Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội

Lời mở đầu Trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, đầu tư phát triển đất nước được đặt ra kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những câu trả lời tốt nhất cho vấn đề này là chúng ta cần có một hệ thống ngân hàng phát triển,vững mạnh và hoạt động có hiệu quả.Chính vì vậy, trong thời gian qua,hoạt động ngân hàng trong cả nước đã không ngừng được nâng cao chất lượng hoạt động.Điêù này được thể hiện rõ qua công tác thẩm định tại mỗi ngân hàng. Trên thực tế,trong n

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều năm qua,công tác thẩm định dự án đầu tư tại các ngân hàng đang ngày càng được hoàn thiện dần về cả phươg pháp lẫn thực hành để phù hợp với tình hình đất nước.Đặc biệt đứng trên giác độ là người cung cấp,tài trợ vốn cho hoạt động của dự án,công tác thẩm định dự án đầu tư không thể thiếu được trong hoạt động của các ngân hàng,nhất là đối với chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư Phát Triển Hà Nội,thẩm định dự án sẽ giúp cho ngân hàng có quyết định đúng đắn trong hoạt động cho vay của ngân hàng,nhằm giúp cho ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá rủi ro. Tại chi nhánh ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển,công tác thẩm định có vai trò rất quan trọng không chỉ trực tiếp tới sự sống còn của hoạt động kinh doanh tại ngân hàng mà còn gián tiếp tới sự phát triển của thành phố Hà nội.Do đó, những năm gần đây, công tác thẩm định tại ngân hàng được chú trọng và không ngừng đầu tư phát triển,đạt được nhiều thành công. Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Hà Nội em đã chọn đề tại “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà Nội” Chương I : Lý luận chung về thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại. I. Tổng quan về ngân hàng thương mại. 1. Chức năng,vai trò của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại đã ra đời,tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá. Trong xã hội,tại một thời điểm nhất định luôn xảy ra tình trạng có những người có những khoản tiền nhàn rỗi,không có nhu cầu hoặc chưa có nhu cầu sử dụng trong khi đó lại có những người khác lại rất cần một khoản tiền như vậy cho cơ hội đầu tư hay cho mục đích tiêu dùng khác.Trên thực tế họ có thể gặp nhau bằng vô số cách khác nhau,nhưng cách thức quan trọng và phổ biến nhất là qua các trung gian tài chính mà điển hình là các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yêú và thường xuyên là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,đầu tư và làm các dịch vụ thanh toán. Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ tập trung và phân phôí lại vốn tiền tệ cũng như các dịch vụ có liên quan đến tài chính tiền tệ khác trong nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường,ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính hết sức quan trọng để điều chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người đầu tư,từ người có vốn sang người thiếu vốn,qua đó nó giúp cho nền kinh tế vận hành một cách có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước,ngân hàng thương mại là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,là công cụ quản lý của nhà nước và là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. 2.Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường,các hoạt động của ngân hàng thương mại đều hướng tới một mục tiêu tối cao,chi phối các hoạt động khác đó là mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.Để theo đuổi mục tiêu này,các ngân hàng thương mại không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ,đa dạng hoá các hoạt động nhưng nhìn chung một ngân hàng thương mại thường thực hiện 3 hoạt động cơ bản sau: Hoạt động huy động vốn Hoạt động cho vay đầu tư Hoạt động trung gian khác Đây là 3 hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại,chúng có quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau.Để có vốn vay,ngân hàng phải huy động các đồng tiền nhàn rỗi từ các cá nhân,tổ chức và dùng nó cho các tổ chức kinh tế,dân cư vay khi họ có cơ hội đầu tư.Hoạt động cho vay và nhân gửi có quan hệ mật thiết với nhau.Đồng thời với vai trò là một trung gian tài chính,các ngân hàng cung cấp một số dịch vụ khác cho khách hàng như:dịchvụ,thanh toán,tư vấn,bảo lãnh...Qua đó ngân hàng vừa hỗ chợ cho các hoạt động nhận gửi và cho vay có hiệu quả và tạo thêm thu nhập. Hoạt động huy động vốn Trước hết các ngân hàng thương mại phải có một số vốn tự có làm tiền đề cho hoạt động kinh doanh của mình.Số vốn này do các chủ sở hữu ngân hàng đóng góp,hay từ các quỹ tạo ra trong quá trình hoạt động của ngân hàng.Tuy nhiên nguồn vốn chính của các ngân hàng thương mại là vốn huy động từ các tổ chức,cá nhân trong nền kinh tế.Trước kia các ngân hàng chủ yếu là nhận tiền gửi từ những người gởi tiền,ngày nay do sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường,các ngân hàng thương mại đã đưa ra rất nhiều hình thức khác để huy động vốn nhằm đảm bảo và mở rộng hoạt động của mình.Ngân hàng tập chung được một số vốn lớn thông qua việc cung cấp các dịch vụ như :tài khoản séc,tài khoản tiết kiệm,tài khoản tiền gửi có kỳ hạn,chứng chỉ tiền gửi...Bên cạnh đó,khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay đầu tư,cho vay,các ngân hàng thương mại có thể đi vay từ ngân hàng trung ương,từ các ngân hàng thương mại khác,hay vay trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế.Ngoài vốn tự có,vốn huy động,vốn đi vay,nguồn vốn ngân hàng còn bao gồm một số nguồn khác,nhưng chúng chiếm tỷ trọng nhỏ. Huy động vốn là hoạt động mà ngân hàng phải bỏ ra chi phí như:chi phí giao dịch,chi phí trả lãi tiền gửi,tiền vay và các chi phí có liên quan khác.Để bù dắp những chi phí đó,các ngân hàng thương mại phải tiến hành hoạt động cho vay,đầu tư và các hoạt động trung gian khác và đem lại thu nhập cho ngân hàng. ã Hoạt động trung gian Với lợi thế là một tổ chức trung gian tài chính,ngân hàng thương mại thực hiện một số các hoạt động trung gian,dịch vụ ngân hàng,phi ngân hàng như: thanh toán,bảo lãnh, tư vấn, bảo quản, uỷ thác, ký thác,chuyển tiền. Những hoạt động này đem lại cho ngân hàng phí dịch vụ.Trước đây do nhiệm vụ này còn hạn chế nên thu nhập mang lại chiế tỷ lệ nhỏ trong tổng thu nhập của ngân hàng.Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế,các ngân hàng cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ hữu ích,thuận tiện an toàn.Do các khoản thu từ phí hoạt động trung gian có xu hướng tăng lên.Không những tạo thêm thu nhập thì các hoạt động trung gian còn tạo điều kiện mở rộng các hoạt động trên. ã Hoạt động cho vay Ngân hàng sử dụng vốn huy động được để thực hiện các khoản cho vay hoặc đầu tư, qua đó hình thành nên những tài sản cơ bản của ngân hàng.Đây luôn là hoạt động quan trọng bậc nhất mang lại thu nhập chủ yếu và quyết định tới sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng Hoạt động cho vay có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau,Ngân hàng sẽ thực hiện việc phân loại các khoản cho vay để có phương pháp quản lý thích hợp a.Theo thời hạn sử dụng tiền vay: +Cho vay có kỳ hạn: -Ngắn hạn : không quá 12 tháng -Trung hạn : từ 12 tháng đến 60 tháng -Dài hạn :từ trên 60 tháng trở lên +Cho vay không kỳ hạn:thời gian sử dụng tiền vay không xác định cụ thể và ghi trong hợp đồng. Việc phân loại cho vay theo thời gian giúp cho các ngân hàng xác định được thời gian hoàn vốn của các doanh nghiệp,tính toán một cách hợp lý để sử dụng các nguồn vốn và trên cơ sở đó có kế hoạch huy động vốn phù hợp với thời gian cho vay nhằm đảm bảo cho vay đối với các doanh nghiệp khác. b.Theo nghành kinh tế. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành kinh tế có thể phân loại +Cho vay đối với nghành công nghiệp +Cho vay đối với nghành nông nghiệp +Cho vay đối với nghành thương nghiệp dịch vụ Việc phân loại này giúp cho ngân hàng tính toán được mức độ rủi ro của từng lĩnh vực cho vay và cân đối được nguồn vốn cho vay cũng như xây dựng ra những quy định cho vay thích hợp đối với từng nghành nghề kinh tế,xây dựng chính sách cho vay. Cho vay nông nghiệp có tính chất thời vụ,do dó nguồn tiền vào,ra có tính chất thời vụ. Cho vay công nghiệp có tính chất đều đặn nên nguồn tiền vào,ra có tính chất đều đặn. Cho vay thương nghiệp dịch vụ thường là ngắn hạn. c.Theo tính chất đảm bảo tiền vay: +Cho vay có bảo đảm: ngân hàng nắm giữ các tài sản của người vay với mục đích để bù đắp khoản tiền vay nếu người vay không trả được. +Cho vay không có bảo đảm:ngân hàng dựa vào lòng tin,sự tín nhiệm đối với khách hàng truyền thống,chương trình kinh tế xã hội và việc bảo đảm không được đặt ra(tức là ngân hàng thực hiện theo đúng nghĩa tín dụng) d.Theo phương thức hoàn trả tiền vay +Cho vay hoàn trả một lần:là khoản vay được trả một lần cả gốc lẫn lãi khi khoản vay đó đáo hạn +Cho vay hoàn trả nhiều lần e.Theo nguồn gốc phát sinh các khoản cho vay: +Cho vay trực tiếp: Ngân hàng ký các hợp đồng trực tiếp với khách hàng và phát tiền vay cho khách hàng +Cho vay gián tiếp: Ngân hàng cho khách hàng vay thông qua một tổ chức tín dụng nào đó. Ngoài ra còn một số cách phân loại khác như: phân theo lãi suất,theo đối tượng cho vay... Tại các ngân hàng thương mại hiện nay,cho vay theo dự án là hình thức phổ biến,chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng số các hình thức cho vay của ngân hàng.Đây là hình thức cho vay với số vốn lớn,thời hạn dài và có nhiều biến động.Với hình thức này ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm tra các khoản vay cũng như mục đích sử dụng khoản vay của khách hàng.Và nếu một dự án tốt,ngân hàng sẽ có thu nhập cao,bảo đảm an toàn vốn,vấn đề đặt ra với chính ngân hàng là làm sao xác định được đâu là dự án tốt,bằng cách nào để ngân hàng xác định được dự án nào sẽ đảm bảo thanh toán được gốc và lãi cho ngân hàng. 3. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là tập hợp các nội dụng,kỹ thuật,nghiệp vụ cơ bản,các bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một hợp đồng tín dụng.Nhìn chung quy trình này gồm các bước sau: *Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng *Phân tích tín dụng *Quyết định tín dụng *Giải ngân *Giám sát và thanh lý tín dụng II.Đầu tư và dự án đầu tư 1. Đầu tư 1.1. Khái niệm Theo các quan điểm khác nhau có các khái niệm khác nhau về đầu tư: Trong phạm vi một doanh nghiệp,đầu tư dài hạn của doanh nghiệp được hiểu là sự bỏ vốn để hình thành hay bổ sung tài sản của doanh nghiệp để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai. Trong phạm vi một nền kinh tế,đầu tư là sự bỏ vốn trong thời gian nhất định vào một lĩnh vực hoạt động nhất định và dùng số vốn ấy tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai trong nhiều chu kỳ kế tiếp nhau nhằm thu hồi vốn và có lợi nhuận cho nhà đầu tư cũng như đạt được mục đích về lợi ích kinh tế-xã hội 1.2.Các hình thức đầu tư Tuỳ theo các loại hình kinh doanh,các mục đích khác nhau mà các nhà đầu tư sẽ lựa chọn các hình thức đầu tư khác nhau: *Theo chủ thể bỏ vốn: có nghĩa là căn cứ vào người bỏ vốn và người sử dụng vốn,người ta phân ra đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.Cách phân loại này ảnh hưởng đến cách tiếp nhận và quản lý sử dụng vốn đầu tư : Đầu tư trực tiếp là đầu tư mà người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể.Nếu người đầu tư là nhà nước thì thông qua các cơ quan,doanh nghiệp Nhà nước hay nếu là các cá nhân trong tập thể thì có thể thông qua các công ty trách nhiệm hữa hạn,Công ty cổ phần...Nếu đầu tư trực tiếp bằng vốn đầu tư của nước ngoài thì phải tuân theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam,gồm các hình thức như hợp tác kinh doanh,công ty liên doanh với nước ngoài,công ty 100% vốn nước ngoài,có tư cách pháp nhân theo luật pháp Việt nam,các hợp đồng xây dựng- kinh doanh-chuyển giao(BOT),xây dựng-chuyển giao(BT),xây dựng chuyển giao-kinh doanh(BTO). Đầu tư gián tiếp là đầu tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là một chủ thể.Ví dụ các nguồn viện trợ,viện trợ không hoàn lại,nguồn ODA... *Theo tính chất hay mục đích đầu tư -Đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư không có xây dựng cơ bản -Đầu tư xây dựng mới(đầu tư theo chiều rộng)hoặc đầu tư theo chiều sâu(cải tạo,nâng cấp,đồng bộ hoá,hiện đại hoá các công trình đã có hoặc trang bị máy móc thiết bị mới).Thông thường thời kỳ đầu hình thức đầu tư theo chiều rộng là phổ biến nhưng càng về sau thì đầu tư theo chiều sâu chiếm ưu thế hơn. 2.Dự án đầu tư 2.1.Khái niệm dự án đầu tư Dự án đầu tư được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau: Về mặt hình thức:Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết,có hệ thống các hoạt động các chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai. Về bản chất: “Dự án đầu tư” là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới,mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì,cải tiến nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn vật tư,lưu động để tạo ra các kết quả tài chính,kinh tế,xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh,phát triển kinh tế,xã hội,làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ các dự án đầu tư là đối tượng cho vay trung và dài hạn chủ yếu của các ngân hàng.ở một quốc gia đang phát triển như Việt nam các dự án đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Các chủ dự án thường không đủ vốn để thực hiện dự án,do đó đa số họ phải tìm đến sự trợ giúp của ngân hàng.Các ngân hàng tài trợ để các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư mở rộng sản xuất,đầi tư theo chiều sâu và các dự án đầu tư mới phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.2. Đặc điểm của dự án đầu tư Một dự án đầu tư có một số đặc trưng chủ yếu sau: -Có mục tiêu,mục đích cụ thể -Có một hình thức tổ chức xác định(một cơ quan cụ thể)để thực hiện dự án -Có nguồn lực để tiến hành hoạt động của dự án(vốn,lao động,công nghệ..) -Có một khoảng thời gian nhất định để thực hiện mục tiêu của dự án 2.3.Phân loại dự án đầu tư: *Căn cứ vào nghành mà vốn đầu tư bỏ ra có các dự án đầu tư phát triển công nghiệp,nông nghiệp,giao thông vận tải... *Căn cứ vào tính chất của nghành mà vốn đầu tư bỏ ra có các dự án đầu tư phát triển nghành khai thác,chế biến dịch vụ nuôi trồng... *Căn cứ vào mức độ đổi mới của đối tượng đầu tư -Đầu tư mới là đầu tư thành lập doanh nghiệp mới -Đầu tư đổi mới và hiện đại hoá là đầu tư để cải tạo mở rộng,trang bị máy móc mới hay dây chuyền sản xuất mới hiện đại hơn. *Căn cứ vào quy mô vốn đầu tư,tính chất quan trọng của nghành,diện tích chiếm đất và mức độ ảnh hưởng môi trường: -Các dự án đầu tư thuộc nhóm A là các dự án đầu tư do thủ tướng chính phủ phê duyệt: +Dự án đầu tư thuộc phạm vi bảo vệ an ninh quốc phòng có tính bảo mật quốc gia có ý nghĩa chính trị quan trọng,thiết lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới không kể mức vốn đầu tư. +Dự án đầu tư sản xuất chất độc hại,chất nổ không phụ thuộc vào quy mô vốn đàu tư +Dự án đầu tư thuộc các nghành công nghiệp điện,khai thác,chế biến,dầu khí,hoá chất phân bón,chế tạo máy(mua và đóng tàu,lắp ráp ô tô),xi măng,luyệm kim,khai thác chế biến khoáng sản,các dự án giao thông:Cầu,cảng bến,cảng sông,sân bay,đường sắt,đường quốc lộ có số vốn đầu tư trên 600 tỷ đồng. +Dự án đầu tư thuộc các nghành thuỷ lợi,giao thông,cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật,kỹ thuật điện,sản xuất thiết bị thông tin,điện tử tinhọc,hoá dược,thiết bị y tế,công trình cơ khí khác,sản xuất vật liệu bưu chính viễn thông, BOT trong nước,xây dựng khu nhà ở,đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt có số vốn đầu tư trên 400 tỷ đồng. +Dự án đầu tư thuộc hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới các dự án thuộc các nghành công nghiệp nhẹ như sành,sứ,thuỷ tinh,in,vườn quốc gia,khu bảo tồn thiên nhiên,mua sắm thiết bị xây dựng,sản xuất nông lâm nuôi trồng thuỷ sản có mức vốn đầu tư trên 300 tỷ đồng +Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực y tế- văn hoá- giáo dục-phát thanh truyền hình,xây dựng dân dụng,kho tàng,du lịch thể dục thể thao,nghiên cứu khoa học và các dự án khác có mức vốn đầu tư trên 200 tỷ đồng. -Các dự án đầu tư thuộc nhóm B do các cơ quan ngan bộ xét duyệt bao gồm các dự án đầu tư : +Dự án đầu tư thuộc các nghành công nghiệp điện,khai thác,chế biến dầu khí,hoá chất phân bón,chế tạo máy(Mua và đóng tàu,lắp ráp ô tô),xi măng,luyện kim,khai thác chế biến khoáng sản,các dự án giao thông:cầu,cảng biển,cảng sông.sân bay,đường sắt,đường quốc lộ có số vốn đầu tư từ 300 đến 600 tỷ đồng. +Dự án đầu tư thuộc các nghành thuỷ lợi,giao thông,cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật,kỹ thuật điện,sản xuất thiết bị thông tin,điện tử tinhọc,hoá dược,thiết bị y tế,công trình cơ khí khác,sản xuất vật liệu bưu chính viễn thông, BOT trong nước,xây dựng khu nhà ở,đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt có số vốn đầu tư từ 20 đến 400 tỷ đồng. +Dự án đầu tư thuộc hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới các dự án thuộc các nghành công nghiệp nhẹ như sành,sứ,thuỷ tinh,in,vườn quốc gia,khu bảo tồn thiên nhiên,mua sắm thiết bị xây dựng,sản xuất nông lâm nuôi trồng thuỷ sản có mức vốn đầu tư từ 15 đến 300 tỷ đồng +Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực y tế- văn hoá- giáo dục-phát thanh truyền hình,xây dựng dân dụng,kho tàng,du lịch thể dục thể thao,nghiên cứu khoa học và các dự án khác có mức vốn đầu tư từ 7 đến 200 tỷ đồng. -Các dự án nhóm C bao gồm : +Dự án đầu tư thuộc các nghành công nghiệp điện,khai thác,chế biến,dầu khí,hoá chất phân bón,chế tạo máy(mua và đóng tàu,lắp ráp ô tô),xi măng,luyệm kim,khai thác chế biến khoáng sản,các dự án giao thông:Cầu,cảng bến,cảng sông,sân bay,đường sắt,đường quốc lộ có số vốn đầu tư dưới 30 tỷ đồng +Dự án đầu tư thuộc các ngành thuỷ lợi,giao thông,cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật,kỹ thuật điện,sản xuất thiết bị thông tin,điện tử tinhọc,hoá dược,thiết bị y tế,công trình cơ khí khác,sản xuất vật liệu bưu chính viễn thông.BOT trong nước,xây dựng khu nhà ở,đường giao thông nội thị thuộc các khu đô thị đã có quy hoạch chi tiết được duyệt có số vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng. +Dự án đầu tư thuộc hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới các dự án thuộc các nghành công nghiệp nhẹ như sành,sứ,thuỷ tinh,in,vườn quốc gia,khu bảo tồn thiên nhiên,mua sắm thiết bị xây dựng,sản xuất nông lâm nuôi trồng thuỷ sản có mức vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng +Dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực y tế- văn hoá- giáo dục-phát thanh truyền hình,xây dựng dân dụng,kho tàng,du lịch thể dục thể thao,nghiên cứu khoa học và các dự án khác có mức vốn đầu tư dưới 7 tỷ đồng. 2.4.Yêu cầu của một dự án đầu tư Một dự án đầu tư muốn có sức thuyết phục,có thể đưa vào thực thi được mục tiêu hiệu quả đặt ra,phải có các yêu cầu sau: a.Tính pháp lý Tính pháp lý là cơ sở bước đầu dể một dự án đầu tư được quyết định có đầu tư hay không. Một dự án đầu tư muốn được Nhà nước cấp giấy phép để đi vào hoạt động trước hết phải tuân theo các quy định mang tính pháp luật như luật đầu tư,luật thuế,luật đất đai,luật lao động...Song điều nay cũng chưa đủ,các vấn đề về môi trường,thuần phong mỹ tục,tập quán về an ninh quốc phòng,là những yếu tố quan trọng không thể bỏ qua khi xem xét để lập dự án. Tính pháp lý của một dự án đầu tư chỉ đạt được khi một dự án được xây dựng trên cơ sở xem xét toàn diện tổng thể các vấn đề môi trường pháp lý có liên quan đến lĩnh vức đầu tư.Có thể thấy nhữnh dự án gây nguy hại đến an ninh quốc phong,lợi ích công cộng,gây phương hại đến di tích lịch sử,văn hoá thuần phong mỹ tục,gây tổn hại đến môi trường sinh thái,sản xuất các hoá chất độc hại,sử dụng các tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế là những dự án không thể được cấp phép đầu tư(theo nghị định10/1998/NĐ-CPngày23/1/1998 của Chính phủ) b.Tính khoa học Dự án đầu tư là thực hiện ý tưởng của nhà đầu tư về toàn bộ quá trình đầu tư từ khi chuẩn bị đầu tư cho đến khi hoàn thành kết thúc đầu tư,thu hồi được vốn và có lợi nhuận.Nếu không có tính khoa học thì dự án đầu tư sẽ không có tính thuyết phục,có nghĩa là ý tưởng đó sẽ không trở thành hiện thực. Một dự án đầu tư có tính khoa học cao là dự án có thông tin chính xác,trung thực,phương pháp khoa học,việc sử dụng đồ thị,bản vẽ kỹ thuật phải đảm bảo về kích thước và tỷ lệ. Để đạt được tính khoa học đòi hỏi dự án đầu tư phải có phương pháp điều tra đúng,kỹ thuật phân tích cao. c.Tính khả thi: Dự án đầu tư có tính khả thi có nghĩa là dự án phải có khả năng ứng dụng và triển khai trong thực tế.Vì vậy,muốn đảmbảo yêu cầu này,dự án đầu tư phải được đặt trong đúng hoàn cảnh môi trường đầu tư,phản ánh những điều kiện cụ thể về môi trường,mặt bằng, vốn,khả năng của dự án... Nói cách khác dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch tổng thể của nghành,của vùng.Mục đích của dự án phải trùng với mục đích phát triển kinh tế xã hội. d.Tính hiệu quả Tính hiệu quả của dự án đầu tư được thực hiện thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tài chính.Các chỉ tiêu này đòi hỏi phải chính xác trên cơ sở các số liệu điều tra hợp lý,phương pháp tính toán kỹ lưỡng.Chính như vậy tính hiệu quả của dự án mới có thể đạt được 2.5. ý nghĩa của dự án đầu tư Dự án đầu tư là cơ sở đầu tiên,là văn kiện cơ bản để cơ quan quản lý nhà nước xem xét và phê chuẩn,cấp giấy phép đầu tư. Đó là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu tư,thu hút đối tác cùng tham gia liên doanh bỏ vốn đầu tư.Từ đó đánh giá chính xác và điều chỉnh kịp thời những vướng mắc trong quá trình xây dựng và hoạt động của dự án.Nó có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giưã các bên tham gia thực hiện dự án đầu tư,xử lý hài hoà về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. 2.6.Nội dung của dự án đầu tư Một dự án đầu tư thường có các nội dung sau: -Về chủ đầu tư: Nội dung bao gồm: tư cách pháp nhân của chủ đầu tư của cơ quan ra quyết định thành lập,giấy phép hoạt động,trụ sở làm việc,địa chỉ giao dịch,tài khoản ngân hàng giao dịch,kết quả kinh doanh trong quá khứ và hiện tại... -Những căn cứ nghiên cứu về sự cần thiết đầu tư bao gồm: Những xuất xứ căn cứ pháp lý,phân tích kết quả điều tra cơ bản về tài nguyên thiên nhiên,kinh tế-xã hội,các chính sách kinh tế xã hội có liên quan đến phát triển nghành,những ưu tiên được phân định. -Phương án đầu tư và công suất thiết kế: Mục tiêu đầu tư,hình thức đầu tư,phạm vi đầu tư,phân tích thị trường(đánh giá nhu cầu hiện tại,dự báo nhu cầu tương lai,khả năng cung ứng trong hiện tại và tương lai..)công suất lựa chọn. -Chương trình sản xuất-yêu cầu đầu tư: Lịch sản xuất,tiến độ sản phẩm,các nhu cầu đầu vào và giải pháp đảm bảo.. -Khu vực,địa điểm: Các yêu cầu mặt bằng,yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất,tiêu thụ sản phẩm,dịch vụ,các yếu tố xã hội,phong tục tập quán,mối quan hệ quy hoạch tổng thể vùng,nghành lãnh thổ. -Phân tích kỹ thuật: Loại hình công nghệ được sử dụng và các ảnh hưởng của nó đối với môi trường sinh thái,hướng giải quyết và điều kiện cung cấp trang thiết bị,chuyển giao công nghệ -Tác động đối với môi trường và giải pháp xử lý: Khả năng gây ô nhiễm hay là biến đổi môi trừơng do hoạt động đầu tư gây nên và hậu quả của nó.Các giải pháp chống ô nhiếm,bảo vệ môi trường sinh thái,xử lý chất thải. -Xây dựng và tổ chức thi công: Xây dựng tiêu chuẩn công trình xây dựng,phương án kết cấu hạng mục công trình,yêu cầu kỹ thuật,giả pháp phòng cháy,chữa cháy,hình thức thi công. -Tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động: Tổ chức quản lý các bộ phận sản xuất tiêu thụ sản phẩm,các bộ phận lao động trực tiếp,lao động gián tiếp,bộ phận quản trị điều hành. -Phân tích hiệu quả tài chính: Nguồn vốn và các điều kiên tạo nguồn vốn,tổng mức vốn đầu tư chia ra các chi phí đầu tư cố định,thường xuyên,các khả năng hình thức huy động vốn,ước tính chi phí sản xuất,dự trù doanh thu,lỗ lãi,khả năng hoà vốn,khả năng trả nợ,phân tích các lợi ích về mặt xã hội-môi trường -Tổ chức thực hiện-kết luận-kiến nghị về chính sách,các chế độ ưu đãi. 3.Chu kỳ của dự án đầu tư : (còn gọi là tiến trình đầu tư hay vòng đời của dự án đầu tư) Một dự án đầu tư từ khi hình thành đến khi kết thúc thường trải qua các giai đoạn sau: -Giai đoạn chuẩn bị đầu tư -Giai đoạn thực hiện đầu tư -Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư *Giai đoạn 1:Chuẩn bị đầu tư,bao gồm các hoạt động chính sau: Nghiên cứu cơ hội đầu tư,sản phẩm của bước này là báo cáo kỹ thuật về cơ hội đầu tư. Nghiên cứu tiền khả thi:Lựa chọn một cách sơ bộ khả năng đầu tư chủ yếu từ cơ hội đầu tư.Sự lựa chọn căn cứ vào các vấn đề sau: -Phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước -Có thị trường tiêu thụ và khả năng cạnh tranh. -Xem xét nguồn tài chính của dự án -Phù hợp với khả năng tài chính của chủ đầu tư. +Nghiên cứu khả thi:Sản phẩm của bước này là báo cáo khả thi(hay luận chứng kinh tế kỹ thuật),đây là bản báo cáo đầy đủ nội dung cần phải làm của một dự án nói chung và dự án đầu tư nói riêng,theo quan điểm của người sáng kiến dự án và khẳng định tính khả thi của dự án và tạo cơ sở cho các nhà đầu tư ra quyết định đầu tư. +Thẩm định và ra quyết định đầu tư Sau khi dự án được chuẩn bị kỹ càng,có thể tiến hành thẩm định một cách độc lập,xem xét toàn bộ các mặt của dự án để đánh giá xem dự án có thích hợp và khả thi hay không trước khi bỏ ra một chi phí lớn.Nếu qua thẩm định cho thấy dự án mang tính khả thi cao thì có thể bắt đầu đầu tư vào dự án. *Giai đoạn 2:giai đoạn thực hiện đầu tư Đây là giai đoạn cụ thể hoá nguồn hình thành vốn đầu tư và triển khai thực hiện dự án đầu tư.Giai đoạn này gồm các công việc sau: +Khảo sát thiết kế dự toán +Đấu thầu,ký hợp đồng giao thầu +Thi công xây lắp công trình +Chạy thử và bàn giao. *Giai đoạn 3:Vận hành và khai thác. Đây là giai đoạn đưa công trình vào hoạt động để chính thức đưa sản phẩm ra tiêu dùng trên thị trường *Đánh gía dự án Đây là giai đoạn đánh giá việc thực hiện dự án đầu tư và các ảnh hưởng của nó.Các nhà phân tích sẽ xem xét lại một cách có hệ thống các yếu tố làm nên thành công hay thất bại của dự án để áp dụng tốt hơn vào các dự án trong tương lai.Đánh giá không chỉ được tiến hành khi dự án kết thúc,mà nó còn là một công cụ quản lý dự án,có thể tiến hành đánh giá một vài lần trong suốt chu kỳ của dự án. Trong các giai đoạn trên thì giai đoạn 1 có ý nghĩa và vai trò cực kỳ quan trọng,nó là cơ sở cho việc triển khai dự án ở các giai đoạn sau,quyết định thành công hay thất bại.Trong giai đoạn này thẩm định dự án được xem như là một yêu cầu không thể thiếu và là cơ sở để ra quyết định đầu tư. Việc nắm vững các giai đoạn của một ngân hàng xác định được vai trò của mình đối với dự án và có kế hoạch tác nghiệp phù hợp.Trong trường hợp dự án đầu tư được thực hiện bằng vốn vay ngân hàng thì tác nghiệp trước đầu tư của ngân hàng là xem xét dự án để quyết định cho vay.Trong khi đầu tư thì ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ công trình và kiểm tra tình hình thực hiện đầu tư.Sau khi đầu tư thì ngân hàng cũng kiểm tra,xem xét việc thực hiện dự án có vướng mắc gì không và sau đó tiến hành thu nợ,kết thúc bằng việc thanh lý hợp đồng tín dụng và đánh giá hiệu quả đầu tư. 4.Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại 4.1.Khái niệm Thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có cơ sở các nội dụng cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của khách hàng đê phục vụ cho việc xem xét để quyết định cho khách hàng vay vốn để đầu tư dự án 4.2.Mục đích của thẩm định dự án: Vì những mục đích khác nhau, nên dự án đầu tư được thẩm định bởi nhiều cơ quan đơn vị cá nhân. Đối với cơ quan thẩm định Nhà nước,mục đích của việc thẩm định dự án là nhằm xem xét lợi ích kinh tế-xã hội mà dự án đem lại có phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của vùng hay của đất nước hay không và thông qua đó,đưa ra những kết luận về sự chấp nhận hay bác bỏ dự án đề nghị. Đối với các định chế tổ chức quốc gia hay quốc tế,ngoài việc xem xét khả năng sinh lời cho bên đầu tư vào sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế quốc dân,việc thẩm định còn nhằm mục đích xem xét hướng phát triển lâu dài,ổn định của dự án mà định hướng tài trợ hay cho vay vốn. 4.3.ý nghĩa của việc thẩm định dự án đầu tư đối với ngân hàng thương mại Việc thẩm định dự án đầu tư là công việc đầy ý nghĩa,thẩm định dự án đầu tư giúp ngân hàng ra quyết định chính xác về cho vay hay tài trợ cho dự án.Trước tiên khi cho vay vốn ra,ngân hàng quan tâm đến việc có bảo đảm sẽ thu hồi được về đầy đủ và đúng hạn không và lợi ích mà ngân hàng nhận được sẽ thế nào?.Thẩm định chính xác dự án đầu tư có thể đem lại cho ngân hàng những quyết định đúng đắn.Vì vậy phải rất thận trọng trong công tác thẩm định dự án đầu tư để đem lại sự an toàn cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng mà không bỏ lỡ cơ hội đầu tư.Thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng nhằm mục đích sau: -Đưa ra kết luận về tính khả thi,hiệu quả tài chính của dự án đầu tư khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để quyết định cho vay hay từ chối cho vay. -Tham gia góp ý tư vấn cho chủ đầu tư tạo tiền đề bảo đảm hiệu quả cho vay thu nợ gốc và lãi đúng hạn,hạn chế thấp nhất rủi ro. -Làm cơ sở để xác định số tiền cho vay,thời gian cho vay dự kiến tiến độ giải ngân,mức thu nợ hợp lý,các điều kiện cho vay tạo tiền đề cho khách hàng hoạt động có hiệu quả và đảm bảo mục tiêu đầu tư của ngân hàng. 4.4.Nội dung thẩn định dự án đầu tư của ngân hàng thương mại. Xuất phát từ vai trò quan trọng của thẩm định dự án đầu tư,ngân hàng phải thành lập một bộ phận thẩm định với các chuyên gia có nghiệp vụ cao trong công tác thẩm định nhằm đạt được kết quả cao nhất trong công tác thẩm định.Thẩm định dự án đầu tư bao gồm nhiều bước thẩ định khác nhau,đòi hỏi các cán bộ thẩm định của ngân hàng phải hiểu rõ và nắm rõ các nghiệp vụ cơ bản,nhanh nhạy trong việc thẩm định ngoài thực tế.Cán bộ thẩm định không làm lại công tác của người soạn thảo dự án đầu tư và của chủ đầu tư nhưng cần đi sâu tìm hiểu tính chính xác những ưu điểm và những nhược điểm,hạn chế của dự án đầu tư.Việc thẩm định dự án đầu tư là một chuỗi các nghiệp vụ có quan hệ chặt chẽ với nhau theo một lôgíc cụ thể.Nhưng trên thực tế để phù hợp với thực tiễn,các nghiệp vụ này có thể được tiến hành đầy đủ và theo đúng trình tự,hay có thể đựơc bỏ qua một số nội dung không thích hợp. 4.4.1.Thẩm định tổng quan về chủ đầu tư. Mục tiêu của thẩm định tổng quan là xem xét tính đầy đủ,hợp pháp,hợp lệ ._.của các hồ sơ xin vay vốn mà chủ đầu tư gửi đến ngân hàng,xem xét tư cách pháp nhân và uy tín cá nhân của chủ đầu tư,đấnh giá kết quả kinh doanh hiện tại của chủ đầu tư.Đây là bước thẩm định đầu tiên và đóng vai trò quan trọng trong quá trình thẩm định dự án đầu tư.Bước thẩm định này sẽ giúp các cán bộ thẩm định nhanh chóng lựa chọn được các hồ sơ khách hàng phù hợp,mở đầu cho các nghiệp vụ thẩm định sau. Thẩm định tổng quan bao gồm: a.Thẩm định tính đầy đủ,hợp pháp,hợp lệ của các hồ sơ xin vay vốn. Các cán bộ thẩm định tiếp nhận hồ sơ xin vay của chủ đầu tư.Bước đầu tiên cán bộ thẩm định xem xét tính đầy đủ,hợp pháp,hợp lệ của hồ sơ xin vay vốn dựa trên các yêu cầu sau: -Đơn xin vay theo mẫu quy định của ngân hàng. -Tài liệu pháp lý về bên vay và tài liệu chứng minh vố điều lệ của chủ đầu tư(quyết định thành lập doanh nghiệp,cơ quan ra quyết định đó,giấy chứng nhận dăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận của cơ quan tài chính về mức vốn điều lệ được cấp hoặc biên bản góp vốn của các thành viên sáng lập có công chứng) -Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà,đất hợp pháp của bên đi vay. -Quyết định bổ nhiệm chủ tịch và các thàn viên hội đồng quản trị,tổng giám đốc,hay giám đốc... -Báo cáo tài chính trong hai năm gần nhất (Trừ trường hợp doanh nghiệp mới thành lập) -Dự án đầu tư và các tài liệu liên quan đếndự án đầu tư. -Giấy tờ pháp lý(bản gốc)về tài sản thế chấp hoặc cầm cố của bên vay hoặc người bảo lãnh... b.Đánh gía mức độ tin cậy,uy tín và năng lực của chủ đầu tư. Sau khi tiếp nhận hồ sơ xin vay của chủ đầu tư,cán bộ thẩm định tiến hành kiểm tra các thông tin ban đầu được cung cấp từ chủ đầu tư.Đây là một bước quan trọng trong thẩm định và rất được quan tâm đối với tín dụng ngắn hạn cũng như dài hạn.Ngân hàng thường đánh giá về chủ đầu tơ trên các khía cạnh: -Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh:việc đánh giá quá trình hoạt động của chủ đầu tư sẽ dễ dàng nếu họ là khách hàng lâu năm của ngân hàng.Nếu là khách hàng mới,ngân hàng có thể tham khảo các bạn hàng của họ,của các nguồn thông tin khác... -Khả năng của chủ đầu tư:bao gồn các khả năng về kỹ thuật,quản trị kinh doanh,khả năng hoạt động trên thương trường...Việc đánh giá sơ bộ về khả năng đầu tư của chủ đầu tư sẽ giúp cho ngân hàng có một cái nhìn tổng quan về những điểm mạnh và hạn chế của chủ đầu tư. 4.4.2.Thẩm định chi tiết dự án đầu tư. a.Thẩm định sự cần thiết và mục tiêu đầu tư của dự án đầu tư Qúa trình thẩm định này giúp cho ngân hàng hiểu và phân loại được dự án đầu tư,đồng thời bước thẩm định giúp chủ đầu tư nhìn nhận lại một cách chính xác hơn nữa về dự án đầu tư mà họ đâù tư.Cũng thông qua bước thẩm định này,cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư lựa chọn được mục tiêu đầu tư sao cho phù hợp nhất vơí điều kiện trên thực tế. Để thực hiện tốt nghiệp vụ thẩm định này,cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định bằng cách tìm hiểu và trả lời bằng các câu hỏi sau: -Đánh giá xem dự án đầu tư có nhất thiết phải thực hiện không?Tại sao phải thực hiện? -Nếu được thực hiện thì dự án đầu tư sẽ đem lại lợi ích gì cho chủ đầu tư,cho địa phương,cho nền kinh tế? -Mục tiêu cần đạt được của dự án đầu tư là gì?(Hay chủ đầu tư mong đợi điều gì sau khi dự án đầu tư hoàn thành và đi vào sản xuất) -Các mục tiêu của dự án đầu tư có phù hợp với mục tiêu chung của ngành và của địa phương hay không?Dự án đầu tư có thuộc diện nhà nước ưu tiên và khuyến khích không? b.Thẩm định nội dung thị trường của dự án đầu tư. Nội dung thị trường của dự án đầu tư rất được ngân hàng quan tâm vì hai lý do cơ bản:ý tưởng hình thành phải xuất phát từ đòi hỏi của thị trường,từ quá tình nghiên cứu thị trường cẩn thận của chủ đầu tư khi quyết định đầu tư.Thi trương là nơi cuối cùng đánh giá chất lượng của sản phẩm,về khả năng tiêu thụ và về hiệu quả của dự án đầu tư.Nếu ngân hàng không đánh giá đúng và chính xác yếu tố này,thì dù có chính xác trong thẩm định các yếu tố sau của dự án đầu tư thì cũng khó tránh khỏi những rủi ro trong việc đưa dự án đầu tư vào vận hành trên thực tế.Đồng thời đánh giá đúng được bước thẩm định này cũng giúp cho ngân hàng tiết kiệm được thời gian trong việc đưa ra quyết định cho vay đối với dự án đầu tư hay không? Nội dung thẩm định thị trường của dự án đầu tư bao gồm: -Tình hình tiêu thụ của sản phẩm cùng loại trong thời gian qua,khả năng nắm bắt thông tin về thị trường và mối quan hệ của chủ đầu tư trong thị trường sản phẩm như thế nào? -Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp khác,tổng lượng sản xuất trong nước là bao nhiêu?Xu hướng về sản phẩm tăng hay giảm trong thời gian tới?Khả năng nhập khẩu sản phẩm tương tự như vậy có thể xảy ra hay không?Cán bộ thẩm định cần thẩm định lại mức độ tin cậy của các dự báo nói trên. -So sánh giá thành sản phẩm của dự án đầu tư với giá thành của sản phẩm tương tự hiện có trên thị trường xem cao hơn hay thấp hơn?Chỉ rõ nguyên nhân tại sao lại như vậy?Cán bộ thẩm định phải phân tích được mặt ưu tiên và hạn chế của sảm phẩm so với sản phẩm tương đồng trên thị trường. -Xem xét tính hợp lý,hợp pháp và mức độ tin cậy của các văn bản như:đơn đặt hàng,hiệp định đã ký,các biên bản đã đàm phán,hợp đồng tiêu thụ hay bao tiêu sản phẩm... -Về dự kiến khu vực thị trường của dự án đầu tư,cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư cần chú ý không nên tập trung sản phẩm vào một thị trường hoặc một hà tiêu thụ duy nhất mà nên mở ra nhiều thị trường,nhiều nhàtiêu thụ để tránh tình trạng ép giá. -Cán bộ tín dụng sẽ áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng mà sản phẩm cần đạt được,tiêu chuẩn tỷ lệ xuất khẩu,đánh giá các biện pháp tiếp thị(đặc biệt là đối với các sản phẩm xuất khẩu)để có thể xem xét một cách tổng thể về thị trường của dự án đầu tư. c.Thẩm định nội dung kỹ thuật của dự án đầu tư. Cán bộ thẩm định sẽ đánh giá khía cạnh kỹ thuật của dự án đầu tư.Họ phải xác định mối liên hệ kỹ thuậtcó thể có của dự án đầu tư như sự phù hợp giưã cơ sở hạ tầng hiện cóvà máy móc thiết bị chuẩn bị được đầu tư.Đánh giá được yếu tố này của dự án đầu tư,ngân hàng sẽ biết được sự phù hợp về cơ cấu đầu tư của chủ đầu tư,cũng có nghĩa là đánh giá thêm được một yếu tố đảm bảo được tính khả thi của dự án đầu tư.Còn đối với chủ đầu tư,thông qua việc thẩm định yếu tố này,cán bộ thẩm định sẽ tư vấn cho họ những thông tin phù hợp về kỹ thuật của dự án đầu tư sao cho yêú tố kỹ thuật của dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất,và quan trọng nhất,nó đóng vai trò chính trong việc quyết định sự thành bại trong hoạt động cho vay dự án đầu tư của ngân hàng.Vì vậy,khi tiến hành nghiệp vụ thẩm định này,cán bộ thẩm định cần thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ này. Thẩm định địa điểm xây dựng công trình -Cán bộ thẩm định căn cứ vào các tiêu chuẩn về lựa chọn địa diểm xây dựng công trình,cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư chọn được địa điểm phù hợp nhất. -Đánh giá tính hợp lý về kinh tế,về quy hoạch và bảo vệ môi trường.Ví dụ như đối với dự án đầu tư nông nghiệp,cán bộ thẩm định cần chú ý những đặc trưng của dự án đầu tư như: điều kiện tự nhiên,khí hậu,phổ nhưỡng,thuỷ văn,nguồn nước tưới..có phù hợp với mục tiêu của dự án đầu tư hay không? Thẩm định về quy mô công suất -Cán bộ thẩm định cần xem xét quy mô công suất của dự án đầu tư như thế đã hợp lý chưa?Có qúa lớn không hay có qúa nhỏ không?Nghiệp vụ thẩm định rất quan trọng,nó sẽ giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được quy mô phù hợp vì nếu quy mô công suất quá lớn thì có thể dẫn tới tình trạng sản xuất dư thừa sản phẩm,hay không sử dụng hết được công suất của dự án đầu tư thì đều gây ra rủi ro cho các dự án đầu tư,nhưng nếu quy mô lại qua nhỏ không đáp ứng được nhu cầu sản phẩm thì lại bỏ lỡ cơ hội đầu tư. -Cán bộ thẩm định sẽ không chỉ xen xét liệu quy mô công suất có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không mà còn xen xét liệu quy mô này có cân đối với khả năng cung cấp nguồn đầu vào nguồn nhân lực,khả năng quản lý của dự án đầu tư hay không? Thẩm định về phương án sản phẩm -Cán bộ thẩm định xem xét cơ cấu sản phẩm chính,phụ của dự án,xem liêu những sản phẩm này có thực sự đáp ứng được yêu cầu của thị trường hay không? -So sánh các đặc điểm kỹ thuật và các ưu việt của sản phẩm dự án với các sản phẩm tương đồng trên thị trường. Thẩm định về công nghệ sản xuất,máy móc,các trang thiết bị của dự án. Sau khi lựa chọn được địa điểm,xác định được công suất,và xác định được phương án sản phẩm,chủ đầu tư bắt đầu trang bị công nghệ và máy móc thiết bị cần thiết cho dự án đầu tư.Cán bộ thẩm định sau khi xem xét các yếu tố trên của kỹ thuật dự án,sẽ tiến hành thẩm định về công nghệ và trang thiết bị của dự án.Nghiệp vụ thẩm định này bao gồm các nhận xét và đánh giá các yếu tố công nghệ của dự án đầu tư,cụ thể là: -Cán bộ thẩm định đánh giá từng phương án về công nghệ mà chủ đầu tư đưa ra.Phân tích các thuận lợi và khó khăn của mỗi dự án đầu tư và ra quyết định lựa chọn được phương án khả thi nhất -Đánh giá hiệu quả của công nghệ dự án đầu tư dựa trên các tiêu chuẩn cơ bản:tỷ lệ phế thải như thế nào,mức tiêu hao nghuyên vật liệu là bao nhiêu.. -Đánh giá mức tự động hoá,cơ khí hoá,chuyên môn hoá,đặc điểm của nguyên vật liệu đầu vào...Công nghệ này có gặp khó khăn trong quá trình sử dụng hay về các thiết bị thay thế hay không? -Đánh giá xem phương án được lựa chọn có phù hợp với khả năng đầu tư,có phù hợp với khả năng thực tiễn của Việt nam hay không.Cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư lựa chọn được công nghệ hiện đại so với trình độ chung của quốc tế và khu vực,hay có thể lựa chọn công nghệ thích hợp với trình độ và thực tiễn Việt nam mà những công nghệ này vẫn ưu việt hơn các công nghệ có trong nước. -Cán bộ thẩm định có thể xem xét tổng thể thiết bị sử dụng cho dự án trong bảng tổng hợp thiết bị trong đó ghi rõ tên thiết bị,số lượng sử dụng đơn giá,đặc tính kỹ thuật,giá mua công nghệ,máy móc và các trang thiết bị,thời gian hao mòn....Trong bước thẩm định này cán bộ thẩm định có thể tư vấn cho chủ đầu tư lựa chọn được công nghệ,máy móc và các trang thiết bị có giá cả phù hợp,các lưu ý trong việc lựa chọn công nghệ,máy móc và các trang thiết bị,như là phải lưu ý đến tốc độ trượt giá của các công nghệ,máy móc và các trang thiết bị khi chúng có thời gian giao hàng dài hơn 18 tháng... -Đối với các công nghệ máy móc và các trang thiết bị đã qua sử dụng,cán bộ thẩm định xem xét một số chi tiết:các chỉ tiêu chất lượng của thiết bị đã qua sử dụng so với thiết bị mới cùng loại là như thế nào?(hiện nay theo quy định chung của ngân hàng,chất lượng còn lại phải bảo đảm tối thiểu 80% so với nguyên thuỷ,mức tăng tiêu hao nguyên vật liệu,năng lượng không quá 10% so với nguyên thuỷ).Xem tương quan giữa giá cả và thiết bị và một điều quan trọng nữa là phải đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường. Nhìn chung thẩm định về công nghệ,máy móc và các trang thiết bị là một nội dung khó đối với cán bộ thẩm định vì ngiệp vụ thẩm định này đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải có kiến thức vè chuyên môn kinh nghiệm kỹ thuật,thông tin công nghệ...Do đó,để thực hiện tốt nghiệp vụ thẩm định này,ngân hàng cần thiết lập mối quan hệ với các chuyên gia,các tổ chức tư vấn trong và ngoài nước để khai thác thông tin đảm bảo tính chính xác cho bước nghiệp vụ này. 4.4.3.Thẩm định về kỹ thuật xây dựng của dự án đầu tư Công trình xây dựng của dự án đầu tư bao gồm các hạng mục xây dựng nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho các thiết bị sản xuất và công nhân được thuận lợi và an toàn đồng thời đảm bảo được sự điều hành và dự trữ nguyên vật liệu sản phẩm.Như vậy các hạng mục công trình bao gồm: -Các phân xưởng sản xuất chính và phụ -Hệ thống điện nước(phần xây dựng) -Hệ thống đường nội bộ,bến đỗ,bốc dỡ hàng. -Văn phòng,phòng họp. -Nhà ăn,khu giải trí,vệ sinh. -Hệ thống kho bãi nguyên vật liệu và sản phẩm. -Hệ thống sử lý chất thải và bảo vệ môi trường. -Hệ thống tường rào bảo vệ. Đối với các hạng mục công trình phải xem xét: diện tích xây dựng,đặc điểm kiến trúc(bê tông,gạch,khung,sắt,lắp ghép,..)quy mô và chi phí dự kiến. Việc xác định chi phí của dự án đầu tư có thể được căn cứ vào đơn giá xây dựng của đơn vị,diện tích xây dựng cho từng hạng mục công trình và lập bảng dự tính như sau: Số thẩm định Tên hạng mục chương trình Diện tích xây dựng Chi phí cho 1 đơn vị diện tích Tổng chi phí 1 Phân xưởng sản xuất 2 Hệ thống phụ trợ ...... Tổng Tuy nhiên,việc dự kiến theo phương pháp trên chỉ có tính tương đối,sai số có thể lên tới20-30% so với các tính toán chi tiết trong dự án đầu tư. Sau khi dự kiến các hạng mục công trình,cần xem xét đến việc thực hiện xây dựng sẽ được tiến hành theo phương thức nào:tự làm,chỉ đấu thầu hay được chỉ định đấu thầu(trong nước và quốc tế..)tuỳ tính chất phức tạp và quy mô của công trình. Thẩm định vấn đề xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường. Cùng với sợ phát triển nghành công nghiệp,ô nhiễm môi trường cũng gia tăng nhanh chóng,ở Việt nam đã có luật bảo vệ môi trường,trong thẩm định dự án đầu tư cán bộ thẩm định cần quan tâm đến vấn đề này. Nội dung thẩm định bao gồm: -Những biện pháp (công nghệ, thiết bị)mà dự án dự kiến đầu tư để xử lý phù hợp với từng loại chất thải(nước thải,hơi độc,khói bụi,nhiệt độ cao..).Hiệu quả xử lý như thế nào? -Chi phí đầu tư cho hệ thống xử lý là bao nhiêu? -Đối với các dự án loại A,trong hồ sơ của dự án có một phần hay một chương nêu rõ tác động của dự án đến môi trường. -Đối với dự án loại B và C,phải tiến hành lập bảng đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường.Các tài liệu này phải được bộ hoặc sử KHCNMT xem xét. Thẩm định về lịch trình thực hiện dự án. Công trình đầu tư bao gồm nhiều hạng mục,quá trình thực hiện việc xây lắp đòi hỏi một trình tự nhất định,khoa học để đảm bảo công trình vào vận hành khai thác đúng thời điểm theo dự kiến.Mặt khác đối với ngân hàng là cơ quan tài trợ vốn,lịch trình thực hiện liên quan chặt chẽ với tiến độ rút vốn vay của dự án,do đó ngân hàng cần nắm rõ lịch trình thực hiện này để chủ động trong việc tạo lập nguồn vốn cho vay nếu ký hợp đồng tín dụng với chủ đầu tư.Cụ thể cần thẩm định. -Thời gian hoàn thành từng hạng mục và cả công trình. -Những hạng mục nào phải hoàn thành trước,những hạng mục nào có thể hoàn thành sau,những công việc nào có thể tiến hành song song. -Dự kiến thời điểm mà dự án cần vay vốn ngân hàng,mức vay là bao nhiêu. 4.4.4.Thẩm định nguyên vật liệu đầu vào của dự án đầu tư Nguyên vật liệu đầu vào bao gồm tất cả nguyên vật liệu chính và phụ,vật liệu bao bì đóng gói.Đảm bảo nguyên vật liệu là một khía cạnh quan trọng trong lập và thẩm định dự án đầu tư. Trước hết cần xem nguyên vật liệu cho dự án là loại nào: -Nguyên vật liệu cho nông sản -Nguyên vật liệu lâm sản -Nguyên vật liệu thuỷ hải sản. -Nguyên vật liệu khoáng sản. -Nguyên vật liệu sản phẩm công nghiệp(sản phẩm hoà chỉnh,bán thành phẩm). Nguyên vật liệu phụ :phụ gia,hoá chất,dung môi... Tiêu chuẩn kỹ thuật và đặc tính của nguyên vật liệu có phù hợp với đòi hỏi của công nghệ và yêu cầu của sản phẩm không?.Nguồn cung cấp có bảo đảm tính lâu dài,ổn định về cả chất lượng và số lượng hay không,có đảm bảo cho dự án đầu tư hoạt động đến hết đời hay không?Nếu nguyên vật liệu nhập ngoại thì cần xem xét đến các nhân tố:nguồn ngoại tệ nhập,tính ổn định,vấn đề vận chuyển...Cần tính đến một mức dự trù phù hợp. Nhìn chung dự án đầu tư nên tìm nhiều đầu mối cung cấp nguyên vật liệu hoặc ký các hợp đồng dài hạn để tránh hiện tượng cạn kiệt hoặc bị lệ thuộc,ép giá cả nguyên vật liệu đầu vào. Thẩm định về mặt nămg lượng và nước cho dự án đầu tư. *Về năng lượng: -Cần thẩm định xem dự án đầu tư sử dụng loại năng lượng nào: điện, than, dầu, FO, DO, khí đốt... -Đánh giá sự cân đối giã khả năng cung cấp năng lượng với đòi hỏi của sản xuất. -Năng lượng sử dụng có phải năng lượng sạch hay không. -Cần dự liến đầy đủ các chi phí đầu tư và sử dụng năng lượng như:mua và lắp đặt trạm biến áp,đường dây hệ thống điện,tính toán chính xác điện năng tiêu thụ cho mỗi ngày sản xuất.Dự kiến mức sử dụng than,dầu mỗi ngày. -Dự kiến các phương án dự phòng máy phát điện,bãi than,kho dầu...) *Về mặt sử dụng và sinh hoạt. -Thẩm định nhu cầu sử dụng nước theo từng mục đích(làm nguyên liệu,làm mát,tẩy rửa,chạy lò hơi.sinh hoạt...).Từ đó cân đối quy mô với nguồn cung cấp(Công ty kinh doanh nước sạch,nước sông,nước giếng khoan)và có biện pháp sử lý nguồn nước hợp lý tuỳ theo yêu cầu sử dụng. -Chú ý vấn đề nước thải công nghiệp:cần phải lọc và sử lý sạch nước trước khi hoàn nguyên.Xác định các chi phí đầu tư xây dựng hệ thống cấo thoát nước xử lý,chi phí nước thường xuyên. Thẩm định về mô hình tổ chức quản trị và nhân lực cho dự án đầu tư. 4.4.5.Thẩm định về mô hình tổ chức quản trị của dự án đầu tư Cần xem dự án được thực hiện theo mô hình tổ chức thực hiện nào:Doanh nghiệp nhà nước,Tổng công ty nhà nước,doanh nghiệp tư nhân,công ty cổ phần hay TNHH...Mô hình tổ chức lựa chọn cho dự án đầu tư có phù hợp với quy định pháp lý hay không?Có phù hợp với tính chất sở hữu hay không? *Thẩm định về lao động cho dự án đầu tư -Đối với lao động trong nước: +Căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của sản xuất và điều hành dự án đầu tư để ước tính số lao động trực tiếp,gián tiếp,yêu cầu về kỹ năng,bậc thợ và trình độ quản lý. +Nguồn lao động:chú ý đến lực lượng lao động có tay nghề tại địa điểm nếu chưa có nghiệp vụ thì phải tiến hành gửi đi đào tạo,dự kiến số người,chi phí,địa điểm và thời gian đào tạo sao cho cân đối trong tiến độ đào tạo đưa công trình vào sử dụng. +Dự kiến các hình thức trả lương,mức lương,bảo hiểm xã hội...đối với công nhân và cán bộ quản lý.Từ đó tính ra tổng quỹ lương hàng năm. -Đôi với lao động nước ngoài: +Trường hợp dự án đầu tư đòi hỏi kỹ thuật mới,phức tạp cần thuê chuyên gia hướng dẫn,huấn luyện công nhân vận hành máy...Chí phí trả cho chuyên gia có thể được tính vào giá mua công nghệ hoặc tính riêng. +Chi phí chuyên gia bao gồm:Tiền lương chi phí đi lại,đi lại trong nước,ăn ở....Tuỳ theo hợp đồng và thường rất cao nên vấn đề này đòi hỏi các chủ đầu tư khi lập dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ để có thể lựa chọn được công nghệ không chỉ phù hợp về công suất,các điều kiện tương ứng mà còn cân đối được chi phí của dự án đầu tư. 4.4.6.Thẩm định tài chính của dự án đầu tư. Thẩm định tài chính dự án đầu tư là việc xem xét đánh giá các bảng dự trù tài chính,trên cơ sở đó xác định luồng chi phí và lợi ích tài chính của dự án,so sánh các luồng lợi ích tài chính này trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc giá trị thời gian của tiền với chi phí và vốn đầu tư ban đầu để đưa ra kết luận về hiệu quả tài chính của dự án và mức độ rủi ro của dự án để có thể khắc phục kịp thời. *Cơ sở pháp lý để thẩm định: -Luật thuế thu nhập doanh nghiệp -Nghị địng số 03/1998/NĐCP,ngày 13/5/1998 quy định chi tiết thi hành luật thuế giá trị gia tăng. -Luật thuế tiêu thụ đặc biệt(sửa đổi),ngày 15/5/1998. -Quyết định số 166/199/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính ban hành chế độ quản lý,sử dụng và trích khấu TSCĐ? *Thẩm định mức vốn đầu tư cả dự án đầu tư -Căn cứ vào bảng dự trù vốn,ngân hàng kiểm tra mức độ tương xứng với từng khoản mục chi phí,có so sánh với quy mô công suất và khối lượng xây lắp phải thực hiện,số lượng chủng loại thiết bị cần mua sắm.Cần tính toán sát với nhu cầu thực tế. -Vấn đề bảo vệ vốn lưu động khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động cũng cần đặc biệt chú ý tới vì nếu không đảm bảo nguồn này vốn đầu tư vào tài sản cố dịnh sẽ không phát huy được tác dụng. -Điều đặc biệt có ý nghĩa trong thẩn định toàn bộ nội dung về tài chính là cán bộ thẩm dịnh phải đảm bảo tính chính xác,hợp lý và độ tin cậy của các số liệu chứ không nên căn cứ vào số liệu có trong dự án đầu tư có thể đánh giá mức độ đảm bảo thông qua quá trình theo dõi các tài khoản tiền gửi ngân hàng,theo dõi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.Nhìn chung tỷ lệ vốn tự có trên tổng vốn đầu tư phải đạt được từ 40-50% trở lên thì dự án mới coi là an toàn. Thẩm định về chi phí sản xuât,doanh thu và thu nhập hàng năm của dự án đầu tư. Cần xác định giá thành của từng loại sản phẩm,đánh giá các khoản mục chi phí tạo nên giá thành sản phẩm cao hay thấp,có hợp lý hay không?Vì sao?so sánh với giá thành sản phẩm của các loai sản phẩm tương tự trên thị trường từ đó rút ra kết luận. -Doanh thu cần được xác định rõ từng nguồn dự kiến theo năm.Thông thường trong những năm đầu hoạt động doanh thu thấp hơn những năm sau(Chỉ đạt 50-60% so với các năm sau) -Dự kiến lợi nhuận gộp và lợi nhuận ròng hàng năm(chi phí vận hành doanh thu và lợi nhuận năm cần lập vào một bảng tổng hợp những chi tiết để thấy mối quan hệ). -Xác định dòng tiền hành năm(tháng,quí): Dòng tiền ròng = Thu nhập trong kỳ-chi phí trong kỳ +Thu nhập trong kỳ: gồm tất cả các khoản thu từ dự án đầu tư như doanh thu bán hàng,vốn đi vay,tiền thu của các hoạt động khác. +Chi phí trong kỳ:chi vốn đầu tư,chi vốn lưu động thường xuyên trả gốc và vốn vay ngân hàng... Tính toán các chỉ tiêu chi phí vốn của dự án đầu tư Trong đó: I là số vốn đầu tư của nguồn vốn. r là lãi suất tương ứng của nguồn vốn đó m là số nguồn vốn huy động được cho dự án. Tính toán chỉ tiêu hoàn vốn. Khái niệm: Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian cần thiết để cho thu nhập ròng từ dự án đầu tư vừa đủ bù đắp số vốn đầu tư ban đầu Thời gian hoàn vốn có thể được tính Trong đó: T là thời gian hoàn vốn CF là dòng tiền năm thứ i Chỉ tiêu này cho phép tính toán nhanh nhưng không xét đến thời giá của đồng tiền nên tính chính xác thấp. Thời gian hoàn vốn có chiết khấu Trong đó :T là khoảng thời gian hoàn vốn có chiết khấu. CF là dòng tiền năm thứ j ý nghĩa của phương pháp này là:T sẽ cho biết sau bao lâu dự án đầu tư sẽ có thu nhập đủ bù chi phí vốn đầu tư,đối với hoạt động đầu tư nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường đầy biến động và rủi ro thì thu hồi nhanh vốn đầu tư là vấn đề được chủ đầu tư và ngân hàng rất quan tâm. Ưu điểm: Phương pháp này cho biết thời gian hoàn vốn để giúp cho ngân hàng và chủ đầu tư nhanh chóng có được quyết định đầu tư,đồng thời giúp cho ngân hàng và chủ đầu tư giảm thiểu giảm được rủi ro vì phương pháp này giúp cho việc thẩm định những dữ liệu có tính chính xác cao,đạt được độ tin cậy cao.Chỉ tiêu này được các doanh nghiệp vừa và nhỏ(thiếu vốn và đoản vốn),đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế chậm phápt triển,quan tâm đặc biệt vì phương pháp này giúp cho họ có được sự nhìn nhận chính xác hơn về khả năng tài chính của dự án đầu tư và có thể dự báo được tiềm năng thị trường cho dự án đầu tư. Bên cạnh những ưu điểm so với phương pháp khác,nhưng phương pháp tính chỉ tiêu hoàn vốn vẫn không tránh khỏi một số Nhược điểm -Phương pháp này không cho biết thu nhập lơn hay nhỏ sau kỳ hoàn vốn,trong thực tế đây là mối quan tâm nhiều nhất của các chủ đầu tư.Có những dự án đầu tư thời gian đầu mang lại thu nhập thấp,thậm chí lợi nhuận âm,điều này được giả thích bằng nhiều nguyên nhân,ví như sản phẩm của dự án có thâm nhập được thị trường nhưng mức tiêu thụ chưa cao,trong khi chi phí lại quá cao,nên cho dù doanh thu có cao nhưng chi phí cũng rất cao,dẫn đến lợi nhuận thấp,thậm chí còn bị lợi nhuận âm. -Đồng thời,phương pháp này thường cho một kết quả thời gian hoàn vốn lâu hơn mọi người mong đợi nên kết quả này có thể gây băn khoăn cho ngân hàng và chủ đầu tư. -Phương pháp này có thể gây cho ngân hàng và chủ đầu tư có những khó khăn nhất định trong việc lựa chọn được dự án đầu tư trong các dự án đầu tư có cùng thời gian hoàn vốn.Chính vì vậy khi tiến hành lựa chọn dự án đầu tư,ngân hàng và chủ đầu tư phải kết hợp với các chỉ tiêu và các phương pháp đánh giá khác. -Để nhằm hạn chế những khó khăn cho ngân hàng và chủ đầu tư lựa chọn được dự án đầu tư dưa trên phương pháp thời gian hoàn vốn,NHNH Việt nam đã quy định thời gian hoàn vốn giản đơn cho phép của một số lĩnh vực như sau: Thời gian hoàn vốn Ngành kinh tế-kỹ thuật Không quá 5 năm Hoạt động thương mại dịch vụ,đầu tư chiều sâu,tiểu thủ công nghiệp,cây công nghiệp ngắn ngày... Không quá 7 năm Công trình công nghiệp nhẹ... Không quá 10 năm Công trình công nghiệp nặng,cây công nghiệp dài ngày..... Tính chỉ tiêu ROI (tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư) Đây là chỉ tiêu hiệu quả tài chính giản đơn(không chiết khấu).ROI cho ta biết một đồng vốn đầu tư cho dự án có được mấy đồng lợi nhuận sau thuế.ROI là chỉ tiêu biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư cũng như dự án nói chung. Trong đó : I là tổng vốn đầu tư để thực hiệ dự án đầu tư P là lợi nhuấnau thuế hàng năm.Có thể lấy đại diệ khi dự án đầu tư đi vào hoạt động ổn định hoặc bình quân các năm trong vòng đơì dự án đầu tư. ROI tính xong thường được đem so sánh với các ROI của các doanh nghiệp,các dự án đầu tư khác cùng ngành nghề và lĩnh vực. Tính chỉ tiêu NPV NPV cho ta biết quy mô tiền lời của dự án đầu tư sau khi đã hoàn trả đầy đủ vốn đầu tư,tức là phải chiết khấu các dòng tiền xảy ra vào các năm khác nhau của dự án đầu tư. ý nghĩa kinh tế: NPV cho ta biết tổng lợi ích dự án đem lại tính tại thời điểm hiện tại sau khi đã hoàn đủ vốn đầu tư. Điều kiện để lựa chọn dự án đầu tư dựa trên phương pháp này là NPV>0 Phương pháp này có nhiều ưu điểm và được sử dụng rộng rãi trong công tác thẩm định của ngân hàng như nó cho biết quy mô của lợi nhuận mà dự án đầu tư có thể thu được và có tính tới giá trị thời gian của tiền.Nhưng đối với các dự án đàu tư độc lập nhau,do có sự eo hẹp về vốn khiến các chủ đầu tư phải lựa chọn được dự án đầu tư nào có hiệu quả cao nhất,khi đó việc dùng NPV để lựa chọn có khó khăn là nhiều khi một dự án có mức doanh lợi cao nhưng vì quy mô nhỏ nên có NPV thấp hơn những dự án có mức doanh lợi trung bình nhưng do có quy mô lớn nên NPV vẫn lớn hơn,điều này có ảnh hưởng đến tính chính xác trong kết luận của ngân hàng về mặt thẩm định tài chính của dự án đầu tư,do đó ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định của ngân hàng.Một hạn chế lớn nữa của phương pháp này,NPV phải chịu ảnh hưởng của lạm phát.Lạm phát làm biến đổi dòng tiền kỳ vọng và tỷ lệ chiết khấu.Khi đánh giá dự án đầu tư,chúng ta phải tuân theo nguyên tắc:Tỷ lệ lãi suất danh nghĩa chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập danh nghĩa,lãi suất thực chỉ áp dụng đối với những khoản thu nhập thực tế. Nếu chúng ta ký hiệu tỷ lệ lạm phát là h,tỷ lệ danh nghĩa là K và tỷ lệ lãi suất thực tế là k,khi đó giữa chúng có quan hệ theo công thức sau: 1+k 1+k = 1+h Để thấy được ảnh hưởng của lạm phát tới gía trị hiện tại ròng của dự án đầu tư,ta so sánh NPV trong trường hợp có và không có lạm phát. Trong trường hợp không có lạm phát,NPV của dự án đầu tư(ký hiệu là NPVo)được tính theo công thức Trong công thức trên các dòng tiền ròng(chính là thu nhập ròng của dự án đầu tư)C được tính theo công thức sau Trong đó CF là dòng tiền trước thuế và lãi vay năm thứ i:Do đó: + Trong trường hợp có lạm phát,thu nhập của dự án đầu tư trong năm thứ i là: CF+(1-T)(1+h)+TD. Thu nhập của dự án đầu tư có sự gia tăng do có lạm phát,do đó sử dụng nguyên tắc lãi suất doanh nghĩa chỉ áp dụng đối với thu nhập danh nghĩa,chúng ta có NPV của dự án đầu tư sau khi đã điều chỉnh lạm phát như sau: Vì 1+K=(1+k)(1+h)và(1+K)=[(1+k)(1+h)]=(1+k)(1+h) So sánh NPV và NPV ta thấy nếu điều chỉnh lãi suất danh nghĩa theo lạm phát thì các khoản thu nhập và chi phí của dư án đầu tư thay đổi với cùng một tỷ lệ, trừ những khoả dựa trên những chi phí,vì giá trị của những khoản tiết kiệm thuế do khấu hao mang lại thể hiện sự ổn định về tiền tệ.Để khắc phục được sự không chính xác trong thẩm định dự án đầu tư do tác động của lạm phát,cán bộ thẩm định khi tiến hành phương pháp NPV phải chú ý và tính đến tỷ lệ lạm phát. Tính chỉ tiêu IRR(phương pháp tính tỷ lệ hoàn vốn nội bộ) Tỷ lệ hoàn vốn nội bộ là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư bằng 0.Do đó,tỷ suất hoàn vốn nội bộ là tỷ suất chiết khấu thoả mãn phương trình: Tỷ lệ hoàn vốn nội hoàn phản ánh tỷ lệ lợi tức tối thiểu mà các nhà đầu tư mong muốn đối với dự án đầu tư,mặt khác thể hiện chi phí vốn cao nhất mà dự án có khả năng chấp nhận được. Việc tính toán tỷ lệ hoàn vốn nội bộ được thực hiện bằng phương pháp nội suy tuyến tính.Theo phương pháp này,cần tìm hai tỷ suất chiết khấu r1 và r2 và r<r sao cho tương ứng r là NPV âm và tương ứng với r2 là NPV1.Tỷ lệ chiết khấu nội bộ là giá trị nằm giữa r1 và r2,được tính theo công thức: Khi sử dụng phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ,ta không nên lấy hai tỷ lệ chiết khấu r1 và r2 có khoảng cách quá rộng và việc xác định giá trị của r1 càng gấn IRR thì kết quả của phương pháp này càng chính xác. Phương pháp tính về tỷ lệ hoàn vốn nội bộ cho biết khả năng sinh lời của dự án đầu tư.Một dự án đầu tư thẩm định theo phương pháp này chỉ được lựa chọn đầu tư khi dự án đầu tư đó có IRR lớn hơn tỷ lệ chiết khấu,tức là lớn hơn chi phí vốn trung bình của dự án.Lúc đó dự án đầu tư có mức lãi thực tế lớn hơn chi phí phải trả cho các nguồn vốn phải sử dụng cho dự án đầu tư.Ngược lại nếu IRR nhỏ hơn chi phí trung bình của vốn thì dự án bị loại bỏ ngay. IRR là một tiêu chuẩn đánh giá tương đối,đối với những dự án độc lập nhau,dự án nào có IRR lớn hơn tỷ lệ chiết khấu thì được chọn.Đối với những dự án loại trừ nhau,dự án được chọn là dự án náo có IRR lớn hơn tỷ lệ chiết khấu và lớn nhất. Bên cạnh những ưu điểm trên,phương pháp này vẫn có những nhược điểm nhất định.Phương pháp này có thể dẫn đến những quyết định không chính xác khi lựa chọn những dự án loại trừ nhau vì những dự án có IRR cao nhưng có NPV thấp do quy mô nhỏ hơn so với những dự án có IRR cao nhưng có NPV cao hơn.Bởi vậy khi lựa chọn một dự án có IRR cao,rất có thể ta đã bỏ qua cơ hội thu được một giá trị hiện tại thuần lớn hơn.Hơn nữa,IRR chỉ tồn tại khi có dòng tiền âm,khi tất cả các dòng tiền ròng đều dương thì dù tỷ lệ chiết khấu có lớn tới đâu thì NPV vẫn không thể bằng 0. Xác định điểm hoà vốn của dự án đầu tư Khái niệm:Điểm hoà vốn là điểm hoà vốn mà tại đó tổng doanh thu của dự án đầu tư vừa đúng bằng tổng chi phí hoạt động.Điểmhoà vốn được biểu hiện bằng số đơn vị sản phẩm hoặc giá trị doanh thu. Cách tính: Gọi x là khối lượng sản phẩm sản xuấthoặc bán ra được. Gọi x0 là khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn. Gọi f là chi phí cố định v là chi hí biến đổi của sản phẩm v.x là tổng chi phí biến đổi. p là giá thành sản phẩm YDT=Px YCF=vx+F Tại điểm hoà vố._.,sức mạnh của từng cá nhân,hạn chế được những mặt yếu của họ,liên kết được cá nhân trong toàn ngành ngân hàng,loại bỏ được các rủi ro đạo đức nghề nghiệp Hoạt động thẩm định dự án đầu tư đang trong quá trình thay đổi và hoàn thiện.Một”quy trình thẩm định dự án đầu tư theo tiêu chuẩn ISO 9000”đã được hoàn thành và áp dụng thống nhất làmcơ sở phân định trách nhiệm và phối kết hợp giữa các bộ phận trong toàn hệ thống ngân hàng Đầu Tư và Phát triển. Trên đây tôi đã nêu ra một cách khái quát những tồn tại chủ yếu trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Hà Nội,Trừ một só thiếu sót trong việc tính toán có thể sửa đổi ngay,những tồn tại khác cần phải được khắc phục dần,xây dựng và tích luỹ dần các hoạt động hàng ngày của ngân hàng,với mục tiêu hoàn thiện hơn nữa công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Hà Nội. Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà nội I. Giải pháp Chất lượng,hiệu quả,an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là điều kiện để tồn tại,phát triển và hội nhập.Vì vậy,hơn lúc nào hết công tác thẩm định phải được đặt đúng vị trí,có cơ chế,quy trình công nghệ toàn diện và đồn bộ với quy trình công nghệ của các nghiệp vụ khác,tạo thành một tổng thể giải pháp mang tính chiến lược trong định hướng phát triển của ngân hàng.Đó là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Thực tế,công tác thẩm định dự án đầu tư của Chi nhánh chỉ có thể đạt hiệu quả hơn nếu những khó khăn hạn chế được khắc phục bằng chính những nỗ lực của ngân hàng.Ngân hàng phải là người chủ động trong việc khắc phục những khó khăn và hạn chế đang gặp phải,thông qua một số giải pháp sau: 1.Thu thập kịp thời đầy đủ chính xác các thông tin Hiệu quả thẩm định dự án đầu tư phụ thuộc rất lớn vào nguồn thông tin từ doanh nghiệp cung cấp cũng như do cán bộ thẩm định thu được.Tuy vậy công tác thông tin tín dụng,phòng chống rủi ro trong hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay còn nhiều sơ hở,yếu kém.Do vậy các ngân hàng thương mại thường bị động, lúng túng do thiếu thông tin trước những thay đổi về chủ trương,chính sách,những biến động khác thường trong và ngoài ngành cũng như thông tin về các doanh nghiệp vay vốn.Để khắc phục tình trạng này,nâng cao chất lượng thông tin là việc làm hết sức cấp bách,thông qua một số biện pháp sau: 1.1.Thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng Hiện nay ngoài những hồ sơ tài liệu theo quy định doanh nghiệp gửi đến để vay vốn,chi nhánh cũng có gặp gỡ khách hàng đến xin vay vốn và trực tiếp đến cơ sở sản xuất kinh doanh.Song muốn thu thập thêm thông tin một cách chính xác và hiệu quả nhất,chi nhánh vẫn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và thực hiện chúng một cách kỹ lưỡng bằng cách: *Tổ chức những buổi trực tiếp phỏng vấn và thảo luận với khách hàng,nhờ việc tổ chức những buổi phỏng vấn,ngân hàng có thể thu thập các thông tin khác không hề có trong hồ sơ xin vay hay báo cáo tài chính,nghiên cứu thị trường... của doanh nghiệp. Cũng qua đó,Ngân hàng yêu cầu chủ dự án giải thích về các vấn đề còn chưa rõ ràng hoặc còn mâu thuẫm trong hồ sơ vay vốn. Nhờ vào tính linh hoạt của cuộc phỏng vấn,công tác chuẩn bị,tổ chức các buổi phỏng vấn có thực sự chu đáo và nghiêm túc hay không mà lượng thông tin Ngân hàng thu được từ phía doanh nghiệp mới dồi dào và có chất lượng. *Việc điều tra trực tiếp doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là một cuộc phỏng vấn.Bên cạnh đó cán bộ thẩm định phải kết hợp với việc thăm quan cơ sở sản xuất,văn phòng làm việc và điều tra năng lực sản xuất.Muốn thực hiện tốt công việc này,cần thiết phải soạn thảo một phiếu điều tra chi tiết bao gồm thứ tự,nội dung công việc cần hỏi,kết hợp với kỹ năng quan sát,giao tiếp cởi mở,tạo bầu không khí thoải mái và quan trọng nhất là việc đặt ra những câu hỏi để khuyến khích được khách hàng nói chuyện,từ đó khai thác được các thông tin bổ ích như: -Người lãnh đạo có năng động,có khả năng đối phó nhanh chóng trước những biến động của môi trường kinh doanh hay không?Bộ máy quản lý doanh nghiệp có chiều sâu hay không?Nghĩa là năng lực và trình độ của các lớp cán bộ lãnh đạo kế cận ở những lĩnh vực như tài chính,sản xuất,tiêu thụ...Ban lãnh đạo của doanh nghiệp có sự cân đối về kinh nghiệm,về tính năng động giữa cán bộ nhiều tuổi và trẻ tuổi hay không. Người lãnh đạo có tầm nhìn vĩ mô,có đặt ra kế hoạch cho tương lai để vận dụng được những cơ hội mới và phòng tránh những nguy cơ đe doạ hay không? -Thông qua quan sát văn phòng,nhà xưởng kho tàng,tình hình hoạt động sản xuất mà cán bộ thẩm định đánh giá được bộ máy tổ chức được bộ máy tổ chức điều hành có hợp lý hay không?công việc kế toán có được kiểm soát chặt chẽ,công nghệ thiết bị dây chuyền sản xuất hiện tại của doanh nghiệp,trình độ của cán bộ nhân viên cũng như mức thu nhập và sự thoả mãn với mức thu nhập của họ. *Để đảm bảo những thông tin về doanh nghiệp là chính xác,cán bộ thẩm định còn có thể thu thập thông tin từ những nguồn bên ngoài,từ các cơ quan hữu quan,các chuyên gia kỹ thuật,các đối tác làm ăn(cung cấp hoặc tiêu thụ sản phẩm)của doanh nghiệp,bản thấn cná bộ công nhân viên của cơ sở...và các văn bản có liên quan khác: -Các thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro,về tình hình thanh toán,tình hình tài chính,các mối quan hệ làm ăn,khó khăn trong quá khứ và hiện tại...về doanh nghiệp. -Các thông tin về điều tra bạn hàng của doanh nghiệp(để có thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp),những doanh nghiệp có sản phẩm cùng loại với sản phẩm của dự án. -Thông tin từ các công ty kế toán,kiểm toán,công ty tư vấn,các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp. -Tham khảo các tài liệu,chủ trương chính sách của Nhà nước,thông tin trên các phương diện đại chúng..liên quan đến dự án. *Mặc dù ngân hàng có thể thu thập thông tin từ khách hàng vay vốn từ rất nhiều nguồn khác nhau,cả trực tiếp và gián tiếp,song nguồn thông tin đầy đủ,chính xác nhất-do đã được kiểm nghiệm thực tế qua một thời gian vay vốn,trả nợ được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ bạn hàng lâu dài và sâu rộng giữa ngân hàng và doanh nghiệp.Công việc cho vay của ngân hàng sẽ dễ dàng hơn nếu doanh nghiệp là một khách hàng lâu năm,đã từng vay vốn của ngân hàng.Với những khách hàng này,ngân hàng đã hiểu rõ và nắm được một lượng thông tin tương đối về họ,do vậy ngân hàng giảm được những chi phí cho việc thu thập và xử lý thông tin.Nhất là khi doanh nghiệp và ngân hàng đã tin tưởng nhau thì doanh nghiệp sẽ cung cấp cho Ngân hàng những thông tin có độ tin cậy cao. 1.2.Đa dạng hoá các nguồn cung cấp thông tin Ngày nay một khối lượng khổng lồ thông tin thuộc đủ mọi lĩnh vực của xã hội,trong nước và quốc tế đang được cập nhật hàng ngày trên các xa lộ thông tin.Qua mạng INTERNET và ngay cả các mạng thông tin trong nước đều có những nguồn thông tin rất đa dạng và tiện dụng. Chi nhánh cần nhan chóng giao cho một bọ phận khai thác và phân phối thông tin cho toàn bộ các phòng ban của chi nhánh *Chi nhánh cần thiết phải xây dựng được một mối quan hệ thường xuyên với các Bộ,Ngành,với Ngân hàng Nhà Nước,và các ngân hàng thương mại khác nhằm trao đổi thông tin cần thiết trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội,kể cả những thông tin kinh nghiệm,kỹ năng quy trình nghiệp vụ thẩm định.Có thể nói trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại là tương đối khó khăn bởi thông tin là một vũ khí cạnh tranh vô cung lợi hại.Song điều đó là cần thiết,nhất là giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh vì nó đem lại lợi ích cho các bên trong các trường hợp như trao đổi tổng kết kinh nghiệm,tránh những khoản vay đảo nợ hay rủi ro thế chấp cung một tài sản tại nhiều ngân hàng và đặc biệt là khi các ngân hàng tham gia đồng tài trợ một dự án. Để đảm bảo việc cung cấp thông tin có chất lượng cao cho hoạt động thẩm định,trong các trờng hợp đặc biệt cần thiết Ngân hàng nên tính đến việc mua các thông tin.Những thông tin quan trọng mang tính chuyên môn cao và không có sẵn như thông tin côngnghệ kỹ thuật,các phân tích đánh giá thị trường,điều kiện tự nhiên xã hội...có thể được cung cấp bởi những nguồn tin cậy nhưng chỉ khi ngân hàng chịu chi phí cho nó.Tuy nhiên những thông tin thu thập từ các Công ty kinh doanh thông tin không được phân tích hay cung cấp các lời khuyên.Thông tin đó chỉ mang tính chất tham khảo và quyền quyết định phụ thuộc vào ngân hàng. 2.Hoàn thiện hơn nữa nội dung và phương pháp thẩm định. Có thể nói việc thẩm định toàn diện mọi nội dung của dự án là cơ sở quan trọng nhất cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác,khách quan.Mọi nội dung của dự án đều có mối liên quan mật thiết với nhau.Chẳng hạn kết quả thẩm định về thị trường là cơ sở đánh giá sự lựa chọn kỹ thuật,quy mô sản xuất của dự án)còn kết quả thẩm định về mặt kỹ thuật lại là cơ sở để xác định hiệu qủa tài chính,là cơ sở để đánh giá lợi ích kinh tế xã hội của dự án. Chi nhánh cần xác định một phương pháp thẩm định khoa học,kết hợp với kinh nghiệm quản lý thực tiến và các nguồn thông tin đáng tin cậy Về nguồn vốn đầu tư Cán bộ thẩm định cần tích cực tìm hiểu,lưu trữ các thông tin của các dự án đầu tư có hiệu quả cao làm cơ sở kiểm tra thẩm định nguồn vốn xây dựng,nhất là vốn mua thiết bị,các chi phí liên quan,tránh việc tính thừ hay tính thiếu nguồn vốn đầu tư. Để dự tính nguồn vốn đầu tư chính xác,Ngân hàng cần phân tích các yếu tố lạm phát,tỷ giá hối đoái(đối với những dự án có nhập khẩu máy móc thiết bị từ nước ngoài)nhất là đối với các dự án gồm những hạng mục đầu tư kéo dài trong nhiều năm Với nhưng mặt thẩm định kỹ thuật,môi trường,thị trường... của dự án,nếu chi nhánh không có điều kiện để thẩm định một cách kỹ càng thì nên thuê những Công ty chuyêm môn để thẩm định,không nên bỏ qua mặt thẩm định nào hoặc thẩm định sơ sài.Quy trình thẩm định nên tiến hành theo đúng quy trình chung. Khi xác định khả năng trả nợ Những năm dự án đem lại lị nhuận âm thì Ngân hàng phải tính đến việc khấu trừ khoản đó khỏi nguồn trả nợ nếu doanh nghiệp chắc chắn không huy động được nguồn khác thay thế,đề nghị Nhà nước miễn giản thuế hoặc ngân hàng có thê bố trí cho vay ngắn hạn nếu cần. Bởi vì cần nhận thức được rằng,nếu dự án thực sự có hiệu quả thì chắc chắn sẽ trả được nợ,vấn đề chỉ còn là thời gian thế nào là hợp lý.Ngân hàng cần phải tính toán,cân đối trên cơ sở nguồn vốn của mình để giải ngân một cách hiệu quả vừa có lợi cho doanh nghiệp,vừa có lợi cho ngân hàng đồng thời đem lại hiệu quả cao về mặt xã hội. Cán bộ thẩm định luôn quan tâm đến thời gian hoàn trả vốn vay của dự án.Vì vậy khi tính toán thời gian hoàn trả vón vay dựa trên dòng tiền qua các năm của dự án,cần quan tâm tới giá trị thời gian của tiền.Nếu tích luỹ kế nguồn trả nợ các năm thì phải dựa về cùng một thời điểm,như vvậy mới đem lại một kết quả chính xác về tính khả thi về mặt tài chính của dự án. Việc tính toán và sử dụng các chi phí tài chính. Các chỉ tiêu NPV,IRR, phải được coi là những chỉ tiêu tổng hợp,cơ bản phản ánh hiệu quả, tính chất của dự án mà không thể không xét đến khi thẩm định.Từ đó các chỉ tiêu NPV,IRR cần thiết phải xây dựng cho 100% các dự án -Việc sử dụng chỉ tiêu NPV trong thẩm định về mặt tài chính dự án đầu tư có nhiểu ý nghĩa,cho ta quyết định có đầu tư vào dự án hay không.Song nhược điểm chính của phương pháp này là nó rất nhay cảm với sự thay đổi của lãi suất chiết khấu,chỉ một sự thay đổi nhỏ trong lãi suất chiết khấu là ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả tính NPV.Như vậy giá trị hiện tại thuần không phải là một tiêu chuẩn tốt nếu không xác định được chính xác lãi suất chiết khấu.Hiện nay ngân hàng thường lấy lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng làm lãi suất chiết khấu khi tính NPV của dự án.Cách xác định này chỉ chính xác khi dự án có toàn bộ vốn đàu tư lấy từ nguồn đi vay của ngân hàng.Nhưng đây là vấn đề không thể xảy ra vì theo quy định,bên chủ dự án phải có một số vốn nhất định tham gia vào dự án.Vì vậy việc tính lãi suất chính xác phải căn cứ vào chi phí cơ hội của vốn vay hay chi phí trung bình của vốn(WACC).Song thực tế việc tính chi phí trung bình của vốn là rất phức tạp,nên theo em,những doanh nghiệp vay vốn theo kế hoạch Nhà nước với lãi suất 0,75%/tháng(hay9%/năm)thì ngân hàng có thể sử dụng thống nhất mức lãi suất chiết khấu là 10% để dễ tính toán và không sai lệch bao nhiêu(vì vốn vay ngân hàng thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức đầu tư-khoảng 80%).Đối với các dự án vay vốn thương mại,sẽ tuỳ vào lãi suất khoản vay để xác định lãi suất chiết khấu cho phù hợp. Ngoài ra các dòng chi phí và lợi ích của dự án đều được chiết khấu với một tỷ lệ như nhau,nhưng do biến động về chi phí của từng loại vay vốn tham gia vào dự án qua các năm khác nhau nên ngân hàng có thể sử dụng các tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh được sự thay đổi của các yếu tố ảnh hưởng đến dự án một cách kịp thời.Ngân hàng cũng có thể tính NPV,IRR theo phương pháp có sử dụng tái đầu tư nguồn thu vào trong dự án hoặc sử dụng đầu tư vào phương án khác,để các chỉ tiêu này được chính xác hơn. 3.Những giải pháp hỗ trợ về thẩm định Tổ chức quản lý sau thẩm định,đánh giá dự án sau đầu tư Các phòng tín dụng tại chi nhánh,thông qua việc theo dõi,giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án,nên thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động của các dự án.So sánh với các ý kiến thẩm định trước đó,rút ra những thành công và những bất hợp lý trong quá trình thẩm định.Các bài học qua các Dự án điển hình sẽ được các phòng Tín dụng thông báo cho tất cả các bộ phận khác,hoặc cung cấp cho phòng thẩm định làm cơ sở đánh gía,tổng kết.Đồng thời nó sẽ giúp cho mỗi cná bộ tham gia thẩm định nâng cao năng lực là việc của mình. Chi nhánh thường xuyên kiểm soát quá trình bỏ vốn đầu tư,xem xét vòng luân chuyển vốn,vòng quay hàng tồn kho và nhu cầu vốn đầu tư cho từng giai đoạn,từng hạng mục..từ đó sẽ có biện pháp giải ngân hợp lý,tránh lãng phí và ứ đọng vốn,đồng thời kiểm soát chủ đầu tư sử dụng vốn có đúng mục đích không. Chủ động tìm kiếm các dự án lớn có tính khả thi,thực hiện đồngt ài trợ cho vay vốn và đồng thẩm định dự án đầu tư,tạo điều kiện cho khách hàng được vay vốn từ các tổ chức tín dụng nhanh chóng,các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước.Chi nhánh cần chủ động tiếp cận các dự án khả thi để mở rộng tín dụng đầu tư.Từ đó,chi nhánh lựa chọn được khách hàng có khả năng tài chính tốt,tạo được thế chủ động trong công tác thẩm định.Bên cạnh đó chi nhánh tiến hành đồng tìa trợ với các dự án lớn,một mặt vừa đáp ứng được nhu cầu vốn vay lớn của doanh nghiệp,mặt khác đó là biện pháp phân tán rủi ro và tận dụng những điểm mạnh trong công tác thẩm định của ngân hàng đối tác. Cần nâng cao chất lượng điều hành quản trị tại ngân hàng. Trong hoạt động thẩm định ngân hàng,các yếu tố nêu trên của công tác thẩm định cho dù được nâng cao đến đâu mà vẫn thiếu sự quản trị điều hành tốt của ngân hàng thì công tác thẩm định vẫn không thể vận hành tốt.Vì vậy,việc nâng cao chất lượng quản trị điều hành của ngân hàng trong công tác thẩm định có ý nghĩa quan trọng.Để giúp cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại ngân hàng đạt được chất lượng cao hơn,ngân hàng cần tiến hành một số biện pháp về quản trị điều hành sau: -Hoàn thiện hệ thống tổ chức dự án đầu tư trong toàn ngân hàng sao cho công tác phối hợp và kết hợp được tiến hành chặt chẽ giữa thẩm định với tín dụng và các phòng ban khác,giữa hoạt động thẩm định và hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.Phòng thẩm định làm hạt nhân,chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ thẩm định. -Ngân hàng cần thiết lập và tăng cường quan hệ với các bộ ngành,các bộ phận thẩm định ở các ngân hàng thương mại khác để kế thừa trao đổi,học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư thông qua các cuộc họp,hội thảo về công tác thẩm định do ngân hàng tổ chức. -Ngân hàng cần xây dựng,hoànt hiện quy chế vận hành của bộ máy thẩm định theo hệ thống thống nhất,xác định rõ chức năng,nhiệm vụ,quyền hạn,trách nhiệm của phòng thẩm định. -Hàng năm trên cơ sở kế hoạch chung,ngân hàng cần xây dựng một chương trình,kế hoạch nhiệm vụ cụ thể cho công tác thẩm định.Hàng quý ngân hàng nên có các báo cáo tổng hợp tình hình thẩm định dự án đầu tư trong toàn ngân hàng.Cuối năm hoặc sang một phạm vi xem đầu năm sau,ngân hàng tổ chức cuộc họp tổng kết,đánh giá rút kinh nghiệm và công bố,chương trình và kế hoạch cuối năm. 4.Giải pháp về con người: Trong mọi công việc, con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại,vì vậy ngân hàng cần có sự quan tâm đầu tư thường xuyên để xây dựng một đội ngũ cán bộ nhân viên đủ về số lượng,tốt về chất lượng để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khó khăn của công vịêc -Hiện nay,tất cả các cán bộ thẩm định đều có trình độ từ cao đẳng,đại học trở lên,được đào tạo chính quy chuyên sâu về một ngành kinh tế kỹ thuật nào đó,ngoài ra cũng nắm bắt được một cách bài bản các kiến thức về tài chính,Ngân hàng,kinh tế thị trường.Tuy nhiên dù trình độ của các cán bộ thẩm định của chi nhánh hiện nay nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu công việc của mình thì cần phải tự nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học để có thể ứng dụng những chương trình phần mềm hiện đại vào việc thẩm định dự án.Ngoài ra,quản lý tài chính dự án,bám sát với dự án mà mình đang đầu tư để có được hiệu quả thẩm định tốt nhất -Với mục đích nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định thì ngoài sự nỗ lực của bản thân mỗi cán bộ còn cần sự hỗ trợ của ngân hàng. +Ngân hàng tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định đi học để nâng cao trình độ,chuyên môn nghiệp vụ.Ngân hàng có thể tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn ngày tập trung tại ngân hàng do các chuên gia trong nước hoặc nước ngoài đến giảng dạy về hạch toán kế toán,quản trị kinh doanh,luật,bảo hiểm,ngoại hối và thanh toán quốc tế +Các cán bộ chủ chốt có năng lực và triển vọng cũng cần được tạo điều kiện tham dự các khoá học daì hạn trong và ngoài nước. +Ban lãnh đạo ngân hàng,hàng năm nhận xét và đánh giá đối với từng cán bộ thẩm định,từ đó đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm việc khác đối với những người không đáp ứng được yêu cầu công việc. +Chi nhánh cần có chính sách thu hút và ưu đãi các chuyên gia giỏi để học và làm việc hoặc làm công tác viên cố vấn cho chi nhánh. +Chi nhánh cần khuyến khích các nhân viên chủ động đề xuất các ý kiến về nghiệp vụ thẩm định,về chính sách đối với cán bộ nhân viên.Tập hợp những đề xuất sáng kiến,đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng,hoặc có sự giải thích rõ ràng tạo tâm tâm lý,tình cảm tích cực trong cán bộ nhân viên khi có những bất bình hay kiến nghị. 5.Xây dựng chiến lược khách hàng -Củng cố và phát triển khách hàng truyền thống -Mở rộng có chọn lọc đối với khách hàng mới -Tư vấn cho khách hàng nâng cao chất lượng soạn thảo dự án đầu tư II.Một số kiến nghị Thẩm định dự án đầu tư có xét rất rộng,liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau.Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án,cần có một giải pháp đồng bộ,phối hợp của nhiều nhành nhiều cấp.Có được như vậy,những giải pháp đề ra mới có khả năng thực hiện được được,chất lượng thẩm định dự án mới được nâng cao,đáp ứng được yêu cầu của hoạt động cho vay ở chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà nội,cũng như yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng.Sau đây em xin đề xuất một số kiến nghị với các cấp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Hà nội như sau: 1.Kiến nghị với Nhà nước: Nhà nước thông qua hệ thống ngân hàng để thực hiện chính sách tài chính tiền tệ.Trước mắt,ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn quan trọng nhất trong nền kinh tế,nên Nhà nước cần tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động nhất là trong lĩnh vực đầu tư tín dụng. -Đề nghị Chính phủ nên có văn bản cụ thể quy định rõ trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án.Chính phủ nên có các quy định từng bước về mở rộng quyền và trách nhiệm thẩm định dự án cho từng ddối tượng thường xuyên liên quan đến việc lập và thẩm định dự án như ngân hàng,Bộ Thương Mại,Bộ Kế hoạch và Đầu tư,Bộ Khoa học và công nghệ môi trường. -Thành lập công ty dịch vụ,đánh giá tài sản thế chấp.Đây là một mô hình tương đối tốt mà nhiều nước trên thế giới đang làm.Cũng như công tác kiểm toán,công ty dịch vụ,đánh giá tài sản phải chịu trách nhiệm vật chất và pháp lý về việc đánh giá không đúng giá trị taì sản. -Chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán,thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy trình của Nhà nước.Nhà nước ban hành quy chế bắt buộc ngân hàng thương mại,tổ chức tín dụng,công ty tài chính,các doanh nghiệp phải chịu sự giám sát của hệ thống kiểm toán quốc gia và mức độ trách nhiệm cho từng bên một cách rõ ràng. -Cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước,hay mạnh dạn hơn nữa trong công việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước để các doanh nghiệp có điêù kiện hơn trong việc kinh doanh của họ.Nhà nước cần dứt khoát loại bỏ những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả,chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và thực sự cần thiết nhằm tạo điều kiện cho ddầu tư tín dụng có trọng điểm và nâng cao hiệu quả.Đặc biệt tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chủ quản trong việc cấp giấy phép thành lập các công ty tư nhân,các công ty TNHH.Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thuộc những ngành nghề chủ chốt có hoạt động kinh doanh phát triển,Bộ tài chính cần tiếp tục bổ sung vốn điều lệ thường xuyên để đảm bảo vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như vốn tự có để các doanh nghiệp có thêm điều kiệnđể vay ngân hàng.Với các doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất do ảnh hưởng của chu kỳ sản xuất nhưng thật sự cần thiết phải tồn tại,đề nghị Bộ Tài Chính gia hạn nợ để doanh nghiệp sắp xếp và ổn định lại sản xuất. 2. Kiến nghị với ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam. -Hàng năm,Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt nam tiến hành xây dựng chương trình hoạt động cho công tác thẩm định toàn bộ hệ thống để các Chi nhánh,bộ phận lấy đó làm căn cứ để củng cố,nâng cao hiệu quả,chất lượng của công tác thẩm định. Chương trình hoạt động này sẽ giúp cho việc đánh giá những kết quả đạt được,những vướng mắc tồn tại,những bài học qua thẩm định các dự án của năm trước đồng thời chương trình vạch ra kế hoạch sửa chữa các thiếu sót,khắc phục những tồn tại và phát huy những kết quả đạt được để nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định.Hoạt động thẩm định hiện nay đã được đánh giá khái quát tại các Hội nghị tổng kết của ngân hàng tuy nhiên nên có những buổi họp để đánh giá riêng về hoạt động thẩm định với thành phần tham gia hẹp hơn. Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam phải luôn bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước,các nghành và địa phương để định hướng mục tiêu cho công tác đầu tư của chi nhánh cho phù hợp theo từng thời kỳ. -Trong giai đoạn hiện nay về lâu dài,công tác thẩm định của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam là cần thiết.Cơ cấu tổ chức thẩm định phải là những bộ phận chức năng chuyên trách.ngoài một số chi nhánh lớn đã có phòng thẩm định,các chi nhánh khác nên có cơ cấu tổ chức là các phòng chuyên trách.Có như vậy công tác thu thập thông tin,tích luỹ số liệu đặc biệt là số liệu đầu tư phát triển,công tác nghiên cứu thị trường đầu tư cũng như các lĩnh vực đầu tư mà các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có thể tham gia đóng góp vốn mới có thể được thực hiện đầy đủ,liên tục và tập trung.Hơn nữa qua tổ chức thẩm định này,khiđã có nguồn thông tin khá đầy đủ thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đàn từng bước có thể mở thêm ra một loại hình dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đầu tư phát triển. 3. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt nam và các ngân hàng thương mại khác. -Xác định xu hướng đầu tư cho Ngân hàng thương mại Theo quyết định của TW Đảng,Ngân hàng Nhà nước(NHNN) cần căncứ vào quy hoạch định hướng phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ để định hướng đầu tư đúng đắn,giảm thiểu rủi ro.Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn tỉnh,thành phố nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh mình,quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội toàn tỉnh,những ngành nghề kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các dự án của các doanh nghiệp đúng hướng phát huy hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn. -Đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao nghiệp thẩm định phát triển đội ngũ nhân viên,trợ giúp về thông tin,kinh nghiệm cho ngân hàng.Hàng năm ngân hàng Nhà nước cần tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. -Đề nghị ngân hàng Nhà nước có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa ruỉ ro.Trung tâm này cần đưa ra mức độ rủi ro về từng nghề,lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho ngân hàng phân loại,xếp hạng doanh nghiệp,nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. -Đề nghị các Ngân hàng thương mại quốc doanh trong toàn quốc như Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn,ngân hàng Công thương,ngân hàng Ngoại thương cần tăng cường sư hợp tác trong việc sử lý thông tin,trao đổi kinh nghiệm.Vì mỗi ngân hàng đều có thế mạnh trên một số lĩnh vực cụ thể nên rất có ý nghĩa khi bổ sung hỗ trợ cho nhau,nhất là trong các dự án đồng tài trợ. -Ngân hàng Nhà nước cần chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế tín dụng,nhất là cơ chế về cho vay trung,dài hạn và quy trình thủ tục cho vay đồng tài trợ của nhiều Ngân hàng thương mại cho phù hợp với môi trường pháp lý ở Việt nam hiện nay.Ngân hàng Nhà nước cũng nên quy định rõ ràng trách nhiệm thẩm định,giải ngân,thu nợ...khi cho vay đồng tài trợ. Ngân hàng Nhà nước cần thiết ban hành một số quy chế về quyền lựa chọn Ngân hàng phục vụ khách hàng,tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng,tránh tình trạnh giành giật khách hàng như hiện nay 4.Kiến nghị với các Bộ,Sở ngành có liên quan. -Đề nghị các Bộ, ngành, địa phương nghiêm chỉnh thực hiện công tác kế hoạch hoá đầu tư theo các thông tư hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư -Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tưcần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về trình tự xây dựng và lập dự án trong kế hoạch như:dự báo chính xác về khả năng nguồn vốn trong kỳ kế hoạch,hướng dẫn tập trung vào các dự án,vào trương trình lĩnh vực ưu tiên và có hiệu quả. -Đề nghị Bộ tài Chính cần tạo dựng một khung pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tình hình taì chính của mình khi xin vay ngân hàng.Để làm được điều này cần tiến hành kiểm toán các doanh nghiệp,đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước nhằm có được báo cáo tài chính có dộ tin cậy cao. -Đề nghị các Bộ ngành,địa phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án.Vì thức tế,các nội dung của dự án có quan hệ rất chặt chẽ với nhau,chỉ cần một nội dung trong dự án không được xem xét cẩn thận sẽ dẫn đến các nội dung khác thiếu đi sự chính xác và hiệu quả của dự án khó có thể đảm bảo được như dự tính.Mặt khác,cácBộ,các ngành và địa phương cần tham gia thẩm định cung một dự án nhưng ở các khía cạnh khác nhau.Do vậy,sự phối hợp này cũng nhằm nâng cao trách nhiệm của từng bộ phận của dự án. -Đề nghị các Bộ ngành,địa phương cần nâng cao trình độ,chất lượng thẩm định dự án đầu tư về mặt công nghệ,kỹ thuật,kinh tế xã hội,thị trường, những tác động môi trường để các kết quả này làm căn cứ cho ngân hàng thẩm định. -Đề nghị các Bộ chủ quản như:Công nghiệp,nông nghiệp và tài chính,kế hoạch và đầu tư,Tổng cục thống kê cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình quản lý.Hàng năm nên công bố những thông tin này một cách công khai qua các tài liệu chuyên ngành và tập hợp lại ở các trung tâm thông tin của ngành để giúp chủ đầu tư cũng như ngân hàng thương mại thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin phục vụ cho công tác lập và thẩm định dự án đầu tư. -Đề nghị các Bộ ngành sớm ban hành các chế độ vè giá,các định mức kinh tế kỹ thuật cho từng ngành lĩnh vực cụ thể nhất là các ngành đặc thù và mới như:giá chuẩn,đơn giá xây dựng tổng hợp,các định mức tiêu hao nguyên vật liệu để tạo điều kiện cho việc xác định tổng vôan đầu tư,các chi phí sản xuất năm và làm cơ sở so sánh với các dự án đang được đánh giá. -Đề nghị các Bộ,ngành,địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc trao đổi và cung cấp thông tin,cần thiết lập và phát triển một mạng thông tin,cần thiết lập và phát triển hơn trong việc trao đổi thông tin trong toàn quốc với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan trong việc đổi mới hệ thống cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư và công tác thẩm định dự án đầu tư. Kết luận Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn lớn đối với các ngân hàng thương mại.Vì đây là một vấn đề hết sức khó khăn,phức tạp,liên quan đến nhiều ngành,nhiều cấp bên trong và bên ngoài ngân hàng,nên nó đòi hỏi một sự nghiên cứu sâu sắc và những giải pháp đồng bộ với sự quyết tâm,nỗ lực thực hiện từ nhiều phía.Trong nội dung của chuyên đề này em chỉ tập trung vào nghiên cứu,xem xét một số vấn đề nhỏ với mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau: -Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về công tác thẩm định dự án đầu tư,nội dung thẩm định cũng như những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư.Đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư đối với các ngân hàng thương mại. -Đánh giá chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Hà nội,rút ra những kết quả,những hạn chế và chỉ ra nhữngnguyên nhân dãn đến hạn chế đó. -Đưa ra một số giải pháp và đề ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung. Đây là một nội dung rộng,nên chuyên đề của em chỉ xin đóng góp thêm một cách tiếp cận,đánh giá mới.Những giải pháp và những kiến nghị đưa ra chỉ là một đóng góp nhỏ cho việc nâng coa chất lượng thảam định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Hà nội. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Cao Cự Bội,cùng các cô chú,anh chị phòng thẩm định KTKT và TVĐT chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội đã tận tình giúp đữ em hoàn thành chuyên đề này. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0363.doc