Lời mở đầu
Trong bối cảnh đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế nước ta đòi hỏi cần có một khối lượng vốn rất lớn. Điều đó tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại thực hiện vai trò “trung gian tài chính” của mình. Tuy nhiên trong một vài năm gần đây các hoạt động của ngân hàng có xu hướng chững lại và xuất hiện tình trạng ứ đọng vốn trong khi các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế lại đang nằm trong tình trạng thiếu vốn để tổ chức sản xuất và thực hiện các dự án
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì rất nhiều nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu đó là chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng chưa được quan tâm một cách đúng mức, hoạt động cho vay còn nặng về trường hợp “ bảo đảm vốn vay bằng tài sản thế chấp”
Qua thời gian thực tập tại Sở Giao Dịch NHNoVN em nhận thấy đây cũng là một trong những mối quan tâm của Sở Giao Dịch đã và đang được xem xét, nghiên cứu để tìm ra các giải pháp để khắc phục tình trạng trên. Xuất phát từ tình hình thực tế của Sở Giao Dịch em đã chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN”
Đề tài đi tìm hiểu từ lí luận đến thực trạng của Sở Giao Dịch và cuối cùng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện qui trình thẩm định, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay trung dài hạn nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch nói chung.
Kết cấu của đề tài:
Phần I: Những vấn đề chung về thẩm định tài chính của NHTM
Phần II: thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Phần III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Do thời gian thực tế còn hạn chế và kiến thức hạn hẹp nên nội dung đề tài khó tránh khỏi thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để cho đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em chân thành cảm ơn thầy giáo Đàm Văn Huệ đã hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành đề tài.
Hà nội tháng 3/2002
Sinh viên
Nguyễn Hoàng Hà.
Phần I
những vấn đề chung về thẩm định
tài chínH của nhtm
I. đầu tư và thẩm định dự án đầu tư.
Trong hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng ở nước ta hiện nay cũng như trong hoạt động Ngân hàng thường xuất hiện các cụm từ “ dự án đầu tư”, “hoạt động đầu tư”... để đi sâu vào lĩnh vực này ta cần hiểu ý nghĩa của thuật ngữ.
1.Hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư hay ngắn gọn là đầu tư hiểu theo nghĩa rộng nhất là quá trình sử dụng các nguồn lực để đạt được những mục tiêu nhất định trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, hoạt động đầu tư được hiểu một cách ngắn gọn là hoạt động bỏ vốn nhằm thu lợi trong tương lại. “Vốn” ở đây được hiểu là toàn bộ vốn bằng tiền mặt, giá trị thiết bị, nhà xưởng, tài nguyên, đất đai... và “lợi” được hiểu là lợi nhuận và các lợi ích kinh tế khác.
2. Dự án đầu tư.
Theo nghĩa rộng dự án đầu tư là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với những mục tiêu, phương pháp và phương tiện để đạt được trạng thái mong muốn.
Về nội dung, dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động dự kiến với các nguồn lực và chi phí cần thiết, được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa điển xác định để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm thực hiện mục tiêu lợi nhuận hoặc những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Trong hoạt động thẩm định cho vay của ngân hàng thì : Dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải taọ những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
Như vậy, dự án đầu tư không phải là một ý định hay phác thảo mà có tính cụ thể và mục tiêu xác định nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất định. Nó còn là phương tiện thuyết phục chủ yếu để tìm kiếm sự tài trợ từ các tổ chức tài chính, chính phủ...
3. Các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư:
Để hiểu rõ hơn về hoạt động đầu tư thì việc phân tích các đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là cần thiết, nhìn chung hoạt động đầu tư có một số đặc trưng cơ bản sau:
3.1. Là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định đầu tư thường và trước hết là Quyết định tài chính.
Vốn được hiểu là các nguồn lực sinh lời, vốn được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng có thể sử dụng một thước đo chung đó là gía trị (được thể hiện qua đơn vị tiền tệ). Vì hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên Quyết định đầu tư thường xuyên được xem xét từ phương diện tài chính (phải bỏ bao nhiêu vốn, lời lãi bao nhiêu...). Trên thực tế hoạt động đầu tư, các Quyết định chi tiêu, thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách và cũng luôn được xem xét từ khía cạnh tài chính nói trên. Việc xem xét, đánh giá các dự án đầu tư của người ra Quyết định đầu tư hay của nhà tài trợ trước hết cũng trên khía cạnh tài chính. Một số dự án chỉ có thể thực hiện nếu có tính khả thi về mặt tài chính.
3.2. Là hoạt động diễn ra trong khoảng thời gian dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài, bởi vì các hoạt động đầu tư thường luôn có số lượng vốn bỏ ra rất lớn do đó để thu hút đủ vốn đầu tư và sinh lời thì cần phải có một khoảng thời gian nhất định. Đây là đặc trưng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư.
Do tính chất lâu dài nên sự trù liệu ban đầu đều là dự tính, chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều yếu tố. Chính điều này là một trong những vấn đề hệ trọng tính đến trong mọi nội dung phân tích, đánh giá quá trình thẩm định dự án.
3.3. Là hoạt động luôn cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.
Đầu tư về phương diện nào đó là một sự hy sinh lợi ích hiện tại đánh đổi lấy lợi ích trong tương lai (vốn để đầu tư không phải là nguồn lực để dành) Vì vậy luôn có sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư chỉ trong điều kiện lợi ích thu trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện tại mà họ tạm thời phải hi sinh.
3.4. Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
Hoạt động đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro bởi vì kết quả của hoạt động đầu tư là không thể dự tính một cách khách quan tại thời điểm Quyết định đầu tư, Quyết định đầu tư phần nào mang tính chủ quan của nhà đầu tư và không thể lường hết những thay đổi của môi trường tác động vào dự án trong tương lai (thay đổi về thị trường, về sản phẩm đầu vào, đầu ra, lạm phát...). Vì vậy, chấp nhận rủi ro như là bản năng của nhà đầu tư. Tuy nhiên nhận thức rõ ràng điều này nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi ro xảy ra là thấp nhất.
Thông qua những đặc trưng của hoạt động đầu tư giúp nhà đầu tư có đựơc cái nhìn bao quát về mọi khía cạnh của dự án. Từ đó giúp cho quá trình phân tích, đánh giá dự án một cách cặn kẽ và chính xác. Đồng thời tìm ra phương pháp, biện pháp nhằm hạn chế rủi ro bởi các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án.
4. Thẩm định dự án đầu tư và ý nghĩa của nó.
Một mặt, vì liên quan đến một thực tế trong tương lai, bất kì một dự án đầu tư nào cũng mang tính phỏng định và mang trong mình nó một độ bất định.
Mặt khác, một dự án đầu tư thường do chủ dự án lập hoặc thuê các tư vấn lập trên cơ sở các ý đồ kinh doanh và mong muốn của chủ dự án. Các nhà soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Do vậy, một dự án dù soạn thảo kỹ đến đâu (theo đánh giá của người lập) cũng mang tính chủ quan của ngươì soạn thảo và không xem xét, dự tính, đánh giá hết được tất cả các khía cạnh liên quan hoặc đôi khi ý đồ của nhà đầu tư mà một số khía cạnh không được đề cập đến.
Bên cạnh đó, Quyết định đầu tư hay tài trợ theo một dự án đầu tư là một Quyết định tài chính dài hạn, đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian hoàn trả vốn dài, chịu ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố thị trường nên chủ dự án và nhà tài trợ cũng cần xem xét, đánh giá, kỹ càng trước khi Quyết định đầu tư. Hơn nữa, dự án đầu tư trước khi được thực hiện sẽ còn liên quan, ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều bên liên quan khác nên nó cần được xem xét từ nhiều phía của các bên liên quan để thấy được lợi ích thực do dự án đầu tư đem lại cho các bên, cho xã hội.
Vậy: Thẩm định dự án đầu tư là việc phân tích, đánh giá, xem xét một các khách quan, có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án để từ đó ra các Quyết định đầu tư, cho phép đầu tư hay ra các Quyết định tài trợ.
Về phía chủ đầu tư: Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tối ưu, có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện, khả năng tự có cũng như khả năng huy động các nguồn vốn, và giảm chi phí chuẩn bị cũng như tiến hành hoạt động đầu tư đem lại lợi nhuận cao trong tương lại để Quyết định đầu tư.
Về phía các cơ quan quản lí vĩ mô của nhà nước: Việc thẩm định dự án đầu tư sẽ giúp các cơ quan này đánh giá được tính cần thiết và phù hợp của dự án với chiến lược, chương trình, kế hoạch kinh tế quốc dân thông qua các chương trình phát triển liên kết, kế hoạch sản xuất ngành, địa phương, các công trình hỗ trợ trên các mặt: Mục tiêu, quy hoạch và hiệu quả. Nó giúp xác đinh được cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt khi đi vào hoạt động như công nghệ cũ, vốn, gây ô nhiễm môi trường và các lợi ích kinh tế xã hội khác.
Về phía các nhà tài trợ: Việc thẩm định sẽ giúp họ đánh giá, xem xét lại các chi phí và hiệu quả của dự án, các luồng dịch chuyển về giá trị trên cơ sở đó có chấp nhận các kế hoạch trả nợ không và từ đó có Quyết định tài trợ đúng đắn. Điều này giúp cho các nhà tài trợ hỗ trợ chủ dự án sử dụng đồng vốn có hiệu quả đồng thời bảo đảm sự an toàn tài chính cho chính nhà tài trợ.
Tóm lại, thẩm định dự án đầu tư là một công việc cần thiết, mặc dù đôi khi khá phức tạp do có sự tồn tại của các cơ hội kinh tế thay thế lẫn nhau để tận dụng các nguồn lực.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư:
Có nhiều khía cạnh có liên quan, tương hỗ khác nhau cùng tạo nên một dự án tổng thể. Nhìn chung, chúng thuộc loại hình kỹ thuật, kinh tế, kinh tế, tài chính và pháp luật, nhưng quan hệ của chũng làm rõ tới mức toàn bộ chúng cần phải được cân nhắc, xem xét trước khi ra Quyết định đầu tư.
+ Thẩm định các điều kiện pháp lý và mục tiêu của dự án:
Thẩm định với tư cách pháp nhân của chủ đầu tư (Quyết định thành lập, giấy phép kinh doanh, văn bản bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng). Xem xét các hồ sơ trình duyệt có đủ theo quy định của nhà nước và pháp luật có đúng, hợp lệ hay không
Thẩm định mục tiêu dự án để xem xét xem: mục tiêu của dự án có phù hợp với chương trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước, vùng hay địa phương, ngành hay không. Ngành nghề trong dự án có thuộc nhóm ngành nghề nhà nước cho phép hoạt động hay không. Có thuộc nhóm ngành nghề ưu tiên hay không.
+ Thẩm định về thị trường của dự án:
Khía cạnh này cho phép thấy được đầu ra của dự án có thực hiện được không khi dự án được tiến hành. Vì vậy nội dung của thẩm định là kiểm tra, xem xét sản phẩm của dự án được sử dụng để đáp ứng nhu cầu trong nước hay bán trên thị trường quốc tế. Dự án có những ưu thế và bất lợi gì so với các đối thủ cạnh tranh. Lưu ý đến xu hướng sản phẩm xét theo trình độ phát triển công nghệ và chu kỳ sản phẩm.
Xem xét thị trường là cơ sở cho việc lựa chọn quy mô của dự án, lựa chọn thiết bị, công suất và dự kiến khả năng tiêu thụ. Phân tích và dự đoán đúng về thị trường là một công việc khó khăn, song độ chính xác của phân tích thị trường sẽ ảnh hưởng tới thành công của dự án.
+ Thẩm định khía cạnh kỹ thuật của dự án:
Mục tiêu thẩm định ở đây là để kiểm tra việc xác định cấu hình kỹ thuật cũng như những phương diênj cốt yếu khác định hình trên dự án. Câu hỏi đặt ra ở đây cần trả lời là liệu dự án có thực hiện về mặt kỹ thuật hay không. Thông tin vè đời công nghệ hữu dụng của dự án. Thường thì khía cạnh này được quan tâm ngay từ khi lập dự án, vì các chủ đầu tư phải ta được Quyết định việc lựa chọn trang thiết bị, máy móc, quy trình công nghệ.
Nhưng các nhà thẩm định độc lập sẽ kiểm tra công cụ sử dụng trong tính toán. trong đó lưu ý đặc biệt đến các định mức kinh tế kỹ thuật. Đối với định mức kinh tế - kỹ thuật phải rà soát cho phù hợp với điều kiện cụ thể của dự án như:
- Kiểm tra những sai sót trong tính toán: tính toán không đúng, không đủ, không phù hợp.
- Kiểm tra tính phù hợp của công nghệ thiết bị đối với dự án, cũng như tác động của chúng đến môi trường.
+ Thẩm định khía cạnh nhân lực và tổ chức quản lí.
Việc thẩm định dự án để cho được hiệu quả thì không thể chỉ hạn chế trong việc đánh giá về tài chính và kinh tế các chi phí và lợi ích với giả thiết rằng dự án sẽ được xây dựng và hoạt động đúng kỳ hạn. Điều này giả thiết là phải có sự hỗ trợ về mặt hành chính để thực hiện dự án, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, mà ở nhiều nước việc đó lại hoàn toàn không có. Rất nhiều dự án đã thất bại vì chúng đã được thực hiện trong điều kiện không có sự hiểu biết về quản lí hành chính cần thiết cho việc triển khai dự án theo đúng yêu cầu quy định. Triển vọng các lợi ích về mặt kinh tế tài chính có đạt được hay không là tuỳ thuộc vào năng lực quản lí hành chính của cơ quan có trách nhiệm thi hành dự án.
Bên cạnh đó thị trường lao động cần phải được nghiên cứu kỹ nhằm đảm bảo rằng các tính toán về các mức tiền lương phải trả là chính xác, cũng như nguồn cung cấp nhân lực dự trù là hợp lí trong điều kiện cụ thể của thị trường lao động đảm bảo được chất lượng công việc trong dự án.
+ Thẩm định khía cạnh tài chính của dự án.
Quá trình phân tích tài chính là khâu tổng hợp đầu tiên các biến số tài chính với các biến số kỹ thuật đã được tính toán trong các phần nêu trước đây và là dữ liệu đầu vào cho các khâu thẩm định kinh tế - xã hội về sau.
Thẩm định tài chính là khâu hết sức quan trọng để các nhà đầu tư cũng như các nhà tài trợ hay các nhà quản lí có thể đưa ra các Quyết định đầu tư đúng đắn (Bởi vì chỉ rõ lợi ích kinh tế cụ thể đối với họ). Vấn đề này sẽ được đề cập kĩ hơn ở phần sau.
+ Thẩm định về kinh tế - xã hội.
Nếu như mục đích của thẩm định tài chính dự án là nhằm đánh giá dự án từ quan điểm của các chủ dự án thì mục đích của công việc thẩm định trong khâu này là đánh giá dự án từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế để xem xét việc thực hiện dự án có cải thiện được phúc lợi kinh tế quốc gia hay không.
Dự án có thể giúp đạt được những mục tiêu xã hội nào đó của chính quyền (dự án có tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống...)
Ai là đối tượng được hưởng lợi của dự án và ai sẽ là người chịu chi phí của dự án và hưởng lợi hay chịu chi phí theo cách nào ?
Một điều lưu ý khi thẩm định là phân tích kinh tế có tác động môi trường của dự án đầu tư. Đã đến lúc người ta quan tâm đến sự “phát triển bền vững, phát triển lâu bền”. Vấn đề không phải là chúng ta buộc phải lựa chọn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, mà phải là tìm cách phát triển một cách phù hợp, hài hoà để đảm bảo được phát triển lâu bền. Vì vậy, việc đánh giá tác động đến môi trường của các dự án trở thành một nhu cầu bức thiết và bắt buộc với các dự án đầu tư.
Toàn bộ quá trình thẩm định thường là rất phức tạp, có tính liên ngành, đòi hỏi sự liên kết, hợp tác của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: kinh tế, kĩ thuật, môi trường mới có thể tiến hành thực hiện có hiệu quả.
Do quá trình thẩm định gồm nhiều giai đoạn nên việc thẩm định các khía cạnh trên sẽ được tiến hành ở bất kỳ giai đoạn nào. nếu là giai đoạn soạn thảo thì do các nhà lập dự án thẩm định. Song một dự án hình thành xong, phân tích các khía cạnh nêu trên phải được tiến hành một cách nghiêm túc và khách quan, để trên cơ sở đó ra Quyết định chứ không phải ngược lại chỉ là hình và nhằm chứng minh cho một Quyết định đã có. Chính vì vậy mà các cơ quan tư vấn hoặc chuyên gia được giao trách nhiệm thực hiện công việc thẩm định, người thực hiện công việc không thể là người của dự án.
Thẩm định dự án cần phải được tiến hành ở tất cả các khía cạnh nêu trên. Nó nằm tăng cường mức độ chính xác của việc tính toán các biến cố chủ yếu mà chủ dự án đã lập. Việc đưa ra các kết luận đánh giá trên các khía cạnh sẽ cho phép đưa ra các Quyết định đầu tư hay Quyết định tài trợ đúng đắn và là cơ sở cho khả năng dự án sẽ đứng vững trong vòng đời hữu dụng của nó.
Tóm lại, ta có thể nghĩ về một dự án như là một tập hợp các quan hệ giao dịch, qua đó các cá nhân hay tổ c hức phải chịu các chi phí khác nhau và nhận được những lợi ích khác nhau. Việc thẩm định dự án từ một số quan điểm khác nhau là rất quan trọng vì chúng cho phép các nhà phân tích xác định xem các thành viên liên quan đến dự án có thấy đáng tài trợ, đáng tham gia thực hiện dự án hay không. Để đảm bảo cho việc phê chuẩn và thực hiện thành công một dự án phải hấp dẫn đối với tất cả những người đầu tư và những người thực hiện có liên quan tới dự án.
II. Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư và các yếu tố ảnh hưởng.
1.Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Để thực hiện một cách chính xác về hiệu quả dự án cần thực hiện các bước sau:
1.1.Các bước thực hiện thẩm định tài chính dự án đầu tư.
k Kiểm tra tính hợp lí, hợp lệ, đúng, đủ của số liệu trong các mẫu biểu đưa ra trong dự án.
Thực hiện việc thu thập, tổng hợp, xem xét lại các cơ sở của các số liệu đưa ra trong dự án, đối chiếu (nếu có thể) với các chỉ tiêu tham chiếu của ngành, của nền kinh tế để kiểm chứng. Các số liệu này sẽ ảnh hưởng tới phương pháp và kết quả phân tích các chỉ tiêu tài chính của dự án. một số bảng dự trù tài chính:
Dự trù chi phí mua sắm thiết bị
Dự trù chi phí sản xuất hàng năm.
Dự trù doanh thu lỗ lãi.
Dự trù bảng cân đối thu chi
Kế hoạch vay vốn và trả nợ.
Dự trù bảng cân đối tài sản.
k Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư của dự án:
Tổng vốn đầu tư của dự án đã được các chủ đầu tư dự kiến, song Ngân hàng cần tiến hành xem xét lại, điều này quan trọng vì vốn đầu tư đủ sẽ giúp dự án được thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, vốn đầu tư thiếu sẽ gây cho hoạt động của dự án sau này và ngược lại thừa vốn đầu tư có thể gây lãng phí vốn và làm giảm hiệu quả tài chính của dự án. Tổng vốn đầu tư là tập hợp toàn bộ các chi phí góp phần tạo nên thực trạng công trình và bảo đảm cho công trình sẵn sàng đưa vào khai thác, sử dụng.
Thành phần vốn gồm có vốn cố định và vốn lưu động :
+ Vốn cố định: Nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu của dự án. Bao gồm:
w Vốn chuẩn bị đầu tư gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập, thẩm định dự án đầu tư.
w Vốn chuẩn bị xây dựng bao gồm:
Chi phí ban đầu về đất đai (đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển quyền sử dụng đất).
Chi phí khảo sát, thiết kế, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán. chi phí đấu thầu, hoàn tất các thủ tục đầu tư (cấp giấy phép xây dựng, giám định, kiểm tra thiết bị...)
Chi phí xây dựng đường điện, nước, thi công, lán trại thi công.
w Vốn thực hiện đầu tư:
Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo các hạng mục công trình, lắp đặt thiết bị. Chi phí thiết bị: Chi phí mua sắm thiết bị, chi phí vận chuyển về công trường, bảo quản thiết bị.
Chi phí quản lí, giám sát thực hiện đầu tư.
Chi phí sản xuất thử và nghiệm thu bàn giao
Chi phí huy động vốn: Các khoản lãi vay vốn đầu tư và các chi phí phải trả trong thời gian thực hiện đầu tư.
+ Vốn huy động: là khoản vốn đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện đầu tư gồm:
w Vốn sản xuất: tiền, nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương...
w Vốn lưu thông: sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị...
w Vốn dự phòng: để xác định được nhu cầu vốn đầu tư, ngân hàng ước tính chi phí từng loại dựa trên khối lượng công việc, đơn giá định mức hay căn cứ trên giá thị trường. Việc xác định tổng mức đầu tư có ý nghĩa đối với ngân hàng ở cả hai trường hợp. Nếu xác định tổng mức đầu tư thấp hơn so với thực tiễn thì khi thực hiện đầu tư sẽ phát sinh thiêú vốn, dự án đầu tư không hoạt động được. Trường hợp xác định mức đầutư lớn hơn sẽ cấp thừa cho doanh nghiệp, gây thừa vốn không cần thiết và doanh nghiệp phải chịu chi phí lãi suất cao.
k Phương án vốn của doanh nghiệp và tiến độ bỏ vốn.
Doanh nghiệp có thể xác định tài trợ dự án của mình từ các nguồn:
- Vốn tự có.
- Vốn ngân sách cấp
- Vốn vay.
Ngân hàng phải kiểm tra tính hiện thực của vốn tự có cuả doanh nghiệp, xem xét tỉ lệ:( vốn tự có / tổng vốn đầu tư ) để đo lường được rủi ro. Với công trình đầu tư bằng nhiều nguồn vốn thì cần phải có xác nhận của cơ quan quản lí từng nguồn vốn nói trên ngân hàng chỉ cho vay vốn còn thiếu:
Nhu cầu
=
Tổng nhu cầu
-
Vốn tự
-
Vốn ngân
-
Vốn khác
vay vốn
vốn đầu tư
có
sách
(nếu có)
k Tính toán hiệu quả tài chính của dự án:
+ Xem xét các biểu tính toán của doanh nghiệp.
Biểu tính vốn đầu tư theo các khoản mục xây lắp (khối lượng, đơn giá và chi phí)
Chi phí mua sắm thiết bị (loại thiết bị, số lượng, đơn giá).
Chi phí khác.
Biểu tính vốn lưu động.
Tổng chi phí sản xuất.
Doanh thu.
Dự trù lỗ lãi.
Thời gian hoàn vốn.
+ Thông qua xem xét cần có các kết luận chính xác về:
Dự án đã đưa đủ các yếu tố chi phí vào giá thành chưa?
Sự hợp lý các định mức tiêu hao nguyên liệu vật liệu ?
Tỷ lệ trích khấu hao đã hợp lý chưa ?
Các chi phí khác có điểm nào chưa phù hợp ?
Tỷ lệ đạt công suất hoạt động qua các năm ?
Doanh thu và khả năng thực tế đạt được ?
Sau khi các số liệu trên bảng tính toán đã được kiểm định là hợp lý, cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định một số chỉ tiêu tài chính quan trọng giúp lượng hoá hiệu quả tài chính của dự án, giúp cho các nhận định về dự án có tính chính xác và khoa học. Được thể hiện các phương pháp sau:
1.2.Các phương pháp sử dụng khi thẩm định dự án đầu tư:
Từ trước đến nay các nhà đầu tư đã sử dụng một trong các phương pháp sau:
Giá trị hiện tài ròng (NPV)
Tỷ suất nội hoàn (IRR)
Thời gian hoàn vốn (pp)
Điểm hoà vốn.
Tỷ số lợi ích - chi phí (bcr).
Để sử dụng các phương pháp trên ta cần hiểu rõ các khái niệm sau:
k Giá trị thời gian của tiền:
Tiền có giá trị thời gian không giống nhau ở các thời điểm khác nhau. Một đồng tiền có được ở hiện tại được coi là có giá trị cao hơn cùng một đồng tiền đó nhận được trong tương lai để đầu tư có lãi hay tiêu dùng trong khoảng thời gian giữa hiện tại và tương lai. Do đó, người ta sẵn sàng đi vay để có thể sử dụng được vốn, còn người cho vay đòi hỏi phải được trả lãi.
k Lãi kép:
Là phương pháp tính lãi trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào gốc để tính lãi tiếp cho kỳ sau:
FV = PV ( 1 + r )n
Trong đó:
PV: giá trị hiện tại (vốn ban đầu).
FV: giá trị tương lai (số tiền thu được).
n: số kỳ tính lãi
r : lãi suất.
k Chiết khấu:
Trong các dự án đầu tư việc thu được lợi ích và bỏ các chi phí thường xảy ra vào các giai đoạn khác nhau. Vì đồng tiền có giá trị thời gian, nên để có thể so sánh chi phí và lợi ích xảy ra ở các khoảng thời gian khác nhau, chúng cần phải quy đổi đồng tiền ở các thời điểm về cùng một thời điểm hoặc về hiện tại, hoặc về tương lai, hoặc về bất kỳ một thời điểm nào đó thông qua một hệ số quy đổi. Hệ số này gọi là hệ số chiết khấu và nó phụ thuộc vào tỷ lệ chiết khấu một thông số biểu hiện sự giảm giá trị của dòng tiền theo thời gian.
Hệ số chiết khấu =
1
( 1+ r) t - x
Trong đó:
r: tỷ lệ chiết khấu
t: năm thứ t của dự án
x: năm được chọn làm mốc quy đổi (thường = 0).
Phương pháp giá trị hiện tại ròng (Net Present Value - NPV).
Giá trị hiện tại ròng của một dự án đầu tư là số chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của các chi phí của dự án đầu tư.
Có thể biểu diễn bằng phương trình sau
Trong đó:
B1,B2.......Bn: luồng thu nhập của các thời kỳ.
C1, C2....Cn: luồng chi phí của các thời kỳ.
t: năm thứ t của dự án.
r: tỷ lệ chiết khấu
Co vốn đầu tư
n: thời gian hoạt động của dự án.
Xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu của từng dự án đầu tư là một việc làm không đơn giản. có thể hiểu tỷ lệ chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi ro. Rõ ràng là khi mức rủi ro của dự án bằng với mức rủi ro của doanh nghiệp và chính sách tài trợ của doanh nghiệp phù hợp với dự án, thì tỷ lệ chiết khấu thích hợp bằng với chi phí trung bình của vốn (wacc).
ở công thức trên tỷ lệ chiết khấu là r không thay đổi trong suốt thời gian dự án. Tuy nhiên điều này không nhất thiết phải như vậy. Giả sử vốn vào thời điểm hiện này là rất khan hiếm so với trước đây. Trong những tình huống như vậy, ta sẽ thấy rằng chi phí của vốn vào thời điểm hiện tại sẽ cao một cách bất bình thường và như vậy tỷ lệ chiết khấu theo thời gian sẽ giảm dần trong lúc cung và cầu của vốn trở về mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện tại có nhiều tiền vốn, chúng ta dự kiến chi phí của vốn và tỷ lệ chiết khấu sẽ xuống thấp hơn mức trung bình dài hạn. trong trường hợp này, chúng ta có lẽ dự kiến tỷ lệ chiết khấu sẽ tăng lên trong khi cung cầu vốn dần quay trở về xu hướng dài hạn.
Nếu có lí do để tin rằng tỉ lệ chiết khấu thay đổi một cách có thể dự đoán trước được thì giá trị hiện tại ròng của một dự án tính như sau:
NPV =
-Co
+
B1- c1
+
B2-C2
+
Bn-Cn
1+r1
(1+r1)(1+r2)
(1+r1)(1+r2).. (1+rn)
trong đó: r1,r2,r3......rn : là tỷ lệ chiết khấu các năm tương ứng.
k Nguyên tắc sử dụng phương pháp NPV làm tiêu chuẩn đầu tư.
Trong trường hợp dự án đầu tư cần đánh giá độc lập so với các dự án khác thì chấp thuận hay bác bỏ dự án đó tuỳ thuộc vào giá trị của NPV. Có 3 khả năng có thể xảy ra:
NPV > 0 chấp thuận dự án
NPV < 0 loại bỏ dự án.
NPV = 0 doanh nghiệp sẽ không thiên vị trong việc chấp thuận hay loại bỏ dự án mà tuỳ theo sự cần thiết của nó đối với doanh nghiệp mà ra Quyết định.
Trong trường hợp dự án đầu tư bị hạn chế bởi ngân sách, nguồn tài trợ. Trong giới hạn một ngân sách đã được ấn định cần lựa chọn trong số các dự án hiện có nhóm dự án nào có thể tối đa hoá giá trị hiện tại ròng.
NPV = NPV1 + NPV2 + ........... = Max Ê giới hạn ngân sách.
NPV: giá trị hiện tại ròng tối đa của nhóm dự án lựa chon.
NPV1, NPV2... giá trị hiện tại ròng của dự án 1, dự án 2 ....
Trong trường hợp lựa chọn một trong sốdự án loại trừ nhau. Trong tình huống không bị giới hạn bới ngân sách, nhưng ta phải lựa chọn một dự án trong số các dự án loại trừ nhau, ta luôn chọn dự án sinh ra giá trị hiện tại ròng lớn nhất: Max ( NPV1, NPV2....NPVn).
k ưu điểm của phương pháp NPV:
- NPV đo lường trực tiếp phần lợi nhuận mà dự án đóng góp vào tài sản của chủ đầu tư.
- Sử dụng chi phí cơ hội về sử dụng vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
NPV giả định rằng những khoản thu nhập tạm thời được tái đầu tư với tỷ lệ tối đa hoá lợi nhuận của chủ đầu tư.
Quyết định chấp thuận hay từ chối và xếp hạng dự án phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cuả chủ đầu tư.
k Nhược điểm của phương pháp NPV:
Không thể so sánh được các dự án nếu thời gian của chúng khác nhau.
Phụ thuộc vào cách lựa chọn r – tỷ lệ chiết khấu.
NPV chỉ cho thấy giá trị tuyệt đối của lợi nhuận mà không cho thấy tỷ lệ phát sinh của dự án, do đó sẽ có thể bỏ qua những dự án có tỷ lệ sinh lời cao.
Tất cả các khoản tiền này lại xảy ra trong suốt các kỳ.
1.2.2. Phương pháp tỷ suất nội hoàn ( Internal Rate of Return - IRR )
Phương pháp tỷ suất nội hoàn nội bộ (IRR) là phương pháp xếp hạng các dự án đầu tư sử dụng tỷ lệ lãi suất đối với một khoản đầu tư tài sản. Trong đó tỉ lệ lãi suất này được tính bằng cách tìm một tỷ lệ chiết khấu mà nó làm cân bằng giá trị hiện tại của những luồng tiền tương lai và chi phí đầu tư.
Về phương diện tính toán IRR của một dự án là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV = 0
Ta có phương trình dùng để tính toán IRR.
Trong đó
IRR: tỷ suất nội hoàn (cần xác định).
Co : vốn đầu tư ban đầu
Bt thu nhập trong năm t
Ct : chi phí trong năm t
n: thời gian phân tích dự án.
Việc giải phương trình trên theo một phương pháp toán học nào đó là hết sức khó khăn (trường hợp n lớn) nhiều khi là không thực hiện được, để xác định IRR một cách tương đối chính xác ta có thể sử dụng phương pháp nội suy, kết quả như sau:
IRR =
Trong đó :
r1,r2 là lãi suất chiết khấu tương ứng của NPVr1, NPVr2 với điều kiện:
- r1 < r2
- Npvr1, NPVr2 < 0 và NPVr1, NPVr2 rất gần 0.
k Nguyên tắc sử dụng IRR làm tiêu chuẩn đầu tư:
-Trường hợp các dự án đầu tư là độc lập về mặt kinh tế, quy tắc áp dụng để các Quyết định đầu tư như sau:
w IRR > chi phí cơ hội của vốn ị chấp nhận dự án.
w IRR < chi phí cơ hội của vốn ị bác bỏ dự án.
w IRR = chi phí cơ hội của vốn ị tuỳ theo những yêu cầu khác đối với dự án, chủ dự án có thể chấp nhận hay bác bỏ.
-Trường hợp các dự án loại trừ nhau thì chúng ta chọn dự án có IRR cao nhất. Tuy nhiên nếu IRR cao nhất nhỏ hơn tỷ lệ sinh lời cần thiết của dự án (hay chi phí cơ hội của vốn) thì không dự án nào trong các dự án đó không được chấp nhận.
k ưu điểm của phương pháp IRR:
- Đo lường bằng tỉ lệ phần trăm, nên dễ dàng so sánh với chi phí sử dụng vốn, nó chỉ rõ tỷ lệ lãi vay tối đa mà dự án có thể chịu đựng được. Không có phương pháp nào khác để cung cấp thông tin quan trọng như vậy và đây chính là ưu điểm rất quan trọng của tiêu chuẩn IRR.
- Tỷ suất nội hoàn là một tiêu chuẩn hay được sử dụng để mô tả tính hấp dẫn của dự án đầu tư, vì đó là một tiêu chuẩn hữu ích để tổng kết tính doanh lợi của dự án. Quyết định chấp thuận hay từ chối của cổ đông.
- Trong một số trường hợp, nó cho phép tránh được nhữngkhó khăn khi phải xác định trước lãi suất thích hợp.
k Nhược điểm của phương pháp IRR:
- Việc áp dụng tiêu chuẩn này có thể không chắc chắn nếu tại các khoản cân bằng thu chi thực âm đáng kể trong giai đoạn vận hành của dự án, tứcl à đầu tư thay thế lớn hơn.
- Tỷ suất này sẽ không còn tin cậy khi dùng để lựa chọn dự án mang tính loại trừ nhau với các khoản đầu tư có quy mô khác nhau, có đời hữu dụng khác nhau.
- Không đo lường trực tiếp ảnh hưởng của một dự án đối với lợi nhuận của cổ đông.
Dễ tạo ra sự ngộ nhận rằng thu nhập của dự án có thể được tái đầu tư với tỷ lệ sinh lời bằng IRR
- Xếp hạng dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá thu nhập của cổ đông.
1.2.3. Phương pháp thời gian hoàn vốn (Pay-out or Pay-back period-PP)
Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu.
Có hai cách để áp dụng chỉ tiêu này, đó là thời gian hoàn vốn không chiết khấu và thời gian hoàn vốn có chiết khấu.
Theo phương pháp này, nếu rút ngắn được thời gian thu hồi vốn sẽ tốt hơn cho một dự án đầu tư. Mặt khác, các nhà quản trị còn sử dụng thời gian hoàn vốn để đánh giá các dự án đầu tư bằng cách thiết lập chi ti._.êu thời gian hoàn vốn cần thiết và thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận được của dự án. Những dự án có thời gian hoàn vốn dài hơn thời gian cho phép tối đa sẽ bị loại bỏ và những dự án có thời gian hoàn vốn ngắn hơn chỉ tiêu thời gian hoàn vốn tối đa sẽ được chấp nhận.
+ Quy tắc thời gian hoàn vốn đã được sử dụng rộng rãi trong việc Quyết định đầu tư bởi :
Dễ áp dụng và khuyến khích đầu tư vào các dự án có thời gian hoàn vốn nhanh.
Nếu sử dụng hợp lý, nó có thể tạo ra một hình ảnh ban đầu về dự án.
+ Tuy nhiên, phương pháp này còn có nhiều nhược điểm.
Phần thu nhập ngoài thời gian hoàn vốn bị bỏ qua hoàn toàn mà không được tính trong dự án. Do đó không biết chính xác về doanh lợi của dự án đầu tư.
Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem xét, đánh giá.
Không đo lường được tác động trực tiếp của dự án đối với thu nhập của cổ đông.
Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của chủ sở hữu.
Yếu tố thời gian của tiền tệ không được đề cập đến trong quá trình tính toán (đối với thời gian hoàn vốn không chiết khấu).
+ Phương pháp tính :
Thời gian thu
hồi vốn (PP)
=
Năm ngay trước năm các luồng tiền của dự án đáp ứng được chi phí
+
Chi phí chưa được bù đắp đầu năm
Luồng tiền thu được trong năm
1.2.4. Phương pháp tỷ số lợi ích - chi phí (Benefit-Cost Ratio - BCR)
Tỷ số lợi ích – chi phí được tính bằng cách đem chia giá trị hiện tại của các khoản thu nhập cho giá trị hiện taị của các chi phí, sử dụng chi phí cơ hội của vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
Trong đó :
Bt : Thu nhập trong năm t.
Ct : Chi phí trong năm t.
N : Thời gian hoạt động của dự án.
R : Tỷ lệ chiết khấu (chi phí cơ hội).
+ Nguyên tắc sử dụng tỷ số lợi ích – chi phí : Dùng tỷ số này để xếp hạng các dự án đầu tư là quy tắc được nhiều nhà phân tích đầu tư áp dụng rộng rãi nhất. Một dự án chấp nhận được nếu tỷ số lợi ích – chi phí lớn hơn 1 (Phản ánh chi phí bỏ ra trong năm nhỏ hơn thu nhập thu được trong năm đó). Và trong việc lựa chọn các dự án loại trừ lẫn nhau, quy tắc là chọn dự án nào có tỷ số lợi ích – chi phí lớn nhất.
+ Nhược điểm khi áp dụng phương pháp tỷ số lợi ích - chi phí :
- Tiêu chuẩn này có thể làm ta xếp hạng sai các dự án nếu các dự án này khác nhau về quy mô, các dự án loại trừ nhau.
- Tỷ số này rất nhạy cảm với các định nghĩa về chi phí trên phương diện kế toán. Trong cách tính BCR nêu trên, ta quan niệm lợi ích là toàn bộ các nguồn thu gia tăng của dự án, còn chi phí đầu tư là tổng của chi phí sản xuất gia tăng, chi phí vận hành và bảo dưỡng, chi phí đẩu tư hay chi phí đầu tư thay thế (nếu có). Việc xếp hạng hai dự án có thể trái ngược nhau tuỳ theo cách người ta xử lý chi phí hiện thời (Current Cost).
1.2.5. Phương pháp theo tiêu chuẩn điểm hoà vốn (H) :
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu bằng chi phí bỏ ra. Phân tích điểm hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản lượng sản xuất hoặc mức doanh thu thấp nhất mà tại đó dự án có thể vận hành không gây nguy hiểm tới khả năng tồn tại về mặt tài chính của no. Ngoài ra, phân tích điểm hoà vốn còn giúp cho việc xem xét về mức giá cả mà dự án có thể chấp nhận được (tức là dự án không bị lỗ, có đủ tiền mặt để hoạt động và có khả năng trả nợ).
Phân tích điểm hoà vốn là sự phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất biến, chi phí khả biến và lợi nhuận sẽ đạt được.
Điểm hoà vốn theo quan điểm của nhà doanh nghiệp là điểm mà tại đó mức sản lượng hoặc mức doanh thu đảm bảo cho dự án không bị lỗ trong năm hoạt động bình thường.
Trong đó : TVC : Tổng chi phí biến đổi trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao gồm
cả lãi vay.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.
Sản lượng tiêu thụ ở điểm hoà vốn :
Trong đó :
Qo : Sản lượng ở điểm hoà vốn.
P : Giá bán một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Q : Sản lượng dự kiến sản xuất và tiêu thụ hàng năm.
Doanh thu ở điểm hoà vốn :
Trong đó :
TRo : Tổng doanh thu ở điểm hoà vốn.
TR : Tổng doanh thu dự kiến trong năm của dự án.
TFC : Tổng chi phí cố định trong năm của dự án bao
gồm cả lãi vay.
P : Giá bán trên một đơn vị sản phẩm.
VC : Biến phí trên một đơn vị sản phẩm.
Đánh giá mức hoạt động của dự án ở điểm hoà vốn ở chỉ tiêu :
Các dự án có điểm hoà vốn càng thấp càng tốt vì điểm hoà vốn càng thấp thì khả năng thu lợi nhuận càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Việc phân tích hoà vốn được tiến hành cho từng dự án. Điểm hoà vốn khác nhau giữa các ngành khác nhau.
+ Nhược điểm của phương pháp này :
Điểm hoà vốn chỉ nói lên mối quan hệ giữa khối lượng tiêu thụ dự kiến và lợi nhuận cần đạt được ở mức giá nhất định. Tuy nhiên, sản phẩm của dự án có thể bán theo nhiều giá khác nhau và điểm hoà vốn cũng khác nhau. Mặt khác, thường thì một dự án có nhiều sản phẩm sẽ có nhiều giá bán khác nhau. Vì vậy, việc xác định điểm hoà vốn trong những trường hợp nêu trên là rát khó và trở nên phức tạp. Ngoài ra, trong quá trình phát triển dự án, khi phải tăng sản lượng thì cần đầu tư thêm vốn cố định để mua sắm mới máy móc, thiết bị, công nghệ và vốn lưu động. Trong trường hợp đó, định phí và biến phí cũng thay đổi dẫn tới việc phân tích điểm hoà vốn sẽ phức tạp và tính chính xác không cao.
Tóm lại, khi thẩm định dự án đầu tư thông thường người ta áp dụng kết hợp theo nhiều phương pháp để đánh giá một cách chính xác hiệu quả tài chính của một dự án đầu tư. Tuy nhiên, việc lựa chọn dự án có hiệu quả có thể gặp khó khăn trong trường hợp lựa chọn những phương án loại trừ mà các phương án đánh giá khác nhau cho những kết quả mâu thuẫn. Khi đó, tuỳ theo mục tiêu của chủ đầu tư mà ra Quyết định lựa chọn những phương án thích hợp (chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa hai phương án loại trừ nhau thì phương pháp NPV và IRR có thể cho hai kết quả trái ngược nhau).
Bên cạnh việc đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cần phải tiến hành phân tích khả năng thanh toán và cơ cấu vốn nhằm xem xét đánh giá khả năng thanh toán của dự án.
+ Phân tích khả năng thanh toán :
Trong quá trình đầu tư, việ thiếu hụt hoặc dư thừa tiền mặt cũng như một cơ cấu vốn không hợp lý sẽ làm cho việc sử dụng vốn đầu tư thiếu hiệu quả. Nếu như đánh giá hiệu quả vốn đầu tư chỉ chú trọng và các nguồn lực thực sự được sử dụng trong dự án và do đó không tính tới các khoản thu, chi có ảnh hưởng tới bảng cân đối tiền mặt trong dự án thì phân tích khả năng thanh toán có nhiệm vụ đánh giá tình trạng tiền mặt trong suốt quá trình hạot động của dự án, nó tính đến tất cả các khoản thu, chi bằng tiền (thu tiền bán sản phẩm, chi trả nợ, trả cổ tức ...) của dự án. Trong bảng phân tích khả năng thanh toán có 3 phân fchính : Dòng tiền vào, dòng tiền ra, tình trạng tiền mặt.
Dòng tiền vào : Bao gồm tất cả những khoản thu bằng tiền mặt của dự án (bán các sản phẩm, dịch vụ ...). Lưu ý là không phải toàn bộ giá trị sản lượng của dự án là các nguồn thu bằng tiền mặt. Bởi vậy, khi tính dòng tiền vào ta cần trừ đi phần sản lượng của dự án không được đem bán ngoài thị trường.
Dòng tiền ra : Bao gồm tất cả các khoản chi bằng tiền mặt của dự án như chi mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân, thanh toán các khoản nợ và lãi cho các khoản vay, trả chậm ...
Tình trạng tiền mặt :
Tình trạng tiền mặt của dự án có thể là dư thừa hay thiếu hụt tại một thời điểm nào đó và được xác định trên cơ sở tổng các nguồn thu bàng tiền mặt trừ đi tổng các khoản chi bằn tiền mặt tại thời điểm đó. Tình trạng tiền mặt được xem là tốt nếu đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản nợ banưg tiền mạt và có một khoản dự trữ nhất định, trong trường hợp thâm hụt ngân quỹ thì cần phải bù đắp bằng các khoản vay.
Sau khi đã đưa hết tất cả các khoản thuộc giao dịch tài chính vào đánh giá dự án, người đánh giá có thể xem xét liệu :
- Vốn cổ phần và vốn vay dài hạn có đáp ứng đủ không ?
- Các khoản thiếu hụt tiền mặt có được giới hạn ở mức có thể trang trải vay tín dụng ngân hàng ngắn hạn, hoặc có thể trừ đi bằng cách điều chỉnh lại một số khoản thu hoặc khoản chi hay không ?
- Các điều kiện vay vốn dài hạn có thích hợp không ?
- Lãi cổ phần như chủ đầu tư dự tính có thích hợp hay không ?
- Phân tích khả năng thanh toán của dự án thường được thực hiện trong từng năm của dự án.
+ Phân tích cơ cấu vốn :
Đới với một dự án đầu tư, để có thể vạn hành bình thường thì nguồn tài trợ cho dự án cần phải được đảm bảo : Có nhiều nguồn vốn để có thể được huy động nhằm tài trợ cho dự án, chẳng hạn như vốn cổ phần, vốn vay ngắn hạn, dài hạn ... Đối với một dự án, thì tỷ lệ các nguồn vốn huy động phải được xác định sao cho hiệu quả sử dụng vốn là cao nhất, đem lại lợi nhuận lớn nhất, đó chính là cơ cấu vốn tối ưu. Chẳng hạn, nếu như sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định sẽ gây khó khăn cho việ cân đối tiền mặt của dự án bởi vì phải trả các khoản tiền gốc lớn và sớm hơn trong khi các khoản thu của dự án thường nhỏ trong thời gian đầu hoạt động, phải trải dài quan các năm thì dự án mới bù đắp đủ vốn đầu tư. Vì vậy, cơ cấu vốn có liên quan chặt chẽ tới khả năng sinh lời của dự án.
Việc giải quyết nhu cầu vốn của dự án không những giải quyết khả năng thanh toán trong tương lai mà còn cả các bảng cân đối trong tương lai của nó. Bởi vậy, trong quá trình đánh giá dự án, cơ cấu vốn do chủ đầu tư trình sẽ được xem xét một cách chặt chẽ trên cơ sở xét đoán khả năng đứng vững về mặt tài chính trong tương lai của dự án. Sự kết hợp giữa vốn cổ phần và vốn vay sẽ Quyết định tỷ lệ nợ về vốn của chủ dự án.
Tiêu chuẩn thường dùng để đánh giá cơ cấu vốn là :
Tỷ lệ này được tính trên cơ sở so sánh các khoản nợ dài hạn với vốn tự có của chủ dự án.
Trong đó :
Rd : Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu.
D : Giá trị các khoản nợ dài hạn.
Ce : Vốn chủ sở hữu.
Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có thể dao động, nếu tỷ lệ nợ này thấp hơn mức bình thường thì có thể dự án chưa tận dụng được nguồn vốn có thể đi vay, tức là đòn bẩy tài chính hoạt động không hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ lệ này là quá lớn thì sẽ đẩy dự án vào tình trạng có khả năng mất khả năng thanh toán, nghĩa là rủi ro rất cao.
Tuy nhiên, chúng ta không nên máy móc khi xác định cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn cần được xác định trên cơ sở cân nhắc tới mức doanh lợi và khả năng thanh toán của dự án. Một dự án có mức thu nhập cao và khả năng thanh toán tốt có thể chấp nhận một tỷ lệ nợ vốn chủ sở hữu cao hơn mức bình thường.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư :
Thẩm định dự án đầu tư là ở ngân hàng thương mại có thể ví như “công cụ sản xuất” của một người lao động. Sản phẩm tạo ra tốt, một mặt chịu ảnh hưởng của chất lượng công cụ sản xuất, một mặt chịu ảnh hưởng của chính tay nghề của người sử dụng công cụ. Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ được xem xét dưới hai góc độ chính sau :
- Về các tiêu chuẩn thẩm định.
- Về nhân tố cón người và một số nhân tố khác.
2.1. Các tiêu chuẩn thẩm định :
Mỗi dự án đầu tư là tập hợp dự kiến về quy mô sản xuất, quy mô đầu tư, chi phí vận hành, giá cả, mức chiết khấu, thời gian tồn tại của dự án ... trong tương lai. Trên thực tế, bao giờ cũng có sự bất định về tương lai. Rất ít khi mọi chuyện diễn ra đúng như dự đoán.
Như vậy, những phương pháp đánh giá hiệu quả dự án sẽ khó loại trừ những “tính bất định của nhiều nhân tố ảnh hưởng đến dự án đầu tư.”
Mỗi bến số cơ bản đưa vào các tiêu chuẩn tính toán hiệu quả tài chính dự án đâu tư như NPV, IRR ... là nguồn gốc bất định có tầm quan trọng lớn hoặc nhỏ. Một số biến số là nguồn gốc chung của tính bất định trong việc đánh giá các dự án đầu tư gồm : số vốn đầu tư, chi phí vận hành, doanh thu,. Mỗi biến số bao gồm số lượng và giá cả. Têm vào đó, thời gian là yếu tố chủ chốt trong kết hoạch đầu tư nên việc thực hiện một dự án có thể đi ngược lại sự đánh giá chính dự án này.
k Yếu tố bất định : Tính bất định thường xảy ra bởi không thể đoán trước được các biến số khác nhau và ở cả mức độ hiệu quả và chi phí một cách chính xác như chúng sẽ xảy ra. Có nhiều yếu tố ảnh không chắc chắn làm ảnh hưởng đến kết quả của dự án, nhưng quan trọng nhất là :
+ Lạm phát : Được hiểu là giá cả phần lớn các khoản mục đầu vào hoặc đầu ra theo thời gian và gây sự thay đổi về tương quan giá cả. Mức tăng chính xác của giá cả luôn luôn không thể nhận biết được. Giá cả còn lên xuống do nguyên nhân của luật cung cầu, sở thích của người tiêu dùng.
Rõ ràng các biến số tài chính từ các bảng tài chính được đưa ra trong dự án là yếu tố đầu vào trực tiếp hoặc gián tiếp của các tiêu chuẩn thẩm định (NPV,IRR ... nêu trên) như : các thu nhập, các loại chi phí ... Các yếu tố này thường liên quan đến giá cả. Vì vậy, việc xác định giá cả của các yếu tố trong chi phí hay trong doanh thu của dự án sẽ có ảnh hưởng đến kết quả dự án.
Nếu các giá cả được cung cấp trong dự án là “giá cố định” – giá cố định là giá không thay đổi theo thời gian – và nếu các giá cố định được sử dụng trong suốt thời gian dự án xảy ra, như thế người lập dự án sẽ đơn giản hoá việc xây dựng các bản tóm tắt tài chính của một dự án nhưng nó cũng loại ra khỏi sự phân tích các thông tin kinh tế và tài chính có thể ảnh hưởng đến thành quả trong tương lai của dự án.
Nếu các giá cả của các yếu tố đầu vào và đầu ra trong thời gian hoạt động của dự án được điều chỉnh theo một diễn biến mà nhà thẩm định giả định cho các thời kỳ tương lai thì đó là “giá thực” – là giá có thể thay đổi trong tương lai. Giá thực được dự đoán trong mức cung cầu sẵn có, và các yếu tố ngoại lai có thể tác động lên chi phí sản xuất của nó. Sử dụng giá này sẽ giúp cho việc xây dựng các biến số của bảng tài chính của dự án sẽ tin cậy hơn, chính xác hơn, giúp cho nâng cao chất lượng các tiêu chuẩn thẩm định.
Việc lựa chọn sử dụng loại giá nào sẽ có ảnh hưuởng tích cực khác nhau đến hiệu quả thẩm định tài chính dự án. Việc sử dụng giá cố định sẽ bỏ qua tác động của lạm phát. Sử dụng giá thực phần nào nêu lên chiều hướng thay đổi tương đối của giá trong tương lai, phần nào đó lại dự đoán được tác động của lạm phát.
Việc đề cập đến yếu tố lạm phát là khó song nếu có dự tính về nó thì việc thực hiện dự án trên thực tế sẽ giảm bớt khó khăn. Sở dĩ như vậy vì, một trong những yếu tố đầu vào của việc xem xét các tiêu chuẩn thẩm định là tài trợ đầu tư. Rõ ràng là lạm phát có tác động đến tài trợ đầu tư. Và khi ước tính tổng số tài trợ cho một dự án đầu tư , giả sử loại bỏ những khoản chi phí vượt quá gây nên bởi việc ước tính sai số lượng vật liệu cần thiết hay các thay đổi trong giá thực của vật liệu đó thì khoản chi phí gia tăng thêm nữa có thể là do lạm phát mặt bằng giá cả chung. Nếu dự án cần một khoản vay để tài trợ cho các kinh phí trong tương lai thì phải nhận ra rằng số lượng tài trợ cần thiết sẽ chịu ảnh hưởng của tổng số lạm phát giá cả xảy ra trong suốt thời gian xây dựng. Như vậy, nếu điều kiện này được dự kiến vào giai đoạn thẩm định, dự án có thể trôi qua khủng hoảng về tính thanh toán hay mất khả năng thanh toán nợ do tài trợ không đầy đủ.
Lạm phát thay đổi điều kiện tài chính thuần thực của một dự án theo một cách khác, đó là qua ảnh hưởng của lạm phát lên lãi suất danh nghĩa. Các bên cho vay tăng lãi suất danh nghĩa trên các khoản họ cho vay để bù đắp cho những khoản mất mát dự đoán và giá trị thực của khoản vay do lạm phát gây nên. Khi tỷ lệ lạm phát gia tưng, lãi suất danh nghĩa sẽ được gia tăng để đảm gảo giá trị quy đổi của các khoản thanh toán tiền laĩ và tiền vốn về thời điểm khi cho vay sẽ không giảm xuống thấp hơn giá trị ban đầu của khoản vay. Lạm phát làm giảm giá trị trong tương lại của các khoản tiền vay lẫn các khoản thanh toãn lãi suất thực. Vì vậy, các nhà ngân hàng khi thẩm định phải xem xét liệu dự án có chịu được mức lãi suất dự tính này hay không ? Điều này thật quan trọng cho việc đánh giá khả năng bền vững của dự án, vì lãi suất danh nghĩa tăng sẽ làm giảm chi phí xuất quỹ tăng cao hơn trong suốt những năm đầu của thời hạn hoàn trả có thể tạo ra những vấn đề khó khăn về thanh toán chó dự án nếu nó không tạo ra đủ các luồng thu được nhập quỹ trong kỳ.
Trong việc đánh giá một dự án, nhiều chuyên gia thẩm định cho rằng việc cố gắng tối đa để dự báo “chính xác” tỷ lệ lạm phát là không cần thiết. Điều thiết yếu là nhà thẩm định nên đưa ra các giả thiết liên quan đến việc tài trợ và hoạt động của dự án sao cho phù hợp vơi stỷ lệ lạm phát được giả thiết.
+ Những thay đổi trong công nghệ : Chất và lượng của đầu vào và đầu ra dùng để đanh giá dự án được dự tính theo những tri thức hiện thời. Tuy nhiên do khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển theo hướng ngày càng hiện đãi dẫn đến sự ra đời những công nghệ mới có thể làm thay đổi những dự tính trước đó.
+ Công suất dự tính dùng trong khi đánh giá dự án có thể không bao giờ đạt được điều đó, đến lượt nó sẽ ảnh hường đến chi phí vận hành cũng như doanh thu. Vì có khi dự án chỉ đạt được NPV dương tại một công suất tới hạn nào đó. Nếu công suất thực tế không đạt được mức đó thì dự án trở thành không có hiệu quả.
+ Người ta thấy rằng : Vốn đầu tư cần thiết cho vốn cố đinh và vốn lưu động thường bị tính toán, dự đoán hụt và thời gian thi công xây dựng, thời gian chạy thử thường dài hơn đáng kể so với dự định. Điều này ảnh hưởng đến vốn đầu tư, chi phí vận hành và cả thu nhập.
+ Xác định lãi suất chiết khấu thích hợp : Thay đổi trong lãi xuất có ảnh hưởng lớn đến giá trị hiện tại của các khoản thu nhập và chi phí. Dự án thường phải chị các khoản chi phí lớn trong những năm đầu, khi vốn đầu tư được thực hiện và các khoản thu nhập chỉ xuất hiện trong những năm sau, khi dự án thực sự đi vào hoạt động. Bởi vậy, khi lãi suất tăng, giá trị hiện tại của dòng thu nhập sẽ giảm nhanh hơn giá trị hiện tại của chi phí và do đó giá tại hiện tại ròng của dự án sẽ giảm xuống. Ki lãi suất này vượt qua một mức nào đó, giá trị hiện tại sẽ chuyển từ dương sang âm.
Như vậy, giá trị hiện tại ròng không phải là một tiêu chuẩn tốt, nếu không xác định được một lãi suất thích hợp. Việc xác định lãi xuất thích hợp là một vấn đề khó khăn. Trong phân tích tài chính, việc xác định lãi suất thường được lựa chọn căn cứ vào chi phí cơ hội của vốn, tức là chi phí thực sự cho dự án. Vì hầu hết các dự án đều lấy kinh phí từ các nguồn khác nhau như vốn cổ phẩn, vốn vay ngân hàng, vốn ngân sách ... nên lãi suất sẽ là mức bình quân của chi phí từ các nguồn vốn khác nhau, tức là :
Trong đó :
r : Lãi suất chiết khẩu.
ri : Lãi suất nguồn thứ i.
ki : Số vốn đầu tư nguồn thứ i.
Song thông thường các dòng thu nhập và chi phí cần được chiết khấu ở một mức không đồi.
+ Một lưu ý đối với tỷ suất nội hoàn : tỷ suất nội hoàn chỉ tồn tại khi trong dòng thu nhập ròng của dựa án có ít nhất một giá trị âm. Khi thu nhập thuần trong tất cả các năm đều dương thì dù lãi suất lớn thế nào thì giá trị hiện tại ròng vẫn dương. Vấn đề thứ hai và quan trọng hơn cả là có thể xảy ra tình huống không phải có một mà là có nhiều tỷ suất nội hoàn, gây khó khăn cho việc đánh giá dự án. Trong trường hợp này có thể sảy ra khi dự án có những thu nhập ròng âm đủ lớn vào các năm sau thời kỳ đầu tư ban đầu, tức là những năm sau khi dòng thu nhập đã trở thành dương. Điều này liên quan lớn đến những khoản đầu tư thay thế lớn, hoặc những biến cố bất thường diễn ra sau thời kỳ đần tư ban đầu.
Với những lý do nêu trên mà vấn đề đặt ra là chúng ta không chỉ xác định tính hợp lý của một dự án từ khía cạnh phận tích hiệu quả vốn đầu tư và khả năng tài chính của dự án mà phải phân tích độ nhạy cảm của dự án.
+ Phân tích độ nhạy cảm : Cho biết giá trị của các tiêu chuẩn hiệu quả thay đổi ra sao khi có sự thay đổi giá trị của bất kỳ yếu tố nào (giá bán đơn vị, chi phí đơn vị ...). Nó có thể được biểu thị như là sự thay đổi tuyệt đối dưới dạng tiêu chuẩn hiệu quả theo một biến số hoặc một loạt biến số. Dự án nhạy cảm với các yếu tố bất định và cần dự tính chính xác các biến mà tử số ước tính của chúng có thể có những sai sót đáng để ý. Việc phân tích độ nhạy cảm được minh hoạ dựa trên cơ sở của phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV).
Trong thực tiễn, không cần phải phân tích sự thay đổi của một hến số có thể mà người ta chỉ hướng việc phân tích vào các biến cốt lõi ảnh hưởng nhiều nhất đến dự án hoặc vì chúng là những thông số lớn hoặc có khả năng thay đổi đáng kể xung quanh trị số khả thi nhất.
Người ta có thể trắc nghiệm độ nhạy của giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án giả định theo các phương án và trị số vốn đầu tư, giá cả đầu vào hay giá cả sản phẩm của dự án hay tỷ lệ chiết khấu, công suất huy động thực tế ... khác nhau. Việc phân tích, kiểm tra trên cơ sở giả thiết nhiều phương án chứng minh độ nhạy rõ ràng của dự án đối với các điều kiện bất định.
Bất kỳ chỉ tiêu hiệu quả nào đều có thể được tính bằng cách dùng các phương án “bi quan” hoặc “lạc quan”. Phân tích độ nhạy cho phép hiểu tốt hơn biến số có tính chất sống còn đối với việc đánh giá dự án. Việc phân tích như vậy sẽ có ích cho nhứng người có trách nhiệm quản lý dự án sau này. Nó làm rõ các “khoảng tới hạn” đòi hỏi sự quan tâm quản lý sát sao nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh của dự án.
+ Các bước của việc phân tích độ nhạy dự án :
- Xác định các biến then chốt dự kiến sẽ có tầm quan trọng lớn, có ảnh hưởng lớn tới sức sống của dự án.
- Xác định khoảng dao động có thể của các biến then chốt.
- Tính các giá trị khác nhau dễ xảy ra nhất cho từng biến với khoảng dao động đã có.
- Kết hợp các giá trị khác nhau của các biến hợp lý để đưa ra kết luận.
Phân tích độ nhạy là công cụ đơn giản, thích hợp cho việc kiểm tra độ nhạy của dự án đối với các thay đổi của biến này hay biến khác. Mặc dù phân tích độ nhạy của dự án cũng có những hạn chế của nó như phạm vi thay đổi của mỗ biến thường có xác suất xuất hiện khác nhau. Hoặc những kết quả về phân tích độ nhạy không đem lại cho người ra Quyết định một giải pháp rõ ràng đối với vấn đề lựa chọn dự án. Song các nhà nghiên cứu lý thuyết và thực hành nhận thấy rằng nó là một công cụ hữu ích, nó đem lại cho người phân tích ý tưởng về một số điều không chắc chắn và hiệu quả của việc phân tích này sẽ cao khi được bổ trợ những hình thức phân tích thích hợp khác tuỷ vào điều kiện thực tế của từng dự án.
Tóm lại, việc lựa chọn các tiêu chuẩn phân tích tài chính phù hợp với điều kiện của mỗi dự án là cần thiết để đảm bảo tính hiệu quả, vừa kết hợp được các mặt mạnh của các chi tiêu và vừa phù hợp với tình hình thực tế của mỗi ngành, lĩnh vực hoạt động của dự án và của mỗi quốc gia cũng như điều kiện cụ thể của ngân hàng.
2.2. Nhân tố con người :
Con người là chủ thể vừa là đối tượng của mọi hoạt động của con người. Con người là nhân tố trung tâm và Quyết định đối với sự phát triển xã hội nói chung. Do đó, nhân tố con người có ảnh hưởng Quyết định đến chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Khoa hoạc kỹ thuật dù phát triển mạnh mẽ đến đâu, nó chứng tỏ sức mạnh to lớn như thế nào cũng không thể loại bỏ con người ra khỏi “quá trình sản xuất xã hội”. ở đây, con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện các hoạt động thẩm định dự án đầu tư là kết quả của việc đánh giá, xem xét dự án theo nhìn nhận chủ quan của người thẩm định trên cơ sở khoa học và các tiêu chuẩn htẩm định khác nhau. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động thẩm định phụ thuộc vào chất lượng của nhân tố con người -biểu hiện qua sự hiểu biết, kinh nghiệm, năng lực và tính kỷ luật và phẩm chất đạo đức của người thẩm định. Sự hiểu biết là toàn bộ những kiến thức khoa học - kinh tế - xã hội mà người thẩm định có được qua đào tạo hay tự bồi dưỡng kiến thức. Kinh nghiệm là những gì được tích luỹ qua hoạt động thực tiễn. Năng lực là khả năng nắm bắt, xử lý công việc trên cơ sở các tri thức tích luỹ. Các chuyên gia phân tích dự án có thể tăng rất nhanh hiệu quả làm việc của mình do kết quả của qúa trình tích luỹ kinh nghiệm. Tính kỷ luật cao, phẩm chất đạo đức tốt sẽ là điều kiện đủ để đảm bảo cho chất lượng thẩm định. Ngược lại, người thẩm định không có tính kỷ luật, đạo đức tốt sẽ phá huỷ hết công sức của chính mình và của người lập dự án, hoặc họ sẽ làm dự án không thực hiện được hoặc dự án có rủi ro cao trong quá trình thực hiện.
Con người là nhân tố trung tâm, chi phối đến các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Lấy thông tin gì, kiểm định chất lượng ra sao hoàn toàn là do người thẩm định Quyết định, áp dụng kỹ thuật phân tích, phưong pháp đánh giá nào là do trình độ, sự lựa chọn và được tiến hành bởi người thẩm định.
2.3. Một số nhân tố cơ bản khác :
k Thông tin :
Muốn xử lý bất kỳ một vấn đề già trong thực tiễn đều cần có thông tin. Thẩm định dự án đầu tư cũng vậy, khi thực hiện phải dựa trên các thông tin liên quan đến dự án do chủ dự án lập. Song chất lượng thẩm định lại liên quan đến thông tin trực tiếp và gián tiếp của các yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án. Do ddos không chỉ dựa trên các thông tin do chủ dự án cung cấp mà chuyên gia thẩm định phải tìm kiếm thu thập thông tin có chất lượng từ các nguồn khác nhau liên quan đến vấn đề đánh giá.
Giả sử phương pháp phân tích “tinh vi” nhất được áp dụng cũng có thể dẫn đến các kết luận sai lầm nếu chất lượng, số lượng của các thông tin đưa vào không cao, không đầy đủ. Hay các đánh giá của các chuyên gia kỳ cựu cũng chỉ là mang tính chủ quan, không phản ánh toàn diện hiệu quả thật của dự án nếu như không có các thông tin liên quan để so sánh, đối chiếu.
Vậy đối với chuyên gia thẩm định nói riêng và đối với ngân hàng nói chung việc thu thập, xử lý, phân tích, lưu trữ thông tin là cần được quan tâm. Thiết lập được một hệ thống cung cấp thông tin tố sẽ trợ giúp cho khả năng đảm bảo thông tin và chất lượng thông tin đối với công tác thẩm định tài chính dự án và để nâng cáo chất lượng của công tác này.
k Tổ chức , điều hành :
Việc phân công, sắp xếp cán bộ thẩm định theo trách nhiệm và quyền hạn có khoa óc trong các hoạt dộng tác nghiệp sẽ tránh được sự chồng chéo không cần thiết, tận dụng được mặt mạnh và hạn chế được mặt yếu của mỗi cánhân. Trên cơ sở đó, giảm bới chi phí tiến hành thẩm định, cũng như rút ngắn thời gian tiến hành thẩm định.
Tổ chức thẩm định hợp lý, khoa học sẽ phát huy được sức mạnh của cá nhân, tập thể và trang thiết bị, khai thác được các nguồn lực phục vụ cho hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư. Từ đó sẽ nâng cao chất lượng của công tác thẩm định.
k Khoa học, công nghệ và thiết bị, kỹ thuật :
Thời kỳ tin học hoá phát triển, tin học, công nghệ thông tin được ứng dụng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công nghệ thông tin được ứng dụng trong ngành ngân hàng làm tăng khả năng thu nhập, lưu trữ và xử lý thông tin một cách đầy đủ và nhanh chóng. Thông qua đó thông tin đầu vào và đầu ra của việc thẩm định dự án được cung cấp một cách đầy đủ và có hiệu quả.
Các kỹ thuật thẩm định tài chính dự án đầu tư cũng được sự trợ giúp của các chương trình phần mềm trên vi tính rất nhiều. Các mô hình phân tích, các hàm số phức tạp để đánh giá hiệu quả của dự án nhờ đó đã được tiến hành một cách nhanh chóng, tiện ích. Do đó, các chương trình trợ giúp về phưong diện kỹ thuật, các máy móc kỹ thuật hiện đại sẽ góp phần vào công việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng và công tác thẩm định nói chung.
Ngoài ra còn một số nhân tố khách quan từ phía các chủ dự án, người lập ra dự án như khả năng nhận thức và khả năng kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hay từ phía môi trường pháp luật, kinh tế vĩ mô : sự đồng bộ, sự hoàn thiện, hay tính biến động từ các môi trường này ra sao có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng của thẩm định tài chính dự án đầu tư.
III. Thẩm định tài chính dự án đầu tư trong các ngân hàng thương mại :
1. Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng thương mại :
Như đã đề cập ở phần trên, một dự án đầu tư có thể được thẩm định trên các mặt pháp lý, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý, tài chính hay kinh tế-xã hội . Việc tuân theo các thẩm định dự án nói chung là cần thiết, song sẽ có sự chú trọng thẩm định vào các nội dung với mức độ khác nhau tuỳ theo quan điểm của những cá nhân hay tổ chức khác nhau. Các chuyên gia thẩm định có thể đánh giá dự án qua lăng kính của chủ đầu tư hay cổ đông, của ngân hàng hay các tổ chức tài chính, của các cơ quan quản lý ngân sách nhà nước hay của toàn quốc gia.
Với tốc độ phát triển kinh tế hiện nay, số lượng và quy mô đầu tư tăng rất nhanh nên một mặt các dự án đầu tư đòi hỏi một số lưọng vốn lớn vượt qua khả năng tài chính của chủ dự án. Mặt khác, các chủ đầu tư tìm cách lợi dụng “những đòn bẩy tài chính” trong kinh doanh để cùng nhau phát triển nên họ luôn mong muốn và cần các khoản vốn từ bên ngoài. Mà không ai khác ở đây, ngân hàng thương mại chính là một trong những “kênh dẫn vốn quan trọng” đối với các chủ đầu tư.
Đối với ngân hàng thương mại, việc tài trợ cho dự án đầu tư là một hoạt động nghiệp vụ, là phương thức kinh doanh thu lợi nhuận, là hình thức cho vay theo dự án đầu tư, là các khoản cho vay trung dài hạn, là cơ sở để ngân hàng thương mại cung cấp các sản phẩm dịch vụ. Cho vay theo các dự án đầu tư là một trong những hoạt động cho vay rất phổ biến của ngân hàng thương mại.
Hoạt động cho vay này là một hoạt động kinh tế gắn liền với sự thăng trầm của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên bên cạnh việc dẫn vốn thì việc kiểm tra đầu ra của kênh đó là hết sức cần thiết và tối quan trọng. Việc kiểm tra đó chính là việc thẩm định dự án đầu tư dưới lăng kính của Ngân hàng - nhà tài trợ.
Việc xem xét dự án trên các khía cạnh của nội dung thẩm định dự án đầu tư là cần thiết song với quan điểm đánh giá dự án là của một Ngân hàng nên việc thẩm định tài chính đầu tư là khía cạnh mà Ngân hàng quan tâm hơn cả, là căn cứ để Ngân hàng ra các Quyết định đầu tư đồng thời đây là mặt ngân hàng thương mại có thế mạnh về chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng là xác định sức mạnh chung của dự án nhằm xác định, đánh giá sự án toàn sốvốn vay mà dự án có thể cần. Các Ngân hàng coi dự án đầu tư như là một hoạt động có khả năng tạo ra những lợi ích tài chính rõ ràng và thu những nguồn tài chính rõ ràng. Từ sự phân tích của những dòng tài chính đó, các Ngân hàng sẽ xác định được tính khả thi tài chính của dự án, nhu cầu cần vay vốn của._.oanh...) đã có quan hệ lâu năm với Sở Giao Dịch, tập trung tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp lớn theo đúng chủ trương định hướng của nhà nước.
Đồng thời nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xen kẽ các yếu tố quan trọng trong việc nâng cao thế mạnh cạnh tranh của Sở Giao Dịch. Những dự án mà Sở Giao Dịch tài trợ với vốn đầu tư có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của Sở Giao Dịch trong con mắt khách hàng.
Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kĩ năng hỗ trợ cho hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư cũng như hoạt động cho vay các cán bộ tín dụng, trực tiếp nắm bắt các kiến thức mới phù hợp với tình hình và hoàn cảnh kinh doanh cụ thể. Mỗi cán bộ thẩm định phải liên tục tự rèn luyện tinh thần trách nhiệm, kiến thức, trình độ chuyên môn bản thân nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định của mình.
II.Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định của Sở Giao Dịch NHNoVN
Đứng trước thực tế hoạt động cũng như định hướng trong hoạt động cho vay, xuất phát từ sự cần thiết cũng như thực trạng công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN, chúng ta thấy rõ một vấn đề nổi lên là cần phải nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Đây là cơ sở để cho ngân hàng sàng lọc, lựa chọn dự án đầu tư có hiệu quả, giúp cho ngân hàng khai thông được nguồn vốn, mở rộng nghiệp vụ tín dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Sở Giao Dịch.
Qua việc tìm hiểu công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch, việc đánh giá những kết quả đạt được cũng như hạn chế còn tồn tại và những nguyên nhân không phải chỉ để tham khảo thực tiễn, mà qua đó em muốn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính trong cho vay trung dài hạn bao gồm những mặt sau:
Giải pháp về con người
Giải pháp về phương pháp thẩm định
Giải pháp về tổ chức điều hành
Giải pháp về thông tin và trang thiết bị kĩ thuật
Tăng cường mối quan hệ với khách hàng và các cơ quan chuyên môn
1.Giải pháp về con người
Con người là trung tâm của mọi hoạt động xã hội, vừa là chủ thể tổ chức vừa là chủ thể hoạt động vì thế con người là rất quan trọng, đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động nói chung và trong thẩm định dự án nói riêng. Kết quả của thẩm định tài chính dự án đầu tư là kết quả của việc đánh giá xem xét dự án theo nhìn nhận chủ quan của người thẩm định trên cơ sở khoa học và các tiêu chuẩn thẩm định khác nhau. Do đó hiệu quả của hoạt động thẩm định phụ thuộc vào chất lượng của nhân tố con người. Con người ở đây là đội ngũ cán bộ, nhân viên điều hành hoặc trực tiếp tiến hành các hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư của ngân hàng từ trung ương đến các cơ sở điạ phương.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng được với yêu cầu ngày nay, cũng như tận dụng nguồn lực con người để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, Sở Giao Dịch cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng theo yêu cầu:
Về trình độ chuyên môn: Các cán bộ thẩm định phải có đủ trình độ và hiểu biết về kinh tế thị trường, về hoạt động ngân hàng, tài chính, pháp luật. Đặc biệt phải có kiến thức chuyên sâu về tài chính doanh nghiệp, tài chính ngân hàng, có khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp, dự án đầu tư một cách thuần thục. Đồng thời phải luôn được phổ biến các văn bản, phương pháp thẩm định mới một cách nhanh chóng, sáng tạo. Phải luôn tự học hỏi từ nhiều phía (thị trường, ngân hàng khác) để bổ sung cho chính bản thân.
Bên cạnh đó đội ngũ này phải có khả năng khai thác, xử lí thông tin trên máy vi tính, sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ phân tích, thẩm định tài chính dự án đầu tư cũng như các chương trình quản lí hiện đại.
Về đạo đức nghề nghiệp cán bộ tín dụng phải có phẩm chất đạo đức trung thực, có tinh thần trách nhiệm, tính kỉ luật cao, có lòng nhiệt tình trong công việc, có tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức rèn luyện tự bồi dưỡng. Không vì lợi ích riêng tư mà ảnh hưởng tới lợi ích chung.
Để có được đội ngũ cán bộ như trên nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án ngay từ nhân tố con người, trong thời gian tới SGDNHNoVN cần củng cố và hoàn thiện đội ngũ cán bộ theo hướng:
Chủ động thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và những kiến thức hỗ trợ cho hoạt động của ngành nhằm giúp cho cán bộ lãnh đạo các cấp và cán bộ tín dụng thẩm định trực tiếp nắm bắt các kiến thức mới phù hợp với tình hình và bối cảnh kinh doanh mới.
Cần tiến hành tuyển chọn và chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng thẩm định theo đúng chỉ thị 08 của NHNN.
Đào tạo đội ngũ cán bộ theo mảng dự án lớn và cho vay doanh nghiệp để đảm đương công việc thẩm định và quản lí khi cho vay đối với các dự án có quy mô lớn và đối với các doanh nghiệp.
Ngân hàng cần đảm bảo rằng các cán bộ thẩm định là đủ năng lực đối với các cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc thì ngân hàng nên xem xét và chuyển sang nhiệm vụ khác, bố trí các cán bộ có trình độ tinh thần trách nhiệm, kinh nghiệm vào các khâu chủ chốt trong các khâu thẩm định dự án.
Bổ sung thêm đội ngũ cán bộ tín dụng trựctiếp thẩm định dự án cho các chi nhánh còn thiếu để tránh tình trạng quá tải tín dụng.
Cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi, khen thưởng thoả đáng đối với các cán bộ tín dụng giỏi làm việc có kinh nghiệm, hiệu quả công việc cao, đồng thời kỉ luật nghiêm minh các hành vi tiêu cực. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng thông qua các hình thức tuyên truyền, nêu gương người tốt việc tốt.
Sở Giao Dịch cần có chính sách thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để đội ngũ này phục vụ hoặc tham gia cố, cộng tác viên cho hoạt động thẩm định.
Sở Giao Dịch cần tiếp tục triển khai và nhân rộng các khoá đào tạo cho cán bộ tín dụng chuyên sâu về lĩnh vực thẩm định dự án, có thể thực hiện việc đào tạo lại đối với những cán bộ tín dụng còn thiếu năng lực, trình độ còn hạn chế nhằm nâng cao chất lượng cán bộ.
Xây dựng hệ thống các quy tắc, chuẩn mực về trình độ đối với cán bộ thẩm định để làm tiêu chuẩn tuyển chọn cũng như các kế hoạch về bồi dưỡng và đào tạo.
Khuyến khích việc nghiên cứu khoa học, đề xuất các sáng kiến mới trong lĩnh vực thẩm định tài chính dự án đầu tư để phổ biến và ứng dụng trong toàn hệ thống.
Sở Giao Dịch cần có chính sách cán bộ tự đào tạo, nâng cao trình độ bằng cách hỗ trợ học phí, trợ cấp tiền tài liệu, tạo điều kiện về thời gian giúp cho đội ngũ cán bộ có thể nâng cao được kiến thức, trình độ nghiệp vụ của mình.
2.Giải pháp về phương pháp thẩm định
Phương pháp thẩm định cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của công tác thẩm định bởi khi sử dụng phương pháp còn thiếu sót sẽ gây ra việc hiểu về hiệu quả dự án khác nhau. Về cơ bản hiện nay nội dung về phương pháp thẩm định của Sở Giao Dịch NHNoVN là khá đầy đủ. Tuy nhiên sự am hiểu và vận dụng các kiến thức đó trong quá trình thẩm định thì không phải mọi cán bộ là như nhau. Việc thẩm định dự án trung và dài hạn lại không phải là một công việc đơn giản mà nó thực hiện trên nhiều công việc khác nhau, bao hàm vô số các biến động khác nhau. Chính vì vậy việc hệ thống hoá các kiến thức thẩm định và không ngừng phát triển là một công việc cần làm tại Sở Giao Dịch.
Thẩm định tư cách pháp lí của dự án (hồ sơ dự án) và chủ dự án: đây là một mặt thẩm định có liên quan đến các văn bản pháp luật khác nhau. Bản thân mỗi cán bộ thẩm định khó có khả năng nắm vững toàn bộ các văn bản này hoặc nếu có thì sẽ rất tốn thời gian và công sức. Thực tế các văn bản phục vụ cho công tác thẩm định rất phức tạp: Luật doanh nghiệp nhà nước, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật đầu tư nước ngoài, Quy chế đầu tư và xây dựng cơ bản... và còn chưa tính đến luật pháp quốc tế. Nhưng việc thẩm định mà cán bộ thẩm định thực hiện không phải liên quan đến tất cả những gì có trong các văn bản này nên việc tra cứu trong quá trình thẩm định sẽ rất khó khăn. vậy Sở Giao Dịch cần hệ thống hoá những nội dung cần thiết cho mặt thẩm định này và có sự bổ sung cần thiết cho mặt thẩm định này và có sự bổ sung cần thiết, kịp thời khi có sự thay đổi về luật, quy định. Bên cạnh đó hoàn thiện hồ sơ pháp lí bao gồm đầy đủ các tài liệu cần thiết cũng là một công việc cần làm để nâng cao chất lượng thẩm định ở bước này.
Thẩm định khả năng tài chính của chủ đầu tư:
Như đã phân tích khả năng tài chính của chủ dự án có ảnh hưởng không nhỏ đến dự án không chỉ từ phương diện rủi ro phá sản mà khả năng của chủ dự án trong các mặt khác cũng có ảnh hưởng lớn đến quản lí, điều hành, và thực hiện thành công dự án. hiện nay có rất nhiều tài liệu khác nhau trình bày về phần thẩm định này. Tuy nhiên sự vận dụng kiến thức đối với doanh nghiệp và đối với các ngân hàng lại khác nhau, vì vậy Sở Giao Dịch cần hệ thống những nội dung cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định của mình. Đứng trên quan điểm của ngân hàng khi phân tích thì khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn là hai mặt quan trọng nhất. Bên cạnh đó phân tích khả năng hoạt động cũng cho phép đưa ra những biện pháp nâng cao tính khả thi của dự án. Cùng với những Báo cáo tài chính Sở Giao Dịch cần yêu cầu đơn vị xin vay cung cấp đầy đủ thôngtin về tình hình nợ để sử dụng hợp lí chỉ tiêu phân tích khả năng thanh toán. Đồng thời để cán bộ thẩm định đưa ra quyết định đúng đắn về khả năng tài chính của chủ đầutư Sở Giao Dịch cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tiêu chuẩn để làm cơ sở so sánh (thế nào là tốt, xấu). Sở Giao Dịch cần phối hợp chặt chẽ với các ngành sản xuất, dịch vụ và tổng cục thống kê để có thông tin về tỉ lệ tham chiếu nhằm phục vụ tốt hơn công tác thẩm định.
Thẩm định dự án bao gồm: Thẩm định hiệu quả tài chính dự án và Thẩm định khả năng thực hiện dự án (tính khả thi)
Trên cơ sở các tài liệu mà chủ dự án cung cấp trong đó quan trọng là luận chứng kinh tế kĩ thuật của dự án, cán bộ thẩm định cần tiến hành công việc của mình. Các tài liệu bổ sung cho công việclà những thông tin mà cán bộ thẩm định tự tiến hành thu thập. Trước tiên cán bộ thẩm định cần kiểm tra tính hợp lí của các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp đoì hỏi cán bộ thẩm định phải có kinh nghiệm. Mỗi sự không hợp lí đều phải được điều chỉnh bằng cách yêu cầu giải trình hoặc cung cấp lại thông tin. Trên cơ sở thông tin đã được kiểm tra cán bộ thẩm định mới tiến hành các nội dung tiếp theo.
Thẩm định hiệu quả tài chính dự án chủ yếu tập trung trên các khái niệm doanh thu và chi phí, lợi ích và chi phí đầu tư. Do lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai đoạn khác nhau nên cần phải sử dụng kĩ thuật hiện tại hoá để chuyển đổi giá trị tiền tệ về cùng một thời điểm để so sánh. Cán bộ thẩm định cần nắm vững kĩ thuật này vì nó cho phép sử dụng các phương pháp NPV, IRR một cách linh hoạt.
Trong phân tích tài chính dự án cần nắm vững và sử dụng thành thạo các chỉ tiêu NPV, IRR, PP... trong đó cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa lãi suất hiện tại hoá sử dụng cho NPV, IRR. Vì phương pháp NPV đánh giá quy mô lợi ích của dự án cho nên lãi suất hiện tại hoá trong trường hợp này phải thể hiện chi phí vốn hoặc theo cách nhìn nhận khác là chi phí cơ hội của vốn nó hoàn toàn khác với lãi suất sử dụng để xác định các giá trị NPV phục vụ cho tính toán IRR. Bên cạnh những chú ý trên thì việc phân tích hiệu quả tài chính dự án sử dụng các chỉ tiêu toán học trên sẽ thuận lợi và tiết kiệm thời gian hơn cho cán bộ thẩm định nếu được sử dụng trên các phần mềm máy tính để tính toán.
Hiện nay trong việc tính toán hiệu quả tài chính dự án Sở Giao Dịch chưa đề cập đến yếu tố rủi ro. Trong đầu tư rủi ro là yếu tố khó có thể tránh khỏi bởi quá trình đầu tư thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố mang tính ngẫu nhiên không thể lường trước được. Rủi ro ở đây được coi là sự biến động bất lợi của thị trường...để tiến hành thẩm định trong điều kiện rủi ro Sở Giao Dịch cần áp dụng một trong hai phương pháp sau:
Phương pháp điều chỉnh tỉ lệ chiết khấu theo mức độ rủi ro
Theo phương pháp này tỉ lệ chiết khấu (chi phí sử dụng vốn) sẽ được cộng thêm một tỉ lệ nhất định. Lượng cộng thêm này lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào mức độ mạo hiểm của dự án. tỷ lệ chiết khấu mới gọi là tỉ lệ chiết khấu khá đầy đủ. Điều này có nghĩa là mức độ rủi ro càng lớn thì tỉ lệ chiết khấu càng cao, và khi tính NPV sẽ không có một tỉ lệ chiết khấu chung cho tất cả các dự án. Phần chệnh lệch giữa tỉ lệ chiết khấu đầy đủ với chi phí sử dụng vốn được gọi là phần dự phòng bù đắp rủi ro. Tỉ lệ chiết khấu có thể xác định theo hai phương pháp: chủ quan và khách quan.
Theo phương pháp chủ quan: người ta phân loại dự án đầu tư theo mức độ mạo hiểm, và chủ đầu tư tự ấn định một tỉ lệ chiết khấu tương xứng với mức độ mạo hiểm. Ví dụ:
Loại dự án
Tỷ lệ chiết khấu(%)
Dự án an toàn
Dự án ít mạo hiểm
Dự án có mạo hiểm trung bình
Dự án có mạo hiểm cao
7
10
13
16
Trong đó 3% chênh lệch ở đây gọi là tỉ lệ dự phòng bù đắp rủi ro.
Theo phương pháp khách quan: dựa vào xác suất xuất hiện rủi ro để điều chỉnh tỉ lệ chiết khấu, và tỉ lệ chiết khấu đầy đủ được xác định theo công thức:
Trong đó:
r: chi phí sử dụng vốn bình quân
rd: tỉ lệ chiết khấu đầy đủ
q:xác suất xuất hiện rủi ro
Phương pháp xác định sự mạo hiểm của dự án
Theo phương pháp này tỉ lệ chiếtkhấu được giữ nguyên và người ta chỉ xác định sự biến động của các khoản thu mà dự án mang lại trong tương lai. Bởi các khoản thu nhập của dự án thường nằm ở thời điểm trongtương lai mà tương lai lại không chắc chắn. thời gian càng dài tính hiện thực càng kém. Do vậy sự mạo hiểm của dự án thường được thể hiện ở sự biến động của thu nhập.
Sự mạo hiểm của dự án đầu tư được đo bằng độ lệch mẫu và hệ số biến động.
-Xác định độ lệch mẫu: tiến hành theo các bước sau:
B1: xác định các khoản thu nhập ở các mức độ khác nhau
B2: xác định xác suất ở các mức độ khác nhau của thu nhập
B3: tính kì vọng toàn bộ của các thu nhập đang đợi
B4: tính độ lệch mẫu để xác định sự mạo hiểm của dự án.
Kết luận : độ lệch mẫu càng nhỏ, mức độ an toàn càng cao và ngược lại độ lệch mẫu càng cao thì mức độ an toàn càng nhỏ.
Để xác định độ lệch mẫu của các khâu thu nhập trong tươnglai gắn liền với mỗi dự án, đầu tiên ta phải dự tính các khoản thu nhập hàng năm của mỗi dự án ở các mức độ khác nhau và xác suất xuất hiện khả năng đó.
Tính kì vọng toán học của các khoản thu nhập (hoặc số trung bình của thu nhập hàng năm) theo công thức:
Trong đó Xi:thu nhập năm i (i=1->n)
Pi: xác suất xuất hiện Xi
X: số thu nhập trung bình
Cuối cùng xác định độ lệch mẫu:
Phân tích độ nhạy cảm của dự án giúp cho Sở Giao Dịch biết được dự án nhạy cảm với các yếu tố nào hay nói cách khác yếu tố nào gây nên sự thay đổi nhiều nhất của chỉ tiêu hiệu quả xem xét dự án để từ đó có biện pháp quản lí chúng trong quá trình thực hiện dự án.
Khi phân tích độ nhạy cảm của dự án cần lưu ý đến các biến số có tính chất sống còn đối với việc đánh giá dự án. Với các dự án có sử dụng đến vốn vay bằng ngoại tệ, có nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài hoặc xuất khẩu sản phẩm thì cần quan tâm tới sự biến động của tỉ giá hối đoái. Đặc biệt đối với tất cả các dự án đầu tư thì Sở Giao Dịch cần xem xét độ nhạy NPV của dự án theo trị số lãi suất chiết khấu và lãi vay dài hạn, vì NPV rất nhạy cảm với trị số này.
Việc phân tích độ nhạy không chỉ đánh giá dự án đơn thuần, mà nó còn có ích cho người quản lí dự án sau này, khi dự án được vay vốn thì Sở Giao Dịch cũng là một trong những người quản lí dự án. Kết quả của phân tích độ nhạy sẽ làm rõ hơn các khoảng cách tới hạn, đòi hỏi sự quan tâm quản lí sát sao nhằm đảm bảo kết quả kinh doanh của dự án. Sở Giao Dịch phải theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động của dự án để có thể có sự hỗ trợ hoặc đình chỉ hoạt động dự án.
Trong điều kiện hiện nay của ngành ngân hàng nói chung và của Sở Giao Dịch NHNoVN nói riêng phân tích khả năng của dự án là một nội dung có tính thực tiễn cao cho phép nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án. như đã biết tính hiệu quả tài chính dự án đầu tư dựa trên cơ sở số liệu chính là báo cáo tài chính này được lập trên một số những giả định cơ bản về các mặt thị trường, công nghệ, nguyên liệu... hay bản thân nó là tập hợp các số liệu giả định. Để đưa ra được các số liệu nàyđòi hỏi người lập dự án phải phân tích đầy đủ các mặt trên và đưa ra con số giảđịnh hợp lí cho từng phần mà đặc trưng là doanh thu và chi phí qua các năm thực hiện. Tuy nhiên đây là một công việcphức tạp và mỗi con số là sự tổng hợp nhiều mặt khác nhau cho nên không phải lúc nào nó cũng hợp lí. Khi phân tích tính khả thi của dự án, trên cơ sở thông tin được cung cấp và tự thu thập, cán bộ thẩm định là người có khả năng nhìn thấy những bất hợp lí những con số giả định này. tuy nhiên sự phân tích không nên chỉ dừng lại ở kết luận là khó khăn về mặt này hay mặt khác. Để hiệu quả tài chính của dự án trên cơ sở báo cáo tài chính mới. Trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu phía chủ dự án lập lại luận chứng kinh tế kĩ thuật cho phù hợp. Trên cơ sở những phân tích này thì các biện pháp nâng cao tính khả thi của dự án phải tập trung chi tiết vào việc đạt được số lượng giả định đã đề cập ban đầu. Phân tích một cách khoa học và cẩn thận nội dung này cho phép loại bỏ những dự án mang tính khả thi thấp và thực hiện thành công những dự án có khả năng.
Thẩm định các biện pháp bảo toàn vốn, cán bộ thẩm định nội dung này khi xem xét những dự án mà chủ đầu tư không có đủ mức vốn tự có cần thiết (tối thiểu 30% đối với dự án trung dài hạn) thì nên kiên quyết kiến nghị không nên cho vay. Trường hợp chủ dự án là doanh nghiệp nhà nước thì cũng cần kiên quyết vì có ảnh hưởng đến an toàn vốn của sở, đến tài sản XHCN.
Bên cạnh việc hoàn thiện phương pháp thẩm định trên, sở cần xây dựng một qui trình thẩm định khoa học dựa trên nguyên tắc tách ra nhiều khâu từ thẩm định tài chính, thẩm định kĩ thuật, phân tích thị trường...cho đến thẩm định biện pháp bảo đảm vốn vay, kiểm tra năng lực điều hành.
3. Giải pháp về tổ chức điều hành
Việc tổ chức, phân công hợp lí có khoa học trong hoạt động tác nghiệp trong quá trình thẩm định tài chính dự án đầu tư sẽ tránh được sự chồng chéo không cần thiết, giảm những hạn chế và phát huy những mặt tích cực của cán bộ thẩm định cũng như cả tập thể, giảm chi phí hoạt động cũng như rút ngắn thời gian thẩm định. Vì vậy Sở Giao Dịch cần:
+Tiếp tục thực hiện nghiêm túc phân quyền phán quyết và thẩm định như văn bản quy định hiện hành của NHNo (đã đề cập ở phần II). Đồng thời nghiên cứu để góp ý điều chỉnh mức phán quyết sao cho phù hợp với tình hình củaSGD, từng loại đối tượng khách hàng, từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh để nâng cao tính cạnh tranh.
+Tổ chức thẩm định cần phải sắp xếp theo hướng ngày càng tinh giảm gọn nhẹ nhưng phải lành mạnh, không dàn trải, tập trung vào nâng cao chất lượng và đảm bảo về số lượng để đạt được những mục tiêu kế hoạch đề ra.
+Trong việc phân công công việc, cần phải căn cứ vào khả năng, năng lực của mỗi cán bộ để phát huy trình độ, kinh nghiệm, thế mạnh của mỗi cán bộ trong hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư.
+Sở cần tổ chức các cuộc hội thảo, tổ chức báo cáo tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm về thực tiễn hoạt động thẩm định dự án nói chung và thẩm định dự án trung dài hạn nói riêng. Bên cạnh đó ban lãnh đạo cần sắp xếp tổ chức các buổi giao lưu liên đơn vị để tạo điều kiện cho các cán bộ của Sở Giao Dịch gặp gỡ tiếp xúc với các cán bộ của chi nhánh khác, của ngân hàng khác để học hỏi kinh nghiệm của đơn vị bạn.
4.Giải pháp về trang thiết bị kĩ thuật và thông tin:
*Về trang thiết bị
Trình độ công nghệ ngân hàng và công nghệ thẩm định trong khuvựcvà trên thế giới đã cực kì phát triển, phải nói là vượt trội so với Việt Nam. Chính vì vậy với mục tiêu hội nhập được với khu vực và các nước trên Thế giới, cũng như việc nâng cao thẩm định dự án trung dài hạn tương xứng với yêu cầu hiện nay thì trang thiết bị kĩ thuật hiện đại phải được Sở Giao Dịch chú trọng trang bị và đổi mới.
Sở Giao Dịch có chiến lược đầu tư, đổi mới hệ thống trang thiết bị, sử dụng các chương trình phần mềm hiệu quả trong quản lí và thẩm định dự án sẽ làm tăng khả năng xử lí các thông số đầu vào và đầu ra của dự án, làm giảm việc xử lí số liệu bằng tay, ứng dụng các phần mềm vi tính hiện đại sẽ làm tăng khả năng phân tích, đánh giá dự án trên cơ sở đó ra quyết định hợp lí:
Hiện nay Sở Giao Dịch đã tham gia hệ thống nối mạng của NHNo song vẫn chưa có mạng máy tính liên kết giữa bộ phận tín dụng của các chi nhánh với nhau. Do đó, trang thiết bị máy tính và các bộ phận liên lạc qua mạng sẽ làm cho việc chỉ đạo của cấp ra quyết định cũng như việc sử dụng thông tin phụ trợ kịp thời hơn, nâng cao hiệu quả công tác thẩm định và tái thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Về thông tin
Thông tin không những có ảnh hưởng đến hiệu quả thẩm định tài chính dự án đầu tư mà nó còn là một thứ vũ khí được sử dụng để cạnh tranh giữa các ngân hàng. Việc ảnh hưởng của thông tin đến hiệu quả thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng được thể hiện trên hai mặt: lượng thông tin và chất thông tin. Nếu lượng thông tin cho thẩm định không đủ thì kết luận rút ra không phản ánh được đầy đủ các biến động còn nếu chất lượng thông tin không cao thì các kết luận rút ra sẽ không chính xác. Các biện pháp để nâng cao chất và lượng của thông tin cần bao gồm:
Hoàn hiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ, để thông tin thông suốt và đầy đủ, không phiến diện. Từ đó làm cơ sở cung cấp thông tin cho hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư được nhanh chóng và thuận tiện.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lí thông tin về kinh tế, thị trường và khách hàng nhằm có thể dự báo kịp thời những rủi ro có thể xảy ra, nắm bắt kịp thời về tình hình biến động cung cầu, về vốn cho từng thời kì để có các biện pháp điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp.
Sở Giao Dịch cần có quy định về việc cung cấp thông tin từ các dự án đã hoạt động, đang hoạt động, xử lí khối lượng thông tin đó là đã tạo cho Sở Giao Dịch một cơ sở dữ liệu thông tin khổng lồ vì đối tượng khách hàng của Sở Giao Dịch rất đa dạng, ở mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp. đó là cơ sở tham khảo hữu ích cho hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Đối với nguồn thông tin do doanh nghiệp cung cấp bao gồm các hồ sơ tài liệu, báo cáo tài chính, LCKTKT... thì Sở Giao Dịch yêu cầu doanh nghiệp cung cấp đầy đủ. Đồng thời khi có những nghi ngờ hoặc có những giả định mới về một yếu tố nào đó thì Sở Giao Dịch cần yêu cầu doanh nghiệp cung cấp bổ sung thông tin hoặc giải trình kịp thời. Sở Giao Dịch cũng cần có các biện pháp nghiệp vụ kiểm tra tính chính xác của số liệu cung cấp bằng các phép tính toán đơn giản hơn vì không phải lúc nào cũng chính xác và hợp lí. Để nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin Sở có thể:
-Với những tài liệu có nghi ngờ cần đối chiếu hoặc đòi hỏi được giải trình bởi những cơ quan chịu trách nhiệm cung cấp.
-Trước khi doanh nghiệp đề nghị xin vay, Sở Giao Dịch có thể yêu cầu LCKTKT phải được lập bởi một cơ quan tư vấn, hoặc chuyên môn về đầu tư mà uy tín đã được khẳng định hoặc được sở tin tưởng.
-Các báo cáo tài chính cần phải được cập nhật và có sự chứng nhận của công ty kiểm toán
Đối với thông tin do Sở Giao Dịch thu thập có thể bao gồm:
-Thông tin về thị trường: cán bộ thẩm định cần phải tham khảo các sách báo, tạp chí nghiên cứu thị trường, tài liệu chuyên ngành, thông tin từ Tổng cục thống kê hoặc mua thông tin của các cơ quan nghiên cứu thị trường (nếu có). Bên cạnh đó cán bộ thẩm định có thể trực tiếp tiến hành khảo sát và điều tra những vấn đề mà bản thân quan tâm.
-Thông tin về tổ chức quản lí và tổ chức sản xuất: thông qua quá trình giao dịch tiếp xúc cán bộ thẩm định có thể tìm hiểu một số mặt trong nội bộ doanh nghiệp như trình độ, năng lực và khả năng giao tiếp của cán bộ quản lí và lãnh đạo doanh nghiệp, cách thức bố trí sản xuất và quản lí, tinh thần lao động của cán bộ công nhân viên và những vấn đề đáng chú ý khác.
-Thông tin về công nghệ, thiết bị: đây là một phần công việc khó vì cán bộ thẩm định thường không nắm bắt được kiến thức chuyên môn về phần này, nó đòi hỏi phải có sự cộng tác với các chuyên viên kĩ thuật.
5.Tăng cường mối quan hệ với khách hàng và các cơ quan chuyên môn liên quan:
Quan hệ tốt với khách hàng là một vấn đề quan trọng tạo thuận lợi cho Sở Giao Dịch ở nhiều mặt hoạt động khác nhau chứ không riêng thẩm định cho vay. Sở Giao Dịch cần không ngừng tăng cường mở rộng quan hệ với khách hàng và thu hút họ qua các chính sách tiếp thị, dịch vụ mà Sở Giao Dịch cung cấp, tạo dựng uy tín của Sở Giao Dịch trên thị trường. Bên cạnh đó Sở Giao Dịch cũng cần tiến hành nắm vững tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giúp cho Sở Giao Dịch có được thông tin quan trọng để tăng cường hiệu quả cho vay, đảm bảo an toàn khoản vay, cùng nhau giải quyết khó khăn phát sinh nhằm duy trì tốt mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng với Sở. Tiến hành phân loại doanh nghiệp để làm căn cứ cho vay cũng là một việc cần thiết, đảm bảo an toàn trongkinh doanh.
Thiết lập và phát triển quan hệ với Bộ Khoa học công nghệ và môi trường sẽ giúp cho Sở Giao Dịch có thêm được cố vấn về vấn đề thẩm định tính khả thi về khoa học công nghệ, máy móc thiết bị...về mặt tài chính, chi phí cho việc thẩm định thực hiện bởi Bộ hoặc Sở KHCN&MT rất lớn chiếm từ 2- 4% giá trị TSCĐ và CN sử dụng trong khi ai là người chịu chi phí này vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Việc có mối quan hệ tốt và thường xuyên với cơ quan này sẽ giúp cho Sở Giao Dịch giải quyết được những khó khăn trước mắt cho đến khi có bộ phận chuyên môn về thẩm định kĩ thuật nhằm nâng cao tính khả thi của dự án và hiệu quả công tác thẩm định tại Sở Giao Dịch.
Bên cạnh đó Sở Giao Dịch cũng cần mở rộng quan hệ với các cơ quan tư vấn thẩm định, các cơ quan nghiên cứu kĩ thuật khác, các cơ quan nghiên cứu thị trường, các cơ quan chính quyền địa phương... việc này sẽ tạo thuận lợi cho công tác thẩm định của Sở Giao Dịch NHNoVN.
III.Một số kiến nghị nhằm hỗ trợ nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là một khía cạnh trong thẩm định dự án, song phạm vi của nó bao hàm tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, nó đánh giá hiệu quả tài chính của các dự án thuộc tất cả các ngành. Chính vì vậy muốn nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Sở Giao Dịch cần phải được sự phối hợp hỗ trợ đồng bộ từ chính sách cũng như hoạt động của các bộ ngành liên quan trong nền kinh tế của nước ta hiện nay.
+Đề nghị Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện Trung tâm tín dụng trung ương nhằm hỗ trợ, cung cấp thôngtin cho hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại có hiệu quả hơn, trợ giúp kĩ thuật thẩm định cho ngân hàng. Hàng năm Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định dự án nói riêng và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung.
+Đề nghị các bộ, ngành cần hệ thống hoá các thôngtin liên quan đến lĩnh vực của Bộ, ngành quản lí. Hàng năm nên có báo cáo tổng kết công khai tình hình hoạt động và phát triển, đưa ra những chỉ số chung phản ánh tốc độ tăng trưởng, và các chỉ số liên quan của ngành thông qua các tài liệu chuyên ngành hay trung tâm lưu trữ thông tin của ngành.
+Đề nghị chính phủ, bộ, ngành cùng phối hợp để xây dựng các định mức, các thông số kinh tế của ngành, các lĩnh vực kinh doanh để làm cơ sở cho việc so sánh hiệu quả của dự án được sát thực hơn, cụ thể như: tỉ lệ lãi suất của cả nền kinh tế, giá cơ sở của các mặt hàng chủ lực, các định mức tiêu hao nguyên vật liệu...
+Đề nghị các Bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ trongviệc thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Đề nghị chính phủ nên có văn bản quy định rõ trách nhiệm của các bên đối với kết quả thẩm định. Đặc biệt, trong cơ chế tín dụng kế hoạch cần để ngân hàng cấp vốn tín dụng kế hoạch tham gia ngay từ đầu tiến hành thẩm định tài chính dự án đầu tư, để đảm bảo vốn hoạt động của ngân hàng cũng như bảo đảm tính hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước, đồng thời giảm bớt việc kéo dài thời gian ra quyết định đối với các dự án vay vốn tín dụng (vì thuộc đối tượng quản lí của nhiều Bộ ngành liên quan).
+Đề nghị Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể trong việc quản lí đầu tư xây dựng cơ bản cũng như quản lí tài chính.
+Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hoá các tiêu thức cơ bản về thẩm định dự án, cung cấp các tài liệu và thông tin cho công tác thẩm định, mở rộng phạm vi tín dụng trên thị trường nhằm cung cấp các thông tin theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng về các doanh nghiệp giúp cho cán bộ thẩm định có nhận định đúng đắn và cơ sở thẩm định trước khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
+Đề nghị các Bộ ngành, các địa phương phối hợp chặt chẽ hơn trong việc trao đổi và cung cấp các thông tin, cần thiết lập và phát triển một mạng thông tin trong toàn quốc với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan trong việc đổi mới hệ thống cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư và công tác thẩm định.
Kết luận
Qua nghiên cứu nội dung đề tài ta đã thấy được tầm quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả của một dự án đầu tư, từ đó giúp cho các ngân hàng thương mại đánh giá đúng về dự án và đưa ra những quyết định cho vay đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên trên thực tế, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư ở các ngân hàng thương mại Việt Nam trongđó có Sở Giao Dịch NHNoVN trong thời gian qua là chưa thực sự hiệu quả. để có thể nâng cao được chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư là một điều không dễ dàng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ lẫn nhau từ nhiều phía: Ngân hàng, đơn vị xin vay, các Bộ ngành liên quan...
“Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNoVN”. Do thời gian có hạn, việc sưu tầm tài liệu, kiến thức bản thân còn hạn chế vì vậy, chuyên đề chắc chắn còn nhiều thiếu sót, chỉ dừng lại ở mức độ tham khảo. Em mong thầy cô xem xét giúp đỡ em hoàn thiện tốt đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Đàm Văn Huệ, các cô chú công tác tại Sở Giao Dịch NHNoVN đã tận tình giúp đỡ em.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24207.doc