu tố tăng, giảm do các nguyên nhân khách quan, được cơ quan có thẩm quyền quy định. Bước 3. Quỹ tiền lương thực hiện theo lợi nhuận = Đơn giá tiền lương * Lợi nhuận thực hiện Lợi nhuận thực hiện để xác định quỹ tiền lương thực hiện theo lợi nhuậnđược tính theo công thức sau: Tổng doanh thu thực hiện - Tổng chi phí thực hiện(chưa có lương) 1 + đơn giá tiền lương Bước 4. Quỹ tiền lương thực hiện theo doanh thu = Đơn giá tiền lương * Tổng doanh thu thực hiện Tổng doanh thu thực hiện nói trên phân loại trừ yếu tố tăng, giảm do nguyên nhân khách quan. Để phát huy được tác dụng của tiền lương doanh nghiệp cần phải chú ý những vấn đề cơ bản sau: Lập kế hoạch xác định quỹ tiền lương của toàn doanh nghiệp trong một năm. Xác định được mức tiền lương bình quân trong một năm của một công nhân, công nhân viên trong doanh nghiệp. Xác định phương thức phân phối tiền lương nội bộ căn cứ vào nguyên tắc phân phối theo lao động đảm bảo vừa kích thích, vừa kiểm tra được công việc của họ. 3.Quỹ tiền lương Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả cho tất cả các khoản tiền lương và các khoản có tính chất tiền lương của toàn bộ công nhân viên mà doanh nghiệp quản lý. Quỹ tiền lương trong doanh nghiệp bao gồm: Tiền lương tính theo thời gian. Tiền lương tính theo sản phẩm. Tiền lương trả cho người lao động nghỉ phép, đi học theo chế độ quy định. Tiền lương phải trả cho người lao động trong thời gian ngừng việc do những nguyên nhân khách quan. Tiền phụ cấp trách nhiệm. Tiền phụ cấp công tác lưu động. Tiền thưởng có tính chất thường xuyên. Ngoài ra quỹ tiền lương kế hoạch còn được tính cả các khoản tiền chi trợ cấp, bảo hiểm xã hội cho công nhân viên trong thời gian ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Về phương diện hạch toán, tiền lương được chia làm hai loại là tiền lương chính và tiền lương phụ: Tiền lương chính: là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế có làm việc bao gồm cả tiền lương cấp bậc, tiền thưởng và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương. Tiền lương phụ: là tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế không làm việc nhưng được chế độ quy định như nghỉ phép, hội họp, học tập, lễ tết, ngừng sản xuất. Việc phân chia quỹ tiền lương thành lương chính, lương phụ có ý nhĩa quan trọng trong công tác hạch toán tiền lương, phân tích khoản mục chi phí tiền lương trong giá thành sản xuất sản phẩm. Doanh nghiệp có quyền tự xây dựng quỹ tiền lương, tự xây dựng quy chế trả lương nhưng phải được cấp trên quy định đơn giá tiền lương và duyệt quy chế trả lương của doanh nghiệp trên cơ sở phải đảm bảo các chế độ chính sách về tiền lương và BHXH của nhà nước. Doanh nghiệp có quyền tự chọn các hình thức trả lương và các hình thức trả tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nhằm kích thích người lao động không ngừng tăng năng suất lao động. Mức thu nhập của mỗi người trong doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phụ thuộc vào năng suất chất lượng và hiệu quả công tác của từng người. Nhà nước không can thiệp vào việc xây dựng quỹ lương của doanh nghiệp không quản lý quỹ lương mà chỉ giám sát việc sử dụng quỹ lương thông qua việc giám sát các chế độ chính sách về tiền lương. Các doanh nghiệp không được trả lương cho người lao động thấp hơn mức tối thiểu hiện này là 290.000đồng/ tháng. Nhưng nhà nước cũng có chính sách điều tiết đối với thu nhập cao bằng thuế thu nhập. 4.Cách xác định đơn giá lương Nếu là sản phẩm do nhà nước định giá thì đơn giá tiền lương đựợc tính bằng tiền lương tuyệt đối trên một đơn vị sản phẩm hoặc tỷ lệ tiền lương trên tổng doanh thu. Nếu là sản phẩm do doanh nghiệp định giá thì đơn giá tiền lương được tính bằng tỷ lệ tiền lương trên giá bán một đơn vị sản phẩm( nếu sản phẩm ổn định), hoặc là tỷ lệ tiền lương trên tổng doanh thu( nếu sản phẩm không ổn định). Các hình thức trả lương trong doanh nghiệp Nguyên tắc trả lương Trả lương cho người lao động một mặt phải đem lại hiệu quả kinh tế cao, thể hiện năng suất lao động của doanh nghiệp không ngừng được tăng lên, sử dụng thời gian có hiệu quả nhất, phân phối sức lao động một cách hợp lý nhất giữa các ngành, các bộ phận sản xuất, các đơn vị, ở từng cấp quản lý bảo đảm khuyến khích người lao động. Mặt khác, việc trả lương phải tuân theo quy luật phân phối theo lao động, có tính đến các yếu tố cung cầu sức lao động, các thoả thuận giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Do đó yêu cầu của vấn đề này phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau Trong các doanh nghiệp, vận dụng quy luật phân phối theo lao động, việc trả lương không có sự phân biệt giữa giới tính, tuổi tác, tôn giáo...Mỗi người trong đơn vị với quyền và nghĩa vụ lao động của mình, được hưởng thù lao lao động như nhau. Quán triệt nguyên tắc này đòi hỏi các chủ doanh nghiệp trả lương công bằng cho người lao động trong đơn vị, giúp họ tích cực phấn đấu và yên tâm với công việc của mình. Đảm bảo tốc độ tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng của tiền lương bình quân. Do tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá thành sản phẩm và giá cả hàng hoá, trong doanh nghiệp việc trả lương còn phải căn cứ vào năng suất lao động. Tiền lương phải có tác dụng kích thích sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tiền lương tăng lên chỉ trên cơ sở tăng năng suất lao động, tăng được hiệu quả sản xuất trong doanh nghiệp. Thực hiện đầy đủ nguyên tắc này đảm bảo hạ giá thành sản phẩm, hạ giá cả hàng hoá, tăng được khối lượng bán ra. Từ đó có tích luỹ cho doanh nghiệp, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa ba lợi ích: lợi ích tập thể-xã hội-người lao động. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa các ngành Tiền lương là công cụ điều tiết kinh tế của nhà nước, việc thực hiện nguyên tắc này giúp cho nhà nước tạo ra sự cân đối giữa các ngành, khuyến khích sự phát triển nhanh chóng của các ngành kinh tế mũi nhọn. Đồng thời đảm bảo lợi ích cho người lao động ở các ngành khác nhau. Các hình thức trả lương Hình thức tiền lương theo thời gian Hình thức này thường áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng như hành chính, quản trị, tổ chức lao động, thống kê, tài vụ, kế toán... Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ voà thời gian làm việc thực tế. Tiền lương theo thời gian có thể tính theo tháng,theo ngày, theo giờ công tác và gọi là lương tháng, lương ngày, lương giờ. Tiền lương tháng: là tiền lương cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động. Công thức tính: Tiền lương phải trả trong một tháng = Tiền lương ngày * Số ngày LV thực tế trong một tháng Tiền lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc và được tính như sau: Tiền lương ngày = Tiền lương tháng 26 Tiền lương giờ: là tiền lương trả cho một giờ làm việc được tính như sau: Tiền lương giờ = Tiền lương ngày Số giờ tiêu chuẩn Ưu điểm của hình thức trả lương theo thời gian là phù hợp với những loại công việc mà không thể định mức hoặc không nên định mức một cách cụ thể, mặt khác tính toán đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng. Nhược điểm: do những hạn chế nhất định của hình thức trả lương theo thời gian( mang tính bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả sản xuất ) Do đó không kích thích người công nhân tận dụng thời gian lao động nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Nên để khắc phục phần nào hạn chế đó trả lương theo thời gian có thể kết hợp với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng hái làm việc. Hình thức trả lương theo thời gian có hai loại: lương thời gian giản đơn và lương thời gian có thưởng. Lương thời gian giản đơn Công thức: Tiền lương phải trả cho CNV trong tháng = Mức lương theo thang bảng lương + Các khoản phụ cấp khác Các khoản phụ cấp khác có thể là những khoản phụ cấp độc hại, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực. Tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà tính những loại phụ cấp phù hợp theo quy định của nhà nước. Hình thức trả lương theo thời gian giản đơn có nhược điểm cơ bản là không xét đến thái độ lao động đến hình thức sử dụng thời gian lao động, sử dụng nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị… Nên không tránh được hiện tượng bình quân chủ nghĩa, trong thực tế hình thức này ít sử dụng. Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng Hình thức này dựa trên sự kết hợp giữa tiền lương theo thời gian giản đơn với chế độ tiền thưởng. Công thức: Tiền lương phải trả cho người lao động = Tiền lương theo thời gian giản đơn + Tiền thưởng Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động, bởi vì việc trả lương không chỉ xét tới thời gian lao động và trình độ lành nghề mà còn xét tới thái độ lao động, ý thức trách nhiệm tinh thần sáng tạo trong lao động thông qua các hình thức tiền thưởng. Hình thức trả lương theo sản phẩm Tiền lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương cơ bản và chủ yếu được áp dụng rộng rãi trong các xí nghiệp công nghiệp. Theo hình thức này việc trả lương được tiến hành căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm, công việc hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm công việc đó: Tiền lương sản phẩm phải trả = Khối lượng sản phẩm hoặc công việc đã hoàn thành * Đơn giá tiền lương Ưu điểm của hình thức trả lương theo sản phẩm: đây là phương pháp trả lương khoa học, quán triệt được phương pháp phân phối theo lao động có tác dụng kích thích người lao động trong lao động sản xuất. Tiền lương ( thu nhập về tiền lương) của người lao động nhiều hay ít hoàn toàn phụ thuộc voà kết quả lao động của họ, đồng thời cách trả lương này cũng gắn trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp, gắn trách nhiệm của người quản lý sao cho cùng với chi phí tiền lương ấy doanh nghiệp thu được lợi nhuận tối đa. Nhược điểm lớn nhất của hình thức trả lương theo sản phẩm là việc xây dựng cho được một mức lao động cho nhiều loại hình công việc trên thực tế là rất khó, hơn nữa việc xây dựng được một định mức lao động tiên tiến có tính đến tiến bộ khoa học kỹ thuật là tương đối khó khăn. Trong cách trả lương này việc xác định một cách chính xác khối lượng thực hiện đòi hỏi doanh nghiệp phải có một bộ phận theo dõi đủ tin cậy và có hiệu quả, đảm bảo theo dõi một cách chính xác, đầy đủ và kịp thời tất cả các công việc đã hoàn thành của doanh nghiệp. Tiền lương trả theo sản phẩm bao gồm các hình thức tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân trực tiếp, tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân gián tiếp, tiền lương theo sản phẩm tập thể, tiền lương theo sản phẩm luỹ tiến, tiền lương khoán. Tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp Theo hình thức này, tiền lương của công nhân được xác định theo sản lượng sản phẩm sản xuất ra và đơn giá lương sản phẩm: Lt= Q * Đg Trong đó: Lt : tiền lương theo sản phẩm cá nhân trực tiếp Q : số lượng sản phẩm hợp quy cách tính theo đơn vị hiện vật Đg : đơn giá lương sản phẩm Đơn giá lương sản phẩm là tiền lương trả cho một đơn vị sản phẩm hoàn thành và được xác định căn cứ vào mức lương cấp bậc công việc và định mức thời gian hoặc định mức sản lượng cho công việc đó. Hình thức tiền lương này đơn giản, dễ hiểu đối với người công nhân. Nó áp dụng rộng rãi trong các xí nghiệp công nghiệp đối với những công nhân trực tiếp sản xuất mà công việc có thể định mức và hạch toán kết quả riêng cho từng ngành. Tuy nhiên hình thức tiền lương này cũng có nhược điểm là không khuyến khích người công nhân quan tâm đến thành tích chung của tập thể. Tiền lương sản phẩm cá nhân gián tiếp Lương sản phẩm cá nhân gián tiếp được áp dụng đối với những công nhân phụ, phục vụ sản xuất như công nhân điều chỉnh máy, sửa chữa thiết bị… mà kết quả công tác của họ có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả công tác của những công nhân đứng máy nhằm khuyến khích họ nâng cao chất lượng phục vụ. Tiền lương của công nhân phụ được xác định bằng cách nhân số lượng sản phẩm thực tế của công nhân chính được người đó phục vụ với đơn giá lương cấp bậc của họ với tỷ lệ % hoàn thành định mức sản lượng bình quân của những công nhân chính. Có thể biểu diễn bằng công thức: Lp = Sc * Đsg Hoặc: Lp = Mp * Tc Trong đó: Lp : tiền lương công nhân phụ Sc : số lượng sản phẩm của công nhân chính Đsg : đơn giá sản phẩm gián tiếp Mp : mức lương cấp bậc của công nhân phụ Tc : tỷ lệ hoàn thành định mức sản lượng bình quân của công nhân chính % Đơn giá lương sản phẩm gián tiếp được tính bằng cách: Đsg = Mp Đmc Trong đó: Đmc : định mức sản lượng của công nhân chính Hình thức tiền lương này không phản ánh chính xác kết quả lao động của công nhân phụ nhưng nó lại làm cho mọi người trong cùng một bộ phận công tác quan tâm đến kết quả chung. Việc khuyến khích vật chất đối với công nhân phụ sẽ có tác dụng nâng cao năng suất lao động của công nhân chính. Trả lương theo sản phẩm tập thể Trong trường hợp này thì tiền lương sản phẩm trước hết được tính chung cho cả tập thể, sau đó tính và chia cho từng người trong tập thể, cụ thể như sau: Nếu xác định đơn giá cho một sản phẩm thì: Đơn giá = Lcbcnv + phụ cấp Mức sản lượng từng cá nhân Xác định tiền lương cho cá nhân tập thể: Tiền lương = Đơn giá * Số lượng thực tế của cả tập thể Chia tiền lương cho từng người lao động: Cách 1. Chia theo thời gian làm việc thực tế và hệ số lương theo cách chia này gồm 3 bước: Bước 1. Ta tính đổi thời gian làm việc thực tế của người lao động ở những cấp bậc khác nhau về thời gian làm việc thực tế của người lao động bậc 1 để so sánh: Thời gian làm việc quy đổi từng người lao động( Tqđ) = Thời gian làm việc thực tế của người lao động( Ttt) * Hệ số lương cấp bậc của từng người Bước 2. Tính tiền lương của một đơn vị thời gian làm việc quy đổi: Tiền lương của một đơn vị thời gian làm việc quy đổi = Tiền lương cả tập thể Thời gian làm việc quy đổi Bước 3. Tính tiền lương của từng người lao động: LNLA = Tqđ * Lqđ Trong đó: LNLA : lương người lao động Tqđ : thời gian làm việc quy đổi Lqđ : lương quy đổi Cách 2: Chia theo hệ số chênh lệch giữa tiền lương thời gian và tiền lương sản phẩm gồm 3 bước: Bước 1. Tính tiền lương theo cấp bậc công việc và thời gian làm việc của từng người lao động: TLNLA = LCBCNV( của một đơn vị thời gian) * Ttt Trong đó: TLNLA : thời gian làm việc của người lao động LCBCNV : lương cấp bậc Ttt : thời gian làm việc thực tế Bước 2. Tính hệ số chênh lệch giữa tiền lương sản phẩm và tiền lương thời gian: Hs = Lsp TLNLĐ Trong đó: Lsp : lương sản phẩm TLNLĐ : thời gian làm việc của người lao động Bước 3. Tính tiền lương của người lao động LNLĐ = Ttt * Hs Trả lương theo sản phẩm tập thể có tác dụng khuyến khích người công nhân quan tâm đến kết quả sản xuất chung của cả tổ, phát triển việc kiểm nghiệm nghề nghiệp và nâng cao trình độ của công nhân. Tuy nhiên do nhược điểm của việc chia lương chưa tính đến thái độ lao động, đặc đỉêm sức khoẻ, sự nhanh nhẹn tháo vát hoặc kết quả của từng công nhân nên trong chừng mực nhất định tiền lương của mỗi người chưa thật gắn với sự đóng góp của họ vào thành tích chung của tổ. Hình thức tiền lương sản phẩm luỹ tiến Tiền lương trả theo hình thức này gồm hai phần: Phần thứ nhất: căn cứ vào mức độ hình thành định mức lao động tính ra tiền lương trả theo sản phẩm trong định mức. Phần thứ hai: căn cứ vào mức độ vượt định tính ra tiền lương phải trả cho người lao động theo tỷ lệ luỹ tiến, tỷ lệ hoàn thành vượt định mức nâng cao thì suất luỹ tiến càng nhiều. Ưu điểm của hình thức này: kích thích mạnh mẽ việc tăng năng suất lao động, nên được áp dụng trong nhiều khâu quan trọng để đẩy nhanh tốc độ sản xuất, đảm bảo cho việc sản xuất cân đối, đồng bộ, áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp phải hoàn thành gấp một đơn đặt hàng nào đó. áp dụng hình thức này đòi hỏi phương pháp tổ chức quản lý tốt định mức lao động kiểm tra và nghiệm thu chặt chẽ số lượng và chất lượng sản phẩm, tránh làm tăng khoản chi phí trong khâu tính giá thành sản phẩm làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Để đảm bảo hình thức trả lương theo sản phẩm lũy tiến có hiệu quả, cần chú ý điều kiện cơ bản: Mức tăng của đơn giá tiền lương phải nhỏ hơn hoặc bằng mức tiết kiệm chi phí cố định, mức tăng đơn giá được khống chế theo công thức sau: Kđ = C(H- 1) L * H Trong đó: Kđ : là hệ số tăng của đơn giá sản phẩm lũy tiến. L : là hệ số tiền lương trong giá thành đơn vị sản phẩm. H : hệ số sản lượng đạt. C : hệ số chi phí cố định trong giá thành đơn vị sản phẩm. Hình thức trả lương khoán sản phẩm Tiền lương khoán là một hình thức đặc biệt của tiền lương trả theo sản phẩm, trong đó tổng số tiền lương trả cho công nhân hoặc một nhóm công nhân được quy định trước cho một khối lượng công việc hoặc khối lượng sản phẩm nhất định phải được hoàn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0398.doc