Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp hòa - Tỉnh Bắc Giang

Lời nói đầu Để góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá và dịch vụ, khuyến khích phát triển nền kinh tế quốc dân, động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách Nhà nước, Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11(từ ngày 02 tháng 4 năm 1997 đến ngày 10 tháng 5 năm 1997), có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 1999. Sau gần 8 năm thực hiện, Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) đã đi vào cuộc sống, phát huy tác dụng tích cực

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp hòa - Tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội như: khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu và đầu tư; thúc đẩy hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp; tạo nguồn thu lớn và ổn định cho NSNN; tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế; góp phần tăng cường quản lý hoạt động SXKD của doanh nghiệp nói chung và quản lý thuế nói riêng. Trong quá trình thực hiện, Luật thuế GTGT đã được UBTVQH, Chính phủ, Bộ tài chính sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm khắc phục những tồn tại, đảm bảo Luật thuế GTGT phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn những vướng mắc cần điều chỉnh. Chính vì vậy, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá XI (từ ngày 03 tháng 5 năm 2003 đến ngày 18 tháng 6 năm 2003) đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 1 năm 2004. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, Luật thuế GTGT cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như hệ thống thuế chưa đồng bộ và thường xuyên chỉnh sửa đã tạo nhiều kẽ hở cho các đối tượng chịu thuế có cơ hội luồn lách, trốn lậu thuế, nảy sinh nghi ngờ cho đối tượng chịu thuế về chính sách của Nhà nước. Đó chính là những nguyên nhân gây thất thoát một phần lớn NSNN. Những hạn chế đó cần phải có những biện pháp khắc phục để thuế GTGT phát huy hết vai trò của nó trong việc tạo lập nguồn thu cho NSNN và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển cũng như trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà - tỉnh Bắc Giang, cá nhân tôi nhận thấy việc quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại địa bàn còn nhiều vấn đề nổi cộm cần giải quyết. Trong khi đó, đây lại là khu vực đóng góp một phần không nhỏ số thu thuế GTGT của tỉnh. Với những kiến thức đã được trang bị ở trường học cùng với một số kiến thức và thông tin thu được qua thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với mong muốn giúp ích cho việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đó chính là đề tài mà tôi lựa chọn nghiên cứu cho báo cáo thực tập của mình :"Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà - tỉnh Bắc Giang". Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là vận dụng những kiến thức đã học tại trường kết hợp với kiến thức thực tế nắm bắt được trong thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà; từ đó, đánh giá tình hình quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và đưa ra những kiến nghị, giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình thực tế; mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện Luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, với những kiến thức hạn chế và trình độ lý luận còn non kém, cho nên mặc dù đã hết sức cố gắng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm. Rất mong nhận được sự quan tâm chỉ bảo của các thầy cô cùng ban lãnh đạo chi cục thuế Hiệp Hoà và những đóng góp quý báu của những người quan tâm để đề tài của tôi được hoàn thiện. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI: GỒM 3 CHƯƠNG. Chương 1: Thuế GTGT và hiệu quả thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà- tỉnh Bắc Giang. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà- tỉnh Bắc Giang. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Nguyễn Đức Hiển, ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ chi cục thuế Hiệp Hoà đã hướng dẫn em thực hiện đề tài này! Bắc Giang, tháng 09 năm 2006 Sinh viên thực hiện Hoàng Thị Tuyến CHƯƠNG I THUẾ GTGT VÀ HIỆU QUẢ THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH 1.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.1.1.Vị trí, vai trò và đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh (NQD) trong nền kinh tế quốc dân: 1.1.1.1.Vị trí, vai trò của doanh nghiệp NQD: Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), với chủ trương đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát tiển nền kinh tế Việt Nam theo hướng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Sau đó, tại các Đại hội Đảng lần thứ VII và VIII, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế tiếp tục được khẳng định. Từ đó, các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế dân doanh bao gồm: kinh tế hợp tác, kinh tế hộ kinh doanh phát triển mạnh. Ngoài ra còn xuất hiện thêm thành phần kinh tế tư bản tư nhân với các loại hình công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Theo số liệu thống kê, tính đến hết năm 2005, khu vực kinh tế dân doanh bao gồm khoảng 250.000 công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân; 25.000 HTX hoạt động dịch vụ, sản xuất thương mại và khoảng 2,7 triệu hộ sản xuất kinh doanh cá thể, thu hút trên 6 triệu lao động, đóng góp gần 40% tổng sản phẩm quốc nội và nộp ngân sách khoảng từ 10% - 11% trên tổng số thu, chiếm 13% - 14% trên tổng số thu nội địa, trừ dầu và các loại thuế xuất nhập khẩu, thuế nhà đất, phí, lệ phí... Kinh tế dân doanh phát triển, đặc biệt là các loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước như chủ trương xoá đói, giảm nghèo, phân bố lại cơ cấu nền kinh tế, dần xoá bỏ sự tách biệt giữa thành thị và nông thôn ... Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới: đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, mạnh, có hiệu quả và bền vững, nhằm tăng trưởng kinh tế. Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế do Đại hội IX đề ra, hội nghị lần thứ V ban chấp hành TW khoá IX đã có Nghị quyết riêng về phát triển kinh tế hợp tác, HTX, kinh tế tư nhân. Trong đó, khẳng định phát triển kinh tế hợp tác, HTX là vấn đề hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội; phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm của thành phần kinh tế dân doanh, đánh giá những tiềm năng phát triển, phân tích các nguyên nhân kìm hãm. Nghị quyết TW lần thứ V của Đảng đã chỉ ra những giải pháp cơ bản để phát triển các thành phần kinh tế này trong thời gian tới, trong đó có những giải pháp về tài chính nói chung và về thuế nói riêng. Như vậy, bằng sự khẳng định trong đường lối nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và những giải pháp cụ thể nêu tại Nghị quyết TW lần thứ V, khu vực kinh tế dân doanh sẽ phát triển nhanh chóng và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.1.2.Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế NQD: Có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dù là thuộc khu vực kinh tế dân doanh hay Nhà nước đều lấy lợi nhuận là mục tiêu, là thước đo hiệu quả của hoạt động SXKD, cùng hoạt động theo cơ chế thị trường có sự hướng dẫn của Nhà nước cùng tồn tại và cạnh tranh trong môi trường pháp lý. Tuy nhiên, xét về góc độ quản lý, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý thuế, có những đặc điểm riêng của các doanh nghiệp ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế, thường là những thách thức nhiều hơn là những thuận lợi. Thứ nhất là đặc điểm về sở hữu: Đây là đặc điểm khác biệt nhất, đối với khu vực kinh tế dân doanh (trừ khối hợp tác), toàn bộ vốn, tài sản, lợi nhuận đều thuộc sở hữu tư nhân. Chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu SXKD chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động sản xuất kinh doanh và toàn quyền quyết định phương thức phân phối lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế mà không chịu sự chi phối nào từ các quy định của cơ quan Nhà nước hoặc từ cơ quan quản lý, do vậy họ luôn tìm mọi cách để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất, kể cả việc trốn lậu thuế. Thứ hai là đặc điểm về trình độ văn hoá, trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ: So với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế đầu tư nước ngoài thì phần lớn những người chủ các doanh nghiệp NQD có trình độ văn hoá chưa cao, chưa được đào tạo chính quy về các nghiệp vụ quản lý, trình độ chuyên môn chủ yếu là tự học hoặc theo kinh nghiệm. Vì vậy, nhìn chung hiệu quả SXKD của các doanh nghiệp NQD còn thấp, số đông các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có mục đích chính là mua đi, bán lại để kiếm chênh lệch giá; còn một số lượng nhỏ hoạt động ở lĩnh vực sản xuất thì trình độ công nghệ thấp, trình độ quản lý không cao, do đó năng suất lao động và chất lượng hàng hoá đạt được là không cao. Thứ ba là đặc điểm về ý thức tuân thủ pháp luật: Xuất phát từ trình độ còn hạn chế nêu trên, cho nên phần lớn các chủ doanh nghiệp có trình độ nhận thức về pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng là rất thấp, biểu hiện rõ nhất là số đông các cơ sở kinh doanh không lập và giữ sổ sách kế toán theo quy định. Thứ tư là đặc điểm về số lượng đối tượng: Số lượng các cơ sở kinh doanh rất lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả mọi lĩnh vực của nền kinh tế, từ sản xuất, gia công, chế biến, xây dựng, vận tải... đến các loại hình thương nghiệp, dịch vụ và được trải rộng trên khắp các địa bàn trong cả nước. 1.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 1.1.2.1. Thất thu thuế và các hình thức thất thu thuế: a) Khái niệm thất thu thuế: Thất thu thuế là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ những tổ chức, cá nhân có tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh cần phải được động viên vào NSNN, song vì những lý do xuất phát từ phía Nhà nước, cơ quan thuế hay chính những đối tượng nộp thuế gây ra mà những khoản tiền đó không được nộp vào NSNN. Như vậy, thất thu thuế có thể hiểu là số thực thu vào NSNN thấp hơn số thuế lẽ ra phải thu trong khoảng thời gian đó. b) Các hình thức thất thu thuế: Về mặt pháp lý, thất thu thuế được phân làm 2 loại là thất thu tiềm năng và thất thu thực tế. + Thất thu tiềm năng: Là thực trạng có nhiều nguồn thu cần thiết phải động viên, đóng góp cho NSNN, nhưng không được thu vì pháp luật chưa quy định chế độ thu. + Thất thu thực tế: Được hiểu là có nhiều khoản được pháp luật quy định rõ, nhưng trên thực tế lại không thu được do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, một phần là do chính sách, chế độ thuế chưa thực sự phù hợp, do tổ chức và biện pháp quản lý thu thuế kém hiệu quả; một phần là do đối tượng nộp thuế cố ý hoặc vô tình không làm tốt nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước. c) Nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế: * Nguyên nhân khách quan: - Do những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp trong thành phần kinh tế dân doanh là sở hữu tư nhân, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ công nghệ, trình độ quản lý, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, số lượng đối tượng nhiều, trải rộng trên khắp các vùng miền trong cả nước làm cho công tác quản lý thuế phức tạp và gặp nhiều khó khăn. - Do các cơ chế quản lý khác chưa đồng bộ, chưa hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý thu thuế, có nhiều cơ chế quản lý còn quá thông thoáng dẫn đến sơ hở cho các cơ sở kinh doanh lợi dụng. Như việc các doanh nghiệp vẫn được phép thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường; Luật doanh nghiệp không có ràng buộc về lý lịch người sáng lập hoặc người điều hành doanh nghiệp... - Thu thuế để Nhà nước có nguồn kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chi tiêu cho bộ máy hành chính nhằm thực hiện các mục tiêu của Đảng, Nhà nước đề ra. Như vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước đang trực tiếp sử dụng tiền thuế thu được để chi tiêu, dù trực tiếp hay gián tiếp thì tiền thuế thu được là để phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, nhưng nhận thức của các cấp, các ngành và của nhân dân còn hạn chế, họ thường quan niệm việc thu thuế là công việc riêng của ngành thuế. Vì vậy việc thu thuế của Nhà nước còn chưa nhận được sự đồng tình ủng hộ. Chúng ta phải làm sao để việc thu thuế trở thành nhiệm vụ chung của các cấp các ngành. - Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế vẫn còn hạn chế như cơ quan thuế chưa có quyền được điều tra, khởi tố các hành vi vi phạm pháp luật thuế, chưa có quyền tổ chức cưỡng chế các hành vi trây ỳ, dây dưa, nợ đọng tiền thuế. * Nguyên nhân chủ quan: - Trước hết, do nhận thức của thủ trưởng cơ quan thuế ở một số địa phương và của cán bộ quản lý thu thuế tại các cơ sở dân doanh chưa đúng. Biểu hiện ở những điểm sau: + Do số thu từ khu vực dân doanh nhỏ, chiếm tỷ trọng ít, không quyết định đến việc hoàn thành dự toán nên thường không tập trung chỉ đạo. + Số lượng đối tượng quản lý lớn lại hay có phản ứng tiêu cực nên cơ quan thuế và các cán bộ thuế thường ngại va chạm. - Trong quản lý thu thuế, khu vực kinh tế dân doanh chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy trình và biện pháp nghiệp vụ do ngành thuế đề ra, chưa tranh thủ được sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp, sự phối hợp giữa các ngành và sự ủng hộ của nhân dân. - Đội ngũ cán bộ quản lý thu thuế các cơ sở dân doanh số đông không được đào tạo cơ bản, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao. - Thu nhập của cán bộ thuế thấp, đời sống khó khăn. Một số cán bộ thiếu kiên định đã bị đối tượng kinh doanh dùng lợi ích vật chất mua chuộc, khi các cán bộ thuế bỏ qua các hành vi vi phạm của đối tượng kinh doanh đã dẫn đến hiện tượng thất thu thuế. d) Hậu quả của thất thu thuế: Vấn đề gian lận và thất thu thuế luôn là chủ đề được trao đổi, bàn bạc, lật qua, lật lại, song vẫn chưa giảm thiểu, vãn hồi khiến dư luận quan tâm, nhất là ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Khi nói về thất thu thuế, không phải vô cớ mà chúng ta nghĩ ngay đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, mà vấn đề là đã có đến hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập trong thập niên qua. Thực tế hoạt động chính thức của lĩnh vực này chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 6% sản lượng công nghiệp và khoảng 3% tổng lực lượng lao động). Một phần lớn khu vực kinh tế tư nhân thuộc mảng kinh tế “không chính thức”. Theo thống kê, đến ngày 31/12/2005, qua thanh tra - kiểm tra 134.687 đối tượng bao gồm 5048 DNNN; 963 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; 11.077 DNNQD ; 117.599 lượt hộ kinh doanh cá thể. Trong số đó đã phát hiện được 27.550 đơn vị có vi phạm về thuế; lập biên bản xử lý truy thu nộp NSNN 4.606 tỷ đồng, trong đó có thuế nợ đọng là 2.926 tỷ đồng, thuế ẩn lậu là 1.680 tỷ đồng. Bên cạnh đó, gian lận và thất thu thuế còn xuất phát một phần không nhỏ thuộc về các nhà quản lý thuế. Theo báo thanh tra tháng 4/2005 thì năm 2004 toàn ngành thuế đã tiến hành thanh tra nội bộ được 1.614 lượt đơn vị các cục thuế, chi cục thuế, phòng thuộc cục thuế, tổ, đội thuế. Trong đó Tổng cục thuế cũng đã tiến hành thanh tra 11 cục thuế. Kết quả thanh tra đã phát hiện 305 lượt cán bộ và uỷ nhiệm thu sai phạm, trong đó tham ô: 5 lượt cán bộ; xâm tiêu chiếm dụng: 66 lượt cán bộ; vi phạm biên lai ấn chỉ: 82 lượt cán bộ; thiếu tinh thần trách nhiệm gây ra tổn thất: 45 lượt cán bộ; vi phạm 10 điều kỷ luật của ngành thuế: 63 lượt cán bộ; vi phạm khác: 44 lượt cán bộ. Số cán bộ đã xử lý kỷ luật, khiển trách: 98 cán bộ; hạ bậc 14 cán bộ; hạ ngạch: 10 cán bộ; cách chức: 36 cán bộ; buộc thôi việc: 26 cán bộ; khởi tố: 4 cán bộ; truy tố: 1 cán bộ; số tiền phải bồi thường và đã thu hồi là 68 triệu đồng. 1.2. Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT. 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế GTGT: 1.2.1.1. Khái niệm thuế GTGT: Thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu điều tiết một phần vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mọi tổ chức, cá nhân thông qua việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. 1.2.1.2. Đặc điểm của thuế GTGT: Thuế GTGT ở Việt Nam có những đặc điểm nổi bật sau: - Thuế GTGT là loại thuế có tính chất gián thu: đối tượng nộp thuế GTGT là người bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, bởi vì thuế GTGT ẩn trong giá bán ra của hàng hoá, dịch vụ. Nói cách khác Nhà nước gián tiếp thu khoản thuế này của người tiêu dùng thông qua người bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ. - Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh. Đối tượng điều tiết của thuế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng sử dụng để mua hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ là đủ. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó phân biệt đâu là tiêu dùng cuối cùng, đâu là tiêu dùng trung gian, vì thế cứ có hành vi mua bán hàng thì phải tính thuế, nếu đó là tiêu dùng trung gian thì số thuế sẽ được tự động chuyển vào giá bán hàng hoá cho người mua ở giai đoạn sau. - Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm phát sinh ở từng giai đoạn luân chuyển. Tổng số thuế thu được ở các giai đoạn đúng bằng số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Giá trị tăng thêm được hiểu là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh doanh. - Thuế GTGT có tính trung lập cao, diện điều chỉnh rộng. Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các chu trình kinh tế: tổng số thuế ở các giai đoạn khớp với số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng, bất kể số giai đoạn là nhiều hay ít. - Thuế GTGT có tính lãnh thổ: thể hiện đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá, dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. 1.2.2. Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT ở Việt Nam: 1.2.2.1. Phạm vi áp dụng: 1.2.2.1.1. Đối tượng chịu thuế: Theo điều 2 của Luật thuế GTGT: "Hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối tượng quy định tại điều 4 của luật này”.(Các đối tượng quy định tại điều 4 của luật này là các nhóm hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT). 1.2.2.1.2. Đối tượng nộp thuế: Điều 3 cuả Luật thuế GTGT quy định: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế GTGT”. Cơ sở kinh doanh gồm: - Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp, luật doanh nghiệp Nhà nước và luật hợp tác xã. - Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức đơn vị sự nghiệp khác. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các công ty nước ngoài và các tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Các cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh doanh khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu. 1.2.2.1.3. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế: - Tại điều 4 Luật thuế GTGT quy định: 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế , được thể hiện ở các khía cạnh sau: - Không thu thuế GTGT đối với một số ngành sản xuất trong các lĩnh vực đang còn khó khăn, cần khuyến khích, tạo điều kiện phát triển như: Sản xuất nông nghiệp (đối với những sản phẩm sơ chế, cho những người trực tiếp sản xuất, trực tiếp khai thác, bán ra), hoạt động tưới tiêu, muối... - Không thu thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, phục vụ nhu cầu đời sống cộng đồng xã hội như: dịch vụ khám chữa bệnh, dạy học, dạy nghề... - Không thu thuế GTGT đối với hàng hoá, dịch vụ sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc vì các mục đích chính sách xã hội, nhân đạo như: vũ khí; khí tài nguyên chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; các hoạt động di tu, sửa chữa; các công trình văn hoá nghệ thuật... - Không thu thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ liên quan đến công nghệ, vốn đầu tư như: Thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được. - Không thu thuế GTGT đối với một số hàng hoá, dịch vụ thể hiện quan điểm quản lý ưu đãi có mức độ đối với sản xuất kinh doanh như: Hàng hoá, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế và đối tượng tiêu dùng ngoài Việt Nam. Ngoài ra, hàng hoá của những cá nhân sản xuất, kinh doanh có thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà nước cũng không thuộc diện chịu thuế GTGT. 1.2.2.2. Căn cứ tính thuế: Tại điều 6 luật thuế GTGT quy định: "Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất". 1.2.2.2.1. Giá tính thuế. Điều 7 của Luật thuế GTGT quy định: Nguyên tắc chung của giá tính thuế GTGT là giá bán, giá cung cấp hàng hoá, dịch vụ chưa có thuế GTGT. Giá tính thuế đối với các loại hàng hoá, dịch vụ bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng, trừ các khoản phụ thu và phí cơ sở kinh doanh phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Trường hợp cơ sở kinh doanh áp dụng hình thức giảm giá bán thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã giảm ghi trên hoá đơn. Trường hợp đối tượng nộp thuế có doanh số mua, bán bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh số để xác định giá tính thuế. Giá tính thuế GTGT bao gồm các trường hợp sau: * Đối với hàng hoá, dịch vụ, là giá bán chưa có thuế GTGT; * Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu, cộng với thuế nhập khẩu; * Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu, tặng là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này; * Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu từng kỳ; * Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hoá, tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kỳ; *Đối với gia công hàng hoá là giá gia công; * Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB ở khâu sản xuất, kinh doanh trong nước là giá bán đã có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT; ở khâu nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng thuế nhập khẩu (nếu có) cộng thuế TTĐB. * Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định; 1.2.2.2.2. Thuế suất. Luật thuế GTGT hiện hành có 3 mức thuế suất được áp dụng: + Mức thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. - Hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu bao gồm cả hàng hoá gia công xuất khẩu và hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT xuất khẩu; trừ các trường hợp sau: Vận tải quốc tế, hàng hoá dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế, dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài, dịch vụ tín dụng, đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán ra nước ngoài và sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai thác chưa qua chế biến do Chính phủ quy định. - Hàng hoá xuất khẩu bao gồm: Xuất khẩu ra nước ngoài, bán cho doanh nghiệp khu chế xuất và các trường hợp được coi là xuất khẩu theo quy định của Chính phủ. - Dịch vụ xuất khẩu: Là dịch vụ đã được cung cấp trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài và được tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam. + Mức thuế suất 5%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. + Mức thuế suất 10%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thông thường. * Lưu ý: - Khi thanh lý tài sản, phế liệu phế phẩm áp dụng thuế suất thuế GTGT của loại hàng hoá dạng chính phẩm. - Các mức thuế suất thuế GTGT được áp dụng thống nhất theo loại hàng hoá, dịch vụ, không phân biệt hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu, trong nước, ở khâu sản xuất và kinh doanh thương mại. 1.2.2.3. Phương pháp tính thuế GTGT: Tại điều 9 Luật thuế GTGT quy định: “Thuế GTGT phải nộp được tính theo phương pháp khấu trừ thuế hoặc phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng”. Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT. 1.2.2.3.1. Phương pháp khấu trừ thuế: * Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác trừ các đối tượng áp dụng phương pháp trực tiếp trên GTGT để tính thuế. * Cách xác định số thuế GTGT phải nộp : Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Ttrong đó: + Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế x Thuế suất. + Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu. 1.2.2.3.2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: * Đối tượng áp dụng: - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. - Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng bạc, đá quý, ngoại tệ. * Cách xác định số thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hoá,dịch vụ chịu thuế. x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó. Trong đó: GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế = Doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ bán ra. 1.2.2.4. Quy định về hoá đơn, chứng từ: Tại điều 11 luật thuế GTGT quy định như sau: - Việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ đều phải có hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. - Các cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT và phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định, trong đó ghi rõ giá bán, khoản phụ thu, phí thu thêm, khoản thuế GTGT, giá thanh toán. - Đối với các loại tem, vé được coi là chứng từ thanh toán đã in sẵn giá thanh toán thì giá thanh toán tem, vé đó đã bao gồm thuế GTGT. - Cơ sở kinh doanh in, phát hành, sử dụng hoá đơn không đúng quy định để trốn thuế, gian lận trong khấu trừ thuế, hoàn thuế thì ngoài việc bị truy thu, truy hoàn số tiền thuế còn bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 1.3. Công tác quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh ( NQD). Công tác quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD được thực hiện theo Quyết định số 1209 TCT/QĐ/TCCB ngày 29/07/2004 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2004 thay thế Quyết định số 1368/TCT/QĐ/TCCB ngày 16/12/1998 và Quyết định số 1329/TCT/QĐ/NV1 ngày 18/09/2002 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế. 1.3.1.Một số quy định chung của quy trình quản lý thuế đối với doanh nghiệp: 1.3.1.1. Đối tượng quản lý thuế: - Các doanh nghiệp thành lập theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài và Luật hợp tác xã. - Các công ty nước ngoài và các tổ chức cá nhân nước ngoài sản xuất kinh doanh tại Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trực tiếp kê khai nộp thuế. - Các đơn vị sự nghiệp kinh tế, nhà khách, nhà nghỉ và các tổ chức kinh tế khác của cơ quan Nhà nước. Đảng, đoàn thể, hội, đơn vị LLVT ND Trung ương, địa phương và hộ kinh doanh thực hiện kê khai nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. 1.3.1.2. Các đơn vị chính tham gia quy trình: - Phòng tuyên truyền và hỗ trợ tổ chức cá nhân nộp thuế tại Cục thuế và tổ nghiệp vụ hỗ trợ tại Chi cục thuế (sau đây gọi chung là Phòng TT- HT/tổ NV- HT). - Phòng tin học và xử lý dữ liệu về thuế tại Cục thuế và tổ xử lý dữ liệu Chi cục thuế (sau đây gọi chung là Phòng /tổ XLDL). - Các phòng quản lý doanh nghiệp Nhà nước, phòng quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phòng quản lý khu chế xuất tại Cục thuế và các đội quản lý doanh nghiệp tại Chi cục thuế (sau đây gọi chung là phòng /đội QLDN ). - Phòng thanh tra tại Cục thuế và tổ thanh tra- kiểm tra tại Chi cục thuế (sau đây gọi chung là phòng /tổ thanh tra ). - Phòng hành chính - lưu trữ tại Cục thuế và tổ hành chính tại Chi cục thuế ( sau đây gọi chung là Phòng / tổ hành chính ). - Phòng tổng hợp - dự toán Cục thuế. - Phòng quản lý ấn chỉ Cục thuế và tổ quản lý ấn chỉ Chi cục thuế (sau đây gọi chung là phòng / tổ QLAC ). - Tổng cục thuế: Các ban quản lý thuế đối với doanh nghiệp và trung tâm tin học - thống kê. 1.3.2. Nội dung của quy trình: Thực hiện quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có 6 nội dung chính, được biểu diễn thông qua các sơ đồ dưới đây. 1.3.2.1.Đăng ký thuế: Bao gồm 2 việc chính: Là đăng ký cấp mã số thuế và đóng mã số thuế. 1.3.2.1.1. Đăng ký cấp mã số thuế: Quy trình đăng ký cấp mã số thuế được thể hiện cụ thể ở sơ đồ sau: (Biểu 1) 10 1 1 1 Phòng /Tổ QLAC Phòng /đội QLDN Phòng /Tổ TH-XLDL  Cấp sổ bán hoá đơn Xác minh địa điểm trụ sở Rà soát địa bàn QL, khai thác thông tin  7. Lập báo cáo 6. QL vi phạm ĐKT 5. 1.In kết quả ĐKT 4. Phân cấp QLDN 3. Nhận HS chuyển về T.Cục 2.2. Kiểm tra HS ,TB sai HS-3 5.2. Trả kết quả 2.1. Nhận HS, viết phiếu hẹn Phòng / tổ HC 1. Hướng dẫn Ngày Phòng TT-._.TH * Nhận xét: So với quy trình đăng ký cấp mã số thuế ở QĐ1368 thì quy trình này: - Quy định chi tiết hơn một số trình tự công việc như: Chuyển địa điểm, đóng mã số thuế. - Quy định rõ thời gian xử lý cho từng bước. - Hồ sơ đăng ký thuế không chuyển qua phòng QLDN. - Kết hợp cấp chứng nhận đăng ký xuất nhập khẩu khi đăng ký thuế. - Kết hợp kiểm tra, xác minh địa điểm kinh doanh, cấp sổ bán hoá đơn khi đăng ký thuế. 1.3.2.1.2.Đóng mã số thuế: a) Đóng mã số thuế đối với doanh nghiệp gửi hồ sơ đề nghị đóng mã số thuế: (biểu 2). Phòng/tổ TH-XLDL Ngày 1 1. Nhận và kiểm tra hồ sơ 6. Thông báo DN đóng mã số 1 5. Đóng mã số 2. Nhập tình trạng ngừng hoạt động 3. Quyết toán hoá đơn 10 Phòng/ tổ QLAC Phòng/đội QLDN 4. Quyết toán thuế 20 b)Đóng mã số thuế đối với những doanh nghiệp không còn tồn tại: (biểu 3). 1. Phát hiện DN ngừng kê khai 2. xác minh tình trạng hoạt động 3. Thông báo tình trạng DN không tồn tại 6. Xử lý nợ tồn 4. Nhập tình trạng DN không tồn tại Đóng MST, thông báo DN đóng MST 5. Thông báo hoá đơn không giá trị Phòng/đội QLDN Phòng/tổ TH-XLDL Phòng/tổ QLAC Ngày 3 lần TB 5 1.3.2.2. Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế: (Biểu 4). Ngày Phòng/ tổ TT-HT Hướng dẫn 1 Phòng/ tổ HC 1.1 Nhận TK ghi sổ Gửi thông sửa và điều chỉnh TK 3. Sửa lỗi TK 2. Nhập, xác định TK lỗi 1.2. Kiểm tra, thông báo TK sai thủ tục (2) Phòng/ tổ TH-XLDL 2 7. Báo cáo tình hình xử lý TK 5. Nhập chứng từ hạch toán sổ thuế 4.3 . In thông báo ấn định thuế 4.1. Đôn đốc phạt HC 4.2. Ân định thuế Ngày 20 Phòng/ đội QLDN 6. Phân tích tình trạng kê khai Phòng/ tổ QLAC Bán hoá đơn *Nhận xét: Những điểm khác so với quy trình 1368: - Phòng/tổ XLDL nhận tờ khai, kiểm tra sơ bộ, nhập dữ liệu và tính thuế theo số kê khai của doanh nghiệp. - Phòng/tổ QLDN kiểm tra tờ khai và bảng kê được thực hiện sau. Kết quả xác định lại số thuế được chuyển phòng / tổ XLDL nhập điều chỉnh. - Ấn định thuế do không nộp tờ khai. - Gửi thông báo ấn định thuế cho doanh nghiệp. - Phân tích việc kê khai thuế do phòng/đội QLDN thực hiện. - Báo cáo tình hình xử lý tờ khai do phòng/tổ XLDL thực hiện. 1.3.2.3. Quản lý thu nợ thuế: Quy trình quản lý thu nợ thuế được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau: (biểu 5). 1. Nhắc nhở thu nợ Ngày Bộ phận 7. Báo cáo kết quả thu nợ 10 hàng tháng Phòng/đội QLDN 6. Thực hiện biện pháp thu nợ 4. Phân tích tình trạng nợ 5. Lập kế hoạch thu nợ ngày 15 Phòng /tổ TH-XLDL 10 ngày sau hạn (15-20) 2. Thông báo nợ thuế 3. Thông báo phát nộp chậm Phòng /tổ HC Gửi các thông báo và quyết định 1.3.2.4.Hoàn thuế: Quy trình xử lý hoàn thuế được thể hiện cụ thể ở sơ đồ sau: (biểu 6). Ngày Bộ phận 1 50 Phòng/tổ HC, Thanh tra 1 20 2 Phòng/đội QLDN Phòng TH-DT 5 BC tháng Phòng/tổ TH-XLDL 3. Phân tích, đối chiếu số liệu 4.2. Quyết định hoàn thuế 1. Nhận hồ sơ ghi sổ nhận 5. Kiểm tra tại Doanh nghịêp 2. Kiểm tra HS thông báo không đủ ĐK 4.1. XĐ số thuế hoàn, lập thủ tục hoàn Chi cục 6. Thẩm định lập thủ tục hoàn 8. Lập báo cáo tổng hợp 7. Lập UNC Hạch toán số thuế Gửi quyết định 1 Phòng/tổ HC *Nhận xét: Những điểm khác so với quy trình 1368: - Phòng/ tổ XLDL lập uỷ nhiệm chi. - Kết hợp phân tích số liệu hồ sơ hoàn với việc phân loại doanh nghiệp theo một số tiêu chí hoàn trước hay kiểm trước. - Yêu cầu lập phiếu nhận xét hồ sơ hoàn và phiếu kết quả xét hoàn. - Phòng/tổ TH-DT thẩm định hồ sơ hoàn thuế của Chi cục. - Phòng/đội QLDN lập báo cáo tình hình hoàn và phòng/ tổ XLDL lập báo cáo tổng hợp. 1.3.2.5. Quyết toán thuế: Quy trình xử lý quyết toán thuế được thể hiện qua sơ đồ sau: (biểu 7). Ngày Bộ phận Phòng/tổ HC 1. Nhận báo cáo QT Ghi sổ nhận 1 Phòng/tổ TH-XLDL 10 hàng tháng 2. Kiểm tra thủ tục QT TB sửa đổi QT 8.B.cáo.T.hợp kết quả quyết toán 5. Điều chỉnh B.cáo cổ phiếu vàng Ngày 20 quý Phòng/ đội QLDN 7.2. Đôn đốc, phạt HC QL tình trạng QT 8.2. Báo cáo đánh giá tình hình QT Gửi thông báo đề nghị điều chỉnh 6. Kiểm tra tại doanh nghiệp Phòng/tổ HC Thanh tra 4. Phân tích số liệu QT lập phiếu X,V,Đ 3. Nhập, phát hiện lỗi QT, hạch toán thuế 7.1. T.báo số thuế sau QT *Nhận xét: Những điểm khác về xử lý quyết toán thuế so với quy trình 1368: - Phòng/ tổ TH- XLDL nhập số liệu quyết toán theo báo cáo của doanh nghiệp. - Phòng/ đội QLDN phân tích, đối chiếu số liệu quyết toán. - Cơ quan thuế không được tự điều chỉnh số liệu báo cáo quyết toán, chỉ thông báo để đối tượng nộp thuế tự điều chỉnh báo cáo quyết toán thuế. - Quản lý tình trạng quyết toán. - Thông báo kết quả xét quyết toán. 1.3.2.6. Xử lý miễn, giảm thuế: Quy trình xử lý miễn, giảm thuế được thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau: (biểu 8). Ngày Bộ phận 1 Phòng/ tổ HC 1. Nhận hồ sơ ghi sổ nhận 3 3 Phòng/ đội QLDN 3. Kiểm tra XĐ số thuế được miễn, giảm 2. Kiểm tra TTHS thông báo HS chưa đạt 4. Lập hồ sơ trình xét miễn, giảm 8. Báo cáo tổng hợp kết quả quyết toán 3 Phòng TH-DT 4.1. Thẩm định HS miễn giảm của Chi cục T.Cục Bộ TC T.Cục Bộ TC 5. Duyệt ra, QĐ 6. Xử lý kết quả QĐ Phòng/ tổ TH-XLDL và Thanh tra 7. Kiểm tra tại doanh nghiệp 1.4.Ưu điểm và điều kiện áp dụng của thuế GTGT ở Việt Nam: 1.4.1.Ưu điểm của thuế GTGT: Cũng như bất kỳ một quốc gia nào khác trên thế giới, đối với đời sống kinh tế của nước ta, thuế luôn đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN.Vì vậy có một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động, phát triển của nền kinh tế và mở cửa hội nhập kinh tế với các nước khu vực và trên toàn thế giới là điều thực sự cần thiết và hết sức cấp bách. Quán triệt tinh thần đó, ngày 10 tháng 5 năm 1997 Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999 và được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 3 quốc hội khoá XI ngày 18 tháng 6 năm 2003, có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2004. Qua hơn bẩy năm áp dụng, Luật thuế GTGT đã bộc lộ những ưu điểm nổi trội, thể hiện tính đúng đắn của việc áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu trước kia: - Thuế GTGT là một sắc thuế trung lập về kinh tế, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu luân chuyển, không tính trên toàn bộ giá cả của hàng hoá, dịch vụ, do vậy thuế GTGT đã khắc phục được tình trạng đánh trùng, lặp của thuế doanh thu trước đây, đồng thời thúc đẩy chuyên môn hoá, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. - Thuế GTGT khuyến khích đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Thể hiện ở những quan điểm mà Luật thuế GTGT áp dụng cho một số đối tượng không chịu thuế. Thuế GTGT không thu vào vốn nên khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh bỏ vốn đầu tư, đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nước ta. - Thuế GTGT có diện bao quát rộng, "tương lai thuế GTGT sẽ trở thành sắc thuế chủ yếu" bao gồm hầu như toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Thuế GTGT không những đánh vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mà còn đánh vào khâu nhập khẩu hàng hoá, một phần làm tăng nguồn thu cho NSNN, tăng giá vốn hàng nhập khẩu, hạn chế hàng nhập khẩu; một phần khuyến khích và bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa, "và sẽ bù đắp được nguồn thu thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết quốc tế”. - Thuế GTGT chỉ áp dụng 3 mức thuế suất đã tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tính thuế của đối tượng nộp thuế và trong quản lý thuế của cơ quan thuế chức năng. - Thuế GTGT góp phần khuyến khích hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu trên cơ sở áp dụng thuế suất 0% đối với mặt hàng xuất khẩu, do đó làm giảm giá thành của mặt hàng xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Thuế GTGT được thực hiện thống nhất và chặt chẽ theo nguyên tắc căn cứ vào hoá đơn mua, bán hàng để khấu trừ số thuế đã nộp ở khâu trước. Do đó thuế GTGT khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh khi mua hàng hoá phải có hoá đơn đầu vào và khi bán hàng hoá phải xuất hoá đơn theo quy định. Với nguyên tắc đó, thuế GTGT sẽ góp phần hạn chế được những sai sót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn. Hoạt động mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ có hoá đơn chứng từ kèm theo được đưa vào nề nếp là tiền đề cho việc áp dụng tin học vào quá trình quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý thu thuế được tốt hơn, do đó sẽ hạn chế được thất thu cho NSNN. Như vậy ta đã thấy rõ, việc thay thế một sắc thuế còn nhiều tồn tại là thuế doanh thu trước đây, bằng một sắc thuế tiên tiến, khoa học, đó là thuế GTGT là một cải cách đúng đắn, phù hợp với việc phát triển kinh tế trong nước và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. 1.4.2. Điều kiện áp dụng của thuế GTGT: Để việc áp dụng thuế GTGT mang lại hiệu quả cao, chúng ta cần giải quyết một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất: Các hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hoá phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh. Thứ hai: Trình độ cán bộ quản lý thu thuế cần được nâng cao, cán bộ thuế phải am hiểu về chế độ hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT. Cơ quan thuế cần trang bị hệ thống máy vi tính và sử dụng thành thạo các phần mềm quản lý thuế để đạt hiệu quả cao . Thứ ba: Cần nâng cao ý thức tự nguyên, tự giác chấp hành pháp luật thuế, bên cạnh đó cần xử lý các vi phạm về thuế một cách nghiêm khắc. Thứ tư: Hệ thống pháp luật thuế ngày càng phải hoàn chỉnh, đồng bộ, nhưng không phải là sự ban hành quá nhiều các văn bản pháp luật thuế để rồi lại chỉnh sửa ... Cần đưa việc thực hiện pháp luật thuế vào nền nếp, kỷ cương cả trong nhận thức tưởng và trong hành động thực tế. 1.5. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thuế GTGT không chỉ góp phần vào nhiệm vụ thu cho NSNN nhằm đảm bảo việc chi tiêu thường xuyên của Nhà nước mà còn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế thị trường trong và ngoài nước, góp phần đảm bảo an ninh, chính trị. Do vậy, làm sao để thu thuế GTGT một cách có hiệu quả là yêu cầu hết sức cấp thiết không chỉ đối với ngành thuế. Một câu hỏi được đặt ra xoay quanh vấn đề này là: Thế nào là hiệu quả thu thuế GTGT?- Ta có thể hiểu “hiệu quả” là với một công việc mà chi phí bỏ ra là thấp nhất nhưng mang lại kết quả cao nhất, đó là hiệu quả. Đối với cá nhân tôi, qua thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hòa, bản thân tôi đã đi sâu nghiên cứu Luật thuế GTGT và chính sách thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD; thông qua Luật thuế GTGT và công tác thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD của chi cục thuế Hiệp Hòa cùng với tầm nhận thức còn hạn chế của mình thì hiệu quả thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD được đánh giá như sau: Trong những năm gần đây, công tác thu nộp thuế GTGT của chi cục thuế Hiệp Hòa đều đạt và vượt mức kế hoạch, song vẫn còn thất thu ở một số lĩnh vực thuế NQD. Số thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hòa tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng thu ngân sách trên địa bàn (chiếm 21,1% tổng thu ngân sách), nhưng đây lại là nguồn thu ổn định và hàng năm đều tăng đáng kể. Điều này tỷ lệ thuận với sự phát triển của nền sản xuất kinh tế tại địa phương. Thông qua số thu thuế từ các doanh nghiệp, các nhà kinh tế, nhà lãnh đạo có thể nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế cũng như sức tiêu thụ hàng hóa trên thị trường; các nhà hoạch định kinh tế thì có thể thấy được tốc tộ tăng trưởng của GDP, sức mua của người tiêu dùng, từ đó có thể đánh giá được đời sống của nhân dân; xuất phát từ bản chất của thuế GTGT là thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ, nên khi thuế GTGT hàng tháng, quý đều tăng thì điều đó chứng tỏ hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị trường cũng rất phát triển, sức mua lớn, tiêu thụ nhiều, điều này cũng chứng tỏ rằng nền kinh tế đang phát triển mạnh ở đây, chứng tỏ công tác thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD của chi cục thuế Hiệp Hòa là có hiệu quả, tuy nhiên vẫn cần phải cố gắng hơn nữa để giảm tỷ lệ thất thu thuế xuống mức thấp nhất có thể. Thông qua thuế GTGT mà Nhà nước quản lý về mặt vĩ mô để mở rộng sản xuất những ngành hàng được xã hội khuyến khích hoặc hạn chế ngành hàng nào xã hội không khuyến khích, bằng cách tăng hoặc giảm thuế suất thuế GTGT. Ví dụ: để hạn chế mặt hàng rượu, bia, thuốc lá, Chính phủ áp dụng mức thuế suất 10% trong khi các ngành hàng được khuyến khích thì chỉ chịu mức thuế suất là 5%, thậm chí là 0%(đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu), chưa kể thuốc lá còn phải chịu thuế TTĐB, nhờ đó mà hạn chế được một số lượng lớn người tiêu dùng. Điều này đã thể hiện quan điểm “thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế”, đồng thời nó cũng mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho nền kinh tế. Ở một khía cạnh khác, thuế GTGT còn góp phần vào việc hạn chế hay mở rộng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trên thị trường quốc tế. Xu thế hội nhập, liên kết phát tiển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế, Nhà nước thông qua chính sách thuế mà điều hành hàng hóa nhập ngoại: Đối với những mặt hàng trong nước sản xuất được thì nên hạn chế nhập khẩu bằng cách thu thuế GTGT cao hơn hàng nội địa; còn những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được thì nên khuyến khích nhập khẩu thông qua việc thu thuế GTGT ở mức thấp nhất có thể. Từ đó thúc đẩy hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu thuế GTGT thu ít hơn hoặc có chính sách ưu đãi đối với một số doanh nghiệp, miễn thuế GTGT trong thời gian đầu hoạt động. Khi nào ĐTNT thấy rõ quyền lợi của việc nộp thuế thì khi đó công tác thu thuế mới thực sự có hiệu quả! CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP HOÀ- TỈNH BẮC GIANG. 2.1. Những đặc điểm kinh tế- xã hội ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế GTGT đối với doanh ngiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Hiệp Hoà - tỉnh Bắc Giang: 2.1.1. Đặc điểm kinh tế- xã hội huyện Hiệp Hoà- tỉnh Bắc Giang. Ngày 01/6/1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Hiệp Hoà, uỷ ban kháng chiến ra đời, đó cũng chính là ngày thành lập huyện Hiệp Hoà. Hiệp Hoà là một huyện trung du, cách trung tâm thành phố Bắc Giang 30 km về phía tây và cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía bắc, với diện tích tự nhiên là 20.100,5 ha. Hiệp Hoà là một huyện đông dân cư nhất của tỉnh Bắc Giang, với 25 xã và 1 thị trấn, dân số tính đến năm 2005 là 213.547 người. Với hệ thống sông Cầu là ranh giới giữa các huyện trong tỉnh với huyện Hiệp Hoà và các huyện của tỉnh Thái Nguyên, Hà Nội. Ngoài ra Hiệp Hoà còn có 2 tuyến đường quốc lộ liên tỉnh là các tuyến: Từ thành phố Bắc Giang qua Hiệp Hoà đến thành phố Thái Nguyên; và tuyến từ Hiệp Hoà đi Sóc Sơn, sang sân bay Nội Bài qua quốc lộ số 3. Với khí hậu tương đối ôn hoà, địa hình không được bằng phẳng (có 11 xã là xã miền núi), giao thông thuận lợi, đó chính là những điều kiện tốt để Hiệp Hoà có thể phát triển mạnh về nông nghiệp, lâm nghiệp, thương mại và dịch vụ. Trong vài năm gần đây đã có nhiều khu công nghiệp được xây dựng trên địa bàn huyện Hiệp Hoà. Bên cạnh đó, Hiệp Hoà còn là một huyện giàu truyền thống văn hoá, lịch sử, cái lôi cách mạng lâu đời; có Xuân Biều- xã Xuân Cẩm là nơi tiền khởi nghĩa cách mạng năm 1945; thôn Vân Xuyên- xã Hoàng Vân là khu cách mạng tiền khởi nghĩa được công nhận là an toàn khu 2(ATK). Nhân dân Hiệp Hoà có truyền thống cần cù lao động, với nhiều làng nghề truyền thống như: Nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa; mây tre đan xuất khẩu... mang tính cổ truyền, đậm đà bản sắc dân tộc. Tất cả những yếu tố đó tạo nên một sự kết hợp hài hoà giữa quang cảnh thiên nhiên với truyền thống lịch sử và bản sắc văn hoá dân tộc, đó là điều kiện hết sức thuận lợi cho Hiệp Hoà trên đà phát triển. Theo báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2006 của UBND huyện Hiệp Hoà, năm 2005 được xác định là năm cải cách hành chính, hiệu quả kinh tế và cải thiện môi trường xã hội. Với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, tình hình kinh tế- xã hội của huyện tiếp tục đạt được những kết quả quan trọng và khá toàn diện, các chỉ tiêu cơ bản của kế hoạch năm 2005 đều đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Về kinh tế: Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, kinh tế xã hội phát triển toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Cơ cấu giữa các ngành kinh tế và cơ cấu nội ngành nông nghiệp chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Hiệp Hoà đã phát huy được nội lực, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Thực hiện thí điểm đưa chăn nuôi ra khỏi khu dân cư. So với năm 2004, giá trị sản xuất các ngành kinh tế trên địa bàn huyện ước tăng 14% (B/c HĐND 6 tháng đầu năm 2006), trong đó: - Thu ngân sách đạt 137% dự toán bằng 126% so với cùng kỳ năm 2004. + Thu trên địa bàn đạt 179% bằng 143% so với cùng kỳ năm 2004. + Thu hộ cấp tỉnh tăng 279% so với cùng kỳ. - Về nông nghiệp đạt 202%, bằng 101% so với cùng kỳ. - Về chăn nuôi, thú y, nuôi trồng thuỷ sản đạt 107%, bằng 1065 so với cùng kỳ. - XDCB tăng 21%; TMDV tăng 12%. - Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm 2,16% năm 2004 và năm 2005 còn 1,6%, hàng nghìn lao động được giải quyết việc làm. - Về giao thông vận tải: Hoàn chỉnh công tác khảo sát mạng lưới đường giao thông toàn huyện đến năm 2010. Vận tải phát triển cả 2 loại hình đường bộ và đường thuỷ, khối lượng hàng hoá tăng 9,8% so với cùng kỳ. Về văn hoá - xã hội; An ninh- Quốc phòng: Các hoạt động văn hoá- xã hội phát triển đồng bộ, sâu rộng và thiết thực trong cộng đồng dân cư. Giải quyết đơn thư khiếu kiện có nhiều tiến bộ, tăng cường công tác trực tiếp đối thoại với nhân dân, tập trung giải quyết những điểm bức xúc tại cơ sở. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, nền quốc phòng toàn dân được củng cố. Qua những điểm nổi bật kể trên ta có thể nhận thấy nền kinh tế Hiệp Hoà ngày càng khởi sắc, đang dần đi vào ổn định và phát triển mạnh. Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của huyện ngày càng đượcc cải thiện và được đầu tư xây dựng mới theo quy hoạch, tốc độ đô thị hoá ngày càng cao, sản xuất kinh doanh dịch vụ ngày càng phát triển, cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch theo hướng tích cực. Biểu hiện ở chỗ: tỷ trọng ngành của ngành nông nghiệp ngày càng giảm, thay vào đó là tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng cơ bản ngày càng tăng lên. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và từng bước nâng cao; bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới; an ninh trật tự và an toàn xã hội về cơ bản được ổn định; hiệu lực quản lý Nhà nước trên các mặt đều được đổi mới theo đúng pháp luật. Hiện nay, Hiệp Hoà đang phấn đấu thực hiện tốt giai đoạn đầu của giai đoạn phát triển 5 năm (2006 - 2010), thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XVII về phát triển kinh tế xã hội. Huyện Hiệp Hoà đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng. Những kết quả đạt được, những kinh nghiệm lãnh đạo chỉ đạo và điều hành là yếu tố thuận lợi để tổ chức và thực hiện kế hoạch các năm tiếp theo của kế hoạch 5 năm (2006-2010). Hơn nữa, Hiệp Hoà đang nằm trong quy hoạch phát triển lên đô thị loại III vào năm 2010, có nhiều dự án đầu tư hạ tầng, đầu tư phát triển công nghiệp và đô thị trên địa bàn huyện. Đây là những điều kiện thuận lợi, là vận hội, thời cơ để Hiệp Hoà đẩy nhanh sự phát triển kinh tế- xã hội của huyện. Tuy nhiên, đứng trước sự phát triển công nghiệp, đô thị hoá, đầu tư hạ tầng, đất đai từ nông nghiệp chuyển hoá nhanh cho đầu tư phát triển thì công tác giải phóng mặt bằng, giải quyết công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động và môi trường xã hội cũng có nhiều nảy sinh, bức xúc, đó cũng là những khó khăn, thách thức đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội để an ninh quốc phòng được bền vững, đời sống nhân dân được từng bước nâng cao. Nhưng vượt lên hết vẫn là lòng quyết tâm của quân và dân Hiệp Hoà, mong muốn đưa Hiệp Hoà trở thành một huyện có đô thị loại III, có nền kinh tế phát triển, văn hoá- xã hội, an ninh quốc phòng bền vững, đời sống nhân dân được nâng cao một bước. 2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế ở các doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà - tỉnh Bắc Giang. Hiệp Hoà là một trong những địa bàn trong cả nước đang trong quá trình đô thị hoá, với sự mọc lên của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo thành các cụm công nghiệp, nhờ có sự hình thành các cụm công nghiệp và việc mở rộng kinh tế tới các địa bàn lân cận, với định hướng sẽ trở thành đô thị loại III trong vài năm tới, do đó kinh tế xã hội phát triển mạnh, cuộc sống của nhân dân cũng trở nên sôi động hơn; cũng nhờ đó mà sự phát triển của khu vực kinh tế nói chung và ở khu vực kinh tế NQD nói riêng phát triển rất đa dạng với nhiều ngành nghề khác nhau: Ngành sản xuất, ngành xây dựng, ngành thương nghiệp, ngành vận tải, ngành nông, lâm nghiệp... được tổ chức, hoạt động dưới nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), doanh nghiệp tư nhân, HTX, xí nghiệp, và các loại hình doanh nghiệp khác nhưng trong đó số lượng Công ty TNHH vẫn chiếm đa số. Tính đến 31/12/2005 số doanh nghiệp hoạt động thuộc khu vực kinh tế NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà do chi cục thuế Hiệp Hoà quản lý như sau: Tình hình quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh: (biểu 1). S TT Loại hình doanh nghiệp Tổng quản lý Không kinh doanh Đang hoạt động 1 Công ty cổ phần 3 - 3 2 Công ty TNHH 25 2 23 3 Doanh nghiệp tư nhân 3 - 3 4 HTX 2 - 2 5 Xí nghiệp 1 - 1 Tổng 34 2 32 Nguồn: Chi cục thuế Hiệp Hoà. Các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu tập trung ở 25 xã và 01 thị trấn của huyện, và được phát triển lên từ các hộ kinh doanh cá thể, do đó việc áp dụng sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, nhận thức về pháp luật thuế còn hạn chế. Tổng thu thuế các loại theo phân cấp năm 2005 đạt 420 triệu, chiếm 20% tổng số thu ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, công tác quản lý Nhà nước đối với doanh NQD trên địa bàn huyện còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, chưa đồng bộ, theo số liệu thống kê của chi cục thuế Hiệp Hoà thì số doanh nghiệp phát sinh ngày càng tăng, song nhiều doanh nghiệp không có năng lực kinh doanh đã có đơn xin đóng mã số thuế, bỏ kinh doanh, không thực hiện nghĩa vụ thuế Nhà nước; còn có một số hiện tượng doanh nghiệp tồn tại danh nghĩa, trốn thuế Nhà nước; vi phạm Luật lao động về mua BHXH cho người lao động. Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng với mục tiêu xác định phát triển doanh nghiệp NQD nói chung mà quan trọng là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này là chiến lược mang lại nguồn thu chủ yếu để xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của huyện nên Hiệp Hoà đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành trong tỉnh. 2.1.3. Sự hình thành và phát triển chi cục thuế Hiệp Hoà - Bắc Giang. 2.1.3.1. Vài nét sơ lược về chi cục thuế Hiệp Hoà - Bắc Giang. Chi cục thuế huyện Hiệp Hoà được thành lập cùng với hệ thống thuế cả nước. Thực hiện Nghị định số 281/ HĐBT ngày 7/ 08/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thành lập hệ thống thuế Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính và Quyết định số 314/ TCQĐ- TCCB ngày 21/ 08/ 1990 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Ngày 1/10/1990 chi cục thuế Hiệp Hoà thuộc tỉnh Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Giang) được thành lập trên cơ sở sát nhập của 3 bộ phận đó là thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp và thuế quốc doanh. Căn cứ vào Quyết định số 1682/TCT-QĐ-TCCB ban hành ngày 14/11/2003, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục thuế trực thuộc Cục thuế; Và Quyết định số 4181/TCT-TCCB ngày 21/11/2003, quy định về chức năng, nhiệm vụ của các tổ, đội thuộc Chi cục thuế. Chi cục thuế Hiệp Hoà dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo song trùng của Cục thuế tỉnh Bắc Giang và UBND huyện Hiệp Hoà. Toàn chi cục có tổng số 57 cán bộ trong đó 42 cán bộ công chức và 15 lao động hợp đồng. 42 cán bộ công chức hiện đã được xếp vào ngạch: - Ngạch chuyên viên: 03 đồng chí. - Ngạch kiểm soát viên: 37 đồng chí. - Các ngạch khác: 02 đồng chí( lái xe + bảo vệ). Đảng bộ Chi cục thuế Hiệp Hoà gồm 29 đ/c, trực thuộc Huyện uỷ Hiệp Hoà. Công đoàn Chi cục thuế là công đoàn cơ sở trực thuộc LĐLĐ Cục thuế tỉnh Bắc Giang. Tổ chức nữ công có 7 đồng chí là tổ chức nữ công cơ sở trực thuộc Hội phụ nữ Cục thuế tỉnh Bắc Giang. Công tác xây dựng tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức trong những năm qua đã được Chi cục quan tâm và thường xuyên cải cách, đổi mới; bố trí, sắp xếp nhân sự phù hợp với năng lực và tiến trình cải cách thuế: năm 1997 số cán bộ công chức có trình độ đại học và cao đẳng vào khoảng 12%; trình độ trung cấp chiếm 87,33%; trình độ sơ cấp chiếm 0,67%. Cùng với sự cố gắng của toàn ngành, Chi cục thuế Hiệp Hoà với mục tiêu đào tạo, mở rộng toàn diện và chuyên sâu thì hiện nay, (tính đến tháng 6/2006) Chi cục thuế Hiệp Hoà được biên chế 42 cán bộ công chức, trong đó: trình độ cao học có 01 đồng chí, chiếm 2,3%; đại học và cao đẳng có 11 đồng chí, chiếm 26%; trình độ trung cấp có 28 đồng chí, chiếm 67%; còn lại là sơ cấp có 2 đồng chí, chiếm 4,7%. Ngoài ra còn có 2 đồng chí được cử đi học lớp trung cấp lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước. Bên cạnh việc chú trọng đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, Chi cục thuế Hiệp Hoà còn thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn nghiệp vụ, học tập trao đổi kinh nghiệm công tác, tổ chức phát động phong trào thi đua làm việc, thi đua học tập, phát huy sáng kiến... Từ đó chất lượng đội ngũ cán bộ không ngừng nâng cao, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị ngày càng tốt hơn. Trong suốt những năm qua, để hoàn thành tốt nhiệm vụ thu ngân sách, ngoài việc thực hiện tốt chỉ đạo của Cục thuế Tỉnh, Huyện uỷ, HĐND-UBND huyện Hiệp Hoà, tập thể lãnh đạo, công chức trong Chi cục thuế Hiệp Hòa luôn sáng tạo áp dụng các biện pháp, sáng kiến mới, đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền các chính sách pháp luật thuế đến các tổ chức, cá nhân, người nộp thuế. Công tác hỗ trợ tổ chức và cá nhân người nộp thuế được thông qua bằng nhiều hình thức như: Tổ chức tập huấn, toạ đàm đối thoại và giải đáp thắc mắc kịp thời, đúng quy định. Các tổ chức đoàn thể trong đơn vị thường xuyên tổ chức phát động phong trào thi đua sáng kiến, cải tiến cách quản lý và các biện pháp thu, góp phần hoàn thành suất sắc nhiệm vụ thu ngân sách của đơn vị. 2.1.3.2. Cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy quản lý Chi cục thuế Hiệp Hoà: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Chi cục thuế huyện Hiệp Hoà có thể khái quát qua sơ đồ sau: Chi cục trưởng Phó chi cục trưởng Phó chi cục trưởng Tổ hành chính nhân sự tài vụ. Tổ xử lý dữ liệu. Tổ nghiệp vụ tuyên truyền hỗ trợ thuế. Tổ thanh tra kiểm tra. Đội QLDN, thu khác và trước bạ. Đội thuế liên xã, thị trấn. * Chi cục trưởng: Là người lãnh đạo cao nhất của chi cục, có nhiệm vụ lãnh đạo chung, có trách nhiệm tham mưu, tổ chức quản lý cán bộ thực hiện tốt các nhiệm vụ và phù hợp với tình hình thực tế của huyện. Chi cục trưởng là người chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên về mọi hoạt động của chi cục mình. * Các chi cục phó: Cùng với chi cục trưởng, chi cục thuế huyện Hiệp Hoà có 2 chi cục phó giúp đỡ, hỗ trợ chi cục trưởng phụ trách các tổ, đội và chịu trách nhiệm trưởng về hoạt động của các tổ, đội do mình phụ trách. Cụ thể: - Một đồng chí chi cục phó phụ trách khu vực kinh tế NQD, phần nhiệm vụ tính thuế và các đội thuế liên xã trên địa bàn. - Một đồng chí chi cục phó phụ trách khu vực kinh tế quốc doanh, vấn đề hành chính, trước bạ, kiểm tra, thanh tra. Tuy nhiên việc phân chia công việc như vậy cũng chỉ mang tính tương đối vì giữa các chi cục phó thường xuyên có sự giúp đỡ, hỗ trợ nhau cùng thực hiện công việc nhằm đạt kết quả cao nhất. * Tổ hành chính nhân sự tài vụ: Gồm 5 đồng chí cán bộ có nhiệm vụ giúp Chi cục trưởng thực hiện công tác văn thư hành chính, quản trị, tài vụ và quản lý cán bộ của chi cục thuế Hiệp Hoà. * Tổ xử lý dữ liệu: Gồm 6 đồng chí cán bộ, chịu trách nhiệm tính thuế, kế toán, thống kê, dự toán thuế và quản lý ấn chỉ. * Tổ nghiệp vụ- tuyên truyền và hỗ trợ thuế: Gồm 3 đồng chí cán bộ, giúp Chi cục trưởng chi cục thuế hướng dẫn nghiệp vụ thuế đối với các đối tượng nộp thuế và các tổ, đội của chi cục; tuyên truyền và hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. * Tổ thanh tra, kiểm tra: Gồm 4 đồng chí cán bộ, giúp Chi cục trưởng chi cục thuế thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế của các tổ chức, cá nhân nộp thuế và các cơ quan tổ chức được uỷ nhiệm thu; thanh tra, kiểm tra nội bộ cơ quan thuế trong việc thực hiện pháp luật thuế, các chế độ quản lý, xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền quy định của pháp luật. * Đội quản lý doanh nghiệp, thu khác và trước bạ: Gồm 8 đồng chí cán bộ, có nhiệm vụ giúp Chi cục trưởng chi cục thuế quản lý thuế khấu trừ và các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; quản lý thu lệ phí trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền cấp quyền sử dụng đất, các khoản đấu giá về đất đai, tài sản, tiền thuê đất, phí, lệ phí và các khoản thu khác phát sinh trên địa bàn thuộc thẩm quyền quản lý của chi cục thuế huyện Hiệp Hoà. * Đội thuế liên xã, thị trấn: Chi cục thuế Hiệp Hoà gồm 3 đội thuế liên xã, thị trấn: thực hiện nhiệm vụ thu thuế trên 25 xã và 1 thị trấn thuộc địa bàn huyện Hiệp Hoà, chia thành 3 khu vực: Thượng huyện, hạ huyện và trung tâm huyện. - Đội 1: gồm 01 đội trưởng, 01 đội phó và 04 đồng chí cán bộ phụ trách 8 xã thượng huyện: Đồng Tân, Thanh Vân, Hoàng Vân, Hoàng Lương, Ngọc Sơn, Hoàng An, Thái Sơn, Lương Phong. - Đội 2: Gồm 01 đội trưởng, 01 đội phó và 05 đồng chí cán bộ phụ trách 9 xã hạ huyện: Mai Đình, Hương Lâm, Châu Minh, Bắc Lý, Xuân Cẩm, Mai Trung, Đông Lỗ, Quang Minh, Hoà Sơn. - Đội 3: Gồm 01 đội trưởng, 01 đội phó v._. cả cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Nhà nước còn nhiều hạn chế, chưa tạo được dư luận rộng rãi lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian lận về thuế, thậm chí còn khá nhiều trường hợp thờ ơ, khuyến khích, đồng tình. Một số cán bộ quản lý thuế trình độ hiểu biết và thực thi về chính sách thuế còn hạn chế; thái độ và phong cách ứng xử còn một số trường hợp chưa thật tận tuỵ, công tâm, khách quan giữa quyền lợi của Nhà nước với quyền lợi của ĐTNT; chưa trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện luật thuế. Tình trạng trốn lậu thuế, gian lận thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều đơn vị kinh doanh, gây thất thu cho ngân sách. Một số doanh nghiệp cố ý tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp như: kê khai khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT từ ngân sách Nhà nước; một số khác các doanh nghiệp có đơn xin nghỉ kinh doanh, nhưng thực tế vẫn hoạt động, gây thất thoát tiền thuế của Nhà nước (đơn xin nghỉ kinh doanh trong trường hợp này thực chất chỉ là hình thức trốn lậu thuế). Tình hình sử dụng biên lai thu phí ở một số đơn vị còn vi phạm nguyên tắc tài chính như: Viết biên lai còn lỗi nhiều, không ghi rõ họ tên, địa chỉ người nộp tiền dẫn đến việc khó xác minh khi cần thiết; xoá bỏ biên lai không có lý do chính đáng, không đúng quy định; chữa biên lai, chữa ngày tháng, chữa số tiền... Chất lượng công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế còn hạn chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi gian lận trong việc tính thuế, kê khai thuế, gian lận trong hoàn thuế, miễn giảm thuế. Chức năng và quyền hạn của thanh tra- kiểm tra thuế còn bị bó hẹp, chưa trở thành công cụ có hiệu lực để chống thất thu ngân sách và răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm về thuế. Công tác rà soát tờ khai thuế GTGT và đánh giá quyết toán thuế bước một còn hạn chế, do việc theo dõi tình hình thu nộp thuế chưa khoa học, nghiệp vụ kế toán còn nhiều hạn chế và chưa phát huy được tinh thần tự chủ, sáng tạo để nắm bắt tình hình kinh doanh thực tế của các doanh nghiệp, chưa chủ động tham mưu đề xuất biện pháp quản lý để ngăn chặn các hiện tượng trốn lậu thuế. Sự kết hợp giữa các tổ, đội thuế chưa thật sự đồng bộ, còn có hiện tượng việc ai nấy làm, chưa thường xuyên kết hợp với các đội thuế xã để kiểm tra, khảo sát tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Sự phối hợp giữa các tổ, đội còn hạn chế, đặc biệt là tổ thanh tra- kiểm tra trong việc kiểm tra xử lý các đơn vị kinh doanh trốn thuế, vi phạm pháp luật thuế. Nhiều khi cán bộ thuế còn ngại khó, ngại va chạm với các doanh nghiệp, làm việc một cách thụ động, chỉ quan tâm tới các đơn vị đã hoạt động từ trước còn những cơ sở mới phát sinh lại thờ ơ hoặc có làm nhưng chỉ qua loa. Để xảy ra tình hình trên một phần là do cơ quan thuế, mà ở đây là Chi cục thuế Hiệp Hoà chưa chủ động; mặt khác là do các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân chưa nhận thức rõ, đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ thu ngân sách. * Những nguyên nhân chủ yếu: Thuế thực chất là một phần thu nhập mà ĐTNT trích nộp vào NSNN, do đó khi Nhà nước đánh thuế tức là động chạm đến lợi ích của người nộp thuế, họ sẽ phản ứng bằng nhiều cách khác nhau với mục đích nộp thuế càng ít càng tốt, họ không thấy được lợi ích của việc nộp thuế, cho nên những tồn tại trong công tác quản lý thu thuế của cơ quan thuế luôn là yếu tố khách quan. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại này là: Thứ nhất: Là do ý thức của các doanh nghiệp chưa tốt, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ còn hạn chế. Hơn nữa, với nền kinh tế tiền mặt, các hoạt động mua bán, chi trả giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với khách hàng chủ yếu là bằng tiền mặt; việc thanh toán thông qua ngân hàng vẫn đang là hình thức mang tính chất động viên, khuyến khích, chưa bắt buộc nên những hành vi mua, bán không có hoá đơn, chứng từ, bỏ ngoài sổ sách kế toán vẫn thường xuyên diễn ra. Thứ hai: Phải kể đến là sự hạn chế về số lượng và trình độ nghiệp vụ của cán bộ thuế, cán bộ thuế một phần là do chuyển ngành, chưa được đào tạo chính quy để thực hiện công tác thuế, một phần chỉ học qua các lớp tại chức, chưa được đào tạo lại. Sự thiếu kiên quyết khi xử phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm đã tạo ra tâm lý coi thường pháp luật của các ĐTNT. Thứ ba: Là do mức thu nhập của cán bộ quản lý chưa cao, so với tốc độ tăng trưởng, với mức tăng của giá cả thì khả năng thu nhập đó rất khó khăn trong việc đảm bảo đời sống, đó chính là lý do làm cho một phần tinh thần nhiệt huyết của các cán bộ quản lý bị giảm sút, với tư tưởng thu được thuế nhiều hay ít, kể cả không hoàn thành thì vẫn mức thu nhập được hưởng là như nhau. Ngoài ra còn tạo ra sự ảnh hưởng của đồng tiền, làm cho một số cán bộ thuế có những hành vi trái pháp luật như: bao che, móc ngoặc với ĐTNT để thực hiện mục đích cá nhân, ĐTNT thì có cơ hội trốn được thuế còn cán bộ quản lý thì lại có thêm thu nhập. Thứ tư: Là do chính sách thuế còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội lách luật. Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất, chưa thực sự đảm bảo bình đẳng, công bằng về nghĩa vụ nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực làm phức tạp công tác quản lý thuế. Thứ năm: Là những quy định xử phạt thực sự chưa đồng bộ, chưa phát huy được hiệu lực như: Trong quá trình quản lý, cán bộ quản lý thuế có thẩm quyền kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng lại không có thẩm quyền xử phạt; hay khi phát hiện những đối tượng có dấu hiệu gian lận, muốn thanh tra- kiểm tra lại phải đợi quyết định của cấp trên, như vậy công tác quản lý dẫ bị gián đoạn, đó là cơ hội cho đối tượng thực hiện hành vi gian lận. Trên đây là một số những hạn chế và nguyên nhân chính đang tồn tại trong công tác quản lý thu thuế của chi cục thuế Hiệp Hoà, cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể để sớm khắc phục được tình trạng trên nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HIỆP HOÀ- TỈNH BẮC GIANG Thuế là một phạm trù lịch sử, nó không thể bất biến, cố định mà đòi hỏi phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, góp phần tích cực vào việc thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược kinh tế- chính trị- xã hội do Nhà nước đặt ra cho mỗi thời kỳ. Đối với ngành thuế nói chung và chi cục thuế Hiệp Hoà nói riêng, yêu cầu đặt ra là phải bằng mọi biện pháp có thể để tập trung được đủ số thu được giao vào NSNN trong thời gian sớm nhất, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Đứng trước yêu cầu đó, chi cục thuế Hiệp Hoà một mặt tiếp tục cố gắng triển khai, tăng cường các nghiệp vụ quản lý thu thuế đối với toàn bộ các nguồn thu phát sinh trên địa bàn theo phương hướng, kế hoạch đã thống nhất, mặt khác ra sức phối hợp với các cơ quan hữu quan, đưa ra các biện pháp chung nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT và nhanh chóng hoàn thiện, ổn định Luật thuế GTGT, tuy nhiên việc áp dụng và thực hiện Luật thuế GTGT không thể ổn định ngay theo ý muốn chủ quan bởi vì như ta đã biết, chỉ trong vòng gần 8 năm thực hiện Luật thuế này đã có rất nhiều những tồn tại khách quan đựơc sửa đổi bổ sung. Do vậy, để đạt được mục đích nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT trong thời gian tới thì ngành thuế cần phải đưa ra những phương hướng hoạt động, biện pháp, chiến lược cụ thể hơn. Qua thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà cùng với những kiến thức đã học, qua những thành tích đã đạt được cũng như những hạn chế tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT của chi cục thuế Hiệp Hoà mà tôi đã phân tích ở phần trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra các định hướng, mục tiêu và các giải pháp cụ thể nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn huyện Hiệp Hoà. 3.1. Định hướng hoàn thiện công tác quản lý thu thế GTGT trong thời gian tới. Công tác thuế là một ngành kinh tế tổng hợp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng, đòi hỏi các cấp uỷ, chính quyền phải thực sự quan tâm chỉ đạo; phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền các cấp thì công tác quản lý thu thuế mới tốt được. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, giáo dục ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác chấp hành pháp luật về thuế, coi việc thực hiện tốt nghiĩa vụ nộp thuế là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân, đồng thời biểu dương các tổ chức, cá nhân thực hiện tôt nghĩa vụ thuế và phê phán, đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đồng thời với việc đưa ra các định hướng cần có sự quan tâm xem xét của các cơ quan Nhà nước, sớm nghiên cứu đề nghị Nhà nước sửa đổi, bổ sung các luật liên quan để cơ quan thuế được thực hiện quyền điều tra các vụ vi phạm về thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế. Để những định hướng trên đây trở nên có hiệu quả trong thời gian tới, ngành thuế nói chung và chi cục thuế Hiệp Hoà nói riêng cần xem xét nghiên cứu áp dụng Luật thuế GTGT một cách triệt để để công tác quản lý thuế GTGT thực sự hiệu quả. 3.2.Mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý thuế GTGT trong thời gian tới. 3.2.1.Mục tiêu tổng quát. Quản lý thu thuế GTGT một cách chặt chẽ đối với toàn bộ các nguồn thu phát sinh trên địa bàn, đặc biệt là các nguồn thu thuộc khu vực kinh tế NQD nhằm hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất và góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội. Muốn vậy, phải xây dựng được hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời với hiện đại hoá công tác quản lý thuế. 3.2.2.Mục tiêu cụ thể: Một là: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế. Hai là: Triển khai thí điểm và mở rộng cơ chế quản lý “ tự kê khai, tự nộp thuế.” Ba là: Tăng cường tuyên truyền và hỗ trợ đối với ĐTNT. Bốn là: Đẩy mạnh công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế, thu hồi nợ đọng thuế. Năm là: Cải cách bộ máy quản lý thuế theo mô hình chức năng, nâng cao năng lực cán bộ thuế, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh. Sáu là: Áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác quản lý thuế. Bẩy là: Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật của cơ quan thuế. 3.3. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT đối với doanh nghiệp NQD trên địa bàn huyện Hiệp Hoà- Bắc Giang. 3.3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ thuế theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế tiên tiến, hiện đại; tăng cường giáo dục phẩm chất đạo đức, thái độ phục vụ tận tuỵ, công tâm khách quan, phong cách làm việc khoa học cho cán bộ thuế. Trong tình hình phát triển hiện nay, đòi hỏi người cán bộ quản lý phải thường xuyên học hỏi, tu dưỡng trình độ chuyên môn sâu rộng để kịp thời thích ứng với những đổi mới mang tính tiên tiến, hiện đại. Do đó lãnh đạo Chi cục thuế nên thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong chi cục mình nhằm tăng cường hiểu biết cho đội ngũ cán bộ để họ có thể tuyên truyền, hướng dẫn một cách chi tiết cho các ĐTNT khi cần thiết, cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa cán bộ thuế và ĐTNT để họ trở thành những người bạn đồng hành đáng tin cậy trong việc thực hiện các luật thuế. 3.3.2. Quản lý đối tượng nộp thuế. Chi cục thuế bằng nhiều hình thức, biện pháp phải phối hợp thường xuyên hơn nữa, chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan chức năng, với chính quyền các xã, thị trấn soát xét tất cả các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh để đưa vào diện quản lý thuế, tránh tình trạng bỏ sót. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục, cơ quan quản lý thu và dưới nhiều hình thức phong phú để tuyên truyền, giáo dục các ĐTNT, giúp họ hiểu biết đầy đủ các chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật để nâng cao ý thức tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN theo quy định của pháp luật. Hướng dẫn kịp thời, đầy đủ các thủ tục kê khai, tính thuế, lập hồ sơ miễn giảm thuế, quyết toán thuế và nộp thuế vào NSNN để các ĐTNT tự giác thực hiện tốt các nghĩa vụ thuế với Nhà nước, giảm thiểu các sai sót do không hiểu biết gây ra. Hướng dẫn ĐTNT thực hiện tốt công tác kế toán, quản lý chặt chẽ hoá đơn chứng từ để hạch toán đúng kết quả kinh doanh và xác định đúng nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Đẩy mạnh triển khai công nghệ tin học vào tất cả các khâu quản lý thuế và đặc biệt là quản lý ĐTNT. 3.3.3. Quản lý doanh thu: Doanh thu là một trong những căn cứ quan trọng để xác định số thuế phải nộp của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh. Một thực tế mà từ trước đến nay chúng ta vẫn thường gặp đó là doanh thu chịu thuế phần lớn không sát với tình hình sản xuất kinh doanh, thậm chí các ĐTNT đã làm mọi cách để giảm doanh thu tính thuế. Theo ý kiến chủ quan của cá nhân tôi, để quản lý thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD thực sự có hiệu quả thì chi cục thuế Hiệp Hoà nên phân loại các doanh nghiệp NQD để dễ dàng quản lý và quản lý chặt chẽ hơn theo chiều sâu, bởi vì công tác kiểm tra đối với mỗi doanh nghiệp là khác nhau, có doanh nghiệp phải dựa vào đặc điểm kỹ thuật, có doanh nghiệp lại dựa vào tính chất hoạt động... Cụ thể đối với một số hình thức kinh doanh như sau: - Đối với hoạt động xây lắp: Quản lý các hợp đồng kinh tế của loại hình này gắn liền với giải trình của đơn vị về tiến độ thực hiện hợp đồng, biên bản nghiệm thu khối lượng công trình hoặc hạng mục công trình hoàn thành bàn giao, biên bản thanh lý hợp đồng, yêu cầu đơn vị viết đầy đủ hoá đơn bán hàng đối với khối lượng hoàn thành bàn giao để theo dõi quản lý chặt chẽ doanh thu và tính thuế GTGT đúng thời điểm. - Đối với ngành XDCB trong dân cư: Qua nghiên cứu báo cáo năm 2004-2005 của chi cục thuế Hiệp Hoà cho thấy việc quản lý thuế GTGT khu vực NQD đối với ngành XDCB đang trong tình trạng thất thu lớn: Theo số liệu thống kê trên địa bàn huyện (phòng thống kê Hiệp Hoà cung cấp), năm 2004 toàn huyện có 142 hộ và năm 2005 có 186 hộ trong dân cư xây dựng nhà cao tầng (từ 3 đến 4 tầng), giá trị công trình bình quân từ 100 triệu đồng đến 150 triệu đồng/ 1 nhà xây dựng. Với mức thuế suất thuế GTGT áp cho ngành XDCB là 10% thì chỉ trong 2 năm qua chi cục thuế Hiệp Hoà đã để thất thu 3.280 triệu đồng, đây là một nguồn thu lớn. Như vậy, nếu chi cục thuế Hiệp Hoà quản lý tốt lĩnh vực này thì hàng năm số thu ngân sách huyện cũng tăng đáng kể. - Đối với ngành kinh doanh xăng dầu: Kiểm tra số lượng tiêu thụ mà cơ sở kê khai với cơ quan thuế và đồng hồ lưu lượng, đồng thời kiểm tra trong sổ sách giao ca với hoá đơn bán hàng... để xác định lượng hàng tiêu thụ. Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo hình thức mua bán giao tay ba để đối chiếu với hợp đồng mua bán của doanh nghiệp, kiểm tra việc thanh quyết toán cước phí vận chuyển và tiền thưởng chiết khấu đơn vị thu được để xác định lượng hàng tiêu thụ mà doanh nghiệp giao tay ba không qua kho. - Đối với doanh nghiệp thương mại và bán hàng đại lý: Tăng cường công tác kiểm tra tờ khai đối chiếu với tổng giá trị hàng bán; so sánh giá bán và giá mua; kết hợp kiểm tra đối chiếu nơi doanh nghiệp khai thác nguồn hàng so với số liệu kê khai của doanh nghiệp; phối kết hợp với cơ quan quản lý thị trường ấn định giá bán thống nhất cho từng loại mặt hàng được trao đổi trên địa bàn huyện. - Đối với ngành hoạt động kinh doanh vận tải NQD: Các doanh nghiệp, HTX kinh doanh vận tải phải tiến hành đăng ký số phương tiện tham gia kinh doanh (được phản ánh trong danh mục tài sản cố định của đơn vị để trích khấu hao); kiểm tra việc gắn doanh số kinh doanh của doanh nghiệp với các chi phí kê đầu vào tập trung vào chi phí xăng dầu, chi phí sửa chữa thông qua chứng từ và bảng kê để xác định đúng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. 3.3.4. Quản lý công tác thu nộp thuế: Để làm tốt công tác quản lý thu nộp thuế đòi hỏi chính sách, chế độ và các biện pháp quản lý thuế phải đơn giản, minh bạch, công khai, dân chủ để nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong xã hội nhằm tuân thủ tự giác các nghĩa vụ về thuế. Doanh nghiệp có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế theo đúng thời gian quy định, Chi cục thuế mà trực tiếp là các cán bộ quản lý phải có trách nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Chứng từ nộp thuế sẽ được chuyển về Chi cục thuế, căn cứ vào chứng từ đó sẽ biết được doanh nghiệp nào đã nộp, doanh nghiệp nào chưa nộp, nộp chậm hay nộp thiếu để đưa ra những biện pháp thích hợp trong quản lý. Chi cục thuế phải tạo các mối quan hệ rộng rãi, phối hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, mà cụ thể ở đây là kho bạc Nhà nước. Chi cục thuế và kho bạc luôn luôn phải phối hợp với nhau để đôn đốc hoặc phát hành thông báo chậm nộp thuế của các đối tượng. Trường hợp đã đôn đốc mà vẫn trây ỳ, cố tình dây dưa không nộp hoặc nộp chậm thì phải có những biện pháp cao hơn như kiên quyết tạm dừng bán hoá đơn, cưỡng chế thuế hoặc phối hợp với đài phát thanh của địa phương thông báo danh sách những tổ chức, cá nhân chưa thực hiện nghĩa vụ thuế, những trường hợp nợ thuế quá lớn, nếu vẫn tiếp tục tái phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp luật đề nghị khởi tố. 3.3.5.Một số giải pháp khác: 3.3.5.1. Tổ chức dịch vụ tư vấn hỗ trợ đối với ĐTNT. Thực tiễn cho thấy, công tác thanh tra- kiểm tra dù có cố gắng đến mấy cũng không thể thực hiện được đối với tất cả các ĐTNT, trong khi đó nếu thực hiện tốt công tác tuyên truyền hỗ trợ đối với ĐTNT chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ ĐTNT được tổ chức tốt sẽ tạo được lòng tin của doanh nghiệp đối với cơ quan thuế cũng như đối với Nhà nước, sự sai sót vô tình hay hữu ý sẽ giảm xuống, chi phí cho việc chấp hành luật thuế (bao gồm cả chi phí quản lý của cơ quan thuế) cũng giảm thiểu. Trước hết nên thay đổi quan niệm cũ, phải coi ĐTNT là khách hàng của cơ quan thuế, nên xoá bỏ quan niệm doanh nghiệp là đối tượng bị quản lý, còn cơ quan thuế là cơ quan cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý các doanh nghiệp. Muốn vậy mỗi cán bộ quản lý phải đặt mình vào vị trí của các doanh nghiệp để tìm hiểu xem doanh nghiệp đang thiếu cái gì? vướng mắc chỗ nào?... Thứ hai: Có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước khác như Nhật Bản: thực hiện “tuần lễ tìm hiểu thuế”, mỗi năm có thể thực hiện một tuần lễ như vậy với những chủ đề khác nhau hoặc nhiều hoạt động xoay quanh một chủ đề được tiến hành như: diễn thuyết, toạ đàm trên tivi, báo chí hoặc qua việc trưng bày tại cơ quan thuế để ý nghĩa và vai trò của thuế được giải thích một cách dễ hiểu nhất. Thứ ba: Thực hiện các chương trình giáo dục về thuế trong nhà trường: cơ quan thuế cần phối hợp với nhà trường dạy cho trẻ hiểu về ý nghĩa và vai trò đúng đắn của thuế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, giúp thế hệ trẻ của chúng ta sớm nhận thức được ý nghĩa và vai trò của thuế trong việc hỗ trợ nguồn thu cho Nhà nước, bằng cách phát hành các tài liệu về thuế, mở các lớp học về thuế, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật thuế và tuyển chọn các bài viết về thuế của học sinh trung học; chú trọng đến khuyến khích khen thưởng cho các học sinh và các trường có trương trình giáo dục thuế tốt, từ đó góp phần rất lớn trong việc chấp hành pháp luật thuế khi tham gia vào hoạt động kinh tế của đất nước, khi đã nhận thức đúng đắn về thuế thì việc nộp thuế sẽ được coi là hành động yêu nước, và cảm thấy tự hào khi được nộp thuế cho Nhà nước. Thứ tư: Thực hiện dịch vụ tư vấn thuế: không giống các hoạt động khác, dịch vụ tư vấn thuế là hoạt động hỗ trợ, phục vụ theo yêu cầu của ĐTNT, khách hàng của phòng tư vấn thuế là những người dân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người thiếu kiến thức về thuế. Nội dung chính của hoạt động này là trả lời các thắc mắc về luật thuế, thủ tục kê khai nộp thuế và các thắc mắc khác của ĐTNT. Qua tư vấn thuế, cán bộ thuế có cơ hội tiếp xúc và gần gũi hơn đối với ĐTNT, tạo được niềm tin của các ĐTNT vào cơ quan thuế. Thực hiện tư vấn thuế có thể có nhiều cách như: “diễn đàn trao đổi về chính sách thuế”, trả lời trực tiếp qua điện thoại hoặc FAX, tóm tắt các câu hỏi thường gặp đưa lên trang Web để những người quan tâm có thể truy cập. Các hình thức này đã được thực hiện nhưng chưa phổ biến, chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn tham gia, còn đối với người dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chưa thực sự hưởng ứng tích cực. 3.3.5.2. Quan tâm đến chế độ thi đua khen thưởng. Công tác thi đua khen thưởng không những phải được thực hiện đối với các cán bộ quản lý thuế có thành tích trong công tác thu thuế mà còn phải chú trọng đến các doanh nghiệp có đóng góp lớn số thuế hàng năm vào ngân sách. Tại chi cục thuế Hiệp Hoà, công tác này đã được thực hiện nhưng còn hạn chế, rất ít những cá nhân, tổ chức được khen thưởng, trong khi đó hàng năm đã có không ít những doanh nghiệp trên địa bàn hoạt động tốt và thực hiện nghĩa vụ thuế đầy đủ, góp phần không nhỏ vào số thu ngân sách hàng năm. Thiết nghĩ, các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước không phải vì mục đích khen thưởng nhưng tâm lý thì bất cứ ai cũng mong muốn mình được khen thưởng. Khen thưởng công khai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, báo chí, đài truyền thanh...thông qua đó có thể nâng cao uy tín của các doanh nghiệp trên thị trường, cho thấy khả năng vững mạnh về tài chính trong việc tìm đối tác cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Đây cũng là một chính sách đòn bẩy kinh tế có lợi cho doanh nghiệp và Nhà nước. 3.3.5.3. Kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ thuế. Một trong những nhân tố quyết định đến mọi thắng lợi phải kể đến nhân tố con người, trong công tác quản lý thuế thì đó là các cán bộ thuế. Cùng với công tác cải cách thuế, bộ máy tổ chức và cán bộ thuế phải được sắp xếp cho phù hợp với quy trình quản lý mới. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ theo hướng tập trung vào các khâu công việc chính, thực hiện tinh giảm biên chế, nâng cao hiệu quả đội ngũ cán bộ thuế ở tất cả các khâu trong quy trình quản lý. Đổi mới công tác quản lý cán bộ theo hướng quy định rõ trách nhiệm của từng cán bộ trên từng vị trí công tác: Tổng cục thuế đã có Quyết định số 1481/TCT- TCCB ngày 21/11/2003 quy định về chức năng, nhiệm vụ của các tổ, đội trực thuộc Chi cục thuế. Đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả công tác, về lượng và chất được giao, coi trọng phẩm chất đạo đức, chính trị, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, thực hiện tốt 10 điều kỷ luật ngành thuế. Tăng cường giáo dục nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ thuế. Cán bộ thuế phải được đào tạo lại chủ yếu các kiến thức về quản lý nhà nước, các chính sách thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, nghiệp vụ kế toán, phát hiện những sai sót, gian lận trong công tác kế toán của doanh nghiệp; tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý thuế theo phương pháp hiện đại, nâng cao trình độ ứng dụng thành thạo công nghệ tin học...đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Nghiên cứu và tăng cường các biện pháp quản lý, thực hiện luân chuyển cán bộ và luôn phân công việc để chống các tiêu cực nảy sinh trong công tác quản lý thuế. Trong quá trình quản lý, cán bộ thuế phải chú ý lắng nghe các thắc mắc, kiến nghị về những bất hợp lý trong việc thực hiện Luật thuế GTGT của các doanh nghiệp, từ đó tập hợp các ý kiến trình lên lãnh đạo để có những phương hướng, giải pháp chỉ đạo kịp thời hoặc có những kiến nghị với các cấp có thẩm quyền nhằm sửa đổi, bổ sung để Luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện hơn. 3.4. Một số kiến nghị. Qua thời gian thực tập tại chi cục thuế Hiệp Hoà tôi thấy nội dung chính sách thuế đang thực hiện thể hiện ưu điểm là cơ bản, song quá trình thực hiện vẫn còn bộc lộ một số vấn đề theo tôi cần kiến nghị như sau: + Về trình độ chuyên môn của cán bộ thuế: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới ngày càng mở rộng, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ 2001- 2010 là đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, tăng trưởng kinh tế ở mức cao, xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hoá kinh tế ngày càng ở mức độ cao, quan trọng hơn nữa là tới đây Việt Nam sẽ gia nhập WTO, đây là một tổ chức thương mại lớn gồm 130 nước trên thế giới, nếu nước ta không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém vươn lên để tồn tại, chiến thắng trong cạnh tranh, sẽ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy việc ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế là vấn đề hết sức cần thiết. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ chi cục thuế Hiệp Hoà còn hạn chế về trình độ hiểu biết và thực thi về chính sách thuế, cũng như trình độ tin học, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý hiện đại, đại bộ phận công việc quản lý thuế vẫn là thủ công cho nên năng suất, hiệu quả quản lý còn thấp; phần lớn cán bộ của Chi cục là bộ đội chuyển ngành, tuổi đã cao, ngoài ra số cán bộ có trình độ trung cấp cũng chiếm tỷ lệ lớn, vì vậy Chi cục thuế cần nâng cao trình độ cán bộ thuế về mọi mặt, có những kế hoạch đào tạo trước mắt cũng như kế hoạch lâu dài để tập hợp được đội ngũ cán bộ với trình độ đại học trở lên. + Đối với công tác thu thuế: Hàng năm trên địa bàn vẫn tồn tại tình trạng thất thu thuế, hiện tượng trốn thuế vẫn thường xuyên xảy ra gây thất thoát cho NSNN, nguyên nhân chủ yếu của thực trạng này là công tác thanh tra- kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta là trình độ dân trí thấp, nhận thức pháp luật chưa cao; chất lượng kiểm tra còn hạn chế, chưa phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Yêu cầu đặt ra đối với ngành thuế nói chung và chi cục thuế Hiệp Hoà nói riêng là phải thường xuyên đẩy mạnh công tác thanh tra-kiểm tra về thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm về thuế; áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hoá đơn, kiểm tra đối chiếu hoá đơn để việc thanh tra- kiểm tra đạt hiệu quả cao; xây dựng và áp dụng các chế tài xử lý và cưỡng chế thuế đối với các hành vi gian lận, trây ì, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế... + Về phương tiện phục vụ công tác thuế: Mặc dù đã được trang bị nhưng với số lượng máy móc thiết bị ít, chất lượng không đảm bảo do đã được trang bị quá lâu, so với hiện tại thì số máy móc này đã quá lạc hậu, đây cũng là một phần nguyên nhân làm cho công tác quản lý thuế kém hiệu quả. Để đảm bảo cho công tác thuế mang lại hiệu quả cao, cơ quan thuế cần có kế hoạch bổ sung, thay thế những thiết bị máy móc cũ kỹ đã lạc hậu. + Theo cơ chế một cửa, cần phải cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTNT. Tại chi cục thuế Hiệp Hoà, điều này chưa được đáp ứng, thể hiện ở chỗ: khâu giải quyết đơn thư khiếu nại, bộ phận tiếp dân còn cồng kềnh, rườm rà, cán bộ tiếp dân chưa đáp ứng được yêu cầu, còn gây phiền hà cho đối tượng. Chi cục thuế Hiệp Hoà cần bố trí những cán bộ có trình độ về chuyên môn cũng như trình độ lý luận để có thể hướng dẫn các chính sách thuế và giải thích những thắc mắc của các đối tượng khi cần thiết. + Công tác thuế là công tác phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau ở rải rác khắp nơi trên địa bàn, hoạt động của cán bộ thuế thì đơn lẻ nên rất dễ xảy ra sai phạm, vì vậy cơ quan thuế cần tăng cường kỷ cương, giám sát, kiểm tra một cách chặt chẽ đối với các cán bộ quản lý, đồng thời tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, phẩm chất, đạo đức cho cán bộ của mình. Trên đây là những đánh giá khách quan của cá nhân tôi, chỉ mong được góp một phần nhỏ bé vào quá trình nâng cao hiệu quả quản lý thuế của Chi cục. Tuy nhiên với trình độ lý luận cũng như khả năng thực tế còn hạn chế rất mong nhận được sự chỉ bảo của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ trong chi cục ! Phần Kết Luận Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như từng bước hội nhập vào tiến trình phát triển trong khu vực và trên thế giới. Việc áp dụng thuế GTGT không chỉ là kết quả của sự chọn lọc các thành tựu kinh tế ở những nước phát triển để áp dụng một cách phù hợp với nền kinh tế nước ta mà còn là một yêu cầu khách quan trong tình hình hiện nay của nước ta. Sau gần 8 năm áp dụng và thực hiện, luật thuế GTGT đã thể hiện được tính ưu việt thực sự của thuế GTGT đối với đặc điểm, tình hình kinh tế nước ta, nhưng qua đó cũng bộc lộ một số vấn đề bức xúc còn tồn tại. Vấn đề đặt ra là nhận biết được những tồn tại đó, tìm ra những giải pháp tích cực nhất để nhanh chóng hoàn thiện và dần đi đến ổn định để thuế GTGT phát huy tác dụng cũng như tính ưu việt một cách hiệu quả nhất đối với nền kinh tế. Qua quá trình học tập và nghiên cứu tại trường Đại học kinh tế Quốc dân cùng với thời gian thực tập tại Chi cục thuế Hiệp Hoà với những kiến thức đã được trang bị ở trường cộng với một số kiến thức thực tế nắm bắt được qua việc nghiên cứu, tìm hiểu ở chi cục thuế Hiệp Hoà, bản thân tôi đã nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết phải đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp NQD trên địa bàn. Trong khi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu tôi đã phân tích, đánh giá một cách rất khách quan những thành tích đã đạt được cũng như khách quan trong việc vạch ra những tồn tại trong công tác quản lý thu thuế GTGT của chi cục. Trên cơ sở đó, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cụ thể cho những tồn tại đó. Tuy nhiên đó cũng chỉ là những ý kiến riêng của cá nhân tôi nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết, vì vậy tôi mong muốn nhận được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến của các thầy cô, của đội ngũ cán bộ công nhân viên và của toàn thể các bạn để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Đức Hiển, ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ chi cục thuế Hiệp Hoà đã hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian qua ! Sinh viên thực hiện Hoàng Thị Tuyến MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5611.doc
Tài liệu liên quan