Mở Đầu
Đất nước ta đang bước vào năm thứ mười sáu của quá trình đổi mới kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986. Trong những năm qua, mọi mặt đời sống kinh tế xã hội được cải thiện đáng kể, tạo cho đất nước ta một diện mạo mới trong mắt bè bạn quốc tế.
Trong những năm tới đây, phát triển kinh tế vẫn là quan điểm chủ đạo của Đảng dựa trên nội lực là chính. Chúng ta đang đẩy mạnh cải cách, phát triển tài chính nhằm tạo dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh, cơ chế tài chính phù hợp với thể chế kinh tế th
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là công nhgiệp hoá, hiện đại hoá, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững; giữ vững an ninh tài chính quốc gia trong phát triển và hội nhập. Mặt khác, Đảng cũng chủ trương phát triển toàn diện giữa nông thôn và thành thị, đồng bằng và miền núi, thu hẹp tối đa khoảng cách giầu nghèo.
Ngân sách nhà nước với tính cách là nội lực tài chính để phát triển, trong những năm qua đã khẳng định vai trò của mình đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế hàng năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Trên tinh thần phát triển kinh tế của Đại Hội Đảng IX, Ngân sách nhà nước hơn lúc nào hết hiểu rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong tình hình mới - là động lực của sự phát triển.
Với chủ trương phát triển toàn diện của Đảng, cấp ngân sách Quận-Huyện đang ngày càng thể hiện rõ chức năng, vai trò, nhiệm vụ của mình trên địa bàn quận, huyện. Ngân sách Quận-Huyện là một cấp ngân sách trung gian, ở giữa ngân sách cấp Tỉnh, Thành phố và ngân sách cấp Xã, Phường. Chính vì vậy mà Ngân sách Quận - Huyện chưa thể hiện được vai trò của mình đối với kinh tế địa phương.
Hiện nay, trên cả nước có 263 đơn vị cấp ngân sách Quận - Huyện. Vừa qua đã có rất nhiều quan điểm, kiến nghị về việc tổ chức, đổi mới lại hệ thống hành chính nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính qủyền. Mỗi phương án đều có những ưu điểm, hạn chế riêng. Tuy nhiên theo em, dù có thay đổi theo phương án nào, Ngân sách nhà nước phải đảm bảo hai nguyên tắc: Tập trung thống nhất và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền.
Sau ba tháng thực tập tại Phòng Tài Chính-Vật Giá, Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức thực tế để củng cố thêm lý luận đã học của mình. Trước những đòi hỏi bức xúc về Ngân sách Quận-Huyện như đã nêu, em đã mạnh dạn đi vào nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội”
Qua việc nghiên cứu đề tài, em đã lĩnh hội được rất nhiêu kiến thức mới về quản lý ngân sách nói chung và ngân sách quận huyện nói riêng, cả về lý luận và thực tiễn.
Em hy vọng rằng, những ý kiến đề xuất nhỏ bé của mình nêu trong đề tài này phần nào giúp cho các cơ quan chức năng trong quá trình kiện toàn Ngân sách Nhà nước, Ngân sách Quận-Huyện.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Trần Đăng Khâm; sự giúp đỡ của các cô chú Phòng Tài Chính-Vật Giá quận Hai Bà Trưng,thành phố Hà Nội; sự nhiệt tình góp ý của các bạn đọc trước những sai sót trong đề tài này.
Chương I: Một vài vấn đề lý thuyết về
Ngân sách Quận - Huyện
I/ Khái quát Ngân sách nhà nước(NSNN).
Khái niệm NSNN .
Quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta không những đòi hỏi sự chuyển đổi thể chế và cơ cấu kinh tế nói chung mà còn đòi hỏi những chuyển đổi cần thiết về cả nhận thức và thể chế tài chính, ngân sách. Việc nhận thức đúng đắn bản chất, chức năng NSNN, sẽ cho phép xác định đúng vai trò, đặt đúng vị trí để sử dụng có hiệu quả công cụ sắc bén NSNN trong điều hành kinh tế vĩ mô. Do vậy, việc nghiên cứu và khẳng định bản chất, chức năng, vai trò của NSNN trong kinh tế thị trường là hoàn toàn cần thiết. Tuy nhiên, trước hết cần phải thống nhất định nghĩa về NSNN để trên cơ sở đó mới có thể nhìn nhận NSNN một cách đúng đắn hơn.
Pháp: “NSNN là văn kiện được Nghị viện hoặc Hội đồng thảo luận và phê chuẩn mà trong đó, các ngiệp vụ tài chính (thu, chi ) của một tổ chức công (Nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị công ) hoặc tư ( doanh nghiệp, hiệp hội) được dự kiến và cho phép”.
Trung Quốc: “NSNN là kế hoạch thu - chi tài chính hàng năm của Nhà nước được xét duyệt theo trình tự pháp định”.
ở Việt Nam, ít nhất cũng có hai định nghĩa khác nhau về NSNN :
Giáo trình lý thuyết tài chính ( 2000- ĐH TC-KT Hà Nội ): “NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu”.
Luật NSNN: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước rong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Hầu hết các khái niệm đều quan niệm ngân sách là kế hoạch thu, chi được xác định trong một thời gian xác định, thường là một năm.
Pháp và Trung Quốc chú trọng đến khía cạnh pháp lý, chỉ rõ những yếu tố căn bản, cụ thể để hiểu một cách thống nhất về NSNN, có lợi cho công tác điều hành. Tuy nhiên, khái niệm có phạm vi hẹp, chỉ nhìn nhận ngân sách dưới góc độ tài chính, kế toán, pháp lý, chưa chỉ ra được bản chất, chức năng, vai trò của ngân sách. Đối với định nghĩa NSNN trong Giáo trình lý thuyết Tài chính mang tính bác học, trừu tượng. Tuy nhiên cách diễn đạt dễ dẫn tới hiểu rằng mọi hoạt động tài chính gắn liền với sự vận động của các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước thì đều thuộc NSNN. Thực tế, các Nhà nước thường định ra nhiều quỹ tiền tệ tuy vẫn tập trung nhưng vẫn để ngoài ngân sách.
Trong khi đa số đều dừng ở khâu dự toán thì quan niệm của Luật NSNN đã đề cập đến khâu lập và thực hiện dự toán ngân sách. Quan niệm của Luật ngân sách là sâu sắc hơn cả, vừa phản ánh được nội dung cơ bản của ngân sách ( toàn bộ các khoản thu, chi ) vừa thể hiện được tính chất “dự kiến” chưa xảy ra của ngân sách (trong dự toán ) đồng thời cũng phản ánh quá trình chấp hành ngân sách ( được thực hiện ); vừa phản ánh tính niên độ của ngân sách ( trong một năm ) đồng thời thể hiện được tính pháp lý của ngân sách ( đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ); vừa thể hiện quyền chủ sở hữu ngân sách (thu, chi nhà nước ) đồng thời cũng thể hiện vị trí, vai trò, chức năng của NSNN (đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ).
Như vậy định nghĩa về ngân sách như trong Luật NSNN sửa đổi năm 1998 là đúng đắn. Định nghĩa này đã nhìn nhận NSNN một cách toàn diện theo nhiều góc độ khác nhau.
Bản chất NSNN.
Lịch sử hình và phát triển của các nước trên thế giới cho thấy NSNN ra đời, phát triển cùng với kinh tế hàng hoá và Nhà nước. Kinh tế hàng hoá và Nhà nước là hai điều kiện tiền đề để cho NSNN ra đời, phát triển. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá và mức độ hoàn thiện của Nhà nước phạm trù NSNN cũng phát triển tương ứng.
Bản chất kinh tế của NSNN là quan hệ kinh tế - tài chính giữa một bên là Nhà nước và bên kia là các tác nhân của của nền kinh tế hàng hoá trong quá trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, phân phối và phân phối lại thu nhập do các tác nhân kinh tế mới sáng tạo ra. Bản chất kinh tế không tách rời bản chất chính trị của NSNN. Bản chất chính trị của NSNN gắn liền với bản chất của giai cấp cầm quyền, NSNN là ngân sách của Nhà nước của giai cấp cầm quyền, do Nhà nước đó mà sinh ra, vì Nhà nước đó mà tồn tại và phát triển. Bản chất chính trị của NSNN giải thích lý do ra đời, điều kiện tồn tại, muc tiêu và sứ mạng mà NSNN phụng sự là lợi ích của giai cấp cầm quyền.
3.Vai trò của NSNN .
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của NSNN là đảm bảo nguồn tài chính thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của thể chế chính trị, là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
3.1 Ngân sách tiêu dùng: Công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước công quyền và bảo vệ tổ quốc .
Như đã trình bày ở trên, NSNN mang bản chất chính trị, có nghĩa là nó thực hiện ý chí của giai cấp thống trị. Do vậy, NSNN phải đảm bảo hoạt động của bộ máy hành chính, công bằng xã hội, duy trì, cải thiện cơ sở hạ tầng, giữ gìn an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội. Chính điều đó đã tạo nên bộ phận ngân sách thường xuyên ( bao gồm cả chi cho cơ sở hạ tầng) của mọi loại hình ngân sách Nhà nước.
3.2 Ngân sách phát triển: Công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Ngoài ngân sách đảm bảo chi thường xuyên, quốc phòng, an ninh là ngân sách can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế dù đó là kinh tế kế hoạch tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo cho Nhà nước chủ động thực hiện chính sách tài khoá nới lỏng hoặc thắt chặt, thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không một Nhà nước nào không sử dụng ngân sách để tác động vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong thực tế, vai trò công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết vĩ mô của một Ngân sách phát triển đã được nhận thức vận dụng rất khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi Nhà nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế của mỗi thời kỳ.
Tất cả những điều đó thể hiện vị trí quan trọng của NSNN với tư cách là một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén, nhạy cảm, hiệu quả để Nhà nước can thiệp, điều chỉnh nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần phải nắm chắc cơ chế tác động của thu, chi ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của NSNN để phát huy vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của NSNN.
3.3 NSNN: Công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Những khiếm khuyết của thị trường là không thể tránh khỏi, Nhà nước cần can thiệp để đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên cần phải có sự thống nhất giữa mong muốn can thiệp với cách thức hoạch định và thực hiên các biện pháp can thiệp nhằm bảo vệ tầng lớp nghèo và công bằng. Việc sử dụng thiếu thận trọng các công cụ tài chính đôi khi lại phủ nhận mục đích và bản chất tốt đẹp của người quyết định.
Thị trường thường xuyên chạy theo mục đích kinh tế không chú ý đến lợi ích cộng đồng, công bắng xã hội, môi trường sinh thái. Khiếm khuyết của thị trường chỉ có thể bù đắp phần nào nhờ vào Nhà nước, nhờ vào hiệu quả sử dụng quyền lực pháp lý, quyền lực kinh tế.
Chức năng của NSNN.
Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các chức năng vốn có của NSNN là điều hết sức quan trọng, bởi điều đó quyết định chất lượng, hiệu quả của các quyết định xây dựng và sử dụng công cụ NSNN trong kinh tế thị trường, tránh được các quyết định chủ quan, duy ý chí- cội nguồn của các sai lầm không đáng có.
4.1 Chức năng phân phối:
Đặc điểm cơ bản của phân phối NSNN:
Thứ nhất, phân phối dưới hình thức giá trị, chủ yếu sử dụng tiền tệ làm đơn vị tính, phương tiện phân phối.
Thứ hai, tham gia không đầy đủ vào quá trình phân phối các yếu tố đầu vào.
Thứ ba, thực hiên phân phối kết quả của quá trình sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ.
Thứ tư, phân phối NSNN tác động đến cả cung và cầu của nền kinh tế gắn liền với sự hình thành và sử dụng quỹ NSNN.
Thứ năm, Nhà nước là chủ thể trong các quan hệ phân phối có liên quan đến NSNN. Nhà nước sử dụng tối đa quyền lực chính trị, quyền chủ sở hữu trong quá trình phân phối NSNN.
Thứ sáu, về cơ bản, quá trình phân phối lại NSNN mang tính không hoàn trả trực tiếp, không phát sinh nghĩa vụ vay trả nợ.
Các đặc điểm trên cho thấy phân phối NSNN làm tăng luồng tiền đầu tư cho sản xuất, tăng mức thu nhập của những người hưởng lương từ NSNN, tạo ra lượng cầu mới cho nền kinh tế. Chính những đặc điểm này, phân biệt phân phối NSNN với phân phối theo cơ chế cạnh tranh thị trường hoặc phân phối theo mệnh lệnh của kế hoạch hoá.
4.2 Chức năng giám đốc.
Giám đốc ở đây được hiểu là giám sát, đôn đốc, kiểm tra bằng tiền, tiến hành một cách thường xuyên, liên tục cùng với quá trình vận động của các đối tượng phân phối NSNN. Giám đốc NSNN thông qua các nghiệp vụ thống kê, kế toán, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra tài chính, chế độ công khai tài chính ngân sách và các phương tiện thông tin đại chúng. Giám đốc NSNN được thực hiện cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả trực tiếp và gián tiếp. Thông qua giám đốc NSNN, Nhà nước kiểm soát tình hình tài chính vĩ mô, Nhà nước xem xét kết quả mức độ thực hiện chế độ, hạn mức tại các cơ sở, đơn vị.
Thực hiện tốt chức năng giám đốc, một mặt, Nhà nước được cung cấp những hình ảnh đúng đắn, trung thực về thực trạng, quá trình diễn biến, xu hướng vận động của NSNN. Mặt khác, trên cơ sở hiệu quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục vững bước hoặc có những điều chỉnh cần thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các mục tiêu chiến lược đã xác định có hiệu quả.
Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước.
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp Ngân sách có quan hệ hữu cơ với nhau và được tổ chức theo nguyên tắc nhất định.
Theo như định nghĩa trên thì việc tổ chức hệ thống Ngân sách là việc giải quyết các mối quan hệ hữu cơ giữa các cấp Ngân sách theo nguyên tắc. Tuỳ theo đặc điểm mỗi quốc gia, tình hình kinh tế xã hội mà hệ thống NSNN được tổ chức theo các cách thức, mô hình khác nhau. Dù hệ thống đó được tổ chức như thế nào đi chăng nữa cũng phải xuất phát từ hai căn cứ:
Thứ nhất, hệ thống NSNN phải phù hợp với cơ cấu hệ thống quản lý. Có nhiều mô hình quản lý khác nhau trên thế giới, mỗi mô hình đều tìm ra cho mình một cách đi riêng sao cho hiệu quả, chính xác.
Thứ hai, Hệ thống NSNN phải phù hợp với trình độ phân cấp quản lý kinh tế giữa các cấp chính quyền Nhà nước.
ở Việt Nam, hệ thống NSNN đựợc tổ chức một cách thống nhất phù hợp với hệ thống quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo hai nguyên tắc:
Nguyên tắc thống nhất .
Đó là sự thống nhất về hoạt động tài chính trong nền kinh tế Quốc dân và tính thống nhất giữa nội dung hoạt động tài chính và các hoạt động kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Toàn bộ các chế độ, chính sách, các nghiệp vụ đều được hoạch định, thực hiên, chỉ đạo sát sao của Chính Phủ. Cơ quan cao nhất có quyền phê duỵệt Ngân sách là Quốc hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ .
Việc xây dựng kế hoạch dự toán Ngân sách từ cơ sở huy động sự tham gia đông đảo của các cá nhân. Đây là nguyên tắc thể hiện bản chất Nhà nước ta là: dân chủ, của dân, do dân và vì dân.
Tổ chức hệ thống NSNN ở Việt Nam.
Việt Nam là một quôc gia thống nhất, hệ thống chính quyền được phân thành bốn cấp. Do vậy, hệ thhống NSNN cũng được phân thành bốn cấp. Ngân sách trung ương đống vai trò chủ đạo, ngân sách xã, phường đống vai trò hạt nhân, Ngân sách tỉnh, huyện đóng vai trò trung gian.
Phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết tất cả các mối quan hệ giữa các cấp chính quyền liên quan đến quản lý và điều hành NSNN.
Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN
Thứ nhất, phân cấp quản lý NSNN phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước.
Thứ hai, phân cấp quản lý NSNN đảm bảo ngân sách TW giữ vai trò chủ đạo và tính độc lập, tự chủ của các cấp Ngân sách địa phương.
Thứ ba, phân cấp quản lý NSNN phải phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định phần trăm các khoản thu.
Nội dung phân cấp quản lý NSNN
Một là, phân cấp về các vấn đề liên quan đến chế độ của NSNN.
Hai là, phân cấp về các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ quản lý và điều hành NSNN, trách nhiệm của các cơ quan chức năng.
Ba là, phân cấp về nội dung thu, chi Ngân sách.
Năm ngân sách và chu trình ngân sách
8.1.Năm ngân sách
Năm ngân sách chỉ khoảng thời gian mà trong đó dự toán thu, chi ngân sách đã được phê chuẩn có hiệu lực thực hiện.
Thông thường trên thế giới năm ngân sách có thời gian là 12 tháng nhưng khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc.
ở Việt Nam, năm ngân sách gồm 12 tháng, bắt đầu từ 1/1 đến 31/12 ( tính theo năm dương lịch ).
8.2 Chu trình ngân sách .
Chu trình ngân sách là quá trình tính từ khi bắt đầu hình thành nên dự toán NSNN của một năm nào đó cho tới khi kết thúc.
Chu trình ngân sách gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Hình thành kế hoạch NSNN ( thu, chi )
Giai đoạn hai: Chấp hành NSNN ( thực hiện kế hoạch thu, chi )
Giai đoan 3: Quyết toán NSNN
II.Cấp ngân sách Quận -Huyện
Khái niêm và lịch sử hình thành.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp , NSNN ta tổ chức thành hai cấp: Ngân sách TW và Ngân sách tỉnh, thành phố. Việc phân cấp như vậy là phù hợp với nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền trong việc huy động tối đa nguồn lực tài chính. ở thời kỳ này, Ngân sách Quận -Huyện đóng vai trò là một cấp dự toán.
Ngày 15 /5 /1978, với chủ chương xây dựng Quận, Huyện thành một cấp có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, có tư cách là một đơn vị kinh tế công nông nghiệp phát triển toàn diện, Hội Đồng Chính Phủ đã ra Nghị Quyết 108 /CP xác định quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương cấp Quận, Huyện về quản lý tài chính, ngân sách. Nghị quyết có quy định các khoản thu, chi Ngân sách Quận- Huyện. Ngày 19 /11 /1983, HĐBT ra Nghị quyết số 138 / HĐBT về cải tiến phân cấp ngân sách địa phương, nói rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Ngân sách Quận -Huyện.
Sau Đại Hội Đảng lần thứ VI , nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN. Cùng với đà đổi mới của nền kinh tế đất nước, Ngân sách Quận -Huyện cũng được xác định lại vai trò, nhiệm vụ của mìmh. Cụ thể, ngày 27 /11 /1989 HĐBT đã ra nghị quyết số 186 /HĐBT vè phân cấp quản lý ngân sách địa phương trong đó có Ngân sách Quận - Huyện. Ngày 16 /2 /1992 HĐBT ban hành Nghị quyết số 186 / HĐBT sửa đổi bổ sung nghị quyết186 / HĐBT ngày 27/11/1989.
Kỳ họp thứ 8 Quốc Hội khoá IX khẳng định: Quận, Huyện là một cấp chính quyền có Ngân sách, Ngân sách Quận -Huyện là một bộ phận hợp thành Ngân sách địa phương thuộc hệ thống NSNN.
Như vậy, Ngân sách Quận -Huyện là một cấp ngân sách thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của NSNN trên phạm vi địa bàn Quận, Huyện.
Khảo sát quá trình hình thành Ngân sách Quận -Huyện, ta có thể thấy Ngân sách Quận -Huyện từ một cấp dự toán đã trở thành một cấp ngân sách có nguồn thu và nhiệm vụ chi riêng. Đó là một lối đi đúng đắn trong quá trình phát triển nền tài chính quốc gia. Trước tiên, nó giúp cho Ngân sách cấp Tỉnh, TW giảm được khối lượng công việc. Tiếp theo, nó giúp cho các cấp chính quyền có thể nắm bắt được tình hình kinh tế nói chung và tài chính nói riêng từ cơ sở.
Ngân sách Quận -Huyện mang bản chất của NSNN, đó là mối quan hệ giữa Ngân sách Quận -Huyện với các tổ chức, cá nhân trên địa bàn quận trong quá trình phân bổ, sử dụng các nguồn lực kinh tế của Quận. Mối quan hệ đó được điều chỉnh, điều tiết sao cho phù hợp với bản chất Nhà nước XHCN. Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của công nhân và nhân dân lao động, bộ phận người chiếm tuyệt đại đa số trong xã hội. Do vậy, lợi ích của Nhà nước XHCN Việt Nam không có gì hơn ngoài mong muốn được phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Có thể nói, việc Ngân sách Quận -Huyện trở thành một cấp ngân sách đã làm cho bộ mặt NSNN mang một diện mạo, sắc thái mới, nền tài chính quốc gia trở nên lành mạnh và hiệu quả hơn. Thực tế đã chứng minh, trong những năm qua, xét riêng ở cấp độ Quận,Huyện, tình hình kinh tế - tài chính có những bước tiến đáng kể. Ngoài ra, Ngân sách Quận -Huyện còn thể hiện bản chất chính trị của Nhà nước ta thông qua việc thực hiện đúng đắn, hiệu quả, có sáng tạo các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã pháy huy được là một loạt những hạn chế cần khắc phục kịp thời, đòi hỏi sự quan tâm, tâm huyết của các cá nhân, ban, ngành phối hợp cùng giải quyết.
2.Vai trò của Ngân sách Quận -Huyện
Như đã nêu trong định nghĩa Ngân sách Quận -Huyện có vai trò của NSNN trên địa bàn Quận, Huyện. Đó là vai trò đảm bảo chức năng Nhà nước ; an ninh, quốc phòng; thúc đẩy phát triển , ổn định kinh tế; bù đắp những khiếm khuyết thị trường, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Ngân sách Quận -Huyện - bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước, bảo vệ an ninh trật tự cấp Quận Huyện.
Là một cấp chính quyền Quận, Huyện cũng tổ chức ra cho mình một hệ thồng các cơ quan, đoàn thể hành chính nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là để cho các cơ quan đoàn thể đó hoạt động được cần phải có một quỹ tài chính tập trung cho nó- Đó chính là Ngân sách Quận -Huyện. Mặc dù không lớn mạnh như ngân sách TW nhưng Ngân sách Quận -Huyện cũng tạo cho mình một vị thế nhất định nhằm chủ động trong việc thực hiện chức năng Nhà nước ở điạ phương. Tuỳ theo phạm vi địa lý, tình hình kinh tế xã hội trên từng Quận, Huyện mà nhu cầu đảm bảo này là khác nhau.
Hiện nay, nước ta có trên 1.380.000 công chức ( số liệu năm 2000 ) đang làm việc trong cả nước. Để duy trì hoạt động của bộ máy này phải tốn một khoản Ngân sách khổng lồ. Nhưng trong khi Nhà nước đang chắt chiu từng đồng thì ở một số đơn vị việc sử dụng Ngân sách vẫn lãng phí, sai phạm. Do vậy, đòi hỏi Ngân sách Quận -Huyện, với tư cách là Ngân sách của các đơn vị cơ sở cần phải quản lý chặt chẽ, cấp phát đúng chính sách, chế độ, hạn mức làm sao cho bộ máy Nhà nước hoạt động tốt mà vẫn tiết kiệm, hiệu quả.
Trong các chức năng của Nhà nước, chức năng đảm bảo an ninh trật tự, quốc phòng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là công cụ quyền lực của Nhà nước, nhằm bảo vệ ý chí của Nhà nước, tạo điều kiện an toàn để Quận, Huyện phát triển mọi mặt. Để đảm bảo cho chức năng đặc biệt này, Ngân sách Quận -Huyện cần phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, có các khoản dự phòng hợp lý.
Ngân sách Quận -Huyện -Công cụ thúc đẩy, phát triển ổn định kinh tế
Để thực hiện tốt chiến lược kinh tế - tài chính của cấp tỉnh, cấp TW, cấp Quận - Huyện cần phải sử dụng các công cụ sẵn có của mình để điều tiết , định hướng. Một trong những công cụ đắc lực là Ngân sách. Sẽ không có một cơ câú kinh tế ổn định, phát triển nếu bỏ qua công cụ này. Các Quân- Huyện phải căn cứ vào thế mạnh của địa phương mình để định hướng, hình thành cơ cấu kinh tế, kích thích phát triển. Đồng thời các Quận -Huyện phải cung cấp kinh phí, vốn đầu tư, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thuế là một phương tiện đắc lực trong điều tiết vĩ mô kinh tế, Quận - Huyện có thể sử dụng công cụ này để điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Ngoài ra cấp Quận -Huyện phải xây dựng cho mình một tiềm lực kinh tế riêng, đó là các doanh nghiệp Nhà nước do cấp Quận quản lý. Loại hình doanh nghiệp này phải đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Quận - Huyên.
Ngân sách Quận -Huyện - Phương tiện bù đắp khiếm khuyết thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, gìn giữ môi trường.
Đây là vai trò không thể thiếu đối với Ngân sách mỗi quốc gia. Nó có tác dụng xoa dịu nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là chạy theo lợi nhuận bất chấp hậu quả. Do đó, một loạt các vấn đề xảy đến: Thất nghiệp, hố ngăn cách giàu nghèo tăng, không quan tâm đến người già, trẻ em, người tàn tật, lừa đảo, chiếm đoạt, môi trường ô nhiễm... Những điều đó tạo ra cho nền kinh tế - xã hội một vực thẳm phía trước. Cấp Quận -huyện theo dõi các báo cáo tổng hợp từ cấp xã, phường phải có biện pháp giải quyết.
Ngoài việc quan tâm đến đời sống vật chất của người lao động, Quận -Huyện phải thường xuyên quan tâm đến đời sông văn hoá, tinh thần của quần chúng, cải tạo các sân chơi, phương tiện giải trí lành mạnh, tiến bộ. Các dịch vụ công cộng như giáo dục, y tế phải giảm được chi phí cho người dân, làm sao để ai cũng được học hành, chăm sóc sức khoẻ đầy đủ.
Chức năng của Ngân sách Quận -Huyện
Ngân sách Quận -Huyện cũng có hai chức năng là phân phối và giám đốc.
3.1 Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện
Thống nhất với chức năng phân phối tài chính nói chung, Ngân sách Quận -Huyện được cụ thể hoá trong phạm vi phân phối Ngân sách của Quân, Huyện. Phân phối Ngân sách Quận -Huyện không chỉ dừng lại ở khâu phân phối thu nhập mà bao gồm cả phân phối các yếu tố đầu vào, cụ thể là phân bổ nguồn tài chính.
Nguồn tài chính phân phối là thu nhập mới sáng tạo ra, phần mà thuộc Ngân sách Quận -Huyện gắn liền với khả năng thu, chi. Thông qua việc hạch toán thu, chi mà Ngân sách Quận -Huyện thực hiện chức năng phân phối của mình với các chủ thể khác của nền kinh tế. Tuy nhiên Ngân sách Quận -Huyện chỉ thực hiện các chức năng phân phối của mình trong giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền Quận- Huyện.
Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện thể hiện ở: Phân phối lần đầu khi tham gia vào quá trình phân chia kết quả sản xuất, với tư cách là chủ sở hữu; Phân phối lại thông qua thuế và chi tiêu.
3.2 Chức năng giám đốc của Ngân sách Quận -Huyện
Song song với chức năng phân phối, chúng ta phải giám đốc thường xuyên, kiểm tra đôn đốc các đối tựong phân phối Ngân sách Quận -Huyện. Chức năng giám đốc gắn liền với chức năng phân phối, thông qua phân phối mà giám sát, kiểm tra; Nhờ có giám sát, kiểm tra mà phân phối có hiêụ quả, chính xác. Ngân sách Quận -Huyện phải tiến hành lập các đoàn thanh kiểm tra, giám đốc từ quá trình hình thành đến quá trình sử dụng, xem xét quá trình đó có tuân thủ đúng chế độ, đúng dự toán được phê chuẩn, có nằm trong khuôn khổ luật pháp không. Đồng thời, phải xem xét kỹ lưỡng tính hiệu quả của Ngân sách.
Nội dung Ngân sách Quận – Huyện
Nội dung của Ngân sách Quận -Huyện bao gồm hai vấn đề cơ bản: Thu Ngân sách và chi Ngân sách
Nội dung thu Ngân sách Quận -Huyện
Đây là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách Quận - Huyện, đóng vai trò quan trọng, quyết định đến khâu sau: Chi Ngân sách. Để đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách cần phải có chính sách thu hợp lý hiệu quả.
Chính sách thu Ngân sách là tập hợp các biện pháp, chủ trương nhằm huy động nguồn thu vào cho NSNN
Vị trí của chính sách thu Ngân sách
Thứ nhất, chính sách thu Ngân sách là một bộ phận trong quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính nói riêng. Việc tăng hay giảm thu ở một lĩnh vực nào đó được thực hiện theo chiến lược phát triển kinh tế, tài chính vĩ mô. Một khi chính sách thu ngân sách thay đổi thì lập tức cơ cấu kinh tế, dù ít hay nhiều cũng có sự chuyển dịch. Bởi vì, đối tượng thu của Ngân sách là rất đa dạng, rộng lớn, phong phú, đặc biệt là nhạy cảm với các chính sách thu (thuế, phí, lệ phí...).
Thứ hai, các chính sách thu của Ngân sách có tác động đến các chính sách quản lý kinh tế, tài chính khác. Dường như vị trí này trùng lắp vị trí trên, nhưng không, nó hoàn toàn khác. Các chính sách kinh tế, tài chính khác ở đây là thuộc các lĩnh vực ngoài Ngân sách (kinh tế, tài chính của các tổ chức, doanh nghiệp...). Do việc có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nên NSNN có thể can thiệp sâu vào doanh nghiệp.
Các quan điểm cần quán triệt khi xây dựng và thực hiện các chính sách thu Ngân sách
Một là, các chính sách thu phải góp phần vào khuyến khích và phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng lưu thông hàng hoá và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Như phần trên đã trình bày, các đối tượng nộp thuế rất nhạy cảm với việc đánh thuế. Thế mà, việc thu thuế là có giới hạn, cónghĩa là, thu bằng thuế chỉ đạt được kết quả tối đa tại một điểm thuế suất nào đó.
Đây là hiện tượng “thuế giết thuế, có nghĩa là với chủ trương tăng thuế để tăng thu Ngân sách, nhưng đến khi thực hiện lại có tác động ngược lại: Sản xuất kinh doanh bị đình trệ, hiện tượng trốn thuế phát triển do tâm lý “lười lao động”.
Hai là, chính sách thu phải đảm bảo tâp trung quản lý hợp lý nguồn thu cho Ngân sách, đồng thời bảo đảm mức sống hợp lý cho các đối tượng dân cư dọ tác động của chính sách thu. Theo quy định của Nhà nước, tất cả các khoản đều được tập trung vào Kho Bạc Nhà nước cùng với sự phối hợp của Ban Tài Chính, cơ quan thuế, Hải quan.
Ba là, chính sách thu phải đảm bảo công bằng xã hội cho các tầng lớp dân cư. ở đây bao gồm cả công bằng theo chiều dọc và công bằng theo chiều ngang. Công bằng theo chiều dọc có nghĩa là đối tượng nào có khả năng nộp thuế nhiều hơn phải nộp nhiều hơn. Công bằng theo chiều ngang có nghĩa là các đối tợng có khả năng nộp thuế như nhau sẽ phải nộp thuế như nhau.
Bốn là, chính sách thu phải đảm bảo tính quần chúng. Do trình độ của các đối tượng nộp thuế là khác nhau, thậm chí chênh lệch rất lớn, việc đưa ra một chính sách thuế quá khó hiểu, phức tạp là một sai lầm. Bởi vì chi phí cho việc tuyên truyền, giải thích chính sách thu đó sẽ rất lớn. Khi đó, chính sách thu có khi lại phản tác dụng. Do đó, nội dung chính sách thu phải đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ dàng được chấp nhân.
Các khoản thu của Ngân sách Quận -Huyện
Theo quy định của pháp luật, Ngân sách Quận -Huyện có các nguồn thu như sau:
*) Các khoản thu 100%
a) Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các hộ sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh gồm:
-Từ bậc 1 đền bậc 3 thu trện địa bàn xã, thị trấn
-Từ bậc 1 đến bậc 6 thu trên địa bàn phường.
b) Thuế sát sinh thu từ các doanh nghiệp giết mổ gia súc trên địa bàn phường.
c) Các khoản phí và lệ phí từ các hoạt động do các cơ quan thuộc cấp Quận - Huyện quản lý.
d) Tiền thu từ hoạt động sự nghiệp của các đơn vị do cấp Quận - Huyện quản lý.
đ) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho cấp Quận - Huyện theo quy định của pháp luật.
g) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước cho Ngân sách Quận –Huyện.
h) Thu từ xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thu từ các hoạt động chống buôn lậu và kinh doanh trái phép luật theo phân cấp của tỉnh.
i) Thu kết dư ngân sách cấp huyện.
k) Bổ xung từ ngân sách cấp tỉnh.
l) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
**) Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách cấp tỉnh và Ngân sách Quận - Huyện và Ngân sách xã, thị trấn, phường.
a) Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
b) Thuế nhà đất.
c) Tiền sử dụng đất.
d) Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa Ngân sách cấp tỉnh và Ngân sách TW, do tỉnh quy định trong phạm vi tỉnh được phân cấp.
e) Các khoản thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; lệ phí trước bạ nhà đất; thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào mặt hàng bài lá; v._.àng mã; hàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát-xa, karaokê, kinh doanh gôn; bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; kinh doanh ca-si-no; trò chơi bằng máy giắc-pót; kinh doanh vé đặt cược, đua ngựa, đua xe (Ngân sách địa phương hưởng 100%). Việc phân cấp cho Ngân sách các cấp ( tỉnh, huyện, xã ) do cấp tỉnh quy định. Riêng tỷ lệ phần trăm phân chia thuế sử dụng đất nông nghiệp cho xã, thị trấn tối đa là 100%, tối thiểu là 20%.
***) Đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Được phân chia thêm một phần theo tỷ lệ phần trăm đối với lệ phí trước bạ không kể lệ phí trước bạ nhà đất phát sinh nộp trên địa bàn và được tiến hành lập quỹ đầu tư theo quy định của Chính phủ.
Nội dung chi của Ngân sách Quận –Huyện
.
Nếu như quá trình thu là quá trình tạo lập, hình thành Ngân sách thì chi Ngân sách là quá trình sử dụng Ngân sách. Nó ngược lại hoàn toàn với quá trình thu nhưng lại chịu sự điều khiển của quá trình thu ( Không thể chi nhiều trong khi thu ít và ngược lại ) đồng thời, lại tạo thêm nguồn thu ( Đầu tư Ngân sách nhàn rỗi vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ).
Chi Ngân sách là quá trình sử dụng quỹ NSNN theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước.
Đặc điểm chi Ngân sách Quận -Huyện
Với tư cách là một quá trình sử dụng quỹ NSNN, chi Ngân sách có các đặc điểm sau:
Một là, chi tiêu Ngân sách luôn gắn liền với các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong mỗi thời kỳ. Đặc điểm này có thể nhìn ra từ vai trò của Ngân sách và bản chất Ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước mang bản chất chính trị, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, ổn định phát triển kinh tế, đảm bảo xã hội ổn định, phát triển.
Hai là, tác dụng của các khoản chi Ngân sách bao giờ cũng được xem xét ở tầm vĩ mô bởi vì thông thường, những khoản chi Ngân sách sẽ phát huy tác dụng trong phạm vi nhất định. Việc chi tiêu Ngân sách Quận - Huyện phải phát huy được tác dụng trong phạm vi Quận, Huyện.
Ba là, tính hiệu quả của các khoản chi được thể hiện toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc điểm này là biểu hiện mối quan hệ giữa tài chính với kinh tế, chính trị, xã hội.
Một số yêu cầu cần đạt được trong quá trình chi Ngân sách.
Thứ nhất, khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả của chi Ngân sách, chúng ta phải xây dựng một loạt các chỉ tiêu, chỉ số bao gồm cả định tính và định lượng. Điều đó sẽ giúp cho các nhà phân tích đúng đắn hơn, đánh giá chính xác hơn tính hiệu của của chi Ngân sách.
Thứ hai, thực hiện chi Ngân sách đúng dự toán, tiết kiệm, hiệu quả.
4.2.3 Nhiệm vụ chi của Ngân sách Quận -Huyện :
*) Chi thường xuyên về:
a) Các hoạt động sự nghiệp GD- ĐT, Ytế thực hiện theo phân cấp của tỉnh.
b) Các hoạt động sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, xã hội và các sự nghiệp khác do cơ quan cấp huyện quản lý.
c) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do cơ quan cấp huyện quản lý:
- Nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi.
- Giao thông.
- Sự nghiệp thị chính.
- Các sự nghiệp kinh tế khác.
- Quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội.
+ Quốc phòng: Giáo dục quốc phòng; tuyển quân và đón tiếp quân nhân hoàn thành nghĩa vụ; đăng ký quân nhân dự bị; huấn luyện dân quân tự vệ.
+ An ninh, trật tự và an toàn xã hội: Tuyên truyền giáo dục quần chúng bảo vệ an ninh; hỗ trợ các chiến dịch giữ gìn an ninh; tổng kết phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc; hỗ trợ trật tự, an ninh cơ sở.
đ) Hoạt động của các cơ quan Nhà nước cấp huyện.
e ) Hoạt động của cơ quan cấp huyện của ĐCS Việt nam.
g ) Hoạt động của cơ quan cấp huyện, của MTTQ Việt nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội CCB VIệt nam, Hội LHPN VN, Hội Nông Dân Việt nam.
h ) Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp cấp Quận - Huyện theo quy định của pháp luật.
i ) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
**) Chi đầu tư phát triển:
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo phân cấp của tỉnh, thành phố.
- Chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập, các công trình phúc lợi công cộng, điện chiếu sáng cấp thoát nước, giao thông nội thị, an toàn giao thông vệ sinh đô thị.
Chi bổ xung cho Ngân sách cấp dưới.
4.2.4 Cấp phát kinh phí, các khoản chi của Ngân sách Quận -Huyện
Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán Ngân sách quý; căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, Phòng Tài chính- Vật giá tiến hành cấp phát kinh phí theo nguyên tắc cấp trực tiếp đến các đơn vị sử dụng Ngân sách và thanh toán trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước cho người được hưởng
Các hình thức cấp phất kinh phí:
a) Cấp phát bằng hạn mức kinh phí
Đối tượng cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí là các khoản chi thường xuyên của các đơn vị dự toán của NSNN , bao gồm :
- Các cơ quan hành chính Nhà nước
- Các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ , chi đủ hoặc gán thu - bù chi.
- Các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp thường xuyên được NSNN cấp kinh phí.
b) Cấp phát bằng hình thức lệnh chi tiền
Đối tượng cấp phát theo hình thức lệnh chi tiền là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội không có quan hệ thường xuyên với Ngân sách , các khoản giao dịch của Chính Phủ với các tổ chức và cá nhân nước ngoài; các khoản bổ sung từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới và một số khoản chi đặc biệt khác theo quyết định của thủ trưởng cơ quan tài chính .
c) Chi cho vay của Ngân sách Quận -Huyện
Đối với các khoản chi cho vay của Ngân sách Quận -Huyện cơ quan tài chính chuyển nguồn cho cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc chuyển tiền theo hợp đồng cho tổ chức được vay trong trường hợp cho vay trực tiếp .
Cơ quan được giao nhiệm vụ cho vay hoặc cơ quan tài chính trong trường hợp cho vay trực tiếp có trách nhiệm quản lý, cho vay, thu hồi nợ gốc, lãi nộp vào NSNN và quyết toán theo chế độ quy định.
d) Chi trả nợ vay của Ngân sách Quận -Huyện
Đối với các khoản chi trả nợ, Chi cục Kho bạc Nhà nước thực hiện thanh toán theo lệnh chi của Phòng Tài chính - Vật giá.
e) Đối với chi sự nghiệp kinh tế:
Cơ quan Tài chính, Kho bạc Nhà nước thực hiện cấp phát, thanh toán theo quy trình cấp phát hạn mức kinh phí trừ một số khoản kinh phí sự nghiệp kinh tế có tính chất đặc thù Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn riêng.
f) Đối với các khoản chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia
Đối với các khoản chi đã giao cho các đơn vị trực tiếp thực hiện thì cấp phát theo quy trình.
Đối với các khoản chi uỷ quyền thì cơ quan tài chính cấp trên chuyển kinh phí uỷ quyền cho cơ quan tài chính cấp dưới để cấp phát .
g) Cấp phát và cho vay vốn đầu tư XDCB:
Thực thiện theo quy trình quy định của Chính Phủ, Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn thêm.
h) Chi bằng hiện vật và ngày công lao động
Đối với các khoản chi Ngân sách bằng hiện vật: Căn cứ vào biên bản bàn giao hiện vật, giá hiện vật được duyệt, cơ quan tài chính quy đổi ra đồng Việt nam để làm lệnh ghi thu, ghi chi Ngân sách gửi Kho bạc Nhà nước để hạch toán thu, chi NSNN .
Đối với các khoản chi bằng ngày công lao động: Căn cứ giá ngày công lao động được duyệt, cơ quan tài chính làm lệnh ghi thu, ghi chi gửi Kho bạc Nhà nước để hạch toán thu, chi Ngân sách
i) Cấp phát kinh phí uỷ quyền:
Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ Ngân sách từ cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Hình thức chuyển kinh phí chủ yếu bằng hạn mức kinh phí. Đối với các khoản chi nhỏ, nội dung chi đã xác định rõ thì có thể chuyển kinh phí bằng hình thức lệnh chi tiền.
k) Cấp phát cho các tổ chức chính trị-xã hội và tổ chức xã hội-nghề nghiệp:
- Đối với các tổ chức chính trị -xã hội:
+ Các tổ chức chính trị -xã hội được Ngân sách bảo đảm cân đối kinh phí hoạt động theo quy định.
+ Sau khi được giao nhiệm vụ chi Ngân sách, từng tổ chức chính trị -xã hội thực hiện phân bổ dự toán Ngân sách (Phần được NSNN cấp ) chi tiết theo Mục lục NSNN hiện hành.
+ Cơ quan tài chính thực hiện cấp phát kinh phí hàng quý cho các tổ chức chính trị- xã hội theo quy trình cấp phát hạn mức kinh phí quy định, trừ các trường hợp đặc biệt thủ trưởng cơ quan tài chính quyết định cấp phát bằng lệnh chi tiền.
- Đối với các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp thuộc đối tượng được Nhà nước tài trợ kinh phí theo quy định:
+ Cấp phát theo hình thức hạn mức kinh phí như các tổ chức chính trị -xã hội nếu là tài trợ thường xuyên.
+ Cấp phát theo hình thức lệnh chi tiền nếu được tài trợ đột xuất theo mục tiêu cụ thể.
Cân đối Ngân sách Quận -Huyện
Cân đối Ngân sách là phương hướng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tạo lập và sử dụng Ngân sách. Căn cứ vào dự toán thu, cơ quan quản lý Ngân sách mới có thể đưa ra được dự toán chi. Vậy chi bao nhiêu để phù hợp với thu: Chi vừa hết, chi thừa, chi thiếu ? Sẽ không có một cách chi nào là phù hợp nếu không quan tâm đến tính hiệu quả của công tác chi. Hiệu quả sễ quyết định !
Tuy nhiên, để an toàn, các nhà hoạch định thường đảm bảo tổng thu lớn hơn tổng chi một lượng nhỏ nào đó để phòng khi có những khoản chi đột xuất xảy đến. Điều 8 mục3 Luật NSNN quy định: “Ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc tổng chi không được vượt quá tổng thu”. Quy định này nhằm đảm bảo tính ổn định cho Ngân sách địa phương.
Với tư cách là một Ngân sách địa phương, Ngân sách Quận -Huyện cũng phải tuân thủ nhũng quy định về cân đối Ngân sách. Hầu hết các Quận - Huyện đều có xu hướng khai thác tối đa nguồn thu trên địa bàn nhằm tạo cho Ngân sách Quận -Huyện đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu phát triển địa phương. Chính vì vậy mà một số Quận - Huyện đã khai thác một số nguồn thu sai quy tắc. Điều này là hoàn toàn cấm kỵ, để có thể cân đối được Ngân sách chúng ta phải tìm các nguồn thu do pháp luật quy định thậm chí có thể đi vay.
Kết dư NS Q_H=Tổng thu Ngân sách Q_H- Tổng chi Ngân sách Q_H
+ Ngân sách bội thu khi kết dư Ngân sách Q_H >0, tức là tổng thu lơn tổng chi.
+ Ngân sách bội chi khi kết dư Ngân sách Q_H<0, tức là tổng thu nhỏ hơn tổng chi
+ Ngân sách cân bằng khi tổng thu = tổng chi: Trường hợp này ít xảy ra.
Trong trường hợp bội chi lớn sẽ có tác động xấu đến nền kinh tế và năm Ngân sách tiếp theo. Thông thưòng thâm hụt Ngân sách xảy ra do các nguyên nhân sau:
Một là, do Quận - Huyện thực hiện một số chủ trương, chính sách trong việc quản lý kinh tế, quản lý tài chính. Mặc dù đã dự toán nhưng do Quận - Huyện không khảo sát hết các khoản chi nên khi thực hiện chính sách xuất hiên các khoản chi vượt dự toán. Nguyên nhân này xuất phát từ khâu lập dự toán.
Hai là, do sự yếu kém trong quản lý và điều hành Ngân sách. Nguyên nhân này là một vấn đề bức xúc hiện nay - Cải cách hành chính. Bộ máy hành chính cồng kềnh, công tác thu chi phải qua nhiều cửa, cán bộ quản lý yếu kém, biến chất, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu.
Ba là, do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên. ở cấp Quận trực thuộc thành phố Hà Nội nên các thiên tai ít xảy ra nhưng không phải là không có: bão, lụt, cháy, nổ... Để khắc phục nguyên nhân này cần có các khoản dự phòng Ngân sách cho các vấn đề thiên tai.
Bốn là, do diễn biến của chu kì kinh doanh. Thông thường chi Ngân sách vận động ngược chiều với chu kì kinh doanh. Khi chu kì kinh doanh đang ở giai đoạn tăng trưởng, phát triển thì chi Ngân sách lại ít, khi chu kì kinh doanh đang suy thoái thì chi Ngân sách tăng vì phải bơm thêm vốn vào nền kinh tế.
Đối với hai nguyên nhân đầu mang tính chủ quan, xuất phát từ việc quản lý Ngân sách. Do vậy, chúng ta phải lập dự toán thật chi tiết từ cơ sở, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực cán bộ quản lý, cải cách hành chính, cải tạo cơ sở hạ tầng. Đối với nguyên nhân thứ ba và thứ tư, chúng ta phải luôn luôn theo dõi diễn biến, phân tích để có thể đưa ra biện pháp phòng chống, khắc phục.
5.Nội dung quản lý Ngân sách Quận –Huyện
ở phần 4 mục II, chúng ta đã nghiên cứu nội dung Ngân sách Quận -Huyện gồm: Thu, chi và cân đối Ngân sách. Tuy nhiên, dưới góc độ quản lý Ngân sách, thì Ngân sách Quận -Huyện bao gồm các khâu sau:
1)_Lập dự toán Ngân sách Quận –Huyện.
2)_Chấp hành Ngân sách Quận –Huyện.
3)_Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận –Huyện.
Quản lý Ngân sách Quận -Huyện là quá trình quản lý hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp Quận; quản lý các khoản thu, chi của Quận - Huyện đã dự toán bởi UBND thành phố và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cấp trên giao và Quận đề ra.
5.1 Lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện
5.1.1 Yêu cầu của việc lập dự toán
Thứ nhất, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải phản ánh đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức, kể cả các khoản thu, chi từ nguồn viện trợ và các khoản vay.
Thứ hai, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải lập theo đúng biểu mẫu, đúng thời gian quy định và phải lập chi tiết theo Mục lục NSNN.
Thứ ba, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải tổng hợp theo từng lĩnh vực thu, chi, theo cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.
Thứ tư, bản báo cáo Ngân sách Quận -Huyện phải kèm theo bản thuyết minh chi tiết các cơ sở, căn cứ tính toán.
Thứ năm, dự toán Ngân sách Quận -Huyện phải đảm bảo cân đối theo nguyên tắc sau: Dự toán Ngân sách của các năm trong thời kì ổn định phải cân bằng giữa thu, chi trên cơ sở số thu của Ngân sách.
5.1.2 Căn cứ lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện
Một là, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô, nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động, điều kiện kinh tế -xã hội và tự nhiên.
Hai là, các luật, pháp lệnh thuế chế độ thu; chế độ, tiêu chuẩn định mức do cấp có thẩm quyền quyết định; các chế độ chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán chi Ngân sách. Trường hợp cần sửa đổi, bổ xung phải được nghiên cứu và ban hành trước thời điểm lập dự toán Ngân sách
Ba là, những quy định về phân cấp quản lý kinh tế- xã hội, phân cấp quản lý Ngân sách.
Bốn là, tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu và mức bổ xung từ Ngân sách cấp trên.
Năm là, chỉ thị của Thủ tướng CP về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và dự toán Ngân sách năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về lập dự toán Ngân sách và văn bản hướng dẫn của các Bộ.
Sáu là, số kiểm tra về dự toán Ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
Bảy là, tình hình thực hiện dự toán các năm trước.
5.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của phòng Tài chính - Vật giá trong việc lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện.
Tổ chức làm việc với UBND cấp dưới, các cơ quan đơn vị cùng cấp về dự toán Ngân sách; có quyền yêu cầu bố trí lại các khoản thu, chi trong dự toán chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn chưa hợp lý, chưa tiết kiệm, chưa phù hợp với khả năng Ngân sách và định hướng phát triển kinh tế -xã hội.
Trong quá trình thảo luận để tổng hợp và lập dự toán Ngân sách, nếu còn có ý kiến khác nhau, cơ quan tài chính ở cấp địa phương phải báo ngay UBND cùng cấp quyết định .
Chủ trì phối hợp với cơ quan kế hoạch và đầu tư, các cơ quan, đơn vị khác liên quan trong việc tổng hợp lập dự toán Ngân sách và phương án phân bổ dự toán Ngân sách của cấp mình.
Phối hợp với cơ quan kế hoạch đầu tư cùng cấp trong việc lập và phân bổ dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung cho từng đơn vị, từng dự án, công trình.
Phối hợp với cơ quan quản lý chương trình quốc gia trong việc lập phương án phân bổ dự toán chi chương trình quốc gia.
Đề xuất các phương án cân đối Ngân sách và các biện pháp nhằm thực hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi Ngân sách.
Phòng Tài chính xem xét dự toán Ngân sách của các đợn vị thuộc Quận - Huyện , dự toán thu do cơ quan thuế lập; dự toán thu, chi Ngân sách của các xã, phường; lập dự toán thu NSNN trên địa bàn, dự toán thu, chi Ngân sách Quận-Huyện ( gồm dự toán Ngân sách cấp xã và dự toán Ngân sách Quận -Huyện), dự toán các khoản kinh phí uỷ quyền trình UBND Quận - Huyện để báo cáo thường trực HĐND xem xét báo cáo UBND tỉnh, đồng gửi Sở Tài chính-Vật giá, Sở Kế hoạch-Đầu tư (phần dự toán Ngân sách theo lĩnh vực, dự toán chi đầu tư XDCB), Sở quản lý ngành, lĩnh vực, cơ quan quản lý chương trình quốc gia của tỉnh (phần dự toán chi chương trình quốc gia).
5.1.4 Phân bổ, giao Ngân sách Quận -Huyện
Sau khi Quận - Huyện nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi Ngân sách của UBND Tỉnh, Thành Phố, Phòng tài chính có tránh nhiệm giúp UBND Quận Huyện trình HĐND Quận Huyện quyết định dự toán thu, chi Ngân sách Quận -Huyện , phương án phân bổ Ngân sách cấp Quận -Huyện; UBND Quận - Huyện có tránh nhiệm báo cáo UBND tỉnh, Sở tài chính - vật giá dự toán ngân sách Quận - Huyện và dự toán phân bổ Ngân sách Quận -Huyện đã được HĐND Quận - Huyện quyết định.
Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND Quận - Huyện, UBND Quận - Huyện quyết định giao nhiệm vụ thu, chi Ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực thuộc Quận - Huyện; nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung Ngân sách cho từng xã, phường.
5.1.5 Điều chỉnh dự toán Ngân sách .
Khi có một số đơn vị dự toán phải điều chỉnh, các đơn vị này phải điều chỉnh dự toán Ngân sách của mình (chủ động hoặc theo yêu cầu của cơ quan tài chính cùng cấp hay cơ quan tài chính cấp trên ), lập dự toán Ngân sách điều chỉnh gửi cơ quan tài chính cấp trên hoặc cùng cấp, cơ quan kế hoạch và đầu tư. Cơ quan tài chính có trách nhiệm báo cáo UBND.
5.2 Chấp hành Ngân sách Quận Huyện.
5.2.1 Dự toán Ngân sách quý
Trên cơ sở nhiệm vụ thu cả năm được giao và nguồn thu dự kiến phát sinh trong quý, cơ thu lập dự toán thu Ngân sách quý có chia ra khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu chủ yếu và hình thức thu, gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Dự toán thu quý gửi trước ngày 10 của tháng cuối quý trước.
Trên cơ sở dự toán chi cả năm được duyệt và nhiệm vụ phải chi trong quý, các đơn vị sử dụng Ngân sách lập dự toán chi quý (có chia tháng ), chi tiết theo các mục trên của mục lục NSNN gửi cơ quan quản lý cấp trên. Cơ quan quản lý cấp trên tổng hợp, lập dự toán chi Ngân sách quý (có chia ra tháng ), gửi cơ quan tài chính đồng cấp trước 10 ngày của tháng cuối quý trước .
Cơ quan tài chính căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi trong quý lập dự toán điều hành Ngân sách quý báo cáo UBND. Trong báo cáo, cân đối Ngân sách phải được lập một cách chắc chắn, đồng thời nêu rõ các biện pháp thực hiện và các kiến nghị cần thiết đối với các cấp có thẩm quyền.
5.2.2 Tổ chức thu Ngân sách Quận -Huyện .
Căn cứ và tờ khai thuế và các khoản phải nộp NSNN của các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ phải nộp Ngân sách , cơ quan thu kiểm tra, xác định số thuế và các khoản phải nộp Ngân sách và ra thông báo thu Ngân sách gửi đối tượng nộp.
Nếu hết thời hạn nộp tiền trong thông báo thu Ngân sách mà tổ chức, cá nhân vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ nộp thì cơ quan thu được quyền yêu cầu Ngân Hàng hoặc Kho Bạc Nhà nước trích số tiền phải nộp từ tài khoản của tổ chức, cá nhân đó để nộp Ngân sách hoặc áp dụng các biện pháp tài chính khác để thu Ngân sách.
Phương thức thu NSNN: Toàn bộ các khoản thu của NSNN phải nộp trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước trừ các khoản dưới đây do cơ quan thu có thể thu trực tiếp song phải định kỳ nộp vào Kho bạc Nhà nước trong thời hạn quy định:
-Thu phí, lệ phí
-Thu thuế Hộ kinh doanh không cố định
-Các khoản thu ở địa bàn xã, nơi không có điểm thu của Kho bạc Nhà nước .
5.2.3 Hoàn trả các khoản thu Ngân sách Quận -Huyện .
Các trường hợp được trả thu Ngân sách là:
+Thu không đúng chính sách, chế độ.
+Trả lại đối tượng nộp theo chính sách của Nhà nước .
Việc hoàn trả các khoản thu Ngân sách được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Một là, Ngân sách Quận -Huyện được hưởng khoản thu này từ cơ quan tài chính cấp Quận - Huyện ra quyết định hoàn trả. Nếu khoản thu đã phân chia giữa Ngân sách các cấp thì cơ quan tài chính ở cấp cao nhất ra quyết định hoàn trả.
Hai là, khoản thu đã hạch toán vào chương, loại, khoản, mục, tiểu mục nào thì hoàn trả từ chương, loại, mục, tiểu mục đó. Trường hợp hoàn trả cho khoản thu đã quyết toán vào niên độ Ngân sách các năm trước cơ quan tài chính ra lệnh cấp hoàn trả vào chương “ Các quan hệ khác của Ngân sách".
Ba là, khoản thu đã hạch toán và quỹ Ngân sách Quận -Huyện thì được hoàn trả từ quỹ Ngân sách Quận -Huyện .
Bốn là, căn cứ vào chứng từ hoàn trả của cơ quan tài chính, Kho Bạc Nhà nước hạch toán giảm thu hoặc hạch toán chi NSNN và thanh toán trực tiếp cho đối tượng được hưởng .
5.2.4 Tăng giảm thu, chi Ngân sách
Số tăng thu hoặc tiết kiệm chi số dự toán được đuyệt được sử dụng để giảm bội chi, tăng trả nợ hoặc bổ sung quỹ dự chữ tài chính, hoặc tăng chi một số khoản cần thiết khác, kể cả tăng chi cho Ngân sách cấp dưới nhưng không được tăng chi về quỹ tiền lương, trừ trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về tiền lương hoặc các khoản trợ cấp, thưởng có tính chất tiền lương.
Nếu giảm thu so với dự toán được duyệt thì phải xắp xếp lại để giảm một số khoản chi tương ứng.
Khi phát sinh các công việc đột xuất như khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và các nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí hoặc bố trí chưa đủ trong dự toán được giao mà sau khi xắp xếp lại các khoản chi, cơ quan chủ quản đơn vị sử dụng Ngân sách không xử lý được thì từng cấp phải chủ động sử dụng dự phòng cấp mình để xử lý. Nếu không còn dự phòng Ngân sách thì sắp xếp lại chi để đáp ứmg nhu cầu chi đột xuất.
5.2.5 Xử lý thiếu hụt tạm thời
Khi xảy ra thiếu hụt Ngân sách tạm thời do nguồn thu và các khoản vay trong kế hoạch tập trung chậm hoặc có nhiều nhu cầu phải chi trong cùng thời điểm dẫn đến mất cân đối tạm thời về quỹ Ngân sách .
Ngân sách Quận -Huyện được vay quỹ dự trữ tài chính của tỉnh theo quyết định của Chủ tịch UBND Tỉnh. Các khoản vay quỹ dự trữ tài chính phải được hoàn trả trong năm Ngân sách. Nếu đến thời hạn mà không trả thì bên cho vay có quyền yêu cầu Kho bạc Nhà nước trích tài khoản của bên vay để trả nợ.
5.2.6 Sử dụng quỹ dự phòng, quỹ dự trữ tài chính.
Dự phòng Ngân sách được sử dụng để khắc phục hậu quả thiên tai, địch hoạ và trong trừơng hợp phát sinh nhu cầu chi cấp thiết chưa được bố trí.
Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng để cho vay hoặc đầu tư .
5.3 Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận -Huyện .
Các cơ quan quản lý Ngân sách Quận -Huyện, các đơn vị dự toán có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác kế toán Ngân sách thuộc phạm vi quản lý, lập quyết toán thu chi Ngân sách, tổng hợp báo cáo quyết toán Ngân sách.
5.3.1 Tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách
Đơn vị dự toán và cấp chính quyền, phải tổ chức bộ máy kế toán Ngân sách. Những cán bộ làm công tác kế toán phải được bố trí theo đúng chức danh tiêu chuẩn quy định của Nhà nước và được bảo đảm quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ.
Khi thay đổi cán bộ kế toán phải thực hiện bàn giao giữa cán bộ kế toán cũ với cán bộ kế toán mới, cán bộ kế toán cũ vẫn phải chịu trách nhiệm về công việc của mình đã làm kể từ ngày bàn giao về trước, cán bộ kế toán mới phải chịu trách nhiệm về công việc của mình kể từ ngày nhận bàn giao.
Khi giải thể, sát nhập hoặc chia tách đơn vị kế toán, thủ trưởng và kế toán trưởng hoặc người phụ trách công tác kế toán phải hoàn thành việc quyết toán của đơn vị cũ đến thời điểm đó.
5.3.2 Khoá sổ kế toán Ngân sách
Hết kỳ kế toán ( tháng, quý, năm ) các đơn vị dự toán và Ngân sách các cấp chính quyền phải thực hiện công tác khoá sổ kế toán.
5.3.3 Báo cáo kế toán thu, chi Ngân sách
Các đơn vị dự toán các cấp phải báo cáo kế toán theo chế độ kế toán hành chính sự nghiệp và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Cơ quan kho bạc Nhà nước tổ chức hạch toán và kế toán xuất, nhập quỹ NSNN theo chế độ kế toán Kho bạc Nhà nước.
Cơ quan tài chính phải tổ chức hạch toán kế toán và báo cáo kế toán thu, chi NSNN theo chế độ kế toán NSNN hiện hành. Hàng tháng, lập báo cáo thu NSNN, chi Ngân sách địa phương gửi UBND và cơ quan tài chính cấp trên.
5.3.4 Quyết toán Ngân sách
Nguyên tắc lập báo cáo quyết toán Ngân sách:
- Số liệu trong báo cáo quyết toán phải chính xác trung thực. Nội dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và phải báo cáo quyết toán chi tiết theo Mục lục NSNN.
- Báo cáo quyết toán năm của đơn vị dự toán gửi cơ quan tài chính phải gửi kèm các báo cáo sau đây:
+ Bảng cân đối tài khoản cuối ngày 31/12.
+ Báo cáo thuyết minh quyết toán năm.
( Báo cáo quyết toán năm phải có xác nhận của Kho bạc Nhà nước)
- Báo cáo quyết toán Ngân sách của các đơn vị dự toán và của các cấp chính quyền không được quyết toán chi lớn hơn thu.
- Cấp dưới không được quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của Ngân sách cấp trên vào báo cáo quyết toán Ngân sách cấp mình.
Phòng Tài chính có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết toán thu, chi Ngân sách cấp Quận - Huyện; tổng hợp báo cáo thu NSNN trên địa bàn; quyết toán thu, chi Ngân sách Quận -Huyện trình UBND Quận - Huyện để gửi Sở tài chính - Vật giá và HĐND Quận - Huyện phê chuẩn. Trường hợp báo cáo quyết toán năm do HĐND Quận - Huyện phê chuẩn có thay đổi so với quuết toán năm do UBND Quận - Huyện đã gửi Sở tài chính - Vật giá thì UBND Quận - Huyện phải báo cáo bổ sung, điều chỉnh gửi Sở tài chính - Vật giá.
Tính tất yếu của công tác quản lý Ngân sách Quận - Huyện
Trong các phần đã nghiên cứu về Ngân sách Quận - Huyện, về vai trò, chức năng, nội dung của Ngân sách Quận -Huyện. Qua đó, ta có thể hiểu rõ được tầm quan trọng, tính phức tạp của Ngân sách Quận -Huyện.
Ngân sách Quận - Huyện là thuộc về chính quyền Quận - Huyện, nó thể hiện tiềm lực tài chính của chính quyền Quận - Huyện. Thế nhưng tiềm lực đó phải tương xứng với nền kinh tế của Quận - Huyện, có nghĩa là phải đủ mạnh, đủ lớn để có thể đáp ứng được các yêu cầu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của Quận - Huyện. Vậy làm cách nào có thể tạo dựng được một Ngân sách Quận -Huyện đủ lớn mạnh để đáp ứng những yêu cầu trên ? Không còn cách nào khác là phải quản lý Ngân sách Quận -Huyện và không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách Quận -Huyện.
Cho nên quản lý Ngân sách Quận -Huyện là tất yếu bởi:
Thứ nhất, không có một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nào tự nguyện nộp thuế cho Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế, phí luôn luôn tìm cách trốn thuế, tránh thuế, lách thuế, thậm chí còn “rút ruột thuế”. Như chúng ta dã biết, trong những năm qua, việc áp dụng thuế giá trị gia tăng khuyến khích xuất khẩu đã tạo ra những “lỗ hổng”, tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng chính sách hoàn thuế đã “rút” ngân sách đền hàng trăm tỷ đồng. Thế mà, thuế lại là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách. Nếu như chúng ta để cho các đôi tượng nộp tự nguyện nộp thuế thì Ngân sách sẽ rỗng không. Lý do này xuất phát từ đặc điểm “không hoàn trả trực tiếp” của thuế. Khác với phí và lệ phi, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp: Nếu như các đối tượng nộp phí, lệ phí thì họ sẽ được hưởng trực tiếp các hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước cung cấp còn thuế thì không, các đối tượng phải nộp thuế mà không thu được bất cứ hàng hoá dịch vụ nào.
Thứ hai, các đối tượng được Ngân sách cấp phát chi sẽ ra sức “rút ruột” Ngân sách để phục vụ cho tổ chức, cá nhân mình mà không nghĩ đến tổ chức cá nhân khác. Đây là hiện tượng làm lãng phí, thất thoát Ngân sách.
Chính vì vậy, chúng ta phải quản lý Ngân sách: quản lý từ các nguồn thu đến các khoản chi.
7. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý Ngân sách Quận -Huyện
Ngân sách Quận -Huyện là một trong các nguồn tài chính trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, nó chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế khách quan.
7.1 Yếu tố giá cả
Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, do vậy nó có tác động mạnh đến Ngân sách. Người ta thường phân tích giá cả thông qua các chỉ số: Lạm phát; chỉ số giá tiêu dùng...
Thông thường, khi lập dự toán, các cấp Ngân sách đều phải quan tâm đến yếu tố giá cả được biểu hiện qua chỉ số lạm phát, nếu không chấp hành dự toán sẽ vấp phải những cản trở khó khăn đó là “vỡ kế hoạch”. Khi lạm phát tăng nhanh, giá cả trượt dài, các khoản thu, chi theo kế hoạch sẽ không thể đảm bảo tính hiệu quả được.
Tuy nhiên, Ngân sách lại có thể điều chỉnh được giá cả thông qua chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và một loạt các công cụ kinh tế vĩ mô khác tác động vào các quy luật kinh tế trên thị trường.
7.2 Các nhân tố tác động đến sự tăng, giảm của tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
Ngân sách có nguồn gốc từ tổng sản phẩm quốc dân do các tổ chức, cá nhân đóng góp mà thành. Do vậy, biến động của tổng sản phẩm quốc dân hay đến nền kinh tế cũng là biến động của Ngân sách.
7.3 Các yếu tố về văn hoá, chính trị, xã hội
Ngày nay, khi thế giới đang chuyển biến manh mẽ theo xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, các sự kiện chính trị diễn ra liên tiếp. Các cuộc chiến tranh đều mang màu sắc văn hoá. Các dân tộc quốc gia đang tìm cho mình những nét riêng, độc đáo khi phát triển và hội nhập. Tất cả các sự kiện đều ảnh hưởng đến nền kinh tế, do đó mà ảnh hưởng đến Ngân sách .
Trong phạm vi Quận - Huyện, Ngân sách Quận -Huyện chịu ảnh hưởng của các chính sách, chủ trương của Đảng là chính. Các yếu tố về văn hoá xã hội cũng đóng một vai trò quan trọng trong quản lý Ngân sách .
Chương II . Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội trong những năm qua (1999-2001 )
Một số đặc trưng về kinh tế, văn hoá, xã hội của Quận Hai Bà Trưng
1.Về địa lý hành chính
Quận Hai Bà Trưng nằm ỏ phía Đông Nam thành phố Hà nội, phía Bắc giáp Quận Hoàn Kiếm, phía Đông giáp sông Hồng, phía Nam giáp Huyện Thanh Trì, phía Tây giáp Quận Đống Đa.
Quận Hai Bà Trưng có diện tích tự nhiên là 1.465,36 ( ha ), trong đó:
-Diện tích đất nông nghiệp: 107,5 ( ha ), chiếm khoảng 7,3% tổng diện tích.
-Diện tích đất đô th: 565 (ha ), chiếm khoảng 38,6% tổng diện tích.
-Diện tích đất lâm nghiệp : 792,86 (ha), chiếm khoảng 54,1% tổng diện tích, trong đó:
+Đất chuyên dùng:683 (ha)
+Đất chưa sử dụng: 109,86 (ha )
2. Về kinh tế
Cơ cấu kinh tế của Quận chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ được bố trí tương đối đồng đều giữa các khu vực, trong ._.ước. Các khoản đóng góp của dân được HĐND phường quyết định phải được phản ánh vào tài khoản thu Ngân sách tại Kho bạc Nhà nước. Các khoản thu phí và lệ phí cũng cần được thống nhất cả về mức thu, biện pháp quản lý thu, quy trình thu, nộp từng khoản thu Ngân sách vào Kho bạc Nhà nước. Đối với các khoản thu ngoài phạm vi luật định không đưa vào cân đối Ngân sách như các khoản do dân tự nguyện đóng góp hình thành các quỹ để thực hiện các công việc vì lợi ích chung của cộng đồng thì không nhất thiết phải phản ánh vào tài khoản thu Ngân sách Nhà nước mà chỉ cần mở tài khoản tiền gửi theo dõi riêng tại Kho bạc Nhà nước Quận là đủ. Các quỹ an ninh, quốc phòng, quỹ từ thiện không phản ánh vào Ngân sách phường mà thực hiện theo quy chế dân chủ. Các khoản thu này phải được dân bàn bạc công khai từ khâu lập dự toán đến quyết định mức huy động, hình thức huy động, mục đích sử dụng vốn. Chứng từ thu Ngân sách phường bằng tiền mặt cũng nên quy định lại giao cho ban tài chính thực hiện.
Hai là, về chi Ngân sách phường cũng giữ vai trò quan trọng không kém nhiệm vụ thu Ngân sách. Thực hiện chi đúng, đủ, kịp thời sẽ tạo điều kiện cho việc ổn định kinh tế xã hội, trật tự an ninh trên địa bàn phường, góp phần thực hiện được tính dân chủ công khai và mục tiêu về công bằng văn minh sẽ trở thành hiện thực. Để đạt được những mục đích này về chi Ngân sách phường cần giải quyết hai vấn đề:
+ Có chế độ chi tiêu tài chính riêng cho phường để tránh tình trạng chi tiêu tuỳ tiện, bởi vì phường là một cấp Ngân sách đồng thời là một đơn vị dự toán trực tiếp NSNN, do đó có các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu tài chính như chi về y tế, giáo dục, văn hoá thông tin, ... như vậy mới có các căn cứ quản lý cấp phát thanh toán và kiểm tra giám sát.
+ Thay đổi phương thức cấp phát lệnh chi tiền hiện nay bằng phương thức cấp phát bằng hạn mức kinh phí ( trừ trường hợp đặc biệt: thiên tai, địch họa bắt buộc phải cấp phát bằng lệnh chi tiền ), bởi lẽ nếu cấp phát bằng lệnh chi tiền theo chế độ quy định thì Kho bạc Nhà nước không kiểm soát chi mà chỉ thực hiện cấp quỹ Ngân sách theo lệnh chi của cơ quan chuẩn chi sẽ tạo ra những sơ hở trong quản lý. Mặt khác, cấp phát bằng lệnh chi tiền sẽ gây ra những phiền hà và phức tạp trong quản lý do làm thêm khối lượng công việc ghi chép sổ sách và chứng từ kế toán. Hơn nữa, mỗi lệnh chi tiền chỉ giải quyết cho một chương và có rất ít dòng trong khi hàng tháng, phường phát sinh nhiều khoản chi có liên quan đến nhiều chương. Do vậy, làm tăng số lượng chứng từ chi Ngân sách Nhà nước .
Ba là, phải sửa đổi bổ sung những vấn đề nghiệp vụ chuyên môn có liên quan để phục vụ tốt cơ chế quản lý sửa đổi về thu chi Ngân sách phường.
9. Nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên, không ngừng đào tạo mới và đào tạo lại nguồn nhân lực. Như chúng ta đã biết, cải cách hành chính và cải cách tài chính có trọng tâm là cải cách con người. Kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng hiện đại, phức tạp, do đó, cán bộ quản lý Ngân sách phải đủ trình độ và đạo đức tốt.
Trong những năm qua đã không ít những trường hợp thất thu, chi sai, nhằm tư lợi có " bàn tay" của cán bộ quản lý Ngân sách. Do đó, bên cạnh việc đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên phải quan tâm đến tư cách đaọ đức nữa. Các cán bộ cần có tư cách liêm khiết, chí công vô tư, phục vụ hết mình vì tập thể, vì nhiệm vụ. Bên cạnh đó Ban kiểm tra luôn luôn phải theo dõi giám sát việc quản lý Ngân sách để trình HĐND xử lý kịp thời. Để có thể tạo dựng được đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài chúng ta thường phải có biện pháp giáo dục, đào tạo khoa học cho cả lực lượng mới và lực lượng cũ. Đối với các cán bộ cũ, hầu hết đã trải qua thời kì kinh tế tập trung bao cấp, thường đã có tư chất cách mạng tốt, giờ đây cần phải bồi dưỡng những kiến thức mới, hiện đại bằng các hình thức: chuyên tu, tại chức, cao học,... Đối với các cán bộ mới - chủ yếu là học sinh, sinh viên cần chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho họ. Học sinh, sinh viên ngày này ham học hỏi, chịu khó, dễ tiếp thu với những cái mới, không còn phải nghi ngờ gì về trình độ , khả năng làm việc của họ. Tuy nhiên, do tiếp xúc với nền kinh tế thị trường nên tư tưởng " vật chất", thực dụng có ảnh hưởng rất lớn đến con người họ. Do vậy, cùng với nhà trường, các cơ quan phải giáo dục, giúp đỡ họ thật nghiêm khắc, nhiệt tình. UBND và HĐND Quận cũng như các cơ quan quản lý Ngân sách phải luôn có chế độ chính sách thu hút nhân tài thông qua cơ chế tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi, điều kiện sống và làm việc. Cuối cùng, bản thân các cán bộ đang làm cũng như đang học công tác quản lý Ngân sách phải luôn trau dồi đạo đức, nghiệp vụ của mình. Cán bộ nhân viên quản lý Ngân sách phải luôn nhớ rằng mình đang quản lý Ngân sách mang bản chất XHCN, thành quả ngày hôm nay được đánh đổi bằng máu của rất nhiều đồng bào, chúng ta phải biết trân trọng phát triển nó.
III.KIến NGHị Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận là một tất yếu, do đòi hỏi của thực tiễn khách quan. Các cơ quan quản lý Ngân sách Quận cần hiểu rõ và từng bước nhanh chóng nâng cao chất lượng quản lý và điều hành Ngân sách. Tuy nhiên, không chỉ ở các Quận, để có thể thực hiện tốt công tác khó khăn này đòi hởi phải có sự tham gia, góp ý của toàn thể các ban ngành chức năng và quần chúng nhân dân. Do vậy, em xin đưa ra một số kiến nghị sau nhằm nâng cao hiều quả công tác quản lý cấp Quận:
1. Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước tạo thế chủ động tối đa cho chính quyền cơ sở nói chung và chính qưyền Quận nói riêng.
1.1 Về các cấp ngân sách trong hệ thống phân cấp ngân sách Nhà nước và Ngân sách địa phương. Tranh luận về các cấp ngân sách đã từng kéo dài nhiều năm ở nước ta, thực tiễn đang đặt ra vấn đề phải xem lại các cấp Ngân sách. Cơ chế phân cấp quản lý NSNN giữa các cấp chính quyền địa phương nên thiết lập như sau: - Đối với địa bàn các thành phố trực thuộc TƯ hệ thống NSNN nên bao gồm 3 cấp TƯ, Thành phố trực thuộc TƯ, Quận. Cấp phường sẽ không còn tồn tại để đảm bảo khả năng quản lý của cấp quận. Khi đó có 2 hướng sử lý: + Một là, phải có nhiều Quận hơn để có quy mô nhỏ hơn và trong hướng này các nguồn thu và nhiệm vụ chi của cấp quận thay đổi về cơ bản do gộp cả phần đã phân cấp cho phường trước đây. + Hai là, quy mô các quận vẫn được giữ nguyên và trong Quận có các địa bàn nhỏ hơn, mỗi địa bàn có đại diện hành chính của Quận. Trong trường hợp này đại diện hành chính của quận chỉ là một đơn vị dự toán (thuộc Ngân sách cấp quận ). 1.2 Xác định thẩm quyền của quốc hội trong việc quyết định dự toán, phân bổ dự toán và phê chuẩm quyết toán Ngân sách. Để khắc phục tính trùng lắp và chồng chéo trong việc quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách của Quốc hội và HĐND các cấp xin đề xuất biện pháp sau: Nhà nước sửa đổi cơ bản các điều có liên quan của Hiến Pháp năm 1992 và sửa đổi cơ bản Luật NSNN. Theo đó, Quốc hôi chỉ quyết định dự toán Ngân sách TƯ và phân bổ Ngân sách TƯ ( chứ không quyết định NSNN một cách tổng thể như hiện hành nữa). Đây là biện pháp khá căn bản về cơ chế quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách ở cả cấp TƯ và cấp địa phương với định hướng như sau:
Thứ nhất, Quốc hội quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách TƯ cho từng Bộ, cơ quan TƯ; quyết định bổ sung từ NSNN cho Ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ; thông qua báo cáo tổng hợp dự toán NSNN. Tương tự, về quyết toán, Quốc hội phê chuẩn quyết toán Ngân sách TƯ và thông qua báo cáo tổng hợp quyết toán NSNN. Thứ hai, Quốc hội quyết định các chương trình dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng được đầu tư từ nguồn Ngân sách TƯ.
Thứ ba, Quốc hội quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách TƯ trong trường hợp cần thiết. Thứ tư, HĐND quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách cấp mình, không bao gồm Ngân sách cấp dưới. HĐND phê chuẩn Ngân sách cấp mình và thông qua báo cáo tổng hợp Ngân sách cấp mình và cấp dưới; điều chỉnh dự toán Ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm trong biện pháp này là: Khi HĐND các cấp hoàn toàn tự chủ quyết định Ngân sách cấp mình thì vai trò quản lý vĩ mô của các cơ quan thuộc Quốc hội, Chính phủ có bị giảm đi không? Có đảm bảo được nguyên tắc tập trung trong quản lý Ngân sách hay không? Sẽ không đáng lo ngại về vấn đề này, vì Quốc hội đã quyết định dự toán và phân bổ Ngân sách TƯ là ngân sách chủ đạo của cả nước một cách trực tiếp, đồng thời đã quyết định mức bổ sung từ Ngân sách TƯ cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ và thông qua báo cáo tổng hợp dự toán NSNN, thì vẫn bảo đảm dược yêu cầu quản lý vĩ mô và tính thống nhất của nền tài chính Quốc gia. Mặt khác, Quốc hội và các cơ quan TƯ còn có quyền thực hiện chức năng giám sát tình hình chấp hành Ngân sách địa phương, có quyền ban hành các chính sách chế độ, tiêu chuẩn, định mức thống nhất trong cả nước, buộc các địa phương phải chấp hành. Hơn nữa, cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên (bao gồm cả cấp TƯ) vẫn đảm đương nhiều nhiệm vụ kinh tế- xã hội tại địa phương và đây cũng là vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội tại địa phương.
Trong trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên chuyển kinh phí từ Ngân sách cấp trên uỷ quyền cho cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó. Như vậy, việc HĐND các cấp hoàn toàn tự chủ quyết định Ngân sách cấp mình không làm giảm vai trò quản lý vĩ mô của các cơ quan quản lý cấp trên, cũng như không làm giảm tính tập trung thống nhất.
1.3 Hoàn thiện cơ chế phân cấp nguồn thu nhiệm vụ chi cho các cấp Ngân sách theo hướng rõ ràng, ổn định, phù hợp trong tình hình mới. Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương cần ổn định lâu dài, đặc biệt chú trọng cơ chế cho phép các địa phương, cơ sở mở rộng thêm nguồn thu tuỳ theo khả năng đặc thù của mình, phù hợp với quy định của pháp luật. Cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi nên thực hiện như sau: +Về phân cấp nguồn thu: Luật NSNN đã xác định cụ thể các khoản thu từng cấp Ngân sách được hưởng 100%, các nguồn thu điều tiết... Tuy nhiên, những hạn chế của việc phân cấp này cho thấy cần phải hoàn thiện cơ chế này theo hướng.
Thứ nhất, nguồn thu Ngân sách mỗi cấp được hưởng 100%. Đây được coi là nguồn thu chủ yếu của các cấp Ngân sách, vì vậy, cần phân cấp mạnh hơn nguồn thu này cho Ngân sách cấp dưới. Mở rộng danh mục đối tượng thu cho Ngân sách cấp Quận. Phường và tương đương trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại... với thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, nên mạnh dạn phân cho hai cấp là Quận và Phường và để đáp ứng nhu cầu chi tại cơ sở và khuyến khích quan tâm tới các nguồn thu này.
Thứ hai, với nguồn thu phân chia giữa các cấp Ngân sách cần hòan thiện thiện hướng: Giảm số lượng các khoản thu phân chia giữa Ngân sách các cấp. +Về phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp Ngân sách: Trước hết, cần rà soát lại toàn bộ các quy định về phân cấp quản lý kinh tế- xã hội hiện hành để xác định rõ các nhiệm vụ quản lý giữa các cấp chính quyền. Trên cơ sở đó sẽ thực hiện việc sửa đổi cơ chế phân cấp nhiệm vụ chi theo 3 nhóm:
*) Nhóm 1: Nhóm các nhiệm vụ chi cấp trên chi phối và đảm nhận 100%. Đây là những nhiệm vụ được phân cấp gắn với vai trò chủ đạo, chi phối và điều tiết của Ngân sách cấp trên đối với Ngân sách cấp dưới. **) Nhóm 2: Nhóm các nhiệm vụ chi cấp dưới phải đảm nhận 100% gắn trực tiếp với sự chỉ đạo của chính quyền địa phương cấp dưới. Đây là nhiệm vụ chi có tính chất địa phương rõ nét, sát sườn. Cơ sở có điều kiện chăm lo và khả năng thực hiện tốt hơn cấp trên.
***) Nhóm 3: Nhóm các nhiệm vụ chi liên đới giữa cấp trên và cấp dưới: Thành phố trực thuộc TƯ với các địa phương. Khi đã phân cấp thì phải phân cấp "trọn gói". Đơn vị thuộc cấp nào quản lý thì Ngân sách đài thọ toàn bộ. Khắc phục tình trạng một đơn vị, một nhiệm vụ mà có nhiều cấp cùng quản lý, cùng chi.Việc phân định nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền cần phải được quy định trong các Luật và phải được chi tiết hoá bằng hệ thống văn bản pháp quy chặt chẽ và thống nhất.
1.4 Xây dựng hệ thống định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp. Để có hệ thống định mức tiêu chuẩn chi tiêu Ngân sách phù hợp cần thực tốt những yêu cầu sau: - Khẩn trương rà soát các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu; xoá bỏ các định mức, tiêu chuẩn chi lạc hậu; ban hành đủ các định mức có tính khoa học và khả thi cần thiết cho quản lý tài chinh, Ngân sách. - TW chỉ ban hành các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức chủ yếu, quan trọng thống nhất trong phạm vi toàn quóc, còn địa phương quyết định các định mức phân bổ Ngân sách cho sự nghiệp giáo dục, y tế, sinh hoạt cho cán bộ phường trên cơ sở khung của TƯ. Các định mức này phải tính theo các đồi tượng phục vụ cụ thể. Tất nhiên để đảm bảo tính thống nhất của nền tài chính Quốc gia, ngoài các chế độ đã được TƯ phân cấp, địa phương chỉ được quy định chế độ chi riêng theo yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Trong trường hợp này phải đảm bảo:
+ Phải thực sự là yêu cầu cần thiết của địa phương, cơ sở nhằm thúc đẩy nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. + Phải đảm bảo sự hài hoà với các chế độ của TƯ + Khả năng thu cân đối nguồn bằng cách tăng thu, tiết kiệm chi nhưng không ảnh hưởng đến các nguồn chi đã quy định Quy định sự phối hợp giữa các cơ quan và các cấp, ngành đảm bảo chế độ, tiêu chuẩn, định mức ban hành sát với thực tế, có tính khả thi cao không những phù hợp với điều kiện đặc thù chi của từng ngành, từng lĩnh vực mà còn với điều kiện địa lý, kinh tế- xã hội của từng vùng.
1.5 Hoàn ttiện cơ chế nổ xung cho Ngân sách Địa phương. Xuất phát từ tình hình cụ thể ở Việt Nam, cần hoàn thiện cơ chế bổ xung cho Ngân sách địa phương như sau: + Đối với việc bổ xung Ngân sách địa phương như sau: Cơ chế này chỉ áp dụng đối với các địa phương được xác định là thu thường xuyên không đủ chi thường xuyên. Do đó, còn gọi là cơ chế bổ xung ( hỗ trợ ) chi thường xuyên. Mục tiêu bổ xung, chi thường xuyên lả để đảm bảo cho tất cả các địa phương có đủ nguồn kinh phí trang trải các nhiệm vụ chi thường xuyên theo đúng các chế độ, tiêu chuẩn, đúng mức đã được cấp trên ban hành. Nhưng do các dịa phương có các điều kiện tự nhiên, kĩ thuật - xã hội khác nhau , cho nên cần cộng thêm hệ số cho từng vùng để đảm bảo công bằng. + Đối với cơ chế bổ xung có mục tiêu: Bổ xung có mục tiêu phải căn cứ vào một số yêu cầu: Mức thu nhập bình quân đầu người cả nước; Căn cứ vào số thu (thuế )bình quân đầu người cả nước có tổng thu Ngân sách địa phương và của từng địa phương; căn cứ vào chính sách phát triển vùng động lực, khuyến khích và tạo iều kiện cho các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kĩ thuật - xã hội ở các địa phương đặc biệt khó khăn. Riêng đối với những địa phương có nguồn thu khá, thừa khả năng đảm bảo chi thường xuyên và một phần chi đầu tư phát triển thì Nhà nước có thể xem xét bổ xung một phần cho những công trình trọng điểm với quy mô lớn, đồng thời khuyến khích khai thác để thu hồi vốn...
1.6 Hoàn thiện quy trình Ngân sách địa phương theo hướng tăng cường tính độc lập tương đối của địa phương. Muốn đảm bảo tính độc lập tương đối của địa phương trong việc lập, quyết định dự toán, phân bố và phê chuẩn quyết toán Ngân sách địa phương, thì ngoài việc quy định Quốc Hội chỉ quyết định và phân bổ dự toán Ngân sách TƯ, HĐND quyết định và phân bổ dự toán Ngân sách địa phương, về phía Chính Phủ cần phải bỏ cơ chế giao chỉ tiêu nhiệm vụ thu, chi cho các địa phương, thay vào đó là cơ chế thu, chi theo luật - địa phương phải chấp hành, bởi vì, thu theo kế hoạch là nếp làm quyen thuộc của thời kì nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, điều này dễ dẫn đến khả năng lạm thu, không khuyến khích tích tụ vốn để đầu tư phát triển, nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài
1.7 Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý thu, chi Ngân sách phường
Muốn thực hiện phân cấp thu, chi cho Ngân sách phường có hiệu quả phải nhận thức đúng về Ngân sách phưòng, phải có sự quan tâm thường xuyên, chỉ đạo kịp thời của các cấp chính quyền, bảo đảm thực hiện chặt chẽ nghiêm túc các nhiệm vụ, chế độ, tiêu chuẩn định mức thu, chi Ngân sách phường.
Đổi mới quy trình thu thuế đối với các với các doanh nghiệp nhằm nâng cao ý thức tự khai, tự tính, tự nộp cho doanh nghiệp
Ngiên cứu kết hợp tờ khai thuế đồng thời với việc thanh toán thuế, tiến tới bỏ thông báo thuế, nâng cao ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp, giảm chi phí hành thu thuế. Hệ thống chính sách , thủ tục và các mẫu biểu quy định về thuế cần được nghiên cứu cải tiến thống nhất, đơn giản, dẽ hiểu để các doanh nghiệp có thể thực hiện việc tự tính tự khai thuế của mình một cách chính xác, đầy đủ và dễ dàng hơn.Tổ chức sắp xếp lại bộ máy nghành thuế, bổ xung lực lượng cho đội ngũ cán bộ thanh kiểm tra thuế, nâng cao chất lượng đội ngũ này. Bên cạnh đó, cần tăng mức phạt và xử lý thật nghiêm những trường hợp vi phạm chế độ kê khai nộp thuế, cần giao quyền cho cơ quan thuế khởi tố vụ án các vi phạm nghiêm trọng của Luật thuế. Thành lập bộ phận dịch vụ thuế của các doanh nghiệp tại các Cục thuế với chức năng giải thích, hướng dẫn, trả lời các vướng mắc về chính sách cũng như các thủ tục kê khai, tính thuế. Bên cạnh đó, cần phát triển dịch vụ tư vấn thuế. ở nứoc ta dịch vụ này còn khá mới mẻ và chỉ có ít một số công ty tư vấn tài chính thực hiện tư vấn thuế giúp ngưòi được tư vấn khai thuế sao cho số thuế phải nộp đúng theo Luật và có thể "tiết kiệm"chi phí về thuế. Trên thực tế, có nhiều doanh ngiệp kinh doanh nhiều ngành hàng khác nhau trong khi hệ thống thuế chưa đảm bảo được yêu cầu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm thì tư vấn thuế là hết sức cần thiết.
Cần ban hành Luật kế toán để các doanh nghiệp thực hiện chế độ sổ sách chứng từ kế toán theo Luật, cơ quan thuế có căn cứ xác định nghĩa vụ thuế cũng như thuận lợi trong việc điều tra, xử lý vi phạm về thuế. Cơ quan thuế cần trang bị phương tiện làm việc hiện đại như máy tính và tiến hành kết nối thông tin với KBNN. Mặc dù đây là một việc làm cần nhiều chi phí nhưng sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác quản lý thuế.
3. Tăng cưòng thanh tra tài chính. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, nền kinh tế đang vận theo cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh kinh tế, nên định hướng của công tác thanh tra nói chung, công tác thanh tra tài chính nói riêng không thể vượt ra ngoài phạm vi chung nhất về phương pháp quản lý một nền kinh tế thị trường. Công tác thanh tra tài chính phải được phát triển để đáp ứng yêu cầu của Nhà nước về quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế. Thanh tra Tài chính tuy trực thuộc Bộ Tài chính nhưng là thanh tra chuyên lĩnh vực Tài chính, khác với thanh tra nghành, ví dụ như thanh tra Ngân hàng. Công tác thanh tra, kiểm tra Tài chính có thể thực hiện ở hầu hết các nghành các cấp, các đơn vị cơ sở nhằm đảm bảo pháp luật, chế độ tài chính- kế toán được chấp hành nghiêm chỉnh, giữ vững sự lãnh đạo vĩ mô của Nhà nước. Do vậy, thanh tra Tài chính cần sớm được kiện toàn về mọi mặt cả về tổ chức cũng như số lượng và chất lượng thanh tra viên. Đặc biệt là trontg tình hình hiện nay, khi mà nạn tham nhũng, nạn lãng phí của công đang trở thành quốc nạn; hiện tượng mất dân chủ ở địa phưong và cơ sở có nơi khá gay gắt thì cồng tác thanh kiểm tra, giám sát càng cần nhanh chóng kiện toàn để trở thành công cụ quản lý sấc bén của Nhà nước.
Công tác thanh tra Tài chính thời gian tới càng tập chung thì hiệu quả càng cao. Hiện tại, theo cơ cấu tổ chức, ngoài thanh tra Tài chính ở Bộ Tài chính còn có thanh tra thuế, thanh tra Kho bạc. Các hệ thống thanh tra này hoạt động chưa có sự gấn kết với nhau, đôi khi còn chồng chéo dẫn tới giảm hiệu lực của công tác thanh tra. Đi đôi với kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của thanh tra Tài chính, pháp lệnh thanh tra được ban hành từ những năm 1990 đến nay cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế càng được sửa đổi. Pháp lệnh sửa đổi cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra, tránh tình trạng người đi thanh kiểm tra về Tài chính - kế toán lại không am hiểu gì về công tác Tài chính -kế toán . Việc lựa chọn cán bộ làm cồng tác thanh tra và nâng cao năng lực thanh tra viên nhằm nâng cao uy tín của tổ chức thanh tra củng là một trọng tâm mà thời gian tới phải làm .
4. Công khai Ngân sách Công khai Ngân sách là một nội dung quan trọng trong tiến trình cải cách Ngân sách nằm đánh giá, kiểm tra, quản lý Ngân sách một cách khách quan. Ngày 20/11/1998, TTCP đã ra Quyết định số 225/1998/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế công khai Tài chính đối với NSNN các cấp đơn vị dự toán Ngân sách, các doanh nghiệp Nhà nước và các quỹ có nguồn thu từ các khoản đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên, để quyết định này thực sự đi vào cuộc sống cần phải thực hiện các công việc sau: - Các tổ chức, cá nhân được phân công trách nhiệm công khai Ngân sách của cấp mình phải thực sự thấy được sự cần thiết và lợi ích đối với công khai Ngân sách Nhà nước, từ đó tổ chức thực hiện theo đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ.
- Trong pham vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện; các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân giám sát việc thực hiện. Tuyên truyền cho các cán bộ công nhân viên, các tầng lớp nhân dân thấy được lợi ích và phải có trách nhiệm trong việc giám sát việc thực hiện quản lý, công khai Ngân sách của cơ quan và của địa phương mình.
- Phải có hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với những tổ chức, cá nhân không thực hiện đúng các quy định về công khai Ngân sách. -Việc ban hành quyết định này cùng với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã thể hiện được đường lối của Đảng là dân biết, dân làm, dân kiểm tra; Thực hiện công bằng, dân chủ trong công tác quản lý Ngân sách Nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tiết kiệm, chống lãng phí đẩy lùi tệ tham nhũng, quan liêu.
5. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách giá cả nhằm góp phần cân đối Ngân sách . Giá cả là một chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế, biểu hiện tình trạng kinh tế, tình trạng Ngân sách. Để ổn định giá cả từ đó tạo cân đối cho Ngân sách cần phải làm tốt các công việc sau:
Một là, bình ổn được giá cả thị trường để góp phần ổn định nguồn thu, chi Ngân sách. Hai là, tăng cường quản lý giá bằng các hình thức thích hợp như: Thực hiện quy chế thẩm định giá, và đấu thầu trong việc sử dụng nguồn vốn Ngân sách mua sắm các thiết bị, vật tư, tài sản sẽ góp phần làm giảm chi Ngân sách, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Trong thời gian tới, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan giá cả và cơ quan Tài chính trong việc quản lý chi mua sắm tài sản của các cơ quan hành chính sự nghiệp, đặc biệt là chi mua sắm máy thiết bị tài sản trong các dự án đầu tư xây dựng cơ bản thì chắc chắn sẽ giảm được chi Ngân sách và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Ngoài ra, việc quản lý chặt chẽ chi cho đền bù thiệt hại khi thu hồi đất giải phóng mặt bằng xây dựng, chi cho việc thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hoá cho miền núi, hải đảo, đồng bào dân tộc; chi trợ giá cho việc thực hiện chính sách xã hội, công tác tuyên truyền...Thông qua việc kết hợp chặt chẽ giảm quản lý giá cả và quản lý Tài chính thì cũng sẽ giảm được chi cho Ngân sách, bảo đảm thực hiện chi đúng chính sách, sử dụng nguồn vốn trợ giá, trợ cước có hiệu quả.
Ba là, phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng quản lý giá cả nhằm thúc đẩy tăng năng suất lao động, giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó tăng thu cho Ngân sách.
Tóm lại, quá trình đổi mới, hoàn thiện chính sách giá, cơ chế quản lý giá và hệ thống giá ở nước ta trong thời gian vừa qua đã góp phần giải quyết một phần khó khăn cho Ngân sách Nhà nước. Trong thời gian tới, dưói sự chỉ đạo trực tiếp của Chính Phủ, ngành giá sẽ có sự kết hợp chặt chẽ hơn với ngành Tài chính để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về giá cả, góp phần thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế -xã hội.
6.Hoàn thiện cơ chế sổ sách hoá đơn chứng từ. Công tác sổ sách hoá đơn chứng từ là việc ghi chép, phản ánh điều hành, quản lý, sử dụng Ngân sách. Nó là công cụ để các cấp Ngân sách nhìn nhận, xem xét lại việc quản lý Ngân sách của mình và dự kiến kế hoạch Ngân sách năm sau. Đó cũng là phương tiện tối ưu dể thực hiện kiểm tra, thanh tra công tác Ngân sách.
Tuy nhiên, trong tình hình mới đã có nhiều thay đổi, chế độ sổ sách, hoá đơn, chứng từ đã không còn phù hợp nữa, tạo trở ngại trong kế toán Ngân sách. Do vậy, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền, nhiệm vụ nhanh chóng sửa đổi, bổ xung những bất cập, lạc hậu cho phù hợp, tiện lợi.
kết luận Nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội là tất yếu, đó là một quá trình lâu dài, gian khổ, đòi hỏi sự nỗ lực phát huy của mỗi cá nhân, mỗi cấp, mỗi nghành. Thế nhưng, trước hết, mỗi cán bộ quản lý Ngân sách phải không ngừng trau dồi cả tài và đức của mình. Tiếp đến, là những chỉ đạo, điều tiết của các cấp chức năng. Tóm lại, nâng cao hiệu quả quản lý Ngân sách không chỉ riêng ở cấp quận mà phải được thực hiện ở tất cả các cấp nhằm phát huy tối đa Tài chính quốc gia, góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quận Hai Bà Trưng với tư cách là một cấp Ngân sách, đã, đang và sẽ không ngừng hoàn thiện hệ thống quản lý Ngân sách của mình trên toàn bộ các mặt. Cùng với sự tâm huyết, quan tâm của quần chúng nhân dân, nhất định Ngân sách Quận sẽ thúc đẩy kinh tế của Quận phát triển.
Mục lục
Mở Đầu
1
Chương I
Một vài vấn đề lý thuyết về ngân sách Quận - Huyện
3
I
Khái quát Ngân sách nhà nước(NSNN)
3
1.
Khái niệm NSNN
3
2.
Bản chất NSNN
5
3.
Vai trò của NSNN
5
3.1.
Ngân sách tiêu dùng: Công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước công quyền và bảo vệ tổ quốc
5
3.2.
Ngân sách phát triển: Công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước
6
3.3.
NSNN: Công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái
6
4.
Chức năng của NSNN
7
4.1.
Chức năng phân phối
7
4.2.
Chức năng giám đốc
5
5.
Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước
5
5.1.
Nguyên tắc thống nhất
9
5.2.
Nguyên tắc tập trung dân chủ
9
6.
Tổ chức hệ thống NSNN ở Việt Nam
9
7.
Phân cấp quản lý NSNN
10
7.1.
Nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN
10
7.2.
Nội dung phân cấp quản lý NSNN
10
8.
Năm ngân sách và chu trình ngân sách
10
8.1.
Năm ngân sách
10
8.2.
Chu trình ngân sách
11
II.
Cấp ngân sách Quận -Huyện
11
1.
Khái niêm và lịch sử hình thành
11
2.
Vai trò của Ngân sách Quận –Huyện
13
2.1.
Ngân sách Quận -Huyện - bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước, bảo vệ an ninh trật tự cấp Quận Huyện
13
2.2.
Ngân sách Quận -Huyện -Công cụ thúc đẩy, phát triển ổn định kinh tế
14
2.3.
Ngân sách Quận -Huyện - Phương tiện bù đắp khiếm khuyết thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, gìn giữ môi trường
14
3.
Chức năng của Ngân sách Quận -Huyện
15
3.1.
Chức năng phân phối của Ngân sách Quận -Huyện
15
3.2.
Chức năng giám đốc của Ngân sách Quận -Huyện
15
4.
Nội dung Ngân sách Quận – Huyện
16
4.1.
Nội dung thu Ngân sách Quận –Huyện
16
4.2.
Nội dung chi của Ngân sách Quận –Huyện
19
4.3.
Cân đối Ngân sách Quận -Huyện
24
5.
Nội dung quản lý Ngân sách Quận –Huyện
25
5.1.
Lập dự toán Ngân sách Quận -Huyện
26
5.2
Chấp hành Ngân sách Quận Huyện
29
5.3.
Kế toán và quyết toán Ngân sách Quận -Huyện
32
6.
Tính tất yếu của công tác quản lý Ngân sách Quận - Huyện
33
7.
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến quản lý Ngân sách Quận –Huyện
34
7.1.
Yếu tố giá cả
35
7.2.
Các nhân tố tác động đến sự tăng, giảm của tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
35
7.3.
Các yếu tố về văn hoá, chính trị, xã hội
35
Chương II.
Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội trong những năm qua (1999-2001 )
36
I.
Một số đặc trưng về kinh tế, văn hoá, xã hội của Quận Hai Bà Trưng
36
1.
Về địa lý hành chính
36
2.
Về kinh tế
36
3.
Về văn hoá -xã hội
37
II.
Thực trạng công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội ( 1999-2001 )
37
1.
Công tác thu Ngân sách
37
2.
Công tác chi Ngân sách Quận
39
3.
Tình hình cân đối Ngân sách
40
4.
Công tác khai thác nguồn thu Ngân sách trên địa bàn
41
III.
Một vài đánh giá về công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng
41
1.
Những thành tựu
41
2.
Hạn chế
43
3.
Nguyên nhân của hạn chế
45
3.1.
Những nguyên nhân chủ quan
45
3.2.
Những nguyên nhân khách quan
45
Chương III.
Một vài biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý Ngân sách Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
46
I.
Định hưóng chung
46
II.
Một số giải pháp
49
1.
Xây dựng, lập dự toán Ngân sách phải chính xác chi tiết, tránh thâm hụt
49
2.
Không ngừng tăng cường kiểm tra, kiểm soát lại tất cả các nguồn thu
50
3.
Tạo dựng, khai thác, phát triển nguồn thu mới
51
4.
Tổ chức quản lý thu một cách khoa học, chính xác, đơn giản, dễ hiểu
52
5.
Tăng cường hiệu quả chi Ngân sách Quân, giám sát, giảm thiểu những khoản chi lãng phí, vô ích. Chấp hành đúng dự toán
52
6.
Phòng chống, khắc phục triệt để các sai phạm trong các đơn vị hành chính sự nghiệp của Quận
54
7.
Nâng cao vai trò kiểm soát chi qua Chi cục Kho bạc
55
8.
Hoàn thiện một số vấn đề chủ yếu trong cơ chế quản lý Ngân sách phường
56
9.
Nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên, không ngừng đào tạo mới và đào tạo lại nguồn nhân lực
57
III.
Kiến nghị
59
1.
Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước tạo thế chủ động tối đa cho chính quyền cơ sở nói chung và chính qưyền Quận nói riêng
59
2.
Đổi mới quy trình thu thuế đối với các với các doanh nghiệp nhằm nâng cao ý thức tự khai, tự tính, tự nộp cho doanh nghiệp
65
3.
Tăng cưòng thanh tra tài chính
66
4.
Công khai Ngân sách
67
5.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách giá cả nhằm góp phần cân đối Ngân sách
68
6.
Hoàn thiện cơ chế sổ sách hoá đơn chứng từ
69
Kết luận
70
Tài liệu tham khảo
71
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0136.doc