Lời nói đầu
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta. Đặc biệt là từ đại hội lần thứ VI của Đảng được ghi nhận như một bước ngoặt trong quá trình phát triển của đất nước. Với sự chuyển đổi cơ chế đó thì việc phát triển giao lưu thương mại giữa các nước như là một điêù tất yếu. Từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế thì vai trò của hoạt đông xuất nhập khẩu đóng một vai trò to lớn trong việc phát triển đất nước. Cùng với những thuận lợi khi đất nước mở cửa thì các doanh nghiệp trong
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại Công ty XNK Thanh Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng đang gặp một áp lực rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh, sự suy kém về vốn, kinh nghiệm, công nhân viên cũng như trang thiết bị cơ sở đã tạo nên một khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, đẩy mạnh xuất khẩu như là một xu hướng tất yếu để thúc đẩy đất nước phát triển. Để hoạt đông xuất khẩu đạt hiệu quả cao thì một bước rất quan trọng và đầu tiên đó là công tác tạo nguồn hàng phải được thực hiện tốt.
Trong quá trình thực tập tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà (HAFOREXIM), qua một thời gian tìm hiểu, học hỏi cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ công nhân viên trong công ty, cùng với sự hướng dẫn và định hướng của thầy giáo và tự bản thân thấy được sự quan trọng của công tác tạo nguồn hàng nên tôi đã chọn đề tài: “ Nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà” làm luận văn của mình.
Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về công tác tạo nguồn hàng .
Chương II: Thực trạng hoạt động tạo nguông hàng cho xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tạo nguồn hàng tại công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
Chương I
Lý luận chung về công tác tạo nguồn hàng.
I,Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và công tác tạo nguồn hàng nói riêng trong doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
1.Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu.
Kinh doanh thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước, thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và hàng hoá giữa các nước.
Các quốc gia cũng như các cá nhân không thể hoạt động độc lập mà có thể đầy đủ các yếu tố kinh tế. Mối quan hệ buôn bán quốc tế có tính chất sống còn. Vì buôn bán quốc tế cho phép một quốc gia có thể tiêu dùng nhiều mặt hàng nhiều hơn mức mà nước đó có thể làm ra. Nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp thì không thể thực hiện được điều đó. Tất cả các quốc gia dù lớn, dù nhỏ trên thế giới đều tìm kiếm cho mình những thị trường rộng lớn, nhằm tiêu thụ những sản phẩm mà mình làm ra. Hoạt động xuất nhập khẩu nhằm khai thác những mặt mạnh của nền kinh tế, cũng như để nâng cao khoa học kỹ thuật, tạo ra năng lực sản xuất cho đất nước.
Chúng ta có thể thấy rằng nếu chuyên môn hoá và các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên.
Xuất nhập khẩu là cần thiết cho việc chuyên môn hoá sâu rộng để có được hiệu quả kinh tế cao hơn trong nhiều ngành.
Chuyên môn hoá với quy mô lớn sẽ làm cho chi phí sản xuất giảm trên mỗi đơn vị hàng hoá, hiệu quả kinh doanh theo quy mô sẽ được thể hiện ở từng nước. Trong hoàn cảnh như vậy với đất nước ta, cần phải không ngừng mở rộng phân công lao động quốc tế, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu đó là những đòi hỏi khách quan. GS-TS. Trần Chí Thành, Nhà xuất bản thống kê,2000, Trang222
Kinh doanh thương mại quốc tế cũng là một phần trong tái sản xuất xã hội nên nó đóng vai trò:
-Tạo nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
-Từ hoạt động xuất nhập khẩu để học hỏi về kỹ thuật cũng như kinh nghiệm từ nước ngoài.
-Thông qua hoạt hoạt động xuất nhập khẩu nhằm phát huy và sử dụng tốt hơn nguồn lao động cũng như tăng nguồn thu cho nền kinh tế.
-Mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại để nâng cao uy tín nước ta trên trường quốc tế. Góp phần vào thực hiện đường lối đối ngoại của nhà nước.
2.Vai trò của công tác tạo nguồn hàng trong xuất khẩu .
2.1.Khái niệm về nguồn hàng cho xuất khẩu .
Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện cho xuất khẩu
Như vậy nguồn hàng cho xuất khẩu không thể là nguồn hàng chung chung mà phải gắn với một địa danh cụ thể. GS-TS. Trần Chí Thành, Nhà xuất bản thống kê,2000, Trang220
Mặt khác nguồn hàng cho xuất khẩu phải đảm bảo những yêu cầu chất lượng quốc tế. Do vậy không phải toàn bộ khối lượng hàng hoá của một đơn vị, một địa phương, một vùng đều là nguồn hàng cho xuất khẩu mà chỉ có phần hàng hoá đạt tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu mới là nguồn hàng cho xuất khẩu.
2.2.Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu .
Là toàn bộ những hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho tới nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu, có thể chia ra làm hai hoạt động chính:
Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục quá trình sản xuất hàng hoá cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì đây là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất.
Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu, thường cho các tổ chức ngoại thương làm những chức năng trung gian cho xuất khẩu hàng hoá.
Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp sản xuất làm công tác xuất khẩu trực tiếp với nước ngoài, không qua các tổ chức trung gian. Do vậy trong công tác tạo nguồn hàng họ phải đảm nhận các khâu đã nêu ở trên.
Như vậy, để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể được gom hoặc có thể được ký kết hợp đồng mua với các chân hàng, đơn vị sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành hàng, người ta có thể tự tổ chức sản xuất hoặc ký kết hợp đồng thu mua, ký kết hợp đồng với hướng dẫn kỹ thuật. Xu hướng giảm xuất khẩu sản phẩm thô, nhiều doanh nghiệp sản xuất hoặc ngoại thương tổ chức các bộ phận sơ chế hoặc chế biến nhằm tăng giá trị hàng xuất khẩu .
2.3.Thu mua tạo nguồn hàng:
Là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi hàng hoá nhằm tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Như trên, thu mua tạo nguồn hàng là một loại hình hẹp hơn hoạt động tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Đây là một hệ thống các nghiệp vụ mà tổ chức ngoại thương hoặc các tổ chức trung gian kinh doanh hàng xuất khẩu thực hiện bao gồm các khâu sau: Nghiên cưú thị trường trong và ngoài nước, xác định mặt hàng dự kiến kinh doanh, giao dịch ký kết hợp đồng thu mua hoặc mua gom các mặt hàng trôi nổi trên thị trường, xúc tiến khai thác nguồn hàng, thanh toán tiền, tiếp nhận, bảo quản, xuất kho giao hàng, ... Phần lớn các hoạt động này làm tăng chi phí lưu thông, mà không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hoá. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đơn giản hoá các nghiệp vụ nhằm làm giảm chi phí lưu thông, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2.4.Vai trò của công tác tạo nguồn hàng trong kinh doanh.
2.4.1.Vị trí của công tác tạo nguồn:
Trong kinh doanh, tạo nguồn hàng là khâu hoạt động nghiệp vụ kinh doanh đầu tiên, mở đầu cho hoạt động lưu thông hàng hoá (T-H). Mua hàng là hoạt động nghiệp vụ cơ bản của của doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu không mua được hàng hoá hoặc mua không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh thì doanh nghiệp không có hàng hoá để bán. Nếu doanh nghiệp mua phải hàng xấu, hàng giả, chất lượng kém hoặc không mua đúng số lượng, thời gian yêu cầu, doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng hàng hoá, vốn lưu động không lưu chuyển được, doanh nghiệp sẽ không bù đắp được chi phí, sẽ không có lãi,... Điều này chỉ rõ vị trí quan trọng của công tác tạo nguồn hàng, mua hàng có ảnh hưởng đến nghiệp vụ kinh doanh khác và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4.2.Tác dụng của công tác tạo nguồn hàng.
Thứ nhất: Trong nền kinh tế công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu , tạo ra một nhu cầu mới về lao động, về vật tư, tiền vốn. Và như vậy tạo ra nhiều công ăn, việc làm cho người lao động, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiết kiệm các nguồn lực trong nước trên cơ sở kinh doanh có hiệu quả.
Thứ hai: Nguồn hàng là một điều kiện của hoạt động kinh doanh, nếu không có nguồn hàng, không thể tiến hành kinh doanh được. Muốn vậy phải đáp ứng được các yêu cầu: Phù hợp với yêu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, quy cách, cỡ loai, mầu sắc... và phù hợp về thời gian và đúng với yêu cầu. Có như vậy nguồn hàng mới đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiếp theo và có đủ hàng hoá đảm bảo cung ứng cho khách hàng đầy đủ, kịp thời.
Thứ ba: Nguồn hàng và tạo nguồn hàng phù hợp với yêu cầu của khác hàng giúp cho hoạt động kinh doanh tiến hành thuận lợi, kịp thời, thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp bán hàng nhanh đồng thời đảm bảo uy tín với khách hàng làm cho việc cung ứng hàng diễn ra một cách liên tục, ổn định tránh đứt đoạn.
Thứ tư: Nguồn hàng và công tác tạo nguồn hàng tốt giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hạn chế bớt được tình trạng thừa thiếu, hàng hoá ứ đọng chậm luân chuyển, hàng hoá kém phẩm chất không thể bán được ... vừa gây chậm trễ cho khâu lưu thông.
Thứ năm: Nguồn hàng và công tác tạo nguồn hàng tốt còn có tác dụng lớn cho công tác tài chính của doanh nghiệp thuận lợi, thu hồi được vốn nhanh, có tiền bù đắp chi phí kinh doanh, có lợi nhuận để phát triển và mở rộng kinh doanh, tăng thu nhập cho người lao động và thực hiện đầy đủ đối nhà nước và các mặt khác của doanh nghiệp. PGS-PTS.Hoàng Minh Đường-PTS. Nguyễn Thừa Lộc, Nhà xuất bản giáo dục, 1999, Trang 110
Công tác tạo nguồn hàng tốt có tác dụng nhiều mặt với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như trên đã phân tích, hơn thế nữa nó còn đảm bảo thị trường ổn định cho doanh nghiệp, nó thúc đẩy sản xuất và nhập khẩu tăng cường khả năng mở rộng thị trường, ổn định điều kiện cung ứng hàng hoá, ổn định điều kiện cung cấp các nguồn hàng, tạo điều kiện ổn định nguồn hàng với các đơn vị tiêu dùng.
II,Phân loại nguồn hàng và các hình thức tạo nguồn hàng.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có hai khâu liên hệ với nhau rất chặt chẽ đó là:
-Thu mua, huy động hàng hoá xuất khẩu từ các đơn vị trong nước.
-Ký kết hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài.
Mà trong đó công việc thu mua tạo nguồn hàng là tiên đề đầu tiên của hoạt động xuất khẩu. Muốn khai thác và phát triển tốt nguồn hàng hàng xuất khẩu, việc phân loại nguồn hàng xuất khẩu là rất cần thiết bởi nó sẽ tạo cho doanh nghiệp hướng đi đúng đắn trong xuất khẩu.
1.Phân loại nguồn hàng.
1.1.Phân loại theo chế độ phân cấp quản lý:
1.1.1. Nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước phân bổ.
Đây là nguồn hàng được nhà nước cam kết giao cho nước ngoài trên cơ sở các hiệp định hoặc các nghị định thư hằng năm. Sau khi ký kết các các nghị định thư hoặc các hiệp định với nước ngoài. Nhà nước phân bổ chỉ tiêu cho các đơn vị sản xuất, để các đơn vị này giao hàng hoá cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu thực hiện.
Vì thế đối với các đơn vị ngoại thương nguồn hàng này khá đảm bảo về số lượng và chất lượng cũng như thời gian giao hàng.
Ngày nay, chuyển sang cơ chế thị trường thì nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch nhà nước giảm nhiều. Nhà nước chỉ giao những chỉ tiêu mang tính định hướng với mục đích tăng cường quản lý xuất nhập khẩu. Còn các doanh nghiệp tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thông qua nghiên cứu thị trường và ký kết các hợp đồng kinh tế.
1.1.2.Nguồn hàng ngoài kế hoạch:
Nguồn hàng ngoài kế hoạch là nguồn hàng được trao đổi mua bán trên tất cả các thị trường trong nước. Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng đã ký kết với nước ngoài mà tiến hành sản xuất thu mua, chế biến theo số lượng, chất lượng và thời gian giao hàng đã được thoả thuận với khách hàng nước ngoài trong hợp đồng kinh tế.
Cùng vói việc giảm nguồn hàng trong chỉ tiêu kế hoạch nhà nước là việc tăng nguồn hàng ngoài kế hoạch càng lớn phong phú, đa dạng về chủng loại cũng như về giá trị. Việc giao dịch trao đổi nguồn hàng này phần lớn là mua bán trao tay hoặc hợp đồng ngắn hạn. Trong tương lai cần tăng tỷ trọng giao dịch thông qua hợp đồng dài hạn.
1.2.Phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng.
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể thu mua huy động từ:
-Các xí nghiệp công nghiệp của trung ương và địa phương.
-Các xí nghiệp nông, lâm nghiệp của trung ương và địa phương.
-Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
-Các hợp tác xã, hộ gia đình.
1.3.Phân loại nguồn hàng theo phạm vi doanh nghiệp được phân công khai thác:
-Nguồn hàng nằm trong phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp, đây là địa bàn chính mà doanh nghiệp khai thác hàng.
-Các hàng năm ngoài khu vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với việc quy định khu vực của doanh nghiệp, tuy ngăn chặn tình trạng “tranh mua”. Hạn chế giá thu mua hàng xuất khẩu tăng cao. Song sẽ dẫn đến sự độc quyền của một số tổ chức ngoại thương địa phương. Qua việc khống chế giá để gây thiệt hại cho người sản xuất, về lâu dài sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất.
1.4.Phân loại nguồn hàng theo khối lượng hàng hoá thu mua được:
-Nguồn chính là nguồn có khối lượng thu mua lớn nhất của doanh nghiệp.
-Nguồn phụ là nguồn hàng chiếm một khối lượng nhỏ trong số hàng hoá xuất khẩu thu mua được của doanh nghiệp.
1.5.Phân loại nguồn hàng theo mối quan hệ kinh tế.
-Nguồn hàng truyền thống lâu dài, là nguồn hàng mà doanh nghiệp có mối quan hệ giao dịch mua bán từ lâu thường xuyên và liên tục. Với nguồn hàng này hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đảm bảo ổn định
-Nguồn hàng mới, là nguồn hàng mà doanh nghiệp mới có quan hệ giao dịch và mới khai thác. Nguồn hàng này giúp cho doanh nghiệp không ngừng mở rộng phạm vi và phát triển kinh doanh.
-Nguồn hàng vãng lai, là nguồn hàng mà doanh nghiệp chỉ giao dịch mua bán một đôi lần hoặc mua bán trôi nổi trên thị trường.
2.Các hình thức thu mua tạo nguồn hàng.
Hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là biểu hiện bề ngoài của mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoại thương với khách hàng, về trao đổi mua bán hàng xuất khẩu. Sau đây là một số hình thức tạo nguồn hàng.
2.1.Thu mua tạo nguồn hàng thông qua đơn đặt hàng kết hợp với ký kết hợp đồng.
Đơn đặt hàng là văn bản yêu cầu về mặt hàng, quy cách, cỡ loại, có ghi số lượng, thời gian giao hàng.
Lập đơn đặt hàng phải đảm bảo chính xác về số lượng, thời gian giao hàng. Muốn lập được đơn đặt hàng phải xác định được nhu cầu của khách hàng, phải xác định được khả năng sản xuất của các đơn vị có nguồn hàng.
Đơn đặt hàng thường là căn cứ để ký kết họp đồng hoặc phụ lục hợp đồng. Do vậy các doanh nghiệp thường kết hợp giữa hợp đồng với đơn hàng. Đây là hình thức ưu việt, đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp, trên cơ sở chế độ trách nhiệm chặt chẽ cho cả đôi bên.
2.2.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng.
Đây là hình thức được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá. Sau khi các bên đạt được thoả thuận về mặt hàng, chất lượng, số lượng và giá cả phương thức thanh toán, thời gian giao hàng,... thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế. Đây là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên và được pháp luật bảo vệ.
Tuỳ theo đặc điểm của các quan hệ giao dịch và đối tượng giao dịch, mà người ta áp dụng các loại hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Hợp đồng mua đứt bán đoạn, là hợp đông người mua nhận hàng và trả tiền còn người bán giao hàng và nhận tiền.
Hợp đồng gia công, là loại hợp đồng mà người gia công giao nguyên liệu, bán thành phẩm, nhận sản phẩm và trả phí gia công, còn người nhận gia công nhận nhiên liệu bán thành phẩm, gia công trả thành phẩm và nhận phí gia công.
Hợp đồng đổi hàng: Đó là hai bên tiến hành trao đổi hàng hoá cho nhau.
2.3.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu không theo hợp đồng.
Là hình thức mua bán “trao tay” sau khi người bán giao hàng nhận tiền và người mua nhận hàng, trả tiền là kết thúc nghiệp vụ mua bán.
Đây là hình thức áp dụng với mua bán thu gom hàng trôi nổi trên thị trường, chủ yếu là những hàng nông sản chưa qua sơ chế. Hình thức này nhằm bổ sung cho các nguồn khác khi chưa có đủ số lượng hàng xuất khẩu. Nhưng chất lượng hàng thu mua theo hình thức này không đồng đều và không cao.
2.4. Thu mua tạo nguồn hàng thông qua liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất
Liên doanh liên kết để sản xuất hàng xuất khẩu, là hình thức doanh nghiệp ngoại thương đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất, sản xuất ra hàng hoá cho xuất khẩu. Vốn đầu tư có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tín dụng cho vay. Trong đó, hình thức tín dụng cho vay là ưu việt hơn cả vì doanh nghiệp ngoại thương có cơ sở để hạch toán lỗ lãi đồng thời tăng thêm tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất.
Việc đầu tư tạo nguồn hàng là việc làm cần thiết nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý. Các doanh nghiệp ngoại thương nếu đủ tiềm lực cần phát triển mở rộng hình thức liên doanh liên kết tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
2.5.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hệ thống đại lý để làm công tác thu mua hàng.
Tuỳ theo đặc điểm từng nguồn hàng mà các doanh nghiệp ngoại thương chọn một trong các hình thức đại lý sau đây.
-Đại lý toàn quyền: Là đại lý có toàn quyền giải quyết các quan hệ mua bán.
-Đai lý đặc biệt: Là đại lý được giao một số quyền mua một lô hàng, một mặt hàng.
-Tổng đại lý: Là người được toàn quyền làm một phần việc nhất định của người uỷ thác.
-Đại lý thu uỷ: Là người được chỉ định để hành động thay thế cho người uỷ thác, với danh nghĩa và chi phí của người uỷ thác.
-Đại lý kinh tiêu: Là người đại lý hoạt động với danh nghĩa và chi phí của mình, thù lao cuả người nay là khoản chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
-Đại lý hoa hồng: Là người được uỷ thác tiến hành hoạt động với danh nghĩa của mình với chi phí của người uỷ thác.
2.6.Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua đổi hàng.
Đây là hình thức thu mua tạo nguồn hàng rất phổ biến rất phổ biến trong trường hợp các doanh nghiệp ngoại thương là người cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư kỹ thuật, máy móc, phân bón cho người sản xuất hàng xuất khẩu.
Hình thức này thường được áp dụng trong các trường hợp nguyên nhiên, vật tư máy móc , thiết bị... là những mặt hàng quý hiếm cung không đủ cầu trên thị trường hoặc những mặt hàng là phôi, nguyên vật liệu của hàng xuất khẩu.
Nếu là phôi, nguyên vật liệu, bán thành phẩm của hàng xuất khẩu thì hình thức này rất giống với hình thức gia công hàng xuất khẩu.
Hình thức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu thông qua hàng đổi hàng là một hình thức rất tốt khuyến khích các nhà sản xuất trong nước bán hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp ngoại thương.
Tóm lại: Các hình thức mua hàng và tạo nguồn hàng xuất khẩu rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể của các doanh nghiệp, mặt hàng, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường mà lựa chọn áp dụng một hoặc một số hình thức thu mua và tạo nguồn hàng xuất khẩu như đã nêu ở trên.
III.nội dung của công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hệ thống các công việc, các nghiệp vụ được thực hiện theo nội dung sau đây.
1.Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu .
Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng ổn định các doanh nghiệp ngoại thương phải nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu là nghiên cứu khả năng cung cấp nguồn hàng xuất khẩu trên thị trường như thế nào? Khả năng cung cấp nguồn hàng được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn hàng có và sẵn sàng đưa vào lưu thông. Với nguồn hàng này chỉ cần thu mua, phân loại, bao gói... là có thể xuất khẩu được. Còn với nguồn hàng tiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không xuất hiện trên thị trường. Đối với nguồn hàng này đòi hỏi các doanh nghiệp ngoại thương phải có đơn đặt hàng, hợp đồng kinh tế ... thì người cung cấp mới tiến hành sản xuất. Trong xuất khẩu thì nguồn hàng này rất quan trọng, bởi hàng hoá xuất khẩu đòi hỏi mẫu mã riêng, tiêu chuẩn chất lượng cao, số lượng định trước. Người sản xuất sẽ không sản xuất nếu không có đơn đặt hàng hoặc hợp đồng kinh tế vì không chắc chắn hàng sản xuất ra đã tiêu thụ được hết.
Nghiên cứu nguồn hàng là nhằm xác định chủng loại mặt hàng, kích cỡ, mẫu mã, công dụng, giá cả, thời vụ, những tính năng đặc điểm riêng của từng loại mặt hàng. Đối với doanh nghiệp ngoại thương, chỉ cần nghiên cứu về một hoặc một số mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh.
Nghiên cứu, xác định mặt dự định kinh doanh xuất khẩu về sự phù hợp và khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường nước ngoài cũng như những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp ngoại thương có những hướng dẫn kỹ thuật giúp cho người sản xuất có những điều chỉnh theo nhu cầu thị trường nước ngoài.
Mặt khác, nghiên cứu nguồn hàng phải xác định được giá cả trong nước của hàng hoá so giá cả trên thị trường quốc tế. Sau khi đã tính đủ giá mua cũng như chi phí thu mua, vận chuyển, bao gói thuế... thì lợi nhuận thu về cho doanh nghiệp là bao nhiêu. Chỉ tiêu lợi nhuận có ý nghĩa quyết định tới chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp ngoại thương.
Cuối cùng, việc nghiên cứu nguồn hàng phải nắm được chính sách của Nhà nước về mặt háng đó. Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu hay không hay thuộc hạn ngạch xuất khẩu không? Trong thực tế chính sách quản lý của Nhà nước đối với từng mặt hàng cụ thể luôn có những thay đổi do vậy việc nghiên cứu để dự báo những thay đổi có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp ngoại thương.
Một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh là nghiên cứu và tìm hiểu cặn kẽ thị trường, dự đoán những xu hướng biến động của hàng hoá để hạn chế những rủi ro của thị trường. Tạo diều kiện cho doanh nghiệp khai thác ổn định nguồn hàng xuất khẩu trong khoảng thời gian hợp lý, làm cơ sở chắc chắn cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu .
2.Tổ chức hệ thống thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Xây dựng một hệ thống thu mua hàng thông qua các đại lý chi nhánh của mình, doanh nghiệp ngoại thương sẽ tiết kiện được chi phí thu mua, nâng cao năng suất và hiệu quả thu mua.
Hệ thống thu mua bao gồm mạng lưới các hệ thống đại lý, hệ thống kho tàng ở các địa phương, các khu vục có nguồn hàng xuất khẩu. Chi phí này khá lớn, do vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cân nhắc trước khi chọn đại lý và xây dựng kho tàng, nhất là các kho đòi hỏi trang bị những phương tiện bảo quản đắt tiền.
Hệ thống thu mua phải gắn liền với các phương án vận chuyển hàng hoá, với điều kiện giao thông của các địa phương. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển hàng hoá là cơ sở đảm bảo tiến độ cho thu mua và chất lượng hàng hoá. Tuỳ theo từng loại hàng hoá để có phương án vận chuyển hợp lý.
Tổ chức đầu tư hướng dẫn kỹ thuật thu mua, phân loại, bảo quản cho các chân hàng là công tác cần thiết cho thu mua tạo nguồn hàng.
Đầu tư cho người sản xuất là việc làm chắc chắn, lâu dài để đảm bảo nguồn hàng ổn định trước sự cạnh tranh mua trên thị trường. Tuy vậy, do đầu tư vốn lớn nên các doanh nghiệp cũng chịu nhiều rủi ro do sự biến động của thị trường nhất là khi giá cả của thị trường thế giới hạ xuống dưới mức kinh doanh có lãi.
Từ trước tới này, việc hướng dẫn kỹ thuật cho người đại lý thu mua, cho người sản xuất là việc làm mang lại hiệu quả cao. Hướng dẫn kỹ thuật nhằm đảm bảo tạo ra sản phẩm hàng hoá phù hợp về mẫu mã, kiểu cách, kích cỡ và chất lượng theo yêu cầu của người mua. Nhưng trong công việc này đòi hỏi doanh nghiệp ngoại thương phải có đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, có hiểu biết về sản phẩm. Điều này doanh nghiệp ngoại thương không dễ dàng thực hiện được nhất là các sản phẩm thuộc loại kỹ thuật cao và phức tạp.
Lựa chọn và sử dụng nhiều kênh thu mua, kết hợp với nhiều hình thức thu mua cùng với nó là một mạng lưới thu mua phân bố hợp lý và hoạt động có hiệu quả, là cơ sở để tạo ra nguồn hàng ổn định và hạn chế những rủi ro trong thu mua hàng xuất khẩu.
3.Ký kết hợp đồng trong thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Phần lớn hàng hoá được mua bán giữa các doanh nghiệp với các nhà sản xuất hoặc các chân hàng phải thông qua hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công... Dựa trên những thoả thuận tự nguyện các bên ký kết hợp đồng là cơ sở vững chắc đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra bình thuờng.
3.1.Những căn cứ để ký kết hợp đồng.
-Chính sách của Nhà nước về quản lý kinh tế đối ngoại, ngoại thương.
-Hiệp định, nghị định thư giữa các chính phủ về buôn bán trao đổi hàng hoá và thanh toán.
-Hạn ngạch xuất nhập khẩu và thanh toán.
-Nhu cầu thị trường quốc tế, đơn đặt hàng, đơn trào hàng của bạn hàng, hợp đồng ngoại thương.
-Khả năng sản xuất hàng hoá của các nhà sản xuất trong nước.
3.2.Một số vấn đề cần lưu ý khi ký kết hợp đồng.
Doanh nghiệp ngoại thương bằng các hoạt động Marketing để tìm kiếm các đối tác nước ngoài có nhu cầu về một mặt hàng nào đó trong nước có khả năng sản xuất ra được. Doanh nghiệp ngoại thương có thể ký kết hợp đồng bán hàng với khách hàng nước ngoài, sau đó giao dịch để ký kết hợp đồng tạo nguồn hàng với các nhà sản xuất, các chân hàng để thực hiện hợp đồng ngoại thương. Hai loại hợp đồng này có nhiều đặc điểm giống nhau: hợp đồng ngoại thương là cơ sở cho hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng. Doanh nghiệp ngoại thương cần gặp trực tiếp những nhà sản xuất và cung cấp đầy đủ các thông tin về sản phẩm, những yêu cầu về chủng loại, kích cỡ, công dụng, chất lượng cho họ và cùng bàn bạc với nhà sản xuất để tìm ra các vướng mắc trở ngại cho việc sản xuất và cung ứng hàng hoá. Nếu gặp phải những vứng mắc không thể giải quyết được cần phải nhanh tróng thông báo cho người đặt hàng và bạn hàng nước ngoài để họ biết để tìm cách giải quyết hoặc sửa đổi hợp đồng ngoại thương nếu được phép.
Trong buôn bán ngoại thương quốc tế, không phải bao giờ các doanh nghiệp ngoại thương cũng tìm được bạn hàng nước ngoài rồi mới tìm người cung cấp hàng hoá trong nước. Doanh nghiệp ngoại thương có thể chủ động thu mua tạo nguồn hàng theo kế hoạch của mình, kết hợp với việc tìm kiếm bạn hàng nước ngoài để tiêu thụ hàng hoá. Nhóm hàng này thường là hàng nông, lâm sản mang tính thời vụ cao, hàng nhiên liệu và một số sản phẩm khác. Do vậy, khi ký kết hợp đồng với các chân hàng hoặc các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương có thể ký những hợp đồng dài hạn. Vấn đề ở đây là quan tâm tới tiến độ giao hàng và vận chuyển. Do hàng hoá phải sản xuất theo lô, theo chuyến, theo đợt và để có đủ hàng cho tàu, doanh nghiệp ngoại thương phải chủ động xây dựng kế hoạch dự trữ hàng hoá, đồng thời phải bàn bạc phối hợp với các nhà sản xuất, các chân hàng tăng cường cung ứng hàng những khi cần thiết.
3.3Nội dung của hợp đồng.
Hợp đồng trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một hợp đồng kinh tế, vì vậy cơ bản về nội dung và hình thức là giống các hợp đồng kinh tế khác. Nội dung của hợp đồng kinh tế gồm các điều khoản sau:
3.3.1. Ngày tháng ký kết hợp đồng.
3.3.2 Tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân hàng giao dịch của hai bên. Họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh
3.3.3.Đối tượng của hợp đồng tính bằng số lượng hoặc giá trị quy ước theo thoả thuận.
3.3.4.Chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của sản phẩm hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc
3.3.5. Giá cả.
3.3.6.Bảo hành.
3.3.7. Điều kiện giao nhận hàng.
3.3.8. Phương thức thanh toán
3.3.9.Trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp đồng.
3.3.10.Thời hạn hiệu lực của hợp đồng
3.3.11. Các biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng
3.3.12. Các thảo thuận khác.
Khi thoả thuận để ký kết hợp đồng, các bên có quyền thoả thuận áp dụng các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng như: thế chấp, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo quy định của pháp luật.
3.4.Những nội dung khác có liên quan tới hợp đồng.
Là một hợp đồng kinh tế hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của các điều khoản trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế do Hội đồng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 25/9/1989.
Ngoài những quy định về nội dung phần trên pháp lệnh hợp đồng kinh tế còn quy định.
3.4.1. Các bên ký kết hợp đồng kinh tế .
3.4.2.Người ký kết hợp đồng kinh tế .
3.4.3.Việc thay đổi, thanh lý hợp đồng .
3.4.5.Trách nhiệm tài sản của các bên tham gia ký kết.
3.4.6. Giải quyết tranh chầp khi phát sinh.
3.5.Các loại hợp đồng kinh tế thường gặp trong công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
3.5.1.Hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu
Hợp đồng mua bán hàng xuất khẩu có thể là: Hợp đồng một chiều hoặc hợp đồng hai chiều.
Hợp đồng một chiều là hợp đồng mà doanh nghiệp ngoại thương chỉ mua và trả tiền.
Hợp đồng hai chiều là hợp đồng mà doanh nghiệp ngoại thương vừa mua vừa kèm theo bán hàng hay còn gọi là hợp đồng mua bán đối ứng.
Trong đàm phán ký kết hợp đồng, ngoài điều khoản tên hàng và số lượng ra các bên thường chú trọng tới các điều khoản sau đây:
-Phẩm chất của hàng hoá: Cần được căn cứ vào yêu cầu của thị trường nước ngoài, hoặc của đơn đặt hàng hoặc dựa vào kinh nghiệm tiêu thụ mặt hàng đó.
-Giá cả của hàng hoá: Do các bên dựa trên cơ sở tham khảo tình hình thị trường. Riêng trong mua bán đối ứng, giá còn phụ thuộc vào phương thức, tỷ lệ đổi hàng và thoả thuận của hai bên, loại giá này ít biến động hơn.
-Thời gian giao hàng: được xác định phù hợp với thời gian cam kết giao hàng cho khách hàng nước ngoài.
-Về bao bì đóng gói: Nguyên tắc chung là khuyến khích đóng gói hoàn hoàn chỉnh tại nơi sản xuất, thu mua chế biến, chỉ với một số hàng hoá phải thu gom trôi nổi trên thị trường, thì doanh nghiệp ngoại thương phải phân loại, làm đồng bộ tái chế rồi đóng gói hoàn chỉnh.
-Thanh toán tiền hàng được thực hiện chủ yếu thông qua các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như séc, chuyển khoản, nhờ thu, uỷ nhiệm chi....
2.5.2.Hợp đồng gia công xuất khẩu
Theo hợp đồng này, doanh nghiệp ngoại thương giao ngyuên nhiên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho các đơn vị sản xuất và thoả thuận với các đơn vị sản xuất, gia công chế biến thành phẩm theo những yêu cầu kỹ thuật, mẫu mã, kích cỡ, chất lượng được quy định trước. Sau đó doanh nghiệp ngoại thương nhận hàng phải trả tiền gia công cho đơn vị sản xuất.
Trong hợp đồng gia công các bên thường chú ý tới các điều khoản sau:
-Điều khoản tên gọi, số lượng và chất lượng thành phẩm.
-Điều khoản về chủng loại, chất lương và số lượng nguyên vật liệu.
-Điều khoản về định mức hao phí nguyên vật liệu.._.
-Điều khoản về giao hàng, nghiệm thu.
-Điều khoản về chi phí gia công, bao gồm: tiền thù lao gia công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí bao bì đóng gói...
-Điều khoản thanh toán...
3.5.3.Hợp đồng đại lý thu mua hàng xuất khẩu.
Theo hợp đồng, các doanh nghiệp ngoại thương uỷ nhiệm cho các đại lý thu mua hàng xuất khẩu tại một địa phương nhất định và trả cho các đại lý thu mua hàng xuất khẩu một khoản thù lao nhất định gọi là chi phí thu mua.
Trong hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu, người ta quy định cụ thể các điều khoản sau:
-Tên hàng, quy cách, phẩm chất, sự phân loại, sơ chế, đóng gói những mặt hàng thu mua.
-Phạm vi địa bàn thu mua.
-Giá thu mua (giá tối thiểu và giá tối đa)
-Thời hạn, địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng, nghiệm thu.
-Thù lao đại lý.
-Thanh toán tiền hàng, thanh toán tiền thù lao đại lý, thanh toán các khoản tiền chi phí khác mà các đơn vị thu mua cung ứng trước.
3.5.4. Hợp đồng uỷ thác xuất khẩu.
Theo hợp đồng này các đơn vị sản xuất, đơn vị chân hàng uỷ thác cho các doanh nghiệp ngoại thương tiến hành xuất khẩu những hàng hoá nhất định, với danh nghĩa của bên ngoại thương nhưng chi phí bên sản xuất hoặc chân hàng chịu.
3.5.5.Hợp động liên doanh, liên kết xuất khẩu.
Theo hợp đồng này các doanh nghiệp ngoại thương cùng với các đơn vị sản xuất cùng bỏ vốn và các nguồn lực khác, cùng chịu chung rủi ro để sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu .
Hợp đồng liên doanh, liên kết có thể có hiệu lực trong một thời gian dài, có thể là nhất thời hoặc cũng có thể chỉ trong phạm vi một lô hàng, chuyến hàng xuất khẩu.
Hợp đồng liên doanh, liên kết thường có những nội dung như:
-Số vốn góp của mỗi bên, phương pháp, hình thức góp vốn.
-Trách nhiệm của các bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
-Cách hạch toán lỗ lãi, phân chia lợi nhuận
-Thời gian và phương thức quyết toán.
-Cách rút vốn, đình chỉ kinh doanh, huỷ bỏ hợp đồng ...
4.Xúc tiến khai thác nguồn hàng xuất khẩu .
Sau khi đã ký kết hợp đồng với các chân hàng và đơn vị sản xuất, doanh nghiệp ngoại thương phải lập kế hoạch thu mua, tiến hành sắp xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện kế hoạch. Cụ thể là:
-Đưa hệ thống kênh thu mua đã được thiết lập đi vào hoạt động. Có thể tố chức chỉ đạo bộ máy thu mua từng mặt hàng, từng nhóm hàng.
-Chuẩn bị đầy đủ các thủ tục, các giấy tờ, chứng từ, hoá đơn các thủ tục về giám định chất lượng hàng hoá, và các thủ tục khác để giao nhận theo hợp đồng đã ký.
-Chuẩn bị hệ thống kho tàng tại các điểm, nút của các kênh, đảm bảo đủ khả năng tiếp nhận và giải toả nhanh tróng “dòng hàng vào ra”
-Tổ chức vận chuyển hàng hoá theo các địa điểm đã quy định, làm các thủ tục cần thiết để thuê phương tiện vận chuyển thích hợp với từng nhóm hàng.
-Tuỳ theo từng mặt hàng có thể tổ chức bao gói hoặc dự trữ hợp lý trong quá trình vận chuyển để có thể xuất ngay.
-Đưa các cơ sơ sản xuất, gia công, chế biến váo hoạt động theo phương án kinh doanh đã định. Tiến hành làm việc cụ thể với các đại lý, trung gian hoặc các đơn vị kinh doanh khác liên quan tới từng mặt hàng, nhóm hàng thu mua để hạn chế những vướng mắc có thể phát sinh.
-Chuẩn bị đầy đủ tiền để thanh toán kịp thời cho các nhà sản xuất, các đại lý, các chân hàng, các trung gian...
-Trong quá trình thu mua,doanh nghiệp ngoại thương phải ghi thành bảng biểu để theo dõi tiến độ như: Thực hiện kế hoạch thu mua, nhằm kịp thời phát hiện những sự ách tắc, trì trệ để có những biện pháp xử lý kịp thời.
5.Tiếp nhận bảo quản và xuất kho giao hàng xuất khẩu.
Trong phần nghiệp vụ này doanh nghiệp ngoại thương cần làm 3 việc.
5.1.Tiếp nhận hàng vào kho.
Phần lớn hàng hoá trước khi xuất khẩu đều phải qua một hoặc một số kho để bảo quản, phân loại, đóng gói, làm thủ tục xuất khẩu. Với những doanh nghiệp xuất khẩu phải làm được hai nhiệm vụ chính.
5.1.1. Chuẩn bị nhận hàng.
Muốn tiếp nhận hàng xuất khẩu doanh nghiệp ngoại thương cần phải làm một số việc.
-Chuẩn bị kho chứa, tức là căn cứ vào loại hàng sẽ nhận như số lượng, đặc điểm về phẩm chất kích cỡ, bao bì của nó để chuẩn bị mặt bằng kho bãi, vị trí cho phù hợp với quy hoạch của kho.
-Chuẩn bị các phương tiện bốc rỡ, vận chuyển cho phù hợp với từng loại hàng.
-Chuẩn bị thiết bị để cân, đong đo đếm, kiểm nghiệm...
-Chuẩn bị cán bộ công nhân tiếp nhận trên cơ sở khối lương, đặc điểm hàng hoá.
-Chuẩn bị những giấy tờ cần thiết khác.
5.1.2.Nhận hàng.
Về cơ bản giao nhận hàng phải dựa trên số lượng và chất lượng. Nhưng có một số mặt hàng chỉ nhận theo số lượng là đủ, như hàng container.
-Nhận hàng theo số lượng là cân, đo, đếm hàng hoá đối chiếu với chứng từ hoá đơn kèm theo. Nếu có thiếu hụt, mất mát phải lập biên bản và có xác nhận của người giao hàng hoặc cơ quan có trách nhiệm.
-Nhận hàng theo chất lượng, là xác định cụ thể hàng hoá có đúng phẩm chất, quy cách, kích cỡ... theo đúng quy định hay không. Nội dung của nhận hàng theo chất lượng bao gồm :
+Tính chất cơ, lý,hoá của hàng hoá.
+Hình thái, màu sắc, kích cỡ của hàng hoá.
+Sự đồng bộ của hàng hoá.
+Số lượng hàng hoá hư hỏng và mức độ hàng hư hỏng.
+Ký hiệu của hàng hoá.
5.2.Bảo quản hàng hoá.
Bảo quản hàng hoá trong kho là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chủ kho hàng. Chủ kho hàng phải có trách nhiệm không để hàng hoá hư hỏng, đổ vỡ, mất mát... trừ là do hành động bất khả kháng gây ra.
Bảo quản trong kho gồm các nhiệm vụ sau.
5.2.1.Sắp xếp, bố trí hợp lý hàng hoá trong kho, cụ thể là:
-Lựa chọn các loại kho có cấu trúc phù hợp với tính chất của từng loại hàng hoá.
-Xác định vị trí cho từng nhóm hàng.
-Sắp xếp hàng hoá một cách hợp lý, khoa học theo tính chất của hàng hoá, đảm bảo thông thoáng, dể thấy, dễ lấy...
5.2.2.Điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm... sao cho phù hợp với tính chất của từng mặt hàng.
5.2.3.Phòng ngừa trị nấm, mốc, mối...
5.2.4. Thực hiện vệ sinh kho thường xuyên.
5.2.5.Phòng chống thiên tai, mất cắp.
5.2.6.Quản lý tốt hao hụt theo định mức
5.3. Xuất kho giao hàng.
Xuất kho giao hàng đòi hỏi phải đúng quy cách thủ tục quy định và phải có giấy tờ và hoá đơn hợp lệ.
5.3.1.Chuẩn bị giao hàng.
Trước khi giao hàng cần chuẩn bị các thủ tục sau.
-Đối chiếu lệch xuất kho với hàng hoá thực có trong kho.
-Sắp xếp thời gian và trình tự giao các loại hàng.
-Chuẩn bị hàng hoá.
-Chuẩn bị dụng cụ, phương tiện nhân lực bốc xếp và địa điểm giao hàng.
5.3.2.Giao hàng.
-Hướng dẫn công nhân bốc xếp để tránh nhầm lẫn, hư hỏng hàng hoá.
-Cùng với người nhận hàng kiểm tra số lượng, chất lượng, hình dáng bên ngoài của hàng hoá và bao bì hàng hoá.
-Người giao hàng và người nhận phải cùng ký vào phiếu xuất kho hoặc phiếu giao hàng.
VI. Các nhân tố ảnh hưởng tới tạo nguồn hàng trong xuất khẩu.
Để công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu có hiệu quả, doanh nghiệp phải nắm rõ các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Sau đây là một số nhân tố chính tác động trực tiếp tới công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
1.Khả năng nghiên cứu và tiếp cận thị trường của doanh nghiệp.
Đây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng lớn tới hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng. Trên cơ sở thực hiện tốt công tác nghiên cứu, tiếp cận thị trường, nó sẽ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn đúng đối tác có thể thu mua với giá thấp nhất, chi phí bảo quản và vận chuyển cũng ở mức thấp nhất. Nguồn hàng ổn định lâu dài, đáp ứng được tiến độ xuất khẩu của các doanh nghiệp ngoại thương. Qua đó đem lại hiệu quả của công tác thu gom là: Chi phí của thu gom và uy tín của doanh nghiệp với bạn hàng.
2.Khả năng tài chính và uy tín của doanh nghiệp.
Tài chính của doanh nghiệp là điều kiện đầu tiên quyết định tới quá trình thực hiện thu gom và tạo nguồn hàng. Với khả năng tài chính và uy tín mạnh giúp cho doanh nghiệp có khả năng huy động vốn, ngoại tệ những khi cần thiết. Trong kinh doanh “chữ tín” luôn là điều hết sức quan trọng để đạt được thành công.
3.Đội ngũ cán bộ công nhân viên tham gia tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Đây là một nội lực và cũng là một lợi thế to lớn trong cạnh tranh. Nó thể hiện ở trình độ chuyên môn của mỗi doanh nghiệp. Trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn của mỗi nhân viên sẽ góp phần quyết định trực tiếp tới hiệu quả công tác thu mua taọ nguồn hàng.
4.Sự cạnh tranh trong công tác thu mua.
Trong cơ chế thị trường thì cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu được. Nó như một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến lên và không ngừng hoàn thiện. Nhưng đôi lúc nó cũng gây không ít khó khăn, khi mà cơ chế thị trường của chúng ta chưa hoàn thiện và nó sẽ đặc biệt khó khăn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong công tác thu mua tạo nguồn hàng cũng vậy, việc cạnh tranh là điều tất yếu. Nhưng đôi lúc việc cạnh tranh khiến cho giá cả nguồn hàng bị nâng cao, không phản ánh đúng thực tế... gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
5.Chính sách, quy định của Nhà nước liên quan tới mặt hàng xuất khẩu.
Khi xem xét vấn đề này chúng ta cần phải nắm rõ các vấn đề sau:
-Mặt hàng đó có được phép xuất khẩu hay không.
-Có thuộc hạn ngạch xuất khẩu hay không.
-Thuế với mặt hàng đang thu gom để xuất khẩu như thế nào.
Nắm đuợc các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thu mua tạo nguồn hàng sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động đề ra các phương án kinh doanh tốt và phù hợp với quy định của pháp luật.
6.Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua.
Trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay thì những thay đổi của thị trường quốc tế sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thị trường trong nước.Việc xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng cũng đã đạt được những kết quả đáng mừng chúng ta có thể thấy điều này qua bảng sau.
Bảng 1.1
kim ngạch xuất khẩu của việt nam trong vài năm qua
Đơn vị tính:triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch xuất khẩu
5.300
7.000
8.350
6.800
11.400
Nguồn: Tạp chí thương mại số 7/2001, trang 15
Về cơ cấu hàng xuất chúng ta vẫn chủ yếu tập chung như: nông,lâm, thuỷ sản, may mặc, dầu thô...
Chúng ta cũng cần phải thấy rằng mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng trong những năm qua nhưng về chất lượng hàng của chúng ta chưa cao so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do vậy, chúng ta chịu nhiều thiệt thòi do giá thấp .
Chúng ta có thể thấy điều đó qua số liệu của hai bảng sau.
Bảng 1.2
Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản
Đơn vị tính:triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Gạo
530
868
891
1100
1080
Cà phê
595.5
420
497.5
593.8
592
Cao su
193.5
163.3
194.6
137.5
145
Chè
26.5
29
48
50.5
46
Nguồn: Tạp chí kinh tế và dự báo số 1/2001, Trang 16
Nhưng chúng ta cũng có thể thấy được giá cả của hàng hoá Việt Nam so với đối thủ cạnh tranh chính và giá chung của thị trường thế giơi.
Bảng 1.3 :
giá chè
Đơn vị tính: USD/Tấn
Năm
1996
1997
1998
1999
Giá Việt Nam
1410
1394
1486
1521
Giá Thái Lan
2125
2012
2389
2407
Giá Thế giới
2000
2024
2232
2325
Nguồn:Tạp chí kinh tế và dự báo số 1/2001,Trang 15
Điều này có thể khắc phục được thông qua công tác tạo nguồn hàng. Từ những con số trên cho chúng ta thấy còn phải cố gắng nhiều trong công tác nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
ChươngII
Thực trạng hoạt động thu mua tạo nguồn hàng ở công ty xuất nhập khẩu thanh hà-hà nội
I,Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty.
1.Quá trính hính thành và phát triển của Công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà.
Ngày 10/02/1976. Liên hiệp sản xuất ngành song may tre trực thuộc Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp thành phố Hà Nội đuực thành lập theo Quyết định số 1250 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội. Là một đơn vị kinh tế tập thể có nhiệm vụ tổ chức và quản lý sản xuất, gia công thu mua và xuất nhập khẩu các mặt hàng mây tre đan của các hợp tác xã ở các quận huyện thành phố Hà Nội.
Đến tháng 12/1989 Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội có Quyết định giải thể Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp (trong đó có Liên hiệp sản xuất ngành song mây tre). Và thành lập Liên hiệp sản xuất và dịch vụ và xuất khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội theo Quyết định số 5398/QĐ-UB ngày 13/12/1991 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Liên sản xuất ngành song mây tre ở trong đó được chuyển thành Công ty sản xuất dịch vụ và xuất khẩu tiểu thủ công nghiệp Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc HAPROSIMEX Hà Nội.
Đến ngày 23/12/1993 được đổi tên thành Công ty chế biến nông lâm sản xuất khẩu theo Quyết định số 2964/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Đến ngày 22/6/1995 được đổi tên thành Công ty Thanh Hà theo Quyết định số 1223/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Đến tháng 10/1997 Công ty Thanh Hà được Bộ thương mại cấp giấy phép. Cho phép xuất nhập khẩu trực tiếp và có tên giao dịch quốc tế là HAFOREXIM.
Trong những năm đầu tiên thành lập lại Công ty không ít những khó khăn về vốn, lao động, thị trường ... Để giải quyết được những khó khăn trên Công ty phải nghiên cứu xây dựng chiến lược kinh doanh với từng bước đi cụ thể . trước hết tập trung sức lực xây dựng một số mô hình kinh doanh mới. Sắp xếp lao động hợp lý mạnh dạn tinh giảm biên chế. Đội ngũ cán bộ được sàng lọc tuyển mới những cán bộ, nhân viên vững về chuyên môn, vững về nghiệp vụ ngoại thương. Tổ chức tiếp thị tới thị trường xác định ngành hàng, nguồn hàng xuất khẩu. Do đó Công ty đã từng bước tạo được chỗ đứng trên thị trường, vị thế của Công ty ngày càng được nâng cao được nhiều khách hàng nước ngoài biết tới.
Trụ sở giao dịch cũ của Công ty là tại 15 phố Quán Thánh sau đó chuyển về 18 phố Nguyễn Trung Trực - Quận Ba Đình-Hà Nội. Nay trụ sở chuyển về 122-124/M2 Láng Trung- Đống Đa-Hà Nội.
Công ty xuất nhập khẩu Thanh Hà là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có tư cách pháp nhân. Có quyền và nghĩa vụ theo luật định. Tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Công ty quản lý. Công ty có con dấu, tài sản và các quỹ theo quy định. Công ty hoạt động theo phương thức tự cân đối thu chi trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Công ty có tài khoản tại ngân hàng ngoại thương Hà Nội(VIET COM BANK). Như vậy thực hiện theo đường lối đổi mới của Đảng. Công ty Thanh Hà đã có những bước đi và định hướng, những thay đổi phù hợp tạo điều kiện cho sự phát triền của Công ty ngày càng vững mạnh.
2.Chức năng, nhiệm vụ chính của Công ty.
2.1.Chức năng của Công ty.
Công ty Thanh Hà được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, tiêu thụ các mặt hàng nông, lâm, thổ sản và dược liệu...
Chức năng chính của Công ty là: Tổ chức sản xuất chế biến kinh doanh các mặt hàng: may mặc, thủ công mỹ nghệ, sơn mầu, dược liệu, khoáng sản... tạo nguồn hàng xuất khẩu kích thích sản xuất trong nước.
Làm dịch vụ khách sạn, trang trí nội thất, xây dựng mới cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty và các sản phẩm liên doanh, liên kết, đại diện, đại lý cho các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.
Nhập khẩu kinh doanh vật tư, nguyên liệu, phương tiện, hàng tiêu dùng. Phục vụ nhu cầu sản xuất của Công ty và nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
2.2.Nhiệm vụ của Công ty.
-Xây dựng, tổ chức và thực hiện các kế hoạch về sản xuất sản phẩm và dịch vụ phục vụ cho xuất khẩu, kinh doanh thương mại, phục vụ nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước đã ban hành.
-Xây dựng các phương án kinh doanh sản xuất sản phẩm và dịch vụ xuất khẩu theo kế hoạch mục tiêu chiến lược của Nhà nước.
-Chấp hành pháp luật của Nhà nước, thực hiện các chế độ, chính sách cũng như quyền về quản lý và sử dụng vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực của Nhà nước. Thực hiện hạch toán kế toán, bảo tồn và phát triển nguồn vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
-Thực hiện đầy đủ các cam kết đã ký trong hợp đồng kinh tế đã ký kết với các tổ chức trong và ngoài nước.
-Quản lý toàn diện, đào tạo, phát triển đội ngũ công nhân lao động theo quyền lợi của từng thành viên trong Công ty theo điều lệ của Công ty đã quy định.
-Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an ninh xã hội theo quy định của pháp luật thuộc phạm vi quản lý của doanh nghiệp.
2.3.Quyền hạn của Công ty.
-Kinh doanh theo đúng mục đích thành lập doanh nghiệp và theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh .
-Chủ động trong sản xuất kinh doanh, ký kết hợp đồng kinh tế với bạn hàng trong và ngoài nước.Về hợp đồng đầu tư, nghiên cứu kỹ thuật theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước.
-Được giao quyền quản lý sử dụng hiệu quả nguồn vốn, tài sản, nguồn lực. Được huy động các nguồn vốn khác trong và ngoài nước để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty.
-Được tiếp thị, tham gia triển lãm, hội chợ , quảng cáo tham gia các cuộc hội thảo của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
-Được quyền chủ động tổ chức bộ máy quản lý mạng lưới sản xuất kinh doanh, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao và phải đạt hiệu quả. Quản lý và sử dụng đội ngũ lao động áp dụng các hình thức trả lương làm đòn bẩy tăng năng suất lao dộng theo đúng chính sách và quy định của Nhà nước.
-Được quyền tố tụng khiếu nại trước cơ quan pháp luật về các vụ việc vi phạm chế độ chính sách Nhà nước làm ảnh hưởng tới lợi ích của doanh nghiệp và Nhà nước.
2.4. Các mối quan hệ với thị trường.
Những năm qua Công ty đã thiết lập cho mình một hệ thống các mối quan hệ tốt với nhiều thị trường khác nhau, Công ty được nhiều khách hàng tín nhiệm và có mối quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài.
Công ty cũng luôn chú ý tới việc củng cố và duy trì thị trường thông qua các sản phẩm có uy tín, do đó luôn được khách hàng tín nhiệm và thị trường khá ổn định.
3.Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
Được thành lập từ năm 1976 với cơ sở là liên hiệp sản xuất ngành song, mây, tre đan trực thuộc Liên hiệp xã tiểu thủ công nghiệp Hà Nội. Khi đó Công ty mới chỉ có 3 phòng đó là: Phòng kế hoạch, Phòng xuất nhập khẩu và Phòng tài vụ với tổng số biên chế là 14 người.
Đến năm 1993, sau 16 năm hoạt động kinh doanh. Công ty đã đổi tên thành Công ty chế biến nôn lâm sản xuất khẩu với tổng số cán bộ công nhân viên là 20 người. Cơ cấu tổ chức bộ máy mới chỉ bao gồm 4 phòng là: Phòng kinh tế tài vụ, Phòng xuất nhập khẩu I, Phòng xuất nhập khẩu II, Phòng tổ chức hành chính.
Đến nay, sau 26 năm cơ cấu tổ chức bộ máy Công ty đã có nhiều thay đổi tính đến hết năm 2001 tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty đã tăng lên 515 người cùng với nó là sự mở rộng địa bàn hoạt động. Trước đây địa bàn hoạt động của Công ty chỉ chủ yếu bó hẹp quanh Hà Nội và các tỉnh lân cận. Nhưng cho đến nay địa bàn hoạt động đã trải rộng hầu hết mọi miền đất nước thông qua 3 chi nhánh ở 3 miền đó là ở Lào Cai, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.
Chúng ta có thể hiểu rõ hơn thông qua sơ đồ sau.
Phòng
KT-TC
Phòng
Thị trường
Phòng
XNK
Chi
nhánh
TPHCM
Chi
nhánh
LC
Xí nghiệp
Sản xuất
Khăn bông
Chi
nhánh
ĐN
Giám Đốc
Sơ đồ tổ chức bộ máy Công ty
*Giám Đốc Công ty : Chịu trách nhiệm điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Giám đốc là đại diện pháp nhân của Công ty trước pháp luật. Chịu trách nhiệm trước Nhà nước, cấp trên và toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty về kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Chịu trách nhiệm hoạt động đúng pháp luật và thực hiện đầy đủ các chính sách đã quy định của Nhà nước. Giám đốc có toàn quyền quyết định các phương án kinh doanh của Công ty cũng như tham gia vào sắp xếp tuyển chọn nhân lực theo yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty.
*Phòng tổ chức hành chính: Chịu trách nhiệm quản lý Công ty về mặt nhân lực, đôn đốc mọi người lao động thực hiện điều lệ, kỷ luật lao động. Đề xuất giải quyết những chính sách chế độ cho người lao động theo quy định. Tiếp nhận bàn giao xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị trong và ngoài ngành.
*Phòng kế toán tài chính:
-Kế toán trưởng: làm công tác tổng hợp các số liệu, các chi phí các khoản nộp ngân sách, các quỹ, các báo cáo hàng năm, hàng quý của Công ty.
-Kế toán thanh toán: Theo dõi các koản thanh toán thu chi tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền vay, công nợ và khách mua bán hàng, thường xuyên thanh quyết toán với kế toán bán nhằm đối chiếu kiểm tra và thanh toán kịp thời tránh tình trạng khách hàng chiếm dụng vốn kinh doanh.
-Kế toán mua bán: Phản ánh tình hình xuất nhập khẩu các loại hàng hoá của Công ty theo hoá đơn, chứng từ, đối tượng mua bán. Cùng với kế toán thanh toán các kho hàng, chi nhánh theo dõi chặt chẽ tình hình thanh toán công nợ đồng thời phát hiện những lãng phí nhằm đề xuất các phương án giúp cho Công ty hoạt động có hệu quả hơn.
-Thủ quỹ: Làm nhiệm vụ thu chi tiền mặt theo phiếu thu chi đã ký duyệt. Nhận tiền khách hàng trả, nhận tiền ở ngân hàng, làm báo cáo thông kê hàng tháng đối với cấp trên.
*Phòng xuất nhập khẩu: Chịu trách nhiệm xuất nhập khẩu các mặt hàng Công ty kinh doanh cũng như nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như những mặt hàng nông lâm sản, khoáng sản, hàng dệt may, hàng điện lạnh...
*Phòng thị trường: Có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm kiếm thị trường theo yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty. Đồng thời phòng thị trường có nhiệm vụ tìm kiếm các mặt hàng phục vụ cho yêu cầu xuất khẩu của Công ty. Ngoài ra phòng thị trường còn phải tìm kiếm nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất đồng thời có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường mới cũng như cơ hội kinh doanh và các mặt hàng mới.
*Các chi nhánh tại Lào Cai, Đà Nẵmg, thành phố Hồ Chí Minh:
Là đại diện của Công ty có chức năng trực tiếp hoặc gián tiếp ký kết hợp đồng và thực hiện các hợp đồng đã ký với khách hàng trong và ngoài nước.
*Xí nghiệp sản xuất khăn bông xuất khẩu: Căn cứ vào hợp đồng Công ty đã ký tổ chức thu mua nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất theo đúng nội dung hợp đồng đã ký.
Chúng ta cũng có thể hiểu dõ hon cơ cấu lao động của Công ty thông qua bảng sau.
Bảng 2.1
Cơ cấu lao động của công ty trong những năm gần đây
Đơn vị tính:Người
Năm
1998
1999
2000
2001
Tổng số
348
420
435
515
Sau đại học
2
3
5
6
Đại học
92
126
129
157
Trung cấp
242
275
286
335
PTTH
12
17
15
17
II.thực trạng hoạt động thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu THANH Hà.
Việc xác định các mặt hàng kinh doanh của Công ty căn cứ vào giấy phép quy định và điều quan trọng hơn là phải tìm được thị trường đầu ra. Thị trường xuất khẩu của Công ty đã có sự thay đổi và xác lập cụ thể. Sự thay đổi này trước hết phải nói tới sự tác động do sự thay đổi chính sách của Nhà nước. Mà đặc điểm nền kinh tế nước ta là một nến kinh tế nhỏ, phân tán nguồn hàng xuất khẩu chủ yếu là nguồn hàng sơ cấp, hàng nông lâm thổ sản phải thu gom từ nhiều cơ sở sản xuất.
1.Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty.
Sau khi củng cố hoàn chỉnh lại tổ chức, chiến lược kinh doanh của Công ty được xây dựng lại mang tính khả thi. Thị trường xuất khẩu của Công ty trong thời gian đầu có nhiều biến động nhưng về sau đã ổn định dần và ngày càng được mở rộng. Do sự thay đổi chính sách của Nhà nước với việc đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ và thiết lập mối quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia có thể chế chính trị khác nhau cũng như là với các tổ chức kinh tế quốc tế.
Cho đến nay Công ty đã có 26 bạn hàng ở các nước như: Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, ấn Độ, Anh... tuy nhiên cũng có một điều đáng nói là mối quan hệ kinh tế của Công ty với các bạn hàng ở các nước trong khối ASEAN còn ở mức rất khiêm tốn.
Công ty đã tập trung vào những thị trường xuất khẩu là những nước có nền kinh tế phát triển. Thị trường lớn lại chuyên nhập khẩu nguyên liệu để chế biến thành thành phẩm xuất khẩu sang nước khác hoặc tiêu dùng trong nước. Khi đã có thị trường xuất khẩu Công ty củng cố tổ chức thu mua nguồn hàng như hạt tiêu, quế, lạc, long nhãn... đặc biệt là chè đen. Mặt hàng chè đen là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm sản của Công ty. Được Công ty xác định là mặt hàng chủ lực. Cho nên ban lãnh đạo của Công ty đã không ngừng đầu tư phát triển việc xuất khẩu chè cả về chiều sâu và bề rộng. Công ty đã mở rộng liên doanh, liên kết với các nông trường chè trong cả nước. Đặc biệt là khu vực phía bắc. Đã mạnh dạn đầu tư thiết bị, máy móc cũng như tiền vốn vào các nhà máy chè.
Cụ thể Công ty đã có mối quan hệ với các đơn vị sản xuất chè ở các tỉnh có nguồn chè lớn như: Thái Nguyên, Yên Bái, Phú Thọ... và cụ thể như tại Yên Bái Công ty dã có mối quan hệ chặt chẽ với các nhà máy chè như: Nhà máy chè Trần Phú, Nhà máy chè đen Yên Bái...
Sự đầu tư và hợp tác này là nhằm để nắm chắc nguồn hàng với giá cả hợp lý và đảm bảo tiến độ xuất khẩu. thông qua đó tạo điều kiện cho người lao động có việc làm về các mặt hàng khác như gỗ, long nhãn, quế, lạc. Công ty cũng có mối quan hệ truyền thống với các bạn hàng ở các tỉnh có nguồn nguyên liệu khá chặt chẽ như quế ở Yên Bái. Lạc, long nhãn ở các tỉnh như Nghệ An, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Thái Bình...
Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu. Công ty đã rất chú trọng tới việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm để tìm kiếm thêm bạn hàng. Sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng như: Chia nhỏ khối lượng, xuất khẩu từng container, bán hàng theo đúng mẫu, đa dạng hoá bao bì...
Ngoài hình thức xuất khẩu hàng hoá theo hình thức thương mại như trên. Hiện nay Công ty còn có một xí nghiệp sản xuất khăn bông xuất khẩu đặt tại Đức Giang-Gia Lâm. Nhiệm vụ chính của nó là sản xuất khăn bông xuất khẩu theo hợp đồng Công ty đã ký kêt với khách hàng nước ngoài.
Thị trường xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu là các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Được thành lập từ năm 1997 cho đến nay xí nghiệp khăn bông đã đóng góp một phần không nhỏ vào tổng doanh thu của Công ty.
Về đầu vào để sản xuất khăn bông là sợi chủ yếu Công ty nhập từ ấn Độ và Trung Quốc và một số nguồn trong nước như: Nhà máy rệt 8/3, Công ty sợi Nha Trang, Công ty rệt Nghĩa Hưng (Phú Thọ), Tổng Công ty bông Việt Nam.
Việc nghiên cứu thị trường mua cũng như bán đầu tiên Công ty nghiên cứu thị trường đầu ra xem cầu hàng hoá là bao nhiêu sau đó sẽ tiến hành nghiên cứu lượng cung hàng hoá sản xuất ở trong nước cũng như nghiên cứu khả năng của các đối thủ cạnh tranh.
Công ty dựa và doanh số bán hàng của từng loại hàng hoá để có chiến lược cụ thể cho từng mặt hàng mà Công ty đang kinh doanh.
Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài Công ty tiến hành thu thập thông tin theo các tài liệu đã được thống kê, qua báo trí, tin tức truyền hình, radio... cũng như qua các cuộc họp, triển lãm, báo cáo thị trường nước ngoài về nhu cầu thị hiếu của họ trong hiện tại cũng như tương lai.
Bên cạnh đó Công ty cũng cho cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực thị trường đi nghiên cứu ở nước ngoài cũng như những vùng nguyên liệu để thu thập những thông tin chính xác nhất.
Chi phí cho nghiên cứu thị trường của Công ty luôn ổn định. Các nhân viên thị trường đều có phương tiện đi lại thuận lợi. Cán bộ về thị trường không ngừng học hỏi trau dồi kiến thức lý thuyết cũng như thực tiễn.
Chúng ta có thể xem xét hiệu quả công tác tạo nguồn hàng một phần thông qua bảng sau.
Bảng 2.2
Bảng danh số mua vào của một số hàng hoá
Đơn vị tính:1000VND
Năm
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Tổng số
84.587.680
111.518.184
131.881.860
174.949.212
Trong đó
Chè
Quế
Lạc
Long nhãn
Lốp ôtô
Hoá chất
Sợi
Hàng hoá khác
8.634.742
7.513.043
13.724.414
4.321.684
4.578.324
6.789.431
3.915.000
35.111.042
13.219.078
6.593.309
14.547.420
8.872.920
13.158.221
10.941.459
4.455.000
39.487.727
48.661.850
4.180.407
13.914.166
2.983.407
5.843.961
2.552.011
6.615.000
47.124.933
56.784.786
3.810.784
15.784.214
9.540.720
14.200.780
8.540.217
10.150.000
56.137.620
Biểu 2.2
1998 1999 2000 2001
Đơn vị tính:1000VND
2.Về dự trữ hàng hoá.
Do đặc thù, một số hàng hoá kinh doanh của Công ty mang tính thời vụ cao như: chè, hạt tiêu, long nhãn... Để đảm bảo có hàng hoá xuất khẩu thường xuyên. Do đó, Công ty phải tiến hành công tác dự trữ hàng hoá. Việc dự trữ hàng hoá phải đảm baỏ không để hàng xuống cấp, hạn chế đến mức thấp nhất hư hỏng, mất mát. Nếu việc dự trữ hàng hoá quá nhiều sẽ dẫn đến ứ đọng vốn hoặc thị trường biến động giá mua xuống thì hàng hoá bán ra sẽ bị lỗ, ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Công ty.
Hiện nay, về măt dự trữ hàng hoá đối với chè Công ty có một tổng kho đặt tại Đông Anh chuỷên làm công việc dự trữ đồng thời tái chế, đóng gói trước khi xuất khẩu.
Còn đối với các mặt hàng nông lâm sản và khác và dược liệu cho đến Công ty vẫn chưa có kho chứa mà thực hiện việc xuất khẩu mỗi khi thu gom hàng đủ cho một container.
Đối với mặt hàng khăn bông xuất khẩu thì việc dự trữ hàng hoá không cần phải đòi hỏi kho bãi quá lớn mà chủ yếu là sản xuất đến đâu xuất khẩu hết đến đó hoặc nếu có dự trữ thì cũng với khối lượng rất nhỏ điều này có thể thực hiện ngay tại xưởng sản xuất.
Do đã có kinh nghiện kinh doanh trong cơ chế thị trường nên Công ty luôn tuân thủ các quy luật khách quan như: trung thực với nhà cung ứng. Nên tạo lòng tin trong kinh doanh. Đối với khách hàng Công ty luôn giữ “chữ tín” trong kinh doanh chính vì vậy thị trường của Công ty khá ổn định trong mấy năm vừa qua.
Cũng nhờ thực hiện tốt những điều trên đã làm cho Công ty tiết kiệm được một phần chi phí kho bãi vì hàng hoá chủ yếu được cung ứng đầy đủ và kịp thời từ phía nhà cung ứng.
3.Về công tác tổ chức cán bộ.
Do làm tốt công tác tổ chức. Công ty đã có đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ và năng lực khá rất linh hoạt trong công tác mở rộng và phát triển thị trường lấy thị trường làm hiệu quả kinh doanh và cũng là mục tiêu để phấn đấu. Năng động trong tìm kiếm khách hàng và nguồn hàng.
Hiện nay trong tổng số hơn 500 cán bộ công nhân viên của Công ty sau một thời gian đổi mới thì hiện tại. Công ty 100% cán bộ quản lý đã tốt nghiệp đại hạc, cao đẳng và sau đại học. Còn tại xí nghiệp sản xuất khăn bông xuất khẩu thì số cán bộ quản ly chiếm khoảng 7% đều đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học hoặc sau đại học, 90% công nhân tham gia sản xuất là công nhân kỹ thuật đã được qua đào tạo. Còn lại khoảng 3% là lao động phổ thông.
Mỗi người lao động đều xác định rõ. Muốn đời sống được ổn định và cải thiện thì phải gắn bó với Công ty và làm ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0378.doc