BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
HUỲNH LÊ TUÂN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CỦA
TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 5.07.03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG VĂN SINH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2004
Lời cảm ơn
Xin
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo của trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
Quý thầy, cô trong Ban giám hiệu, quý thầy, cô và các cán bộ,
công chức ở các phòng, ban, khoa của Trường Đại Học Sư Phạm
TP. Hồ Chí Minh
Quý thầy, cô đã trực tiếp giảng dạy lớp cao học quản lý giáo dục
khóa 11 của Trường Đại Học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh
Các anh chị và các bạn cùng khóa.
Ban giám hiệu, cùng tất cả các anh, chị và các bạn đồng nghiệp ở
Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh.
Cha, mẹ và tất cả các thành viên trong gia đình.
Và đặc biệt chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trương Văn Sinh, người
thầy hết sức nhiệt tình, tận tâm hướng dẫn chúng tôi trong suốt quá
trình học và thực hiện luận văn này.
Tháng 6/2004
Huỳnh Lê Tuân
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Một trong những vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất quan tâm là làm gì và
làm như thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, làm cho giáo dục - đào tạo thực
sự trở thành động lực, mục tiêu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
1.2. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lớn
nhất toàn quốc, lại là một thành phố có mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa sâu rộng với
nhiều nước trên thế giới. Là một trường đào tạo chuyên ngành cho một thành phố lớn, đông
dân như thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa -
nghệ thuật - thông tin cho nhiều tỉnh phía Nam nên nhiệm vụ của Trường Cao Đẳng Văn Hóa
Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh hết sức nặng nề.
Từ khi được thành lập và đi vào hoạt động đến nay, trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật
TP. Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp trong việc đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa - nghệ
thuật - thông tin cho thành phố và một số tỉnh phía Nam. Nhưng cũng như nhiều trường đại học và
cao đẳng trong cả nước, chất lượng đào tạo của Trường chưa thật cao, chưa ngang tầm với đòi hỏi
của xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi thành phố Hồ Chí Minh cùng cả nước đang đẩy
mạnh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và đẩy mạnh việc triển khai thực hiện nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành trung ương Đảng - Khóa VIII, với mục tiêu xây dựng
một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ
Thuật TP. Hồ Chí Minh đang phải đi tìm những giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo,
đáp ứng nhu cầu về một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật cho thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.
Với luận văn "Nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục đào tạo của Trường Cao Đẳng
Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh", chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ bé giải đáp một số
vấn đề cấp thiết của trường.
2. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Đã có khá nhiều công trình đề cập đến công tác quản lý giáo dục - đào tạo. Song, hình như
phần lớn các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia giáo dục tập trung phần nhiều vào việc
nghiên cứu các chiến lược phát triển giáo dục, xây dựng các loại hình đào tạo, tổ chức lại
mạng lưới đào tạo trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, hoặc xây dựng các chương
trình, các dự án phát triển giáo dục, v.v... ví dụ : Chương trình đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy, chương trình chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục, chương trình
xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học, phổ cập trung học cơ sở, v.v... Những công trình đi sâu
vào việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục của các đơn vị, cơ quan giáo dục, nhất
là của các trường cao đẳng, đại học không nhiều; phần lớn là những báo cáo kinh nghiệm đúc
rút được từ thực tiễn hoạt động của các đơn vị, các trường.
2.2. Vấn đề nâng cao hiệu quả công tác quản lý giáo dục - đào tạo của các trường trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, chuyên ngành như các trường trung học chuyên nghiệp,
cao đẳng, đại học, ngành văn hóa nghệ thuật chẳng hạn, càng ít được quan tâm.
Hiện nay, ngoài các trường nghiệp vụ văn hóa thông tin và trung học chuyên nghiệp văn hóa
nghệ thuật ở các tỉnh, thành, cả nước có 4 trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật, đó là:
- Trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà Nội
- Trường Cao Đẳng Văn Hóa TP. Hồ Chí Minh
- Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật Quân đội
- Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh
Có nhiều vấn đề đã và đang đặt ra cho các trường nêu trên, như: Nên tổ chức theo mô hình
nào? Làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng công tác đào tạo cũng như nâng cao hiệu
quả quản lý công tác đào tạo?
Từ năm 1998 đến nay đã có 3 cuộc hội thảo nhằm định hướng phát triển và bàn về những vấn
đề liên quan đến hoạt động của các trường văn hóa nghệ thuật. Hội thảo lần thứ nhất được tổ chức
tại trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà Nội (tháng 8/1998). Hội thảo lần thứ hai được tổ chức tại
trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh (tháng 11/2000). Hội thảo lần thứ ba được
tổ chức tại trường Trung Học Văn Hóa Nghệ Thuật Thừa Thiên - Huế (tháng 3/2002). Tại các cuộc
hội thảo này, đã có nhiều tác giả đề cập đến việc tổ chức lại, đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý
của các trường cao đẳng văn hóa nghệ thuật. Đáng tiếc, do nhiều nguyên nhân, các tác giả chỉ đi vào
từng mảng riêng lẻ của hoạt động quản lý công tác đào tạo. Ví dụ như thạc sĩ Hoàng Lân (Hiệu
trưởng Trường cao đẳng nghệ thuật Hà Nội) trong tham luận mang tiêu đề "Một số giải pháp về tổ
chức - quản lý đào tạo ở Trường cao đẳng nghệ thuật Hà Nội trong những năm đổi mới" cũng
chỉ đề cập một cách khái quát đến những vấn đề mang tính cụ thể từ thực tiễn của trường Cao Đẳng
Nghệ Thuật Hà Nội. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp về công tác quản lý, song chỉ dừng lại ở
những gợi ý chung về: (1)
- Quản lý mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo
- Quản lý người dạy, người học (Giáo viên - HSSV)
- Quản lý cơ sở vật chất, tài chính, ngân sách.
- Quản lý các chế độ chính sách, quy chế, quy định, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi giáo
viên, học sinh.
- Chú ý đến tâm lý người làm nghệ thuật, người học nghệ thuật.
- Chú ý nghiên cứu tính chất lao động đặc thù của mỗi loại hình nghệ thuật và giá trị sản phẩm
nghệ thuật để đánh giá chất lượng đúng với giá trị.
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Ở luận văn này, chúng tôi đi sâu vào 3 nội dung :
3.1. Tầm quan trọng của công tác quản lý đào tạo và những nội dung liên quan đến việc nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý đào tạo.
3.2. Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật
TP.Hồ Chí Minh.
3.3. Đề xuất một số biện pháp đổi mới công tác quản lý hoạt động đào tạo của trường Cao Đẳng
Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh để đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới trong hoạt
động của nhà trường trong thời gian tới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp luận
Xuất phát từ lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa, giáo dục đối
với công cuộc xây dựng đất nước nói chung, đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng, và xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí
Minh, luận văn hướng tới mục đích đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý
đào tạo nhằm góp phần đào tạo một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật có chất lượng cao,
phục vụ ngày càng tốt hơn việc phát triển kinh tế, xã hội nói chung và nhu cầu thưởng thức văn hóa
nghệ thuật nói riêng, của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, một trong những trung tâm kinh tế, văn
hóa, xã hội lớn nhất của cả nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
4.2.1. Phương pháp miêu tả - phân tích thực trạng công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng
Văn Hóa Nghệ Thuật TP.Hồ Chí Minh.
4.2.2. Phương pháp phỏng vấn, lấy ý kiến các chuyên gia, lấy ý kiến của lãnh đạo một số trường
tiêu biểu về quan điểm và phương pháp thực hiện công tác quản lý đào tạo
(1) Kỷ yếu hội thảo về định hướng và phát triển các trường văn hóa nghệ thuật Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, TP. Hồ Chí Minh - Huế -
4.2.3. Phương pháp thống kê - lập biểu đồ - đối chiếu - so sánh
Tùy từng chương, từng phần, một hoặc một số phương pháp nêu trên được sử dụng.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng :
Một là : Chỉ ra những thành tựu và những tồn tại trong hoạt động đào tạo nói chung và trong công tác
quản lý đào tạo nói riêng của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh thời gian vừa qua.
Từ đó nêu lên một số vấn đề đang đặt ra đối với công tác quản lý đào tạo của trường trong giai đoạn tới.
Hai là : Đề xuất một số biện pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo, đồng
thời nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật - một trong những chức năng và
nhiệm vụ chính trị chủ yếu của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh trong những
năm sắp đến.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba
chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về hoạt động quản lý giáo dục đào tạo.
Chương II: Tình hình công tác quản lý đào tạo của trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP.
Hồ Chí Minh thời gian vừa qua.
Chương III: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo của trường Cao
Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
Tháng 5-2002 - Trang 21.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Quản lý :
1.1.1.1. Khái niệm :
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác
lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công việc, đòi hỏi phải có sự chỉ
huy phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý..., phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động giúp người
thủ trưởng phối hợp nỗ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt được
mục tiêu đề ra.
Nói đến hoạt động này, người ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của Các - Mác : "Một nghệ
sĩ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng".
Thuật ngữ "Quản lý" lột tả được bản chất hoạt động này trong thực tiễn. Nó gồm hai quá trình
tích hợp vào nhau : quá trình "Quản" gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định; quá
trình "Lý" gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế "phát triển". Nếu người đứng đầu tổ
chức chỉ lo việc "Quản", tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn, thì tổ chức dễ trì trệ. Ngược lại, nếu chỉ
quan tâm đến việc "Lý", tức là chỉ lo việc sắp xếp tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của
sự ổn định, thì sự phát triển của tổ chức không bền vững. Trong "quản" phải có "lý", trong 'lý" phải
có "quản" để động thái của hệ ở thế cân bằng động: Hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả
trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực).(1)
Có nhiều quan niện khác nhau về "Quản lý". Tuy nhiên, tựu trung lại có những hướng
chủ yếu sau:
a. Nếu nhìn từ hướng "vận hành", "hoạt động", thì quản lý được hiểu là sự tác động, là hoạt
động phối hợp của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý, hướng khách thể phát triển theo quy
luật khách quan hoặc theo mục đích, chủ định của chủ thể quản lý. Theo hướng này, có thể kể
đến các loại ý kiến sau:
- Quản lý là hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó, quản lý được
hiểu là bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và
môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với những hoàn cảnh mới.
(1). "Khoa học tổ chức và quản lý - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" - NXB Thống kê - Hà Nội - 1999 - Trang
14
- Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động
của họ trong quá trình lao động.
- Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành
thành tựu của xã hội.
- Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch, và có hệ thống thông tin từ chủ
thể đến khách thể của nó.
b. Nếu nhìn từ hướng tổng thể trong tổ chức của "Quản lý", thì "Quản lý" là một hệ thống bao
gồm nhiều yếu tố cấu thành, các yếu tố có sự tác động lẫn nhau, vận hành theo quy luật và theo
chủ định của chủ thể quản lý. Xin nêu một vài ý kiến thuộc loại này (1):
- Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất khác nhau (kỹ thuật,
sinh vật, xã hội...) nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện
những chương trình, mục đích hoạt động.
- Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người - thành viên của hệ,
nhằm làm cho hệ vận hành thuận lợi và đạt tới mục đích dự kiến.
Dù đi theo hướng nào đi nữa, thì :
- Quản lý là hoạt động tác động, chỉ huy, điều khiển của chủ thể quản lý đối với khách thể quản
lý.
- Khách thể quản lý luôn tồn tại trong mối quan hệ tương tác với nhau và cả với chủ thể quản lý,
tạo thành một cơ cấu có tính hệ thống.
Do đó, có thể chấp nhận định nghĩa như sau :
- Quản lý là sự hoạt động của chủ thể quản lý (thông qua các hình thức và công cụ quản lý)
nhằm điều khiển, tổ chức cho khách thể quản lý thực hiện công việc để đạt được mục đích
quản lý.
Quản lý, từ cách hiểu trên đây, được tổ chức bởi 5 yếu tố, có thể hình dung qua lược đồ :
1.1.1.2. Các loại quản lý
(1) PGS. Nguyễn Sinh Huy, PGS.PTS. Nguyễn Văn Lê - Giáo dục học đại cương - NXB Giáo dục - 1997 - Trang 33 -> 37
Hình thức quản lý
Mục đích quản lý Khách thể quản lý Chủ thể quản lý
Công cụ quản lý
Thông thường, có 3 loại quản lý: Quản lý sinh học; Quản lý kỹ thuật; Quản lý xã hội. Quản lý
giáo dục - đào tạo thuộc loại quản lý xã hội
1.1.2. Giáo dục - Đào tạo:
1.1.2.1. Giáo dục
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình trang bị và nâng cao kiến thức hiểu biết về thế giới
khách quan, khoa học, kỹ thuật, kỹ năng về hoạt động nghề nghiệp... cho tất cả mọi người, được
thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng, bằng các phương
tiện dạy học khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng (như phát thanh, truyền hình,
báo chí, phim ảnh...) với các kiểu học tập rất đa dạng, linh hoạt, trong đó người học đóng vai trò
"trung tâm". Giáo dục là một trong 3 yếu tố góp phần hình thành nhân cách con người (Di truyền -
Giáo dục - Môi trường). Giáo dục là quá trình diễn ra liên tục trong mọi môi trường hoạt động của
con người. Trong đó, học đường là môi trường đào tạo có vai trò rất quan trọng.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục bao gồm quá trình hoạt động nhằm tạo ra cơ sở khoa học của thế giới
quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực của con người, kể cả việc phát triển nâng
cao thể lực. Quá trình này được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không
chỉ được xem xét về mặt nhận thức mà còn căn cứ trên các hành vi, thói quen, biểu hiện trình độ
phát triển (cao hay thấp) của trình độ "có giáo dục" của mỗi con người.
1.1.2.2. Dạy học:
Là khái niệm dùng để chỉ các hoạt động của người dạy nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo cho người học. Hoạt động dạy (của thầy) và hoạt động học (của trò) là 2 hoạt động gắn bó hữu
cơ với nhau trong một quá trình giáo dục tổng thể, trong đó :
Vai trò của nhà sư phạm là định hướng tổ chức, thực hiện việc truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo đến người học một cách hợp lý, khoa học - do đó luôn có vai trò và tác dụng chủ đạo.
Người học nhận thức, tổ chức quá trình tiếp thu một cách độc lập, sáng tạo các hệ thống kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành năng lực và thái độ đúng đắn, tạo ra động lực cho việc tự học
với tư cách là chủ thể sáng tạo, hình thành nhân cách của bản thân.
Theo quan điểm tiếp cận hệ thống thì vai trò chủ đạo của người dạy (thể hiện qua việc định hướng,
tổ chức, điều khiển các hoạt động) và trực tiếp (khi hoạt động trên lớp) luôn luôn có ý nghĩa đặc biệt với
việc đảm bảo chất lượng của quá trình đào tạo.
"Vai trò chủ động, tích cực, năng động của học sinh trong quá trình học tập có ý nghĩa quyết
định đối với việc phát triển trí tuệ, lĩnh hội kiến thức và hoàn thiện nhân cách của bản thân - với ý
nghĩa là chủ thể sáng tạo, không thể thay thế.
Dạy và học vì thế cần hiểu đúng là hai mặt của một quá trình bổ sung cho nhau, cái này chế
ước và đồng thời là tác động quan trọng của cái kia, kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể
phát triển."(1) "Kết quả trực tiếp của quá trình dạy học là học vấn (học thức) bao gồm cả phương
pháp (nhận thức và hành động) và năng lực chuyên biệt của người học.(1)
1.1.2.3. Đào tạo:
Là một quá trình dạy và học mang tính chuyên biệt nhằm trang bị, rèn luyện cho người học các
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo theo yêu cầu nghề nghiệp chuyên môn, chuyên sâu. Quá trình đào tạo
nhằm chuẩn bị cho con người có khả năng lao động để góp phần vào việc duy trì và phát triển cuộc
sống trong cộng đồng xã hội.
1.1.3. Quản lý giáo dục - đào tạo:
Theo nghĩa rộng, giáo dục - đào tạo là một quá trình hoạt động của toàn xã hội, mang tính đặc
thù của loài người, nó tạo ra điều kiện cần thiết giúp cho sự phát triển và hoàn thiện nhân cách, năng
lực của mỗi cá nhân, để cho cá nhân có thể hòa nhập với cộng đồng. Vì vậy, quản lý giáo dục - đào
tạo là quản lý nhà nước theo lĩnh vực, có tính thống nhất từ trung ương đến địa phương và giữa các
cấp giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, quản lý giáo dục - đào tạo là quản lý quá trình dạy và học trong nhà trường.
Có thể nói theo cách khác là: Quản lý giáo dục - đào tạo là một hoạt động chỉ huy, phối hợp, điều
hành, kiểm tra, chỉnh lý..., nhằm giúp cho hoạt động dạy và học đạt được hiệu quả mong muốn.
1.2. Quản lý giáo dục - đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật:
1.2.1. Quan niệm:
Theo nghĩa rộng, giáo dục - đào tạo văn hóa nghệ thuật là quá trình trang bị và nâng cao kiến
thức hiểu biết về văn hóa, nghệ thuật, kỹ năng trong hoạt động nghề nghiệp của lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật... cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp
với từng loại đối tượng, bằng các phương tiện dạy học khác nhau, kể cả các phương tiện truyền
thông đại chúng (như phát thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh...) với các kiểu học tập rất đa
dạng, linh hoạt, trong đó chủ thể người học đóng vai trò "trung tâm"; thực hiện theo phương thức đa
dạng hóa, năng động, thích ứng với mọi biến đổi; là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải chỉ
riêng của ngành Văn hóa; Giáo dục văn hóa nghệ thuật góp phần hình thành nhân cách con người,
hướng con người phát triển đến cái Chân - Thiện - Mỹ. Giáo dục đào tạo văn hóa nghệ thuật là một
bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, nó cũng là quá trình diễn ra liên tục trong mọi môi trường
hoạt động của con người. Trong đó, môi trường học đường, đào tạo có vai trò rất quan trọng.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục - đào tạo văn hóa nghệ thuật
(1) PGS. Nguyễn Sinh Huy, PGS.PTS. Nguyễn Văn Lê - Giáo dục học đại cương - NXB Giáo dục - 1997 - Trang 33 -> 37
là quá trình hoạt động dạy và học trong trường văn hóa nghệ thuật. Tuy cũng là hoạt động dạy và
học, nhưng người học của các trường văn hóa nghệ thuật có những đặc thù riêng: họ phải hội đủ
những điều kiện cần thiết cho việc tuyển chọn năng khiếu văn hóa nghệ thuật trước khi tiến hành
quá trình đào tạo.
1.2.2. Vai trò và nội dung của công tác quản lý đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
1.2.2.1. Vai trò
Như chúng ta đã biết, quá trình giao lưu và hội nhập với thế giới đã làm cho văn hóa Việt Nam
ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, đồng thời cũng trở nên phức tạp hơn. Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm đến việc phát triển văn hóa nghệ thuật, nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để đạt được mục tiêu ấy, các trường văn hóa nghệ thuật phải có trách
nhiệm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ những người vừa có tài, vừa có đức hoạt động trên
lĩnh vực này. Công tác phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
chính là nhiệm vụ chính trị của các trung tâm văn hóa, các trường văn hóa nghệ thuật. Từ đó, nhiệm
vụ của các đơn vị này là:
Thứ nhất: phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng những tài năng về văn hóa nghệ thuật, đáp ứng nhanh
chóng, kịp thời và có hiệu quả nhu cầu học tập, thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng cao
của nhân dân.
Thứ hai: Đưa các hoạt động đào tạo và bồi dưỡng tài năng về văn hóa nghệ thuật theo định
hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, góp phần làm cho văn hóa nghệ thuật
thực sự trở thành nền tảng tinh thần của nhân dân, là động lực, là đòn bẩy để thúc đẩy kinh tế -
xã hội phát triển.
Riêng đối với các tỉnh, thành phía Nam, nhất là đối với thành phố Hồ Chí Minh, một thành
phố sôi động, năng động và cũng phức tạp nhất về kinh tế, văn hóa, xã hội - thì những khía cạnh này
càng có ý nghĩa to lớn. Thực tế cho thấy hàng loạt hiện tượng văn hóa mới hay văn hóa ngoại bắt
đầu từ thành phố Hồ Chí Minh sau đó lan rộng ra khắp các nơi.
Công tác quản lý đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật đóng vai trò tổ chức, chỉ huy, phối hợp
các lực lượng làm công tác giáo dục - đào tạo (trong và ngoài ngành văn hóa nghệ thuật) nhằm phát
triển nền văn hóa nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân,
hướng mọi người đến những giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
1.2.2.2. Nội dung của hoạt động quản lý đào tạo
1.2.2.2.1. Quản lý mục tiêu đào tạo :
(1 ) Hà Thế Ngữ - Giáo dục học tập I - NXB Giáo dục - 1987 - trang 22.
Việc xác định rõ, chính xác mục tiêu đào tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu của công tác quản
lý đào tạo trong nhà trường. Cơ sở để xác định mục tiêu đào tạo là :
Mục tiêu giáo dục tổng quát được quy định bởi luật Giáo dục.
Trong Luật Giáo dục của Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc Hội khóa IX,
kỳ họp thứ 4 thông qua có nêu : "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân
tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành nhân cách và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của
công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (1).
Nhiệm vụ chính trị xã hội của nhà trường :
Trường văn hóa nghệ thuật là một thiết chế chính trị xã hội và phải phục vụ cho việc phát triển
xã hội. Sự phát triển của nhà trường chịu sự quy định của Nhà nước, lịch sử, sự phát triển và tiến bộ
xã hội. Mục tiêu đào tạo có nhiều cấp độ khác nhau :
Mục tiêu đào tạo tổng quát: Là mục tiêu chung nhất do Luật Giáo dục quy định (như tài liệu đã
dẫn).
Mục tiêu đào tạo cụ thể của nhà trường: Dựa trên cơ sở mục tiêu đào tạo đã được nêu trong Luật
giáo dục, mục tiêu đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật phải là: Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
về văn hóa nghệ thuật, giàu óc sáng tạo, có ý thức, có khả năng góp phần xây dựng, bảo tồn và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành nhân cách và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu đào tạo của từng khoa: Trong các trường văn hóa nghệ thuật, mỗi khoa có đặc thù
ngành nghề đào tạo riêng, do đó, cần phải xây dựng mục tiêu đào tạo cụ thể của khoa để làm cơ
sở cho việc xác định mục tiêu đào tạo cho từng ngành học, môn học.
Vấn đề cốt lõi là tất cả các mục tiêu đào tạo cụ thể đều phải phù hợp và phục vụ cho mục tiêu
đào tạo tổng quát.
1.2.2.2.2. Tổ chức và quản lý nhân sự :
Hoạt động quản lý chỉ nảy sinh khi cần có sự phối hợp hoạt động của nhiều người, có nghĩa là
cần phải có tổ chức, nhằm mục đích đạt được hiệu quả lao động cao hơn. Vì vậy, một trong những
nhiệm vụ rất quan trọng của công tác quản lý giáo dục chính là công tác tổ chức nhân sự, bởi vì hoạt
động giáo dục là hoạt động tương tác giữa người với người. Trong các trường văn hóa nghệ thuật,
công tác quản lý nhân sự cần phải quan tâm đến yếu tố đặc thù của những người làm công tác văn
1 Luật Giáo dục - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1999 - trang 8
hóa nghệ thuật để giúp họ phát triển, đó là: khả năng sáng tạo, tài năng nghệ thuật, phẩm chất và cá
tính riêng độc đáo, v.v...
1.2.2.2.3. Quản lý nội dung đào tạo :
Là xác định khối lượng tri thức mà Người dạy cần phải chuyển giao cho Người học trong một
thời gian có giới hạn, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Cơ sở để xác định nội dung đào tạo chính là
mục tiêu và thời gian đào tạo.
1.2.2.2.4. Quản lý kế hoạch đào tạo :
Kế hoạch là sự dự kiến các bước thực hiện công việc một cách có hệ thống trong một thời hạn
nhất định, căn cứ vào những điều kiện, những phương tiện cho phép, nhằm đạt được mục tiêu đã
xác định.
Tính kế hoạch không phải là "khả năng độc quyền" của riêng loài người. Ngay cả ở các loài
vật cũng có khả năng này, đương nhiên là ở mức độ tư duy thấp, chủ yếu là do bản năng sinh tồn mà
có (ví dụ : người ta quan sát thấy ở loài kiến, ong, hoặc ở loài gấu... khả năng tích lũy thức ăn để
sinh sống, để có thể vượt qua những khoảng thời gian không thuận lợi cho việc kiếm ăn của chúng).
Tuy nhiên, với khả năng tư duy phát triển vượt bực, có ngôn ngữ, chữ viết... loài người có thể
tạo ra được các kế hoạch một cách hết sức khoa học, hoàn chỉnh, chính xác... cho dù làm bất kỳ
công việc gì, từ đơn giản tới phức tạp. Xã hội càng phát triển, đặc biệt là trong tiến trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay, việc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
tốt các kế hoạch là một yêu cầu quan trọng khẳng định tính hiệu quả của các hoạt động xã hội, đặc
biệt là với công tác quản lý, kể cả ở tầng vĩ mô lẫn vi mô.
1.2.2.2.5. Xây dựng và quản lý thông tin :
Để đảm bảo được tính hiệu quả, công tác quản lý đào tạo cần phải thiết lập được hệ thống
thông tin đa chiều trong tổ chức. Công tác dự báo là điều kiện rất cần thiết để nhà quản lý giáo
dục xác định, điều chỉnh phương hướng, mục tiêu giáo dục.
1.2.2.2.6. Quản lý tài chính - kinh phí :
Các hoạt động giáo dục - đào tạo trong nhà trường đều cần phải có kinh phí để phục vụ. Lập kế
hoạch và dự trù kinh phí là các công tác phải đi song song với nhau ngày từ đầu nhằm bảo đảm các
điều kiện cần thiết cho hoạt động của nhà trường. Chi phí dành cho công tác
đào tạo văn hóa nghệ thuật thường lớn hơn rất nhiều so với việc đào tạo các loại hình nghề nghiệp
phổ thông, vì công tác đào tạo văn hóa nghệ thuật không chỉ đơn thuần là đào tạo nhân lực mà còn
phải làm nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống giáo dục quốc dân mới
chỉ xây dựng được cơ chế đào tạo nhân lực, chứ chưa xây dựng được một cơ chế phù hợp cho công
tác bồi dưỡng nhân tài.
1.2.2.2.7. Kiểm tra - đánh giá chất lượng đào tạo :
Kiểm tra - đánh giá là một trong những hoạt động nhận thức của con người nhằm xác định giá
trị thật sự của đối tượng được kiểm tra - đánh giá.
Do mang tính chất của hoạt động nhận thức, nên hoạt động kiểm tra - đánh giá sẽ xuất phát từ
những thông tin cần thiết về đối tượng được đánh giá mà chủ thể đánh giá có thể nhận được.
Trong hoạt động quản lý giáo dục - đào tạo văn hóa nghệ thuật, chúng ta thường phải kiểm tra
để đánh giá bản chất của không phải chỉ là một người mà là rất nhiều người, nhiều đối tượng khác
nhau: học sinh, sinh viên, giáo viên, cán bộ quản lý. Ngoài việc phải đánh giá về con
người, hoạt động quản lý giáo dục còn phải đánh giá về rất nhiều vấn đề khác nhau như: phương
pháp giáo dục, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá, v.v... Do hoạt động kiểm tra - đánh
giá là một hoạt động nhận thức, nên tự thân nó đã mang đậm tính chủ quan. Vì vậy, để khắc phục
tính chủ quan, việc kiểm tra - đánh giá trong hoạt động quản lý giáo dục cần phải rất chú trọng đến
tính khách quan và tính khoa học, tức là cần phải xây dựng các tiêu chí (mức tối đa có thể đạt
được), các tiêu chuẩn (mức tối thiểu cần phải đạt được), các thang giá trị... mang tính khách quan và
khoa học để đánh giá trong hoạt động quản lý giáo dục. Ngược lại, việc kiểm tra - đánh giá trong
hoạt động quản lý giáo dục buộc phải dựa trên các tiêu chí, tiêu chuẩn đã được xây dựng một cách
khoa học và khách quan. Một vấn đề quan trọng khác là hoạt động kiểm tra - đánh giá trong quản lý
giáo dục thường không có mục đích tự thân, nó chỉ giữ vai trò công cụ để thực hiện một mục đích
nào đó. Vì vậy, trước khi thực hiện hoạt động kiểm tra - đánh giá thì cần phải xác định mục đích và
đối tượng của hoạt động kiểm tra - đánh giá. Muốn đánh giá về con người, người ta không thể nào
đánh giá trực tiếp mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua biểu hiện của các hành vi. Tuy nhiên,
hành vi của con người khá phức tạp, có những hành vi chỉ là phản ứng nhất thời hoặc đóng kịch chứ
không phải tất cả các hành vi đều mang tính bản chất. Vì vậy, khi đánh giá con người thì cần phải
tìm ra những hành vi mang tính bản chất, đó là những hành vi mang tính ổn định hoặc hành vi thói
quen.
Các nhà khoa học sau khi nghiên cứu đã đưa ra mô hình kiểm tra - đánh giá là một hệ thống
công việc mà đối tượng được kiểm tra - đánh giá cần phải thực hiện theo thứ tự có cấp độ nâng dần
từ thấp đến cao, từ dễ dàng đến khó khăn, phức tạp... nhằm xác định khả năng có sẵn, khả năng tiềm
ẩn, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo v.v... của đối tượng được đánh giá thông qua khả năng của họ trong
thực hiện các yêu cầu như thế nào. Nhờ có mô hình này mà người ta có thể xác định được các chỉ số
thông minh (IQ = Intelligent Quotient), hoặc các chỉ số về thái độ v.v...
Bên cạnh đó, trong quản lý giáo dục, rất nhiều các nhóm phương pháp khác được ứng dụng để
kiểm tra - đánh giá như : vấn đáp, trắc nghiệm tự luận, trắc nghiệm khách quan, phiếu thăm dò ý
ki._.ến, v.v... mà mỗi nhóm phương pháp này lại có nhiều các phương pháp khác nhau với các kỹ thuật
thực hiện đa dạng. Trong hoạt động kiểm tra - đánh giá, các nhà khoa học rất chú trọng đến việc
lượng hóa các tiêu chuẩn, tiêu chí. Nhưng trong quản lý giáo dục, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã
hội và đào tạo nghệ thuật thì có những lĩnh vực quá tinh tế, chỉ có thể kiểm tra - đánh giá mang tính
chất định tính chứ không thể định lượng được. Ví dụ: trong công tác đào tạo của ngành âm nhạc, sân
khấu, mỹ thuật, v.v... khi đánh giá chất lượng nghệ thuật hoặc kỹ năng, kỹ xảo của sinh viên thì rất
khó có thể chi tiết hóa hoặc lượng hóa tất cả các vấn đề có liên quan, bởi vì trong nghệ thuật có rất
nhiều vấn đề rất tinh tế chỉ có thể cảm nhận được bằng cảm tính chứ khó có thể lượng hóa được.
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của công tác quản lý đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật
1.2.3.1. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng:
Trước hết là làm cho tư tưởng cơ bản của Chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà
Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách... trở thành hệ tư tưởng
và quan điểm chủ đạo duy nhất của toàn bộ công tác giáo dục - đào tạo ở lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật. Nguyên tắc này coi việc giáo dục thế giới quan khoa học, nhân sinh quan, đạo đức và quan
niệm thẩm mỹ là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt toàn bộ quá trình giáo dục - đào tạo. Để bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng, cần chăm lo xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh trong nhà trường để thực hiện tốt các
nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, làm tham mưu tốt cho các cấp uỷ Đảng về phát triển và quản lý giáo
dục; đồng thời chăm lo xây dựng các tổ chức chính quyền, các đoàn thể vững mạnh.
1.2.3.2. Bảo đảm tính khoa học, tính kế hoạch và tính thực tiễn:
Giáo dục là một khoa học. Vì vậy, quản lý giáo dục cần phải bảo đảm tính khoa học, nhà quản
lý phải nắm được cơ sở khoa học của công tác quản lý giáo dục. Khoa học giáo dục và quản lý giáo
dục phải dựa vào thành tựu của nhiều ngành khoa học khác nhau : Điều khiển học, Luật học, Xã hội
học, Kinh tế học, Giáo dục học, Tâm lý học v.v...
Vì vậy, tính khoa học trong quản lý giáo dục trước hết đòi hỏi quan điểm tổng hợp, quan điểm
hệ thống, quan điểm vận động (phát triển). Tính khoa học trong quản lý giáo dục đòi hỏi tính cụ thể
và tính thực tiễn.
Đối tượng của giáo dục là những nhân cách cụ thể, đa dạng. Do đó, tính cụ thể trong quản lý
giáo dục đòi hỏi phải xem xét người, sự vật, quá trình... một cách cụ thể. Tính thực tiễn trong quản
lý giáo dục đòi hỏi nhà quản lý giáo dục phải có sự hiểu biết một cách đầy đủ, tường tận tình hình
thực tế trong từng thời gian ở các không gian khác nhau. Các quá trình giáo dục thường phải diễn ra
trong một thời gian dài và có nhiều lực lượng cùng tham gia một lúc. Vì vậy, công tác quản lý giáo
dục luôn đòi hỏi phải có tính kế hoạch cao. Kết hợp các quá trình dài hạn, ngắn hạn, toàn diện và
từng mặt là một yêu cầu nghiêm ngặt của công tác quản lý giáo dục.
1.2.3.3. Nguyên tắc "tính pháp chế" :
Nguyên tắc này nhằm điều hành và quản lý bằng pháp luật cả về mặt tổ chức lẫn hoạt động
quản lý. Nó yêu cầu phải chấp hành nghiêm túc những yêu cầu của pháp luật.
Quản lý Nhà nước về giáo dục không chỉ đòi hỏi việc thực hiện mọi luật pháp của Nhà
nước mà còn phải biết vận dụng kết hợp những quy phạm pháp luật với những yếu tố đặc thù của
giáo dục để xây dựng và thực hiện một hệ thống quy phạm giáo dục.
1.2.3.4. Nguyên tắc "tính hiệu quả" :
Chất lượng và hiệu quả giáo dục phụ thuộc vào hiệu quả tổ chức, quản lý giáo dục. Muốn đạt
được hiệu quả cao, nhà quản lý giáo dục phải nắm bắt được những thành tựu mới của khoa học, kỹ
thuật, vận dụng các phương pháp khoa học, sử dụng các phương tiện kỹ thuật tiên tiến vào công tác
quản lý. Hiệu quả quản lý giáo dục phải được tính đến trên cơ sở thực hiện các mục tiêu với những
phí tổn nhất định về các nguồn lực cho phép (nhân lực, vật lực, tài lực).
1.2.3.5. Nguyên tắc "kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ"
Giáo dục được quản lý theo ngành dọc để bảo đảm tính thống nhất, tính khoa học, tính chuyên
môn của các hoạt động giáo dục. Mặt khác, đời sống hàng ngày của nhà trường (đặc biệt là các
trường văn hóa nghệ thuật) gắn bó với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội... của địa phương mà chỉ có
chính quyền địa phương và các lực lượng xã hội ở địa phương mới có thể giải quyết một cách thích
hợp, kịp thời và có hiệu quả.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phát triển văn hóa
1.3.1. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng giao lưu và hội nhập với thế giới của nước
ta hiện nay đã tác động mạnh mẽ đến nền văn hóa Việt Nam, làm cho văn hóa nghệ thuật
phát triển nhanh hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn và cũng phức tạp hơn. Bên cạnh những
mặt phát triển tích cực, lành mạnh, cũng đã xuất hiện những hiện tượng tiêu cực trong các
hoạt động văn hóa nghệ thuật mà nghị quyết hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành trung ương
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra, như: Hiện tượng thương mại hóa văn hóa nghệ thuật;
Hiện tượng lai căng, chạy theo thị hiếu văn hóa của phương Tây, xa rời những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của Việt Nam; Những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc (nhất là văn hóa
của các dân tộc thiểu số) không được phát huy và phát triển; v.v...
1.3.2. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về vấn đề phát triển văn hóa (1)
1.3.2.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội
Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần
tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển
kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa
phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện, chính trị, kinh tế, xã
hội, luật pháp, kỷ cương, v.v... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
1.3.2.2. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội theo chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả
trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thụ có chọn lọc những
cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống
lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
1.3.2.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị
và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất
dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.
1.3.2.4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đều tham
gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền
tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới
sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
1.3.2.5. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
(1) Trích trong văn kiện hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam - Khóa VIII - NXB Chính trị Quốc
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn
hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con
người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn,
phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy "xây" làm
chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thụ những
tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu
tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng
văn hóa để thực hiện "diễn biến hòa bình".
1.4. Nhu cầu đào tạo đội ngũ làm công tác VHNT
1.4.1. Tính khách quan của nhu cầu đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật
Từ những quan điểm của Đảng ta về phát triển sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, dễ dàng nhận ra
tính khách quan của nhu cầu đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật.
Thứ nhất, xã hội càng phát triển, nhu cầu về hoạt động và hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của
nhân dân ngày càng cao, phong phú, đa dạng. Vì vậy, cần phải có một đội ngũ làm công tác văn hóa
nghệ thuật đông đảo và có chất lượng để đưa văn hóa nghệ thuật đến với quần chúng nhân dân,
nhằm đáp ứng nhu cầu ấy.
Thứ hai, đất nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công cuộc cách
mạng này đang cần đến một đội ngũ lao động "phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tâm hồn, trong sáng về đạo đức"(1). Cùng với giáo dục, y tế, văn hóa là lĩnh vực trực tiếp góp
phần vào việc đào tạo một đội ngũ lao động với những phẩm chất ấy.
Thứ ba, trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập với thế
giới, văn hóa Việt Nam ngày càng phát triển, nhưng cũng phải trải qua nhiều chặng đường cam go,
phức tạp. Trong tiến trình đi lên, để gánh vác được sứ mệnh của mình, ngành văn hóa cần phải có
một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật có đầy đủ bản lĩnh, phẩm chất và tài năng của người
chiến sĩ trên mặt trận văn hóa.
1.4.2. Trách nhiệm của các trường văn hóa nghệ thuật
Xuất phát từ nhu cầu khách quan của việc đào tạo đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật,
trách nhiệm của ngành văn hóa nói chung, của các trường văn hóa nghệ thuật nói riêng như sau:
Phải đào tạo được một đội ngũ làm công tác văn hóa nghệ thuật, đảm bảo đủ cả về số lượng lẫn
chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền văn hóa ngày càng cao của xã hội, xây dựng
những giá trị văn hóa mới, phát huy và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
gia - Hà Nội - 1998 - Trang 55 58.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam - Nghị quyết hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành trung ương Đảng, khoá VII -
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1992.
dân tộc, góp phần trực tiếp vào việc ngăn chặn những hiện tượng không lành mạnh trong đời
sống xã hội.
Nhanh chóng phát triển đội ngũ giáo viên có tài năng, có bản lĩnh và phẩm chất chính trị, tư
tưởng để đào tạo đội ngũ văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
CỦA TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.5. Quá trình hình thành và phát triển của trường CĐ VHNT TP.HCM
1.5.1. Ba giai đoạn hình thành và phát triển :
1.5.1.1. Giai đoạn trường nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin thành phố Hồ Chí Minh (1975 -
1981)
Ngay sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất (30/4/1975), do yêu cầu
xây dựng đội ngũ cán bộ và hạt nhân phong trào Cách mạng có khả năng trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng
cao trình độ chính trị, tư tưởng cho nhân dân và xây dựng con người mới, nền văn hóa mới, trường
Nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh do Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Hồ
Chí Minh quản lý, được hình thành và đi vào hoạt động. Trong giai đoạn này, hoạt động chủ yếu
của trường là mở các lớp bồi dưỡng ngắn ngày mang tính chất tập huấn nghiệp vụ trên các lĩnh vực
chuyên ngành văn hóa thông tin (thư viện, bảo tồn - bảo tàng, quản lý văn hóa quần chúng, v.v...)
nhằm từng bước hình thành đội ngũ các loại cán bộ văn hóa thông tin cơ sở, có kiến thức nghề
nghiệp và phẩm chất chính trị có thể vừa làm tham mưu, vừa tổ chức hướng dẫn phong trào văn hóa
quần chúng và xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Để khẳng định vị trí và chức năng của đơn vị,
ngày 25/12/1978, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức ra quyết định thành lập
trường. Ngay từ giai đoạn mới thành lập, bộn bề khó khăn (đội ngũ giảng viên
mỏng, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu; hơn nữa, mới chỉ là một trường nghiệp vụ,
v.v...) nhưng nhà trường đã góp phần tích cực vào việc ổn định đời sống văn hóa tinh thần cho nhân
dân, bước đầu xây dựng một mạng lưới cán bộ văn hóa quần chúng ở cơ sở.
1.5.1.2. Giai đoạn trường Trung Học Văn Hóa Thông Tin thành phố Hồ Chí Minh (1981 -
1996)
Trên đà phát triển chung của thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là để phát huy vai trò,
nâng cao nhiệm vụ của trường, ngày 14/8/1981, được sự chấp thuận của Bộ Văn hóa và Thông tin
và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Uy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định nâng cấp trường
Nghiệp vụ Văn hóa - Thông tin thành phố Hồ Chí Minh lên thành Trường Trung học Văn hóa
Thông Tin TP. Hồ Chí Minh.
Năm 1985, nhằm đáp ứng các yêu cầu mới, trường được chuyển về số 5 Nam Quốc Cang, Q.I,
TP.Hồ Chí Minh, với cơ sở vật chất được đầu tư tốt hơn, cơ cấu tổ chức được mở rộng hơn. Định
hướng đào tạo chuyên sâu bắt đầu được khẳng định rõ nét. Trong giai đoạn này, trường đã xác định
và thực hiện khá tốt 2 nhiệm vụ trọng tâm :
Đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ ngành văn hóa thông tin có trình độ trung cấp phục vụ
cho ngành văn hóa thông tin và các cơ quan hữu quan (thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, hướng
dẫn viên văn hóa du lịch, v.v...)
Đào tạo và bồi dưỡng lực lượng diễn viên nghệ thuật, nhạc công, v.v... có trình độ trung cấp
phục vụ cho các đơn vị (Đoàn ca múa nhạc, cải lương, nhà văn hóa, các đội nhóm tuyên truyền
văn nghệ xung kích, v.v...)
1.5.1.3. Giai đoạn trường CĐ VHNT TP.HCM (1996 đến nay)
Cùng với sự phát triển vững mạnh về kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố Hồ Chí Minh,
những nỗ lực to lớn vượt bậc của trường cũng đã được xã hội thừa nhận. Theo đề nghị của Uỷ ban
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/8/1996, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định nâng cấp
Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh thành Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ
thuật TP. Hồ Chí Minh. Gắn liền với sự nâng cấp, chức năng và nhiệm vụ của trường được mở rộng
và nặng nề hơn.
Về chức năng - nhiệm vụ :
Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh có trách nhiệm đào tạo tổng hợp và
chuyên sâu nhiều bộ môn: văn hóa, thông tin, nghệ thuật - thuộc các lĩnh vực ngành nghề: âm nhạc,
mỹ thuật, sân khấu, thư viện, bảo tàng, kinh doanh xuất bản phẩm, văn hóa quần chúng (quản lý
công tác văn hóa ở cơ sở, câu lạc bộ, nhà văn hóa ...), văn hóa và du lịch, v.v... nhằm mục đích trực
tiếp góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và quản lý công tác văn hóa hoạt động trong
ngành văn hóa thông tin và ở các đoàn thể, ban, ngành, kể cả lực lượng nghệ sĩ trẻ bổ sung cho các
đoàn nghệ thuật, các tụ điểm văn nghệ.
Về phạm vi hoạt động :
Ngoài nhiệm vụ trực tiếp đào tạo và bồi dưỡng lực lượng làm công tác văn hóa nghệ thuật cho
thành phố Hồ Chí Minh, trường còn góp phần cùng các đơn vị chức năng trong và ngoài ngành Văn
hóa thông tin tiến hành phổ cập kiến thức, kỹ năng hoạt động về văn hóa, thông tin, nghệ thuật... cho
đông đảo các loại đối tượng khác nhau với nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng đa dạng. Bên cạnh
đó, trường cũng từng bước phấn đấu trở thành một trung tâm hoạt động hoặc liên kết hoạt động trên
lĩnh vực nghiên cứu khoa học về văn hóa nghệ thuật và thông tin, từng bước mở rộng quan hệ hợp
tác với các địa phương, đơn vị bạn trong và ngoài nước về đào tạo và giao lưu văn hóa nghệ thuật ...
1.5.2. Cơ cấu tổ chức của Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh hiện nay:
1.5.2.1. Cơ cấu nhân sự:
1.5.2.1.1. Số lượng nhân sự :
Tính đến tháng 6/2004, tổng cộng toàn trường có 86 cán bộ, công chức, giảng viên, nhân viên
hợp đồng, trong số đó có 54 giảng viên (kể cả các cán bộ quản lý kiêm nhiệm). Trong lực lượng
giảng viên có :
03 tiến sĩ (5,56%)
04 thạc sĩ (7,41%)
43 cử nhân (79,63%, trong số này có 01 người được Nhà nước phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú)
04 người tốt nghiệp bậc cao đẳng, trung học (7,41%).
1.5.2.2. Cơ cấu tổ chức:
Trường có 4 phòng chức năng, 5 khoa chuyên môn và 4 bộ môn (đào tạo các môn kiến thức cơ
sở, cơ bản như: triết học, kinh tế chính trị học, tiếng việt thực hành, cơ sở văn hóa việt nam v.v...
chung cho tất cả các lớp của các khoa).
1.5.2.2.1. Các phòng chức năng
Phòng Đào Tạo
Phòng Khoa học và Đối ngoại
Phòng Tổ chức và Công tác sinh viên
Phòng Hành chính - Kế toán
1.5.2.2.2. Các khoa chuyên môn :
Khoa âm nhạc đào tạo các chuyên ngành: thanh nhạc, organ, piano, guitare, trống jazz, sư phạm
âm nhạc.
Khoa mỹ thuật, đào tạo các chuyên ngành: hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, thiết kế thời trang, đồ
họa vi tính, sư phạm mỹ thuật.
Khoa sân khấu đào tạo các chuyên ngành: đạo diễn sân khấu, diễn viên... cho các đoàn chuyên
nghiệp và cho cả phong trào văn hóa quần chúng.
Khoa thông tin đào tạo các chuyên ngành: kinh doanh xuất bản phẩm, thông tin - thư viện, thông
tin - quảng cáo.
Khoa văn hóa và du lịch, đào tạo các chuyên ngành bảo tồn - bảo tàng, quản lý văn hóa, hướng
dẫn viên văn hóa du lịch.
Bộ môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (triết học, kinh tế chính trị học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tương tưởng Hồ Chí Minh)
Bộ môn kiến thức cơ sở, cơ bản (tiếng việt thực hành, cơ sở văn hóa việt nam, đại cương pháp
luật Việt Nam, v.v...)
Bộ môn kiến thức sư phạm (Giáo dục học, tâm lý học, phương pháp giảng dạy bộ môn, v.v...)
Bộ môn tin học và ngoại ngữ.
Ngoài ra, Trường còn có các Trung tâm (Âm nhạc, Mỹ thuật, Tin học ...) chủ yếu đào tạo theo
phương thực xã hội hóa.
1.6. Hoạt động đào tạo của trường CĐ VHNT TP.HCM thời gian qua
Trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ được giao, Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ
Chí Minh đã tiến hành đào tạo bậc cao đẳng (cả hệ chính quy và hệ không chính quy) và trung học,
với 18 chuyên ngành thuộc lĩnh vực Văn hóa – Thông tin – Nghệ thuật, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên
môn và nghiên cứu khoa học phục vụ cho yêu cầu phát triển đời sống văn hóa – xã hội của TP. Hồ
Chí Minh, thông qua các mặt hoạt động quan hệ hợp tác với các địa phương, đơn vị trong và ngoài
nước về đào tạo và giao lưu văn hóa.
1.6.1. Công tác đào tạo hệ chính quy
1.6.1.1. Bậc cao đẳng: có 15 chuyên ngành
Khoa âm nhạc có 2 chuyên ngành: Thanh nhạc; Sư phạm âm nhạc.
Khoa mỹ thuật có 5 chuyên ngành: Hội họa; Sư phạm mỹ thuật; Đồ họa vi tính; Thiết kế thời
trang; Nhiếp ảnh.
Khoa sân khấu có 2 chuyên ngành: Đạo diễn; Diễn viên kịch nói.
Khoa thông tin có 3 chuyên ngành: Kinh doanh xuất bản phẩm; thông tin - thư viện, thông tin -
quảng cáo.
Khoa văn hóa và du lịch có 3 chuyên ngành: Bảo tồn - Bảo tàng; Quản lý văn hóa, Hướng dẫn
viên văn hóa du lịch.
1.6.1.2. Bậc trung học chuyên nghiệp:
Có 5 chuyên ngành, trong đó:
Khoa âm nhạc có 2 chuyên ngành: Thanh nhạc; Nhạc cụ (Organ - Guitare - Trống).
Khoa mỹ thuật có 2 chuyên ngành: Hội họa; Điêu khắc.
Khoa sân khấu có 1 chuyên ngành: Diễn viên kịch nói.
Tổng số sinh viên, học sinh hệ theo học chính quy giai đoạn 2000 - 2004 như sau:
CHUYÊN NGÀNH
NĂM HỌC
2000
2001
2001
2002
2002
2003
2003
2004
BẬC TRUNG HỌC: 217 68 49 52 48
Thanh nhạc 50 29 32 31
Nhạc cụ 18 13 12 12
Điêu khắc 7 8 5
BẬC CAO ĐẲNG: 3158 557 702 973 926
Thanh nhạc 33 38 49 45
Sư phạm âm nhạc 60 72 93 88
Hội họa 5 16 31 30
CHUYÊN NGÀNH
NĂM HỌC
2000
2001
2001
2002
2002
2003
2003
2004
Sư phạm mỹ thuật 32 62 80 80
Nhiếp ảnh 13 21 20 20
Đồ họa vi tính 71 86 112 106
Thiết kế thời trang 69 59 59 57
Bảo tồn - bảo tàng 26 38 36
Văn hóa du lịch 168 178 291 269
Kinh doanh xuất bản phẩm 69 63 94 92
Thông tin - thư viện 27 55 74 72
Thông tin - Quảng cáo 7 7 7
Đạo diễn sân khấu 10 7 13 13
Diễn viên sân khấu 12 12 11
1.6.2. Đào tạo hệ không chính quy :
Bên cạnh công tác đào tạo hệ chính quy, trường tiến hành công tác đào tạo hệ không chính quy
trên cơ sở liên kết đào tạo với với các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
và một số tỉnh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang), ở Tây Nguyên
(Đăc Lăc), vùng duyên hải Trung bộ (Khánh Hòa). Số lượng sinh viên hệ không chính quy giai
đoạn 2000 - 2003 là 1036 người, với các chuyên ngành sau:
Stt LỚP SĨ SỐ GHI CHÚ
1
Cao đẳng Thông tin - Thư viện K.6-KCQ
(khóa 2000 – 2003)
33 Học tại trường.
2
Cao đẳng sư phạm âm nhạc K.6-KCQ (khóa
2000 – 2003)
50
Phối hợp với Sở Giáo dục Đào tạo TP
Hồ Chí Minh
3
Cao đẳng sư phạm mỹ thuật K.6-KCQ (khóa
2000 – 2003)
23 Học tại trường.
4
Cao đẳng sư phạm âm nhạc K.6T (khóa 2000 –
2003)
47
Liên kết với Trường Văn hóa Nghệ
thuật Tỉnh Trà Vinh.
5
Cao đẳng sư phạm âm nhạc K.8T (khóa 2002 –
2005)
80
Liên kết với Trường Văn hóa Nghệ
thuật Tỉnh Trà Vinh.
6
Cao đẳng sư phạm mỹ thuật K.8T (khóa 2002
– 2005)
80
7
Cao đẳng văn hóa du lịch K.6A (khóa 2000 –
2003)
112
Liên kết với Trường Trung học Kinh
tế Kỹ thuật An Giang
8
Cao đẳng sư phạm âm nhạc K.7S (khóa 2001 –
2004)
68
Liên kết với Sở Giáo dục và Đào tạo
Tỉnh Sóc Trăng
9
Cao đẳng sư phạm mỹ thuật K.7S (khóa 2001
– 2004)
89
10
Cao đẳng sư phạm âm nhạc K.8D (khóa 2001
– 2004)
82
Liên kết với Sở Giáo dục và Đào tạo
Tỉnh DakLak
11
Cao đẳng sư phạm mỹ thuật K.8D (khóa 2001
– 2004)
78
12
Cao đẳng văn hóa du lịch K.7N (khóa 2001 –
2004)
68
Liên kết với Trường Trung học Văn
hóa Nghệ thuật Tỉnh Khánh Hòa
13
Cao đẳng văn hóa du lịch K.8N (khóa 2002 –
2005)
70
14
Cao đẳng văn hóa du lịch K.9N (khóa 2003 –
2006)
81
15
Lớp Đại học Xã hội học - Văn hóa (khóa 1998
– 2002)
75 Liên kết với Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn
1.6.3. Đánh giá chung:
Số lượng sinh viên của trường tuy không nhiều như ở một số trường cao đẳng, đại học khác (kể
cả trường Đại học văn hóa Hà Nội hay Trường Cao đẳng Văn hóa TP. Hồ Chí Minh), có lý do của
nó.
Trước hết, địa bàn tuyển sinh theo phân bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo dành cho Trường Cao
đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh là rất hạn chế, chủ yếu là tuyển các thí sinh có hộ khẩu
thường trú trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thứ đến, ngoài nhiệm vụ đào tạo
ngành văn hóa, trường phải thực hiện công tác đào tạo các ngành nghệ thuật, với tính chất đặc thù
của công tác bồi dưỡng tài năng (những người theo học phải có năng khiếu nghệ thuật), không thể
tuyển sinh đại trà. Bên cạnh đó, khi dạy và học lĩnh vực nghệ thuật thường chỉ có một thầy dạy 2
3 sinh viên. Tuyển nhiều sinh viên nghệ thuật rất dễ đưa đến tình hình thiếu giảng viên trầm trọng,
và chất lượng sẽ hạn chế. Thông qua kết quả đào tạo, theo thiển ý của chúng tôi, trong
những năm qua, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh đã đạt được một số thành
tựu và cũng có một số hạn chế nhất định.
1.6.3.1. Một số thành tựu:
Thứ nhất, trường đã hoàn thành nhiệm vụ và chức năng đã được giao. Đã đào tạo được một
đội ngũ những người làm công tác văn hóa, quản lý văn hóa và nghệ thuật cho các cơ sở, các đơn vị
trong và ngoài ngành văn hóa thông tin. Từ đó, trường đã dần dần khẳng định và nâng cao được vai
trò, vị trí của mình trong đời sống văn hóa tinh thần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt
với các chuyên ngành quản lý văn hóa, sư phạm âm nhạc và sư phạm mỹ thuật, trường đã đào tạo
được một đội ngũ cán bộ và nhân viên hoạt động văn hóa thiết thực, giải quyết tình trạng khan hiếm
những người chuyên tâm hoạt động văn hóa và thiếu giáo viên giảng dạy các môn này ở các trường
học. Vì thế, theo tinh thần thông tư liên bộ số 15/TTLB, ngày 21/8/1996, của Bộ Giáo dục và Đào
tạo - Bộ Văn hóa và Thông tin, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh, đã phối hợp với Sở
Văn Hóa và Thông Tin và Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh mở các lớp đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức và phương pháp sư phạm âm nhạc và sư phạm mỹ thuật cho một loạt giáo
viên. Thứ hai, thông qua liên kết, phối hợp đào tạo, trường đã tạo
được hiệu quả tích cực theo hai chiều: Trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giảng viên
thâm nhập thực tế, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn; đồng thời xã hội cũng nhận thức sâu sắc hơn
vai trò của văn hóa nghệ thuật và khẳng định vị thế của trường; tạo cho mối quan hệ giữa trường với
các đơn vị ngày càng chặt chẽ hơn; uy tín của trường ngày càng tăng.
1.6.3.2. Một số hạn chế:
Trước hết, chất lượng đào tạo và bồi dưỡng chưa cao. Tuy đây là tình hình chung của nền giáo
dục nước ta hiện nay, song từ phía chủ quan của từng địa phương, từng trường mà ở đây là Trường
Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh cũng cần phải thừa nhận điều này.
Chất lượng đào tạo và bồi dưỡng của trường chưa cao có thể
thấy qua nhiều khía cạnh.
- Kết quả học tập của sinh viên ngày càng khá hơn, tuy nhiên số sinh viên giỏi, xuất sắc không
nhiều.
- Là một đơn vị có điều kiện đào tạo những sinh viên làm công tác nghệ thuật (Biểu diễn, sáng
tác) bài bản, hệ thống. Nhưng số sinh viên của trường có mặt tại các cuộc thi do ngành văn hóa
nghệ thuật tổ chức không nhiều và kết quả không cao (số đoạt giải khá ít).
- Sức hút (đầu tư) của trường đối với xã hội chưa mạnh, chưa rộng.
Tiếp theo, phải kể đến, vị thế của trường chưa được khẳng định. Với bề dày một phần tư thế kỷ
hoạt động, nhưng ảnh hưởng của trường đối với các tỉnh, thành ở miền Nam nói riêng, cả nước nói
chung, hình như chưa tương xứng với tầm của trường. Ngay tiếng nói của trường trong đời sống văn
hóa tinh thần của thành phố Hồ Chí Minh không thật nổi trội trong quan hệ so sánh với một số
trường cao đẳng, đại học và đơn vị hoạt động trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật có mặt ở địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. Những hạn chế trong hoạt động đào tạo của trường thời gian
qua, có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ hướng hoạt động quản lý.
1.7. Tình hình quản lý hoạt động đào tạo của trường CĐ VHNT TP.HCM thời gian qua.
Để có cơ sở đánh giá tình hình quản lý hoạt động đào tạo của trường, thiết nghĩ cần đề cập đến
những khó khăn và thuận lợi của trường trong quá trình triển khai hoạt động này.
1.7.1. Một số thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý của trường CĐ VHNT TP.HCM
1.7.1.1. Một số thuận lợi:
Trước hết là sự quan tâm đặc biệt của các tổ chức Đảng và Nhà nước ta từ TW đến thành phố.
Điều này có thể thấy qua sự ra đời khá sớm và sự nâng cấp nhanh để thành Trường Cao đẳng Văn
hóa Nghệ thuật như hôm nay. Thực ra, thuận lợi này bắt nguồn từ vai trò của thành phố Hồ Chí
Minh đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Với tư cách là một trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của cả nước, thành phố Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm đầu tư về mọi mặt. Sự ra đời và phát triển của trường CĐ VHNT TP.HCM thể hiện sự
quan tâm ấy.
Thứ đến, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có sức hút rất lớn, nhất là trong lĩnh vục kinh tế và
văn hóa. Riêng về lĩnh vực văn hóa, thành phố Hồ Chí Minh là nơi văn hóa phát triển nhanh, mạnh
và rất sôi động, đồng thời là nơi giao lưu, đón nhận nhanh, nhạy và rộng rãi văn hóa thế giới. Thành
phố Hồ Chí Minh cũng là nơi thử thách, nảy sinh những tài năng văn hóa nghệ thuật. Vì thế, các
trường đào tạo nghệ thuật đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có trường CĐ VHNT
TP.HCM luôn luôn có sức thu hút thí sinh theo nguyên tắc "đất lành chim đậu".
1.7.1.2. Một số khó khăn:
Thứ nhất, khó khăn đầu tiên và lớn nhất của trường là cùng một lúc phải đảm nhiệm đào tạo
và bồi dưỡng theo hai khối : khối văn hóa và khối nghệ thuật (biểu diễn, sáng tác). Chức năng kép
này làm cho trường gặp không ít khó khăn về việc tổ chức đội ngũ giảng viên, về việc xây dựng cơ
sở vật chất, trang thiết bị, về tổ chức hệ thống giáo trình, giáo án, v.v... chẳng hạn, các nghệ sĩ ưu tú
thường có khuynh hướng tham gia hoạt động ở các đoàn nghệ thuật hoặc giảng dạy ở các Nhạc viện,
các trường đại học mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh, tức những đơn vị thiên về chức năng nghệ thuật. Vì
thế, có hàng chục nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân giảng dạy ở những đơn vị này, trong khi chỉ có
một nghệ sĩ ưu tú giảng dạy ở trường CĐ VHNT TP.HCM.
Thứ hai, hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có một loạt trường._. vào vai trò và vị trí của đội ngũ giảng viên ở bậc cao đẳng và đại học trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuẩn
của giảng viên cao đẳng và đại học phải được xem xét, đánh giá trên 3 tiêu chí:
- Phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức
- Trình độ chuyên môn, văn hóa
- Trình độ nghiệp vụ
Ba tiêu chí này được cụ thể hóa tùy thuộc vào hoàn cảnh, đặc thù của mỗi trường hoặc mỗi
loại trường. Dưới đây, chúng tôi xin đề cập cụ thể 3 tiêu chí trên đây đối với Trường Cao Đẳng Văn
Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh.
a. Chuẩn về phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức: Đây là tiêu chí đầu tiên đối
vơi mọi giảng viên cao đẳng và đại học, càng đặc biệt quan trọng đối với giảng viên các trường cao
đẳng và đại học ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, trong đó, có Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật
TP. Hồ Chí Minh. Tầm quan trọng đặc biệt của tiêu chí này đối với giảng viên Trường Cao Đẳng
Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh xuất phát từ hai cơ sở: Một là vai trò của văn
hóa nghệ thuật, như Bác Hồ đã nói: "Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, mỗi văn nghệ sĩ là một
chiến sĩ trên mặt trận ấy". Hai là, Trường Cao
Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh đóng trên địa bàn có không khí văn hóa nghệ thuật
đầy sôi động và phức tạp, trường có nhiệm vụ đào tạo lực lượng làm công tác văn hóa nghệ thuật
cho địa bàn phức tạp ấy. Nếu giảng viên của trường không có đầy đủ các
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh thì sinh viên do họ đào tạo khó lòng đảm đương được vai trò là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa
trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Chuẩn về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức được thể hiện trên ba khía cạnh:
Một là: có bản lĩnh chính trị vững vàng. Hiện nay, đất nước ta tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa, và xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh ấy, bên cạnh những mặt tích cực, lành mạnh, cách
mạng thì hoạt động văn hóa nghệ thuật cũng có không ít những biểu hiện thương mại hóa văn hóa,
lai căng, vay mượn một cách thiếu chọn lọc văn hóa phương Tây. Vấn đề này đã tác động đến đời
sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, nhất là thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên.
Nếu lực lượng giảng viên đào tạo những người làm công tác văn hóa nghệ thuật mà không có bản
lĩnh chính trị vững vàng thì rất dễ bị lôi cuốn bởi những cạm bẫy tiêu cực, đồi trụy. Hệ quả đi kèm
là sinh viên do họ đào tạo ít nhiều cũng bị ảnh hưởng, dễ bị tha hóa. Hai là, có tư tưởng tiên
tiến. Theo tinh thần nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, khoa
VIII, cốt lõi của tư tưởng tiên tiến là lòng yêu nước nồng nàn, yêu chủ nghĩa xã hội, là tư tưởng cách
mạng, tiến bộ. Chỉ có tư tưởng tiên tiến, giảng viên mới có thể đấu tranh và bảo vệ cho những nhân
tố mới, tích cực. Có tư tưởng tiên tiến, giảng viên mới có đủ nghị lực để tự vươn lên, vượt qua chính
mình, mới có thể góp phần thúc đẩy trường đi lên.
Ba là, có đạo đức trong sáng. Đạo đức của giảng viên luôn luôn là tấm gương sáng cho sinh
viên noi theo. Đạo đức trong sáng của giảng viên Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ
Chí Minh là ở chỗ:
- Có động cơ đúng đắn trong việc thực hiện công tác giảng dạy, gắn bó với trường để góp phần
"phát triển nguồn nhân lực" trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
- Có lối sống lành mạnh, thái độ ứng xử đúng đắn đối với những hoạt động, hành vi tiêu cực, phản
văn hóa.
b. Chuẩn về trình độ chuyên môn:
- Chuẩn về bằng cấp chuyên môn:
Dù bằng cấp của chúng ta hiện nay đang có khá nhiều vấn đề cần bàn. Song, xét về mặt pháp
lý, đối với giảng viên thì bằng cấp phải được coi là chuẩn đầu tiên về chuyên môn.
Theo quy định của Luật giáo dục, giảng viên giảng dạy ở bậc cao đẳng, đại học phải có bằng
tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên. Tuy nhiên, do xu hướng phát triển của khoa học - kỹ thuật, giáo
dục và đào tạo, nếu giảng viên trường cao đẳng và đại học chỉ dừng lại ở mức độ bằng tốt nghiệp cử
nhân thì khó lòng nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, cần có biện pháp khuyến khích giảng viên
nâng chuẩn: Giảng viên trường cao đẳng, đại học phải có bằng cấp từ thạc sĩ trở lên. Nếu lấy
chuẩn bằng cấp từ thạc sĩ trở lên đối với giảng viên cao đẳng, đại học đối chiếu với tình hình giảng
viên Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh hiện nay, thì có hơn 70% giảng viên
chưa đạt chuẩn. Theo chúng tôi, để giải quyết vấn đề này, có thể có một số biện pháp sau
đây:
- Cử giảng viên đi học cao học và nghiên cứu sinh.
- Liên kết với các viện nghiên cứu khoa học, các trường đại học để mở các lớp đào tạo bậc cao
học tại chỗ. Thực hiện hình thức này sẽ giúp cho số lượng giảng viên được theo học nhiều hơn,
chi phí đỡ tốn kém hơn.
- Khuyến khích giảng viên tự nâng cao và bồi dưỡng chuyên môn theo các chuyên đề sau đại học.
Dù thực hiện biện pháp nào đi nữa, để đạt được hiệu quả cao thì trường cần thực hiện một số
công việc sau:
Xây dựng kế hoạch đào tạo chuyên môn cho đội ngũ giảng viên theo hướng kết hợp chặt chẽ sự
hỗ trợ tích cực của trường với sự nỗ lực cao độ của từng giảng viên. Cụ thể:
Trường mở các lớp chuyên đề, ngoại ngữ, tin học và kiến thức chuyên môn (có thể phối hợp
với các trường cao đẳng và đại học khác đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh), có hình
thức, chế độ kiểm tra chất lượng học tập của giảng viên. Kinh phí mở lớp sẽ do trường đài
thọ, còn chi phí học tập thì người học phải đóng góp. Đây cũng có thể là cơ sở để trường xét
chọn và cử giảng viên đi thi cao học hoặc nghiên cứu sinh.
Thực hiện chế độ ưu tiên về thời gian và kinh phí nhằm động viên, khuyến khích giảng viên
nâng cao trình độ chuyên môn. Chẳng hạn, ngoài chế dộ miễn giảm số tiết dạy nghĩa vụ như
hiện nay trường đang thực hiện đối với giảng viên đang đi học, cần có thêm chế độ trợ cấp
cho các giảng viên gặp khó khăn khi đi học, chế độ khen thưởng xứng đáng đối với những
giảng viên bảo vệ luận văn đạt loại xuất sắc hoặc những luận văn có khả năng ứng dụng tốt,
có hiệu quả vào thực tiễn của trường, v.v...
Đưa nội dung đào tạo và nâng cao năng lực chuyên môn vào nội dung thi đua của trường.
Ban giám hiệu cần yêu cầu các cán bộ, giảng viên, kể cả những người đã có học vị thạc sĩ, tiến sĩ
phải có kế hoạch bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, lấy việc thực hiện kế hoạch này
để xem xét thi đua, phong các chức danh, đào thải giảng viên không đủ năng lực chuyên môn,
v.v...
- Chuẩn về phương pháp giảng dạy:
Phần lớn giảng viên của Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh tốt nghiệp
ở các trường đại học không thuộc ngành sư phạm. Vì thế, trong một thời gian, không ít giảng viên
(nhất là các giảng viên chưa nắm được phương pháp sư phạm) khá lúng túng khi giảng dạy do
không nắm được các khâu, các bước, các thao tác của một quy trình giảng dạy. Một số giảng viên
khác, tuy có kinh nghiệm, song lại thường sử dụng phương pháp giảng dạy cũ theo lối kinh nghiệm
chủ nghĩa, lạc hậu, chủ quan nên chất lượng giảng dạy bị hạn chế. Một số giảng viên không sử dụng
được các phương tiện dạy - học hiện đại. Vì thế, cần chuẩn hóa phương pháp giảng dạy cho giảng
viên.
Trong tình hình hiện nay, để chuẩn hóa phương pháp giảng dạy cho giảng viên của Trường
Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh, cần tập trung vào một số nội dung sau:
- Trang bị kiến thức sư phạm (đặc biệt là kiến thức về tâm lý học, giáo dục học), đồng thời, bồi
dưỡng phương pháp giảng dạy đại học và phương pháp nghiên cứu khoa học cho các giảng viên.
- Bổ sung đủ số lượng các loại máy móc, trang thiết bị, đồ dùng dạy - học hiện đại, có chất lượng
tốt để phục vụ cho công tác dạy - học của trường (ví dụ: hệ thống multi-media cho các môn học
lý thuyết; đàn, hệ thống âm thanh cho ngành âm nhạc; Bàn xoay, giá vẽ đa chức năng, máy vi
tính có cấu hình đủ để phục vụ cho ngành mỹ thuật ứng dụng; v.v...).
- Chuẩn về trình độ nghiệp vụ:
Được hiểu là chuẩn về kỹ năng thực hành nghiệp vụ chuyên môn.
Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh thực hiện công tác đào tạo lực
lượng làm công tác văn hóa và nghệ thuật. Giảng viên giảng dạy các môn nghệ thuật, ở một mức
độ nào đó, có thể nói là họ có tay nghề. Song, việc đánh giá mức độ tay nghề của họ tới đâu, đã đáp
ứng được yêu cầu dạy nghề hay chưa, lại là một vấn đề rất khó khẳng định.
Bên cạnh đó, giảng viên giảng dạy ở khối văn hóa thuộc các khoa thông tin, văn hóa và du
lịch, và nhất là giảng viên của các bộ môn kiến thức đại cương, đang thiên về lý thuyết chung, kỹ
năng thực hành, xét về một phương diện nào đó, còn nhiều hạn chế.
Để chuẩn hóa về trình độ nghiệp vụ, cần tiến hành theo 2 biện pháp :
- Giảm bớt phần lý thuyết, tăng phần thực hành của các bài giảng, giáo trình, nhất là các, bài
giảng, giáo trình của các môn học thuộc khối văn hóa và kiến thức chung.
- Tổ chức cho giảng viên và sinh viên tham quan, học tập, rút kinh nghiệm từ thực tiễn của cơ sở.
Chuẩn hóa về trình độ nghiệp vụ, về kỹ năng thực hành chuyên môn là hướng đi gắn lý thuyết
với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
a. Vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với giảng viên: Hoạt động giảng dạy và hoạt
động nghiên cứu khoa học là hai hoạt động chủ yếu của giảng viên bậc cao đẳng và đại học. Hoạt
động này có tác dụng rất lớn đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn của giảng viên. Thông qua
việc triển khai một công trình khoa học hay một dự án, giảng viên có điều kiện để củng cố các kiến
thức lý luận đã được trang bị, biết vận dụng lý luận để xử lý những hiện tượng, sự kiện diễn ra trong
đời sống xã hội. Trong nhiều trường hợp, từ thực tiễn đời sống xã hội, giảng viên phát hiện và đề
xuất được những giải pháp hữu ích, từ đó làm cho bài giảng sinh động hơn, có chất lượng hơn.
b. Phạm vi, nội dung nghiên cứu khoa học của Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ
Chí Minh:
Ngoài những loại đề tài nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật và những vấn đề liên quan đến văn
hóa nghệ thuật nói chung, do đặc thù về phạm vi (ở thành phố Hồ Chí Minh), về nhiệm vụ (đào tạo
lực lượng làm công tác văn hóa nghệ thuật), theo chúng tôi, hoạt động nghiên cứu khoa học của
Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh có thể hình dung như sau:
Về phạm vi:
Chủ yếu là các hoạt động văn hóa nghệ thuật diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh và phục vụ cho
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, và cho sự phát triển kinh tế, xã hội của thành phố; Các
hoạt động văn hóa nghệ thuật của các tỉnh, thành lân cận; Các hoạt động văn hóa nghệ thuật, kinh tế,
xã hội từ bên ngoài tác động đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Về nội dung: Theo chúng tôi, có một số nội dung chủ yếu:
- Thực trạng sôi động, phức tạp của văn hóa nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh (bức tranh văn
hóa nghệ thuật của thành phố Hồ Chí Minh, xu hướng phát triển, những biến đổi trong nếp
sống, nguyên nhân, v.v...)
- Sự tác động qua lại của văn hóa nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương khác.
- Những quan điểm, chủ trương, chính sách... lãnh đạo và quản lý văn hóa của các cấp ủy Đảng và
chính quyền thành phố.
- Những vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn văn hóa nghệ thuật của thành phố Hồ Chí Minh (vấn đề
xây dựng các giá trị văn hóa, văn hóa và công chúng, văn hóa nghệ thuật và bảo tồn văn hóa
nghệ thuật, v.v...)
c. Phương thức đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên:
Xuất phát từ tình hình cụ thể của đội ngũ cán bộ khoa học và giảng viên của Trường Cao Đẳng
Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh hiện nay, theo chúng tôi, có thể có một số phương thức và
biện pháp đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học như sau:
Mở rộng thành phần hội đồng khoa học ở cả cấp trường và cấp khoa:
Hội đồng khoa học thường phải có 2 thành phần:
- Thành phần cơ hữu: Gồm một số cán bộ khoa học và giảng viên có bằng cấp, có thành quả
nghiên cứu khoa học của trường.
- Thành phần mở rộng: Gồm một số giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ nghiên cứu khoa học là
giảng viên thỉnh giảng của trường, hoặc quan tâm nhiều đến công tác nghiên cứu các vấn đề văn
hóa nghệ thuật, có kinh nghiệm, có thành quả trong công tác nghiên cứu khoa học. Đây chính là
lực lượng có thể hỗ trợ đắc lực cho trường trong việc triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học
và giúp đỡ, đào tạo giảng viên trẻ đi sâu vào công tác nghiên cứu khoa học.
Ban giám hiệu và hội đồng khoa học xây dựng chiến lược nghiên cứu khoa học cho toàn
trường trong thời hạn đến năm 2010 và xây dựng một hệ thống đề tài tương ứng.
Trên cơ sở đó, trường "đặt hàng" cho các khoa, cho các giảng viên. Bên cạnh đó, Ban giám
hiệu cần ban hành quy định khen thưởng xứng đáng cho các đơn vị và cá nhân có sự đóng góp tích
cực trong việc triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học. Có thể đưa một số đề tài nghiên cứu khoa
học vào làm đề tài luận văn tốt nghiệp của sinh viên. Hoặc nâng một số đề tài thành các chuyên đề
để giảng dạy cho sinh viên (đưa các chuyên đề này vào phần mềm trong chương trình đào tạo)
Đẩy mạnh quan hệ hợp tác, giúp đỡ nhau trong công tác nghiên cứu khoa học:
Để cho giảng viên có thể làm quen với hoạt động nghiên cứu khoa học, cần phải có sự hợp tác,
giúp đỡ của những giảng viên có bề dày kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học. Cách hợp
tác, giúp đỡ như sau: Các GS, PGS, tiến sĩ, khi triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, có thể
giao một phần công việc cho các giảng viên trẻ và chỉ đạo họ tiến hành theo quy trình; hoặc chẻ nhỏ
một đề tài lớn thành một số đề tài nhỏ (đề tài nhánh) và giao một số đề tài nhánh đó cho các giảng
viên trẻ. Trong quá trình hợp tác, giúp đỡ ấy, với tất cả sự thành tâm và tấm lòng của một người
thầy, các GS, PGS, tiến sĩ có thể truyền nghề cho các học trò của mình.
Tăng cường hợp tác xã hội chủ nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học:
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nhiều cơ quan (viện nghiên cứu, trung tâm), trường cao
đẳng, đại học của ngành văn hóa thông tin và các ngành có liên quan (Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học sư phạm) quan tâm đến vấn đề nghiên cứu văn hóa nghệ thuật. Do đó, Trường
Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh cần chủ động tăng cường hợp tác với các đơn vị
này. Trường có thể chủ động đăng cai, hoặc tham dự các cuộc hội thảo khoa học. Phương thức này
có tác dụng mở rộng tầm nhìn và xây dựng các mối quan hệ trong công tác nghiên cứu khoa học đối
với các giảng viên trẻ, giúp họ đi nhanh hơn vào công tác nghiên cứu khoa học.
1.12. ĐỀ XUẤT Ý KIẾN:
Để giúp cho Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh có thể nâng cao hiệu
quả công tác quản lý đào tạo, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề như sau:
1.12.1. Đối với Bộ Giáo Dục - Đào Tạo và Bộ Văn Hóa - Thông Tin:
Hệ thống các trường đại học, cao đẳng công lập ở nước ta đang tồn tại song song hai loại
(phân theo cấp cơ quan chủ quản). Loại một, là các trường cao đẳng, đại học do trung ương (các
Bộ) trực tiếp quản lý (sau đây xin được gọi tắt là các trường trung ương).
Loại hai, là các trường cao đẳng, đại học trực thuộc sự quản lý của các cơ quan địa phương
(Uy ban nhân dân, các sở, sau đây xin được gọi tắt là các trường địa phương).
Hiện nay, vấn đề phân vùng tuyển sinh cho 2 loai trường trung ương và trường địa
phương còn bất bình đẳng. Các trường trung ương được phép tuyển sinh
trên một địa bàn rất rộng gồm nhiều tỉnh, thành trong cả một khu vực lớn, kể cả những địa bàn đã có
trường địa phương cùng ngành, cùng bậc đào tạo, nên có nhiều cơ hội dễ dàng hơn trong việc thực
hiện công tác tuyển sinh.
Còn các trường địa phương thì chỉ được phép tuyển sinh các đối tượng có hộ khẩu thường trú
tại địa phương mà thôi. Thực trạng này cho thấy sự bất hợp lý trong vấn đề phân công trách nhiệm
giữa trường trung ương và trường địa phương. Từ thực trạng đó, chúng
tôi kiến nghị, cần xác định rõ về vai trò, nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các trường trung ương với
các trường địa phương có cùng ngành, cùng bậc đào tạo. Đồng thời, cần có sự phân định công bằng
hơn trong việc phân vùng tuyển sinh. Nếu như các trường địa phương chỉ được phép tuyển sinh trên
địa bàn của địa phương, thì không nên để các trường trung ương tuyển sinh ở những địa bàn đã có
trường địa phương (có cùng ngành, cùng bậc đào tạo) đảm nhận nữa, nhằm tránh tình trạng dẫm
chân nhau trong khi thực hiện nhiệm vụ, đồng thời, giúp cho trường địa phương phát huy được vai
trò, chức năng và nhiệm vụ.
Hiện nay, Bộ văn hóa và thông tin chưa ban hành các khung chương trình đào tạo bậc cao
đẳng, đại học chung cho các trường cao đẳng, đại học ngành văn hóa - nghệ thuật - thông tin. Hầu
hết, các trường đều phải tự biên soạn chương trình đào tạo cho riêng mình, sau đó trình Bộ văn hóa
và thông tin xem xét và ra quyết định công nhận.
Cách làm này khiến cho chương trình đào tạo của các trường (có cùng ngành, cùng bậc đào
tạo) không có tính thống nhất. Từ đó, không thể thực hiện được vấn đề đào tạo liên thông.
Từ thực trạng đó, chúng tôi kiến nghị, Bộ Văn hóa và Thông tin cần nhanh chóng nghiên
cứu xây dựng khung chương trình đào tạo thống nhất cho các trường cao đẳng, đại học ngành văn
hóa - nghệ thuật - thông tin trên cả nước.
1.12.2. Đối với Uy Ban Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh:
Việc Uy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phân cấp cho Sở Văn hóa và Thông tin TP. Hồ
Chí Minh trực tiếp quản lý Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh đã tạo thêm
một tầng quản lý trung gian trong mối quan hệ giữa trường với Ủy ban nhân dân và các bộ. Mô hình
quản lý này đã gây ra nhiều ách tắc, gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác đào tạo của trường.
Từ thực trạng đó, chúng tôi kiến nghị, Uy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh cần trực
tiếp quản lý các trường đại học và cao đẳng của thành phố Hồ Chí Minh, nhằm giảm bớt các tầng
nấc quản lý trung gian, tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng cho công tác đào tạo của các trường
cao đẳng, đại học địa phương của thành phố Hồ Chí Minh.
1.12.3. Đối với Sở Văn Hóa và Thông Tin TP. Hồ Chí Minh:
Theo cơ chế hoạt động hiện hành, cũng như theo quan điểm của lãnh đạo Sở Văn hóa và
Thông tin TP. Hồ Chí Minh, Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh là một đơn
vị trực thuộc sự quản lý của Sở giống như các đơn vị hành chính sự nghiệp khác (Bảo tàng, Nhà hát,
v.v...). Theo quy định trong Điều lệ trường cao đẳng thì Hiệu trưởng có quyền bổ nhiệm hoặc miễn
nhiệm các trưởng phòng/khoa của trường. Nhưng trên thực tế hiện nay thì các trưởng phòng/ khoa
của Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh đều do giám đốc Sở Văn hóa và
Thông tin TP. Hồ Chí Minh ký quyết định bổ nhiệm. Kinh phí đào tạo của Nhà nước cấp cho
Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh đều phải thông qua trung gian là hệ thống
tài vụ của Sở Văn hóa và Thông tin TP. Hồ Chí Minh. Như vậy, có thể thấy, trong cơ chế hoạt động
này, Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh giống như một phòng chức năng của
Sở, còn hiệu trưởng thì ngang với trưởng phòng (có cùng hệ số phụ cấp trách nhiệm là 0,4).
Từ thực trạng đó, chúng tôi kiến nghị, do Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí
Minh là một đơn vị làm công tác đào tạo ở bậc cao đẳng, có chức năng, nhiệm vụ và các mối quan
hệ đặc thù không giống với các đơn vị hành chính sự nghiệp khác của Sở Văn hóa và Thông tin TP.
Hồ Chí Minh. Vì vậy, cần xây dựng và ban hành các quy định phân định rõ vai trò và mối quan hệ
giữa Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh và Sở Văn hóa và Thông tin TP. Hồ
Chí Minh. Bên cạnh đó, cần có một cơ chế hoạt động phù hợp cho mối quan hệ đó, nhằm tạo điều
kiện cho trường chủ động, tự chủ trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ đã được Nhà nước
giao.
1.12.4.Đối với Ban giám hiệu Trường Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật TP. Hồ Chí Minh
1.12.4.1. Ổn định cơ cấu tổ chức của Trường trong một thời gian nhất định (tối thiểu là 5 năm) để
lực lượng cán bộ quản lý, giảng viên có điều kiện tiếp cận các yêu cầu, các vấn đề được
đặt ra, cần phải giải quyết trong quá trình công tác, từ đó rút ra được kinh nghiệm để hoàn
chỉnh các kỹ năng, kỹ xảo nghiệp vụ và nâng cao chất lượng công tác.
1.12.4.2. Xây dựng hoàn chỉnh chương trình đào tạo, hệ thống mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo,
v.v... đảm bảo tính pháp lý, tính khoa học và tính thực tiễn.
1.12.4.3. Xây dựng công tác quản lý của nhà trường theo hướng đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9000).
KẾT LUẬN
Công cuộc CNH-HĐH đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đưa đất nước ta
bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn phát triển kinh tế - khoa học - kỹ thuật - công nghệ. Sự tiến
bộ, phát triển của nền kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ đã giúp cho đời sống của nhân dân
được cải thiện đáng kể, đáp ứng được những nhu cầu vật chất cơ bản phục vụ cho đời sống, làm gia
tăng nhu cầu hưởng thụ văn hóa để thỏa mãn những nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân.
Bên cạnh đó, xu thế hội nhập với thế giới và sự bùng nổ của công nghệ thông tin đã và
đang có những tác động mạnh mẽ đến nền văn hóa, xã hội của nước ta. Song song với những
yếu tố tích cực mà chúng ta nhận được từ những tinh hoa văn hóa của thế giới, chúng ta cũng
đang phải đối diện với những thách thức từ sự tác động của những yếu tố tiêu cực.
Để chống lại sự tác động tiêu cực đó, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu phát triển
văn hóa, Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 (Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam, khoá VIII) đã đề ra phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Đối với công tác giáo dục và đào tạo, Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 (Ban chấp hành
trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, khoá VIII) cũng đã chỉ rõ: "Nghiên cứu việc tổ chức và
phối hợp chỉ đạo chương trình phát triển giáo dục và đào tạo phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và hoàn thiện hê thống pháp luật Nhà nước về
giáo dục... Định rõ trách nhiệm, mở rộng quyền hạn và nâng cao năng lực quản lý cho các
cơ sở đào tạo... . Đổi mới và tăng cường công tác quản lý giáo dục... đảm bảo được hiệu quả
đào tạo đúng mục tiêu mong muốn".
Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo
dục, lấy giáo dục làm quốc sách hàng đầu để phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xác định mục tiêu của Giáo dục đào tạo Việt Nam, giai đoạn đến năm 2020 là
nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài.
Để thực hiện các chủ trương về công tác giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước,
trường CĐ VHNT TP.HCM đã có nhiều nỗ lực nhằm thực hiện nhiệm vụ đào tạo lực lượng
làm công tác trên các lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật - thông tin, và cũng đã đạt được những
thành quả đáng được ghi nhận.
Bên cạnh những mặt tích cực đã được thực hiện tốt, trường cũng còn một số vấn đề cần
được khắc phục, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đào tạo của trường.
Những vấn đề trên đây là những tiền đề quan trọng trong việc nghiên cứu "nâng cao hiệu
quả công tác đào tạo của trường CĐ VHNT TP.HCM"
Trải qua gần 30 năm, xây dựng và phát triển, trường CĐ VHNT TP.HCM đã hoàn thành
nhiệm vụ và chức năng được giao, đã đào tạo được một đội ngũ những người làm công tác
văn hóa, quản lý văn hóa và nghệ thuật cho các cơ sở, các đơn vị trong và ngoài ngành văn
hóa thông tin. Từ đó, trường đã dần dần khẳng định và nâng cao được vai trò, vị trí của mình
trong đời sống văn hóa tinh thần trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt với các
chuyên ngành quản lý văn hóa, sư phạm âm nhạc và sư phạm mỹ thuật. Trường đã đào tạo
được một đội ngũ cán bộ và nhân viên hoạt động văn hóa thiết thực, góp phần giải quyết tình
trạng khan hiếm những người chuyên tâm hoạt động văn hóa và thiếu giáo viên giảng dạy các
môn này ở các trường học.
Thông qua liên kết, phối hợp đào tạo, trường đã tạo được hiệu quả tích cực theo hai
chiều: Trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giảng viên thâm nhập thực tế, nâng cao
nghiệp vụ chuyên môn; đồng thời xã hội cũng nhận thức sâu sắc hơn vai trò của văn hóa nghệ
thuật và khẳng định vị thế của trường; tạo cho mối quan hệ giữa trường với các đơn vị ngày
càng chặt chẽ hơn, uy tín của trường ngày càng tăng.
Dù gặp nhiều khó khăn, công tác quản lý hoạt động đào tạo của trường CĐ VHNT
TP.HCM đã thực hiện được một số kết quả đáng ghi nhận.
- Trường đã có những điều chỉnh về tổ chức nhân sự, về nội dung, chương trình,... đào tạo mỗi khi
trường thay đổi về chức năng, nhiệm vụ do sự nâng cấp trường. Những điều chỉnh này đã tạo
điều kiện cho trường hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ chính trị được giao.
- Mỗi cán bộ, công chức, giảng viên đều xuất phát từ một mục đích chung là phấn đấu nâng cao
chất lượng đào tạo, tạo chỗ đứng vững chắc trong quá trình phát triển.
- Ban giám hiệu tích cực chỉ đạo các phòng chức năng cùng với các khoa xây dựng kế hoạch đào
tạo cụ thể, đầy đủ cho từng lớp, từng năm học, từng khoá học, v.v...
- Thông qua hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học của các khoa, bộ môn, mỗi giảng viên,
trên cơ sở mở rộng liên kết đào tạo với các trung tâm, các trường của các địa phương, bước đầu
trường đã gắn hoạt động đào tạo và bồi dưỡng của đơn vị với việc giải quyết những vấn đề văn
hóa nghệ thuật đặt ra ở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, ở xã hội nói chung. Từ
đây, vị thế của trường dần được khẳng định.
Công tác tuyển sinh của trường trong những năm gần đây được thực hiện một cách nghiêm túc,
chặt chẽ, tuân thủ đầy đủ các quy chế, quy định về công tác tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành. Số lượng thí sinh đăng ký dự thi vào trường ngày càng tăng.
Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học. Trường CĐ VHNT
TP.HCM thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm về các vấn đề khoa học mà nhà trường
và xã hội đang quan tâm. Một số giảng viên của nhà trường có tham gia vào công tác nghiên cứu các
đề tài khoa học của Sở Văn Hóa và Thông Tin TP. Hồ Chí Minh và của Uỷ ban Nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trường CĐ VHNT TP.HCM cũng tồn tại một số vấn đề
cần phải được khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đào tạo.
Trước hết, chất lượng đào tạo và bồi dưỡng chưa cao. Tuy đây là tình hình chung của nền giáo
dục nước ta hiện nay, song từ phía chủ quan của từng địa phương, từng trường mà ở đây là trường
CĐ VHNT TP.HCM cũng cần phải thừa nhận điều này.
Chất lượng đào tạo và bồi dưỡng của trường chưa cao có thể thấy qua nhiều khía cạnh.
- Tuy kết quả học tập của sinh viên ngày càng khá hơn, nhưng số sinh viên giỏi, xuất sắc không
nhiều.
- Là một đơn vị có điều kiện đào tạo những sinh viên làm công tác nghệ thuật (Biểu diễn, sáng
tác) bài bản, hệ thống. Nhưng số sinh viên của trường có mặt tại các cuộc thi do ngành văn hóa
nghệ thuật tổ chức không nhiều và kết quả không cao (số đoạt giải khá ít).
- Sức hút (đầu tư) của trường đối với xã hội chưa mạnh, chưa rộng.
Tiếp theo, phải kể đến, vị thế của trường chưa được khẳng định. Với bề dày hơn một phần tư
thế kỷ hoạt động, nhưng ảnh hưởng của trường đối với các tỉnh, thành ở miền Nam nói riêng, cả
nước nói chung, hình như chưa tương xứng với tầm của trường. Ngay tiếng nói của trường trong đời
sống văn hóa tinh thần của thành phố Hồ Chí Minh không thật nổi trội trong quan hệ so sánh với
một số trường cao đẳng, đại học và đơn vị hoạt động trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật có mặt ở địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Những hạn chế trong hoạt động đào tạo của trường thời gian qua, có nhiều nguyên nhân, trong
đó có những nguyên nhân xuất phát từ hướng hoạt động quản lý.
Để khắc phục những vấn đề tồn tại nêu trên, theo thiển ý của chúng tôi, trường cần thực hiện
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo của trường như sau :
1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy của trường.
2. Đổi mới cơ chế và phương thức quản lý trong hoạt động.
3. Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Để có thể hoạch định một chiến lược phát triển dài hơi đối với trường CĐ VHNT TP.HCM,
cần phải tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau:
Cần có những nghiên cứu dự báo, nhằm xác lập mô hình phát triển, cơ cấu tổ chức, quy mô, chất
lượng đào tạo, v.v... một cách khoa học, thực tiễn, làm cơ sở để định hướng phát triển trường
đến năm 2020 phù hợp với sự phát triển chung về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung.
Nghiên cứu để đưa ra một cơ chế hợp lý cho công tác bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật. Đây là một vấn đề tồn tại đang gây khó khăn cho công tác phát hiện và bồi dưỡng
nhân tài của trường.
Nền kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của nước ta ngày càng phát
triển, nhu cầu hoạt động và hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng tăng, đồng thời, xu
hướng hội nhập với thế giới khiến cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại sự đồng hóa, lai căng là nhiệm vụ nặng nề, là thách thức
lớn đang đặt ra cho lực lượng làm công tác văn hóa nghệ thuật của nước ta nói chung và của
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, đòi hỏi chúng ta phải đào tạo nhân lực cho lực lượng
làm công tác văn hóa nghệ thuật, có đủ năng lực, bản lĩnh, vừa hồng, vừa chuyên, đó chính là
trọng trách của các trường văn hóa nghệ thuật và các cơ quan hữu quan trong cả nước, trong
đó có trường CĐ VHNT TP.HCM.
Vì thế, việc nghiên cứu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo là nhiệm vụ hàng đầu,
tất yếu của trường trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, nhằm đáp ứng các nhu cầu mà xã hội đã và
đang đặt ra cho trường.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5814.pdf