Nâng cao hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội

Lời nói đầu Trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, ngành xây dựng nói chung và ngành xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng chiếm một vị trí ngày càng quan trọng, góp phần tạo nên động lực cho sự phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và rất nhiều ngành khác. Nhận thức được tầm quan trọng này, các công ty xây dựng trong nước và nước ngoài đã không ngừng đổi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường thông qua hàng loạt các hoạt động đầu tư toàn diện trên tất c

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả các mặt từ xây dựng cơ bản, đổi mới công nghệ và máy móc thi công cho đến đầu tư vào nguồn nhân lực. Trong đó, hoạt động đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng đóng vai trò quyết định đến việc chiếm lĩnh thị trường, tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài của các đơn vị kinh doanh. Trong những năm qua, hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội đã được diễn ra rất mạnh mẽ và bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Có được điều này một phần là nhờ công ty đã quan tâm chú ý đến công tác lập và quản lý dự án đầu tư. Là một sinh viên thực tập tại công ty, em đã có cơ hội được tiếp xúc với thực tế hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư nói chung và công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng nói riêng của công ty. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác này, em đã đi sâu nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề mang tên “Nâng cao hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội”. Đây là một vấn đề có ý nghĩa bức xúc cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với công ty trong quá trình phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chuyên đề của em được chia thành 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận của công tác lập và quản lý dự án đầu tư. Chương II: Thực trạng của công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội. Do kiến thức và tài liệu có hạn nên Chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin chân thành mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và người đọc để Chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Cuối cùng, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc của mình tới thầy giáo – Trưởng bộ môn Kinh Tế Đầu Tư – Từ Quang Phương cùng tập thể cán bộ phòng Tư Vấn - Đầu Tư – Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội đã giúp đỡ em thực hiện Chuyên đề này. Sinh viên Trần Quỳnh Trang Chương I: Cơ sở lý luận chung của công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng. II. Những vấn đề cơ bản về đầu tư và đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng 1. Định nghĩa về đầu tư Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội thụ hưởng. Chẳng hạn một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động… Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung cho nguồn nhân lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia. Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả lớn hơn so với những hy sinh mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư là điều kiện quyết định sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng. 2. Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Đổi mới công nghệ và mua sắm thiết bị xây dựng là việc sử dụng các kỹ thuật mới, các loại máy móc mới có hiệu quả hơn, thể hiện ở chỗ khối lượng và chất lượng sản phẩm tăng lên nhưng số lao động tham gia vào quá trình sản xuất vẫn giữ nguyên hoặc ít hơn, hoặc là khối lượng sản phẩm vẫn giữ nguyên nhưng tiêu hao lao động ít hơn, đồng thời không làm tăng số lượng thiết bị. Đầu tư vào công nghệ và máy móc thiết bị theo chiều sâu gắn liền với việc đổi mới kỹ thuật, mua sắm mới các thiết bị hiện đại hoàn hảo hơn. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng việc sử dụng máy móc thiết bị với công nghệ và kỹ thuật lặp lại như cũ. Đầu tư theo chiều sâu sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế tính cho một đồng vốn đầu tư nhưng lại đòi hỏi vốn đầu tư cơ bản để mua sắm thiết bị xây dựng và công nghệ lớn hơn. Đầu tư theo chiều rộng về cơ bản không làm tăng hiệu quả kinh tế tính cho một đồng vốn đầu tư nhưng đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu bỏ ra ít hơn, phù hợp với hoàn cảnh thiếu vốn. Nhìn về lâu dài, đầu tư theo chiều rộng cũng có những tác dụng quan trọng, nhất là ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế vì nó cũng tạo ra điều kiện chuẩn bị cho phát triển và đầu tư theo chiều sâu. Để đầu tư đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị xây dựng có thể tiến hành một số hình thức đầu tư sau: Thay thế những thiết bị đã lạc hậu về mặt công nghệ và kỹ thuật bằng các thiết bị thi công tiến bộ và có hiệu quả cao hơn, có chi phí quy đổi tính cho một đơn vị sản phẩm của thiết bị làm ra bé hơn khi so sánh ở giai đoạn lập dự án, giai đoạn thiết kế hoặc nhập khẩu máy nhưng chưa chắc đã có chi phí quy đổi bé hơn ở khâu sử dụng sau này, bởi vì nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố có liên quan đến đặc điểm của ngành sản xuất xây dựng và nhất là liên quan đến khâu quản lý dự án đầu tư. Vấn đề hiệu quả kinh tế của việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng phụ thuộc vào các điều kiện sử dụng cụ thể, gắn liền với quá trình quản lý dự án đầu tư. Tiến hành cải tạo, hiện đại hoá các máy xây dựng hiện có đã lạc hậu. Cải tiến kỹ thuật sử dụng máy và công nghệ xây dựng cơ giới hoá tại các công trường xây dựng, các phương án sử dụng máy theo công suất… Cải tiến kỹ thuật trong khâu bảo dưỡng, sửa chữa máy. Đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công phục vụ cho chiến lược cạnh tranh, chiến lược phát triển của doanh nghiệp Đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng phục vụ cho một dự án cụ thể. Thông thường, khi không bị hạn chế về vốn đầu tư và đặc biệt không bị chi phối bởi đầu ra của công việc, tức là có điều kiện để thiết bị phát huy công suất càng lớn càng tốt thì việc đầu tư thiết bị mới, có công nghệ và kỹ thuật mới lẽ dĩ nhiên càng cao càng tốt. Khi thiếu vốn đầu tư, thị trường đầu ra bị hạn chế và tình trạng lao động dư thừa thì có thể xem xét việc đầu tư vào công nghệ và thiết bị theo hướng đầu tư vào thiết bị có công nghệ kỹ thuật cũ, giá thấp vừa đủ cho các loại hình công việc và tạo điều kiện cho việc sử dụng lao động thủ công. Ngày nay, đối với doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, do việc sử dụng nhân công rất linh hoạt, việc đầu tư vào máy móc và công nghệ phụ thuộc chủ yếu vào hai nhân tố: Thị trường công việc và vốn đầu tư. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong doanh nghiệp xây dựng Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, trong đó có thể kể đến các nhân tố chủ yếu sau: 3.1. Nhân tố thị trường Đây là nhân tố chi phối nhiều nhất tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, cả trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới. Nhân tố thị trường bao gồm: Thị trường công việc, thị trường thiết bị, thị trường đối tác…Các nhân tố này có ảnh hưởng đến mục tiêu đổi mới, quy mô và tốc độ đổi mới thiết bị ở các doanh nghiệp. Nó có tác động rất lớn đến hiệu quả đầu tư. 3.2.Định hướng phát triển lâu dài và mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp Đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư đôỉ mới công nghệ máy móc xây dựng nói riêng không phải là một việc làm nhất thời mà là một vấn đề có tính chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Bởi vậy đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công trước hết là nhằm phục vụ những nhiệm vụ, mục tiêu có tính chiến lược của doanh nghiệp. Các nhiêm vụ, mục tiêu đó thường được hoạch định trong chiến lược kinh doanh, chiến lược đầu tư và chiến lược trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Trong một chừng mực nhất định, mục tiêu nhiệm vụ đó vừa là căn cứ để lập dự án đầu tư, vừa là cơ sở để phân tích lựa chọn dự án. Các dự án đầu tư vào công nghệ và máy móc thiết bị có thể có các mục tiêu sau: + Cực tiểu chi phí và cực đại lợi nhuận. + Cực đại khối lượng sản phẩm xây dựng. + Đạt được một mức thoả mãn nào đó về hiệu quả tài chính của dự án. + Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong tình hình cạnh tranh hay phục hồi doanh nghiệp thoát khỏi sự tụt dốc suy thoái. + Nâng cao chất lượng sản phẩm xây dựng và uy tín đối với chủ đầu tư để chiếm lĩnh thị trường. + Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ + Đầu tư để cùng nhà thầu nước ngoài liên doanh nhằm tranh thủ công nghệ mới và mở rộng thị trường. + Đầu tư để đảm bảo điều kiện lao động, đảm bảo yêu cầu môi trường… 3.3. Các đặc điểm của ngành sản xuất xây dựng Các nhiệm vụ sản xuất có tính cá biệt và đơn chiếc cao. Cho nên ở giai đoạn lập dự án đầu tư mua sắm thiết bị ban đầu, việc lập dự án chỉ có tính chất dự báo gần đúng và chưa tính hết đến các đặc điểm cụ thể của công trường sau này. Đặc điểm này có thể làm đảo lộn hiệu quả của dự án. Do đó để tăng độ chính xác cần phải bổ xung hay xem xét gắn liền với quá trình quản lý dự án. Điều kiện sản xuất không ổn định, luôn biến động theo địa điểm và giai đoạn xây dựng công trình dẫn đến tính chất lưu động của thiết bị thi công. Chu kỳ sản xuất thường dài ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án, nhất là việc tính toán huy động vốn và khi thành lập dòng tiền của dự án. Tính đơn dụng và đa dụng của máy móc xây dựng. Tuy phân loại thiết bị theo chức năng nhưng trong thực tế sản xuất xây dựng có nhiều loại thiết bị sử dụng đa năng nên cần phải kết hợp giữa việc lập dự án cho từng loại thiết bị và cho tập hợp các thiết bị thi công. Mặt khác, do một thiết bị có thể sử dụng vào nhiều loại hình công việc khác nhau, nhiều dự án khác nhau nên cần phải chú ý khi tính toán khối lượng sản phẩm trong lập và quản lý dự án. Đối với ngành xây dựng, khác với các ngành khác, khi lập dự án đầu tư máy móc xây dựng, có nhiều trường hợp địa điểm sản xuất chưa được xác định, thậm chí có thể ảnh hưởng đến khả năng không có thị trường do thực trạng phụ thuộc vào khả năng thắng thầu của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Thời tiết cũng là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất của ngành xây dựng 3.4. Các giải pháp huy động và sử dụng vốn Thông thường giữa vốn tài chính và nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng là mâu thuẫn với nhau. Vốn có hạn, phạm vi lãi suất và các điều kiện vay khác nhau, còn nhu cầu đầu tư cho cả chiều rộng lẫn chiều sâu đều lớn, nhất là trong điều kiện hiện nay. Mặt khác, thị trường vốn vay trong những năm gần đây biến động rất phức tạp và phong phú. Việc lựa chọn được giải pháp huy động và sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí lãi vay và quay vòng đồng vốn phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. 3.5. Thực trạng thiết bị và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. ở nước ta, đây cũng là một nhân tố có ảnh hưởng đến đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của các công ty xây dựng. Đặc điểm này kết hợp với các yêu cầu của hồ sơ thầu, yêu cầu của chủ đầu tư, của kỹ sư tư vấn và nhất là đối với các gói thầu thực hiện đấu thầu quốc tế cho phép quyết định các giải pháp đầu tư hợp lý nhằm từng bước đổi mới thiết bị, tăng khả năng cạnh tranh, phù hợp với thực trạng và chiến lược phát triển của doanh nghiệp. 3.6. Tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng Tiến bộ về khoa học công nghệ trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi sự phù hợp của thiết bị thi công về mặt chất lượng, kỹ thuật, công nghệ trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư, năng lực của doanh nghiệp và bảo đảm về hiệu quả kinh tế. 3.7. Nhân tố con người trong hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Đây là nhân tố rất quan trọng, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công của doanh nghiệp xây dựng. Nhân tố con người thể hiện trên hai mặt: phẩm chất đạo đức và năng lực trình độ. Trong điều kiện xuất phát thấp của nền kinh tế nước ta cộng với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng, nếu không chú trọng đến nhân tố này có thể dẫn tới sự sai lệch về mục tiêu cũng như hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Có thể tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng theo sơ đồ sau Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Nhân tố thị trường Định hướng phát triển và mục tiêu của doanh nghiệp Đặc điểm sản xuất ngành xây dựng Giải pháp huy động và sử dụng vốn Thực trạng thiết bị và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Tiến bộ KHCN trong xây dựng cở sở hạ tầng Nhân tố con người Công việc Thiết bị Đối tác Đạo đức Năng lực II. Khái niệm về lập và quản lý dự án đầu tư 1. Khái niệm cơ bản về dự án đầu tư Dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân nói chung. Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Như vậy một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính: Mục tiêu của dự án được thể hiện ở 2 mức: 1/Mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế – xã hội do thực hiện dự án đem lại. 2/ Mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần phải đạt được của dự án. Các kết quả: đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án. Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án. Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần cho dự án. Trong 4 thành phần trên thì kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo dõi đánh giá các kết quả đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu cần phải được đặc biệt quan tâm. 2. Quá trình hình thành và phát triển một dự án đầu tư Quá trình hình thành và thực hiện dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ xung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp. Các bước công việc của các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư có thể được tóm tắt trong bảng sau: Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành kết quả đầu tư Nghiên cứu phát hiện cơ hội đầu tư Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án Nghiên cứu khả thi Đánh giá và quyết định (thẩm định dự án) Hoàn tất thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư Thiết kế và lập dự toán xây lắp công trình Thi công xây lắp công trình Chạy thử và nghiệm thu sử dụng Sử dụng chưa hết công suất Sử dụng công suất ở mức cao nhất Công suất giảm dần và thanh lý Trong 3 giai đoạn trên đây, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở giai đoạn sau, đặc biệt là đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Do đó, đối với giai đoạn chuẩn bị đầu tư, vấn đề chất lượng, vấn đề chính xác của các kết quả nghiên cứu, tính toán và dự đoán là quan trọng nhất. Trong quá trình soạn thảo dự án phải dành đủ thời gian và chi phí theo đòi hỏi của các nghiên cứu. Tổng chi phí cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư chiếm từ 0.5 – 15% vốn đầu tư của dự án. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng tốt 85 – 99.5% vốn đầu tư của dự án ở giai đoạn thực hiện đầu tư (đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác…). Điều này cũng tạo cơ sở cho quá trình hoạt động của dự án được thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lãi (đối với các dự án sản xuất kinh doanh), nhanh chóng phát huy hết năng lực dự kiến (đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội). Trong giai đoạn 2, vấn đề thời gian là quan trọng nhất. ở giai đoạn này, vốn đầu tư của dự án được chi ra nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư thiết bị chưa hoặc đang được thi công, đối với các công trình đang được xây dựng dở dang. Đến lượt mình, thời gian thực hiện đầu tư lại phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư, vào việc quản lý quá trình thực hiện đầu tư, quản lý việc thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư. Giai đoạn 3: Vận hành các kết quả của giai đoạn thực hiện đầu tư (giai đoạn sản xuất kinh doanh dịch vụ) nhằm đạt được các mục tiêu của dự án. Nếu các kết quả do giai đoạn thực hiện đầu tư tạo ra đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, đúng tiến độ, tại địa điểm thích hợp, với quy mô tối ưu thì hiệu quả trong hoạt động của các kết quả này và mục tiêu của dự án chỉ còn phụ thuộc trực tiếp vào quá trình tổ chức, quản lý hoạt động các kết quả đầu tư. Làm tốt các công việc của giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư tạo thuận lợi cho quá trình tổ chức quản lý phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư.Thời gian phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chính là đời của dự án, nó gắn với đời sống của sản phẩm (do dự án tạo ra) trên thị trường 3. Quản lý dự án đầu tư Phương pháp quản lý dự án lần đầu được áp dụng trong lĩnh vực quân sự Mỹ vào những năm 50, đến nay nó nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi vào các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng và xã hội. Có hai lực lượng cơ bản thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phương pháp quản lý dự án là: (1) nhu cầu ngày càng tăng của những hàng hoá và dịch vụ sản xuất phức tạp, kỹ thuật tinh vi trong khi khách hàng càng “khó tính”; (2) kiến thức của con người (hiểu biết tự nhiên, xã hội, kinh tế, kỹ thuật) ngày càng tăng. Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực và giám sát quá trình phát triển nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và đạt được các yêu cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng những phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép Quản lý dự án bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu. Đó là việc lập kế hoạch, điều phối thực hiện mà nội dung chủ yếu là quản lý tiến độ thời gian, chi phí thực hiện và thực hiện giám sát các công việc dự án nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Lập kế hoạch. Đây là giai đoạn xây dựng mục tiêu, xác định những công việc cần được hoàn thành, nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án và là quá trình phát triển một kế hoạch hành động theo trình tự lôgic mà có thể biểu diễn dưới dạng sơ đồ hệ thống. Điều phối thực hiện dự án. Đây là quá trình phân phối nguồn lực bao gồm tiền vốn, lao động, thiết bị và đặc biệt quan trọng là quản lý và điều phối tiến độ thời gian. Giai đoạn này chi tiết hoá thời hạn thực hiện cho từng công việc và toàn bộ dự án (khi nào bắt đầu, khi nào kết thúc). Giám sát là quá trình theo dõi kiểm tra tiến trình dự án, phân tích tình hình hoàn thành, giải quyết những vấn đề liên quan và thực hiện báo cáo hiện trạng. Các giai đoạn của quá trình quản lý dự án hình thành một chu trình năng động từ việc lập kế hoạch đến điều phối thực hiện và giám sát, sau đó phản hồi cho việc tái lập kế hoạch dự án theo hình sau: Lập kế hoạch Thiết lập mục tiêu Điều tra nguồn lực Xây dựng kế hoạch Điều phối thực hiện Điều phối tiến độ thời gian Phân phối nguồn lực Phối hợp các nỗ lực Khuyến khích và động viên cán bộ và nhân viên Giám sát Đo lường kết quả So sánh với mục tiêu Báo cáo Giải quyết vấn đề Hình 1: Chu trình quản lý của dự án Mục tiêu cơ bản của các dự án thể hiện ở chỗ các công việc phải được hoàn thành theo yêu cầu và đảm bảo chất lượng trong phạm vi chi phí được duyệt, đúng thời gian và giữ cho phạm vi dự án không thay đổi. Về mặt toán học, bốn vấn đề này liên quan với nhau theo công thức sau: C = f( P, T, S) Trong đó: C: là chi phí P: hoàn thành công việc (kết quả) T: yếu tố thời gian S: phạm vi dự án Phương trình cho thấy, chi phí là một hàm của các yếu tố hoàn thành công việc, phạm vi và thời gian dự án. Nói chung chi phí của dự án tăng lên nếu chất lượng hoàn thiện công việc tốt hơn, kéo dài thêm và phạm vi dự án được mở rộng. Ba yếu tố cơ bản: thời gian, chi phí và hoàn thiện công việc là những mục tiêu cơ bản của quản lý dự án và giữa chúng có liên quan chặt chẽ với nhau. Không đơn thuần chỉ là hoàn thành kết quả thời gian cũng như chi phí để đạt được kết quả đó đều là những yếu tố không kém phần quan trọng. Hình sau biểu hiện mối quan hệ giữa 3 mục tiêu cơ bản của quản lý dự án. Tuy mối quan hệ giữa 3 mục tiêu có thể khác nhau giữa các dự án , giữa các thời kỳ đối với cùng một dự án nhưng nói chung đạt được kết quả tốt với mục tiêu này thường phải “hy sinh” một hay hai mục tiêu kia. Do vậy, trong quá trình quản lý dự án các nhà quản lý dự án hy vọng đạt được sự kết hợp tốt nhất giữa các mục tiêu của quản lý dự án. Kết quả Kết quả mong muốn Thời gian cho phép Thời gian Chi phí cho phép Mục tiêu tổng hợp Hình 2 : Mối quan hệ giữa thời gian, chi phí và kết quả. 4. Nội dung quản lý dự án đầu tư 4.1- Quản lý vĩ mô và vi mô đối với các dự án a. Quản lý vi mô đối với dự án Quản lý vĩ mô hay quản lý Nhà nước đối với các dự án bao gồm tổng thể các biện pháp vĩ mô tác động đến quá trình hình thành, hoạt động và kết thúc dự án. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, Nhà nước mà đại diện là cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế luôn theo dõi chặt chẽ, định hướng và chi phối hoạt động của dự án nhằm đảm bảo cho dự án đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế- xã hội. Những công cụ quản lý vĩ mô chính của Nhà nước để quản lý dự án bao gồm các chính sách, kế hoạch, quy hoạch như chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất, chính sách đầu tư, chính sách thuế, hệ thống luật pháp, những qui định về chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm, tiền lương,… b. Quản lý vi mô đối với hoạt động dự án Quản lý dự án ở tầm vi mô là quá trình quản lý các hoạt động cụ thể của dự án. Nó bao gồm nhiều khâu công việc như lập kế hoạch, điều phối, kiểm soát,…các hoạt động dự án. Quản lý dự án bao gồm hàng loạt vấn đề như quản lý thời gian, chi phí, nguồn vốn đầu tư, rủi ro, quản lý hoạt động mua bán,…Quá trình quản lý được thực hiện trong suốt các giai đoạn từ chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến giai đoạn vận hành kết quả của dự án. Trong từng giai đoạn, tuy đối tượng quản lý cụ thể có khác nhau nhưng đều phải gắn với ba mục tiêu cơ bản của hoạt động quản lý dự án là: thời gian, chi phí và kết quả hoàn thành. 4.2- Lĩnh vực quản lý dự án Theo đối tượng quản lý, quản lý dự án bao gồm các nội dung như trong bảng dưới. Quản lý dự án bao gồm chín lĩnh vực chính cần được nghiên cứu, xem xét ( theo Viện nghiên cứu Quản trị Dự án Quốc tế- PMI) là: Quản lý phạm vi. Quản lý phạm vi dự án là việc xác định, giám sát việc thực hiện mục đích, mục tiêu của dự án, xác định công việc nào thuộc về dự án và cần phải thực hiện, công việc nào ngoài phạm vi của dự án. Quản lý thời gian. Quản lý thời gian là việc lập kế hoạch, phân phối và giám sát tiến độ thời gian nhằm đảm bảo thời hạn hoàn thành dự án. Nó chỉ rõ mỗi công việc kéo dài bao lâu, khi nào bắt đầu khi nào kết thúc và toàn bộ dự án bao giờ sẽ hoàn thành. Quản lý chi phí. Quản lý chi phí của dự án là quá trình dự toán kinh phí, giám sát thực hiện chi phí theo tiến độ cho từng công việc và toàn bộ dự án, là việc tổ chức, phân tích số liệu và báo cáo những thông tin về chi phí. Quản lý chất lượng. Quản lý chất lượng dự án là quá trình triển khai giám sát những tiêu chuẩn chất lượng cho việc thực hiện dự án, đảm bảo chất lượng sản phẩm dự án phải đáp ứng mong muốn của chủ đầu tư. Quản lý nhân lực. Quản lý nhân lực là việc hướng dẫn, phối hợp những nỗ lực của mọi thành viên tham gia dự án vào việc hoàn thành mục tiêu dự án. Nó cho thấy việc sử dụng lực lượng lao động của dự án hiệu quả đến mức nào? Quản lý thông tin. Quản lý thông tin là quá trình đảm bảo các dòng thông tin thông suốt một cách nhanh nhất và chính xác giữa các thành viên dự án và với các cấp quản lý khác nhau. Thông qua quản lý thông tin có thể trả lời được các câu hỏi: ai cần thông tin về dự án, mức độ chi tiết và các nhà quản lý dự án cần báo cáo cho họ bằng cách nào? Quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro là việc xác định các yếu tố rủi ro của dự án, lượng hoá mức độ rủi ro và có kế hoạch đối phó cũng như quản lý từng loại rủi ro. Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán. Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán của dự án là quá trình lựa chọn, thương lượng và quản lý các hợp đồng và điều hành việc mua bán nguyên vật liệu, trang thiết bị, dịch vụ,…cần thiết cho dự án. Quá trình quản lý này giải quyết vấn đề: bằng cách nào dự án nhận được hàng hoá và dịch vụ cần thiết của các tổ chức bên ngoài cung cấp cho dự án, tiến độ cung, chất lượng cung như thế nào. Lập kế hoạch tổng quan. Lập kế hoạch tổng quan cho dự án là quá trình tổ chức dự án theo một trình tự lôgic, là việc chi tiết hoá các mục tiêu dự án thành những công việc cụ thể và hoạch định một chương trình để thực hiện các công việc đó nhằm đảm bảo các lĩnh vực quản lý khác nhau của dự án đã được kết hợp một cách chính xác và đầy đủ. Hình 3 : Các lĩnh vực quản lý của dự án Lập kế hoạch tổng quan * Lập kế hoạch * Thực hiện kế hoạch * Quản lý những thay đổi Quản lý phạm vi * Xác định phạm vi * Lập kế hoạch phạm vi * Quản lý thay đổi phạm vi Quản lý thời gian * Xác định công việc * Dự tính thời gian * Quản lý tiến độ Quản lý chi phí * Lập kế hoạch nguồn lực * Tính toán chi phí * Lập dự toán * Quản lý chi phí Quản lý chất lượng * Lập kế hoạch chất lượng * Đảm bảo chất lượng * Quản lý chất lượng Quản lý nguồn lực * Lập kế hoạch nhân lực * Tuyển dụng * Phát triển nhóm Quản lý thông tin * Lập kế hoạch quản lý thông tin * Phân phối thông tin * Báo cáo tiến độ Quản lý rủi ro dự án * Xác định rủi ro * Chương trình quản lý rủi ro * Phản ứng với rủi ro Quản lý hoạt động cung ứng * Kế hoạch cung ứng * Lựa chọn nhà cung * Quản lý tiến độ cung ứng III. đặc điểm, nội dung công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng trong doanh nghiệp xây dựng 1. Nội dung công tác lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Nội dung chủ yếu của báo cáo nghiên cứu khả thi trong dự án đầu tư gần đây nhất được quy định trong NĐ 52/1999/NĐ - CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ. Đối với doanh nghiệp xây dựng, nội dung của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng có đặc thù riêng. Thông thường một đời máy ( tuổi thọ sử dụng thiết bị ) hay trong dự án đầu tư thường tính toán là thời gian hoàn vốn của thiết bị, phải được thực hiện thi công trên nhiều công trình khác nhau, trên các địa bàn khác nhau. Mặt khác, đối với doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, trừ một số loại thiết bị đặc chủng, còn nói chung là các thiết bị đa năng, đồng thời các dự án đầu tư thường là được lập cho một tập hợp máy xây dựng. Với các điều kiện như vậy, nội dung của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng được lập trên cơ sở các nhân tố chung nhất mà không phân chia riêng cho từng loại. Những nội dung chính của dự án bao gồm : 1.1. Xác định sự cần thiết phải đầu tư - Xác định thị trường công việc cho cáca thiết bị dự kiến được đầu tư Đây là nội dung quan trọng đầu tiên có ảnh hưởng trực tiếp nhất đến mục tiêu và hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng. Việc xác định thị trường công việc càng chính xác bao nhiêu sẽ tạo tiền đề cho việc quyết định lựa chọn phương án đầu tư hợp lý bấy nhiêu. Thị trường công việc có khả năng thực hiện bao gồm Các công trình đã ký hợp đồng đang triển khai Các công trình đang đấu thầu hoặc chuẩn bị được n._.hận thầu. Đối với loại này, do chưa đủ nhân tố chắc chắn nên cần phải tiến hành phân tích, đánh giá khả năng thắng thầu, trên cơ sở đó xác định thị phần có thể nhất. Các công trình dự kiến sẽ tham gia đấu thầu hoặc khi chỉ định thầu trong chiến lược sản xuất kinh doanh hàng năm và dài hạn của doanh nghiệp. Trong thực tiễn việc tính toán thị phần công việc đòi hỏi rất công phu, tỷ mỷ, dựa trên việc phân tích nhiều nhân tố có liên quan, đồng thời sử dụng tốt nhất công cụ dự báo. Đây là nhân tố có nhiều rủi ro nhất cho việc quyết định đầu tư Việc xác định thời gian, tiến độ xây dựng, các yêu cầu về chất lượng xây dựng cũng vì vậy được phân chia theo từng thị trường công việc. Đối với những công trình đã được xác định, việc tính toán rất thuận lợi trên cơ sở yêu cầu, hồ sơ của chủ công trình và kỹ sư tư vấn. - Xác định số lượng, chủng loại thiết bị đầu tư Thực tiễn là thời gian xây dựng các công trình giao thông và cơ sở hạ tầng thường dài. Mặt khác một gói thầu xây dựng cơ sở hạ tầng lớn yêu cầu nhiều chủng loại thiết bị. Xu hướng hiện nay trừ một số thiết bị đặc chủng được lập thành dự án riêng, còn nhìn chung về cơ bản một doanh nghiệp thành viên trực thuộc các Tổng công ty phải có đủ dây chuyền thiết bị thi công, bao gồm cả thiết bị làm nền, móng, mặt đường, xe tải, xe lu…Đối với cấp tổng công ty phải có nhiều dây chuyền thiết bị đồng bộ để có thể triển khai một lúc nhiều công trình. Vì vậy việc tính toán nhu cầu đầu tư cho từng thời kỳ, hay là xác định số lượng, chủng loại thiết bị trong dự án đầu tư phải dựa vào các căn cứ, trong đó căn cứ quan trọng nhất là việc lập bảng cân đối nhu cầu đầu tư thiết bị thi công. Việc xác định nhu cầu đầu tư cần phải được dựa trên các cơ sở sau : Số lượng, chủng loại thiết bị hiện có cho từng loại thiết bị Nhu cầu đầu tư về số lượng, chủng loại cho từng loại thiết bị ( trên cơ sở nghiên cứu thị trường xây dựng và căn cứ vào chỉ tiêu, năng suất thiết bị thi công và các phương án sử dụng máy ). Xác định số thiết bị cần đầu tư theo công thức : Mt = Mc – ( Mhc – Mđ ) Trong đó : Mt : Số thiết bị cần đầu tư cho loại thiết bị thứ t Mc : Số thiết bị cần cho các công trình xây dựng của doanh nghiệp trong khoảng thời hạn khấu hao tính toán khi lập dự án. Mhc : Số thiết bị hiện có của loại thiết bị t. Mđ : Số thiết bị dự kiến đào thải bình quân trong kỳ của thiết bị thứ t - Khả năng cung cấp máy xây dựng của thị trường bao gồm Các nguồn và các nước cung cấp thiết bị, chủng loại, mẫu mã máy. Trình độ kỹ thuật, đặc tính sử dụng, hiệu quả kinh tế, giá cả. Điều kiện mua bán và thanh toán Khả năng thuê thiết bị - Các điều kiện thuận lợi và khó khăn Bao gồm các vấn đề Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thiết bị hoạt động (đường giao thông, điện, chất đốt, cơ sở sửa chữa, khả năng cung cấp phụ tùng thay thế…) Các điều kiện tự nhiên về thời tiết, địa chất, thuỷ văn, nhất là ở các công trường xây dựng dự kiến cho thiết bị thực hiện. Các điều kiện về nguyên vật liệu xây dựng có liên quan đến thiết bị phải vận chuyển hay chế biến. Cuối cùng là kết luận sơ bộ về hiệu quả và sự cần thiết phải đầu tư 1.2. Lựa chọn hình thức đầu tư - Lựa chọn hình thức huy động vốn để tự kinh doanh hay liên doanh. - So sánh giữa phương án mua sắm và đi thuê. - So sánh giữa phương án cải tạo nâng cấp máy hiện có và mua mới. - So sánh giữa mua máy móc công nghệ nước ngoài và máy nội địa giữa các thị trường trong nước, nước ngoài với nhau. - So sánh giữa thiết bị cũ với thiết bị mới trên cơ sở lựa chọn đời thiết bị phù hợp. - Lựa chọn giữa đấu thầu rộng rãi hay chào hàng cạnh tranh.. 1.3. Lựa chọn công suất, phương án sản phẩm, giải pháp kỹ thuật và công nghệ của thiết bị - Xác định công suất của thiết bị Căn cứ để xác định công suất của thiết bị là tính chất và khối lượng công việc hàng năm của thiết bị phải thực hiện theo dự báo, khả năng cung cấp máy móc phù hợp với công suất định chọn, khả năng về vốn, tính toán hiệu quả kinh tế, trình độ tập trung và quy mô các công trường xây dựng theo dự báo ( nếu độ xa chuyên chở lớn, quy mô các công trường nhỏ và phân tán theo lãnh thổ thì máy có quy mô lớn không có lợi). Các loại công suất của thiết bị dự kiến, bao gồm công suất tối dự án, công suất tính toán (có tính đến một độ an toàn nhất định của doanh thu hàng năm, sản lượng hoà vốn). - Xác định phương án sản phẩm của thiết bị Lựa chọn thiết bị dự án năng hay thiết bị đặc chủng. Khả năng thực hiện các công việc xây dựng với một chất lượng nhất định Công việc chính và phụ của thiết bị Thiết bị đầu tư mới hay đã qua sử dụng - Xác định giải pháp kỹ thuật và công nghệ của thiết bị Xác định trình độ hiện đại của thiết bị phù hợp (nguyên lý tĩnh hay chấn động, cơ cấu thuỷ lực hau cơ cấu cơ học bình thường, cơ cấu di chuyển bánh xích hay bánh hơi, loại chất đốt, hoạt động liên tục hay chu kỳ. Thiết bị của các nước công nghệ tiên tiến hay các nước đang phát triển hoặc trong nước sản xuất…) Xác định công nghệ sử dụng thiết bị, bao gồm việc phối hợp giữa máy móc, con người và đối tượng lao động theo trình tự thời gian và không gian khi thực hiện công việc xây dựng. Xác định một số chỉ tiêu cơ bản như: Mức độ tự động hóa, độ dài chu kỳ công nghệ, hệ số sử dụng nguyên liệu xuất phát, thế hệ kỹ thuật, độ linh hoạt, chất lượng và phế phẩm, an toàn và cải thiện điều kiện lao động, bảo vệ môi trường, độ bền chắc và độ tin cậy, mức độ nhiệt đới hoá… Xác định nhu cầu về thiết bị phục vụ và phụ tùng thay thế kèm theo khi tháo lắp và chuyên chở thiết bị 1.4. Dự báo các đặc điểm sử dụng thiết bị Bao gồm các vấn đề - Dự báo các loại công trường xây dựng mà thiết bị có thể tham gia khi thực hiện sau này, dựa trên các điều kiện tự nhiên của công trường và tình trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thiết bị. - Xác định loại quy mô công trường và độ xa chuyên chở thiết bị thi công đến công trường phù hợp nhất với loại thiết bị được đầu tư. - Xác định các yêu cầu kỹ thuật công nghệ thi công, các tiêu chuẩn về thiết bị do chủ đầu tư, kỹ sư tư vấn yêu cầu trong hồ sơ dự thầu đối với các gói thầu xây dựng giao thông đã có địa điểm hoặc chuẩn bị tham gia đấu thầu. 1.5. Phương án tổ chức quản lý và lao động phục vụ thiết bị Bao gồm các vấn đề chủ yếu sau - Xác định hình thức tổ chức sử dụng thiết bị (chuyên môn hoá hay sử dụng hỗn hợp, sử dụng phân tán hay tập trung), nghiên cứu về bộ máy quản lý nếu có… - Xác định biên chế công nhân vận hành máy và nhu cầu lao động khi tháo lắp hoặc di chuyển thiết bị. 1.6. Phân tích đánh giá tài chính, kinh tế – xã hội của dự án - Xác định các số liệu để phân tích, đánh giá dự án Các số liệu chính gồm có Vốn đầu tư mua sắm, tuổi thọ hay thời hạn khấu hao và dự kiến giá trị thu hồi khi đào thải máy. Xác định một số vốn lưu động cần thiết để máy hoạt động, chủ yếu là dự trữ phụ tùng thay thế và nhiên liệu. Chi phí sử dụng máy hàng năm dựa trên khối lượng công việc xây dựng của máy dự kiến. Chi phí vận hành máy hàng năm (không tính khấu hao). Doanh thu hàng năm của máy. Khấu hao cơ bản và các khoản trừ dần. Tiến độ vay vốn, trả nợ gốc và lãi. Tiền nộp thuế và lệ phí hàng năm. Xác định hiệu số giữa doanh thu và chi phí vận hành không có khấu hao. Xác định suất thu lợi tối thiểu có thể chấp nhận được. Lập dòng tiền (CFi) của dự án - Phân tích tài chính dự án Phân tích tài chính là chủ yếu phân tích xem khả năng sinh lợi của đồng vốn đầu tư cũng như sự cân bằng tài chính của một doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính của dự án. Phân tích tài chính là bước chuẩn bị cho phân tích kinh tế. Thông thường được tiến hành theo hai bước : sơ bộ và chi tiết Phân tích tài chính sơ bộ Có các nội dung chính sau Phân tích các khoản thu được bằng tiền như doanh thu, tiền cho thuê, các khoản thu khác… Phân tích các khoản chi phí tính được bằng tiền của dự án như : Giá mua thiết bị, chi phí giao dịch, chi phí trong khâu sử dụng… Lựa chọn lãi suất (r) và năm cơ bản Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả. Phân tích độ nhạy của dự án, thực chất là tính tới các rủi ro thường gặp như rủi ro kỹ thuật ( thiếu thông tin để phân tích trình độ kỹ thuật của thiết bị, lựa chọn thiết bị không chính xác…), rủi ro kinh tế ( lạm phát tăng làm tăng giá thiết bị, lãi suất tăng…), rủi ro thương mai (không trúng thầu, giảm khách hàng, dự báo không chính xác nhu cầu…) Phân tích tài chính chi tiết Được tiến hành ở bước lập báo cáo khả thi. Nội dung được phân tích theo những tiêu chí như ở bước phân tích sơ bộ nhưng mức độ chi tiết và chính xác cao hơn. Ngoài ra còn làm rõ hơn Xác định dòng tiền trước khi nộp thuế và trả nợ Xác định dòng tiền sau khi nộp thuế và trả nợ (cả vốn lẫn lãi) Các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính Bao gồm một số chỉ tiêu cơ bản sau Chỉ tiêu thu nhập thuần của dự án (NPV) Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ dần các khoản chi phí của cả đời dự án. Chỉ tiêu này không chỉ bao gồm tổng lợi nhuận thuần hàng năm của cả đời dự án mà còn bao gồm cả giá trị thu hồi thanh lý tài sản cố định ở cuối đời dự án và các khoản thu hồi khác. Nó được xác định theo công thức : NPV = Trong đó : Bi : Khoản thu của năm i (doanh thu thuần năm i, giá trị thanh lý tài sản cố định, vốn lưu động bỏ ra ban đầu và được thu về cuối đời dự án) Ci : Khoản chi phí năm i (không bao gồm khấu hao) n : Số năm hoạt động của đời dự án r : Tỷ suất chiết khấu được chọn. Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, tức là : IRR cho biết mức lãi suất mà dự án có thể đạt được. Dự án được chấp nhận khi IRR>r giới hạn. Dự án không được chấp nhận khi IRR< r giới hạn. Trong đó r giới hạn có thể là mức lãi suất đi vay nếu dự án đi vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do nhà nước quy định nếu sử dụng vốn do ngân sách nhà nước cấp, có thể là chi phí cơ hội nếu dự án sử dụng vốn tự có để đầu tư. Thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) Thời gian thu hồi vốn đầu tư là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chính là khoảng thời gian để hoàn trả số vốn đầu tư ban đầu bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần hàng năm. Thời gian thu hồi vốn đầu tư được xác định như sau - Phương pháp cộng dồn Trong đó: T: Năm thu hồi vốn đầu tư; (W + D)i: là khoản thu hồi lợi nhuận thuần và khấu hao năm i. Iv0 là tổng vốn đầu tư ban đầu. - Phương pháp trừ dần : IvT - (W + Đ)T đ Ê 0 Ngoài các chỉ tiêu trên, phân tích tài chính dự án đầu tư còn có thể xem xét các chỉ tiêu khác như Tỷ lệ lợi ích trên chi phí (B/C), điểm hoà vốn và các chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn về mặt tài chính của dự án đầu tư. 1.7. Phân tích kinh tế – xã hội của dự án đầu tư Nội dung chính bao gồm - Xác định ảnh hưởng của dự án đối với bản thân doanh nghiệp và đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Xác định lợi ích kinh tế và chi phí kinh tế của dự án. Trong thực tế, người ta thường áp dụng phương pháp dự án chỉ tiêu để phân tích kinh tế – xã hội của dự án. Đây là phương pháp mà các chỉ tiêu được sử dụng có thể không định lượng được bằng tiền. Các chỉ tiêu đó có thể được phân nhóm thành. Các chỉ tiêu về mặt kinh tế Các chỉ tiêu về mặt môi trường Các chỉ tiêu về mặt văn hoá - xã hội Ngoài ra còn có những chỉ tiêu khác cần phân tích do yêu cầu của chủ đầu tư. Đối với doanh nghiệp xây dựng, một số chỉ tiêu được dùng như : Mức độ tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu, tăng khả năng thắng thầu, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao thu nhập… Để đánh giá mức độ tác động của các chỉ tiêu, người ta có thể dùng cách cho điểm với xác định trọng số của từng loại chỉ tiêu. Xác định thang điểm 10 (hoặc 100), xác định tiêu chuẩn để cho điểm. Phương án được lựa chọn là phương án có tổng điểm cao nhất. 2. Nội dung công tác quản lý dự án đầu tư đôỉ mới công nghệ và thiết bị xây dựng Nội dung công tác quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng bao gồm những nội dung chủ yếu sau 2.1. Quản lý thời gian Đối với dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, việc quản lý được thực hiện trên hai giai đoạn Giai đoạn 1 : Giai đoạn quản lý thời gian mua sắm. Giai đoạn 2 : Giai đoạn quản lý sử dụng máy trong tuổi thọ tính toán của dự án. Để việc quản lý được thuận lợi, có thể tổng hợp theo các bước sau trong cả hai giai đoạn : Bước 1 : Xác định một bảng tiến độ mang tính hiện thực (phương pháp sơ đồ mạng). Bước này bao gồm các công việc sau : Xác định các mối quan hệ, đường Găng, xác định các mốc chính, tính thời gian hoàn thành. Trong bước này cần đặc biệt chú ý tìm hiểu về tính năng, tác dụng của thiết bị, nắm được nội dung của dự án, nắm được yêu cầu đầu vào, năng lực sẵn có, kinh nghiệm. Bước 2 : Kiểm soát tiến độ Bước 3 : Đưa ra những điều chỉnh thích hợp khi không đạt được tiến độ Trong giai đoạn 1, yếu tố ảnh hưởng đến đường Găng là thời điểm phải đưa thiết bị vào hoạt động theo yêu cầu thi công công trình và lãi suất vốn đầu tư. Đối với các thiết bị có tính cơ động cao, không phụ thuộc vào công tác lắp đặt, công tác quản lý thời gian đơn giản hơn, nhưng đối với các thiết bị đặc chủng như trạm trộn bê tông asphalt, hệ thống nghiền sàng đá, các thiết bị thi công cầu, hầm thì phải chú trọng hơn đến hoạt động quản lý nhằm đảm bảo tiến độ và tiết kiệm chi phí. Trong giai đoạn 2, việc quản lý thời gian phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nó chính là việc quản lý hệ số sử dụng thiết bị. Hệ số sử dụng thiết bị a = S số ca hoạt động trong năm 365 Trong thực tế hệ số sử dụng thiết bị phụ thuộc vào 2 yếu tố chính là thị trường công việc và sơ đồ bố trí sử dụng thiết bị trên công trường. 2.2. Quản lý chi phí Đối với dự án đầu tư thiết bị, việc quản lý chi phí bao gồm 2 giai đoạn : Giai đoạn đầu tư mua sắm Giai đoạn sử dụng thiết bị Trong cả hai giai đoạn, các yếu tố chi phí cần quản lý bao gồm Xác định ngân sách, trong đó xác định rõ yêu cầu về vốn, nguồn vốn, tiến độ cấp vốn. Kiểm soát chi phí bao gồm : Cho phí mua sắm lắp đặt, chi phí quản lý thi công. Đối với chi phí mua sắm phải chú trọng kiểm tra chi phí ở các mốc chính, kiểm soát chi phí dự kiến, kiểm soát thay đổi các chi phí. Đối với chi phí quản lý thi công phải chú trọng chi phí khấu hao, chi phí nguyên vật liệu động lực, chi phí sửa chữa lớn, thường xuyên, chi phí quản lý… Việc quản lý chặt chẽ yếu tố chi phí trong quá trình sử dụng thiết bị sẽ bảo đảm cho việc giảm rủi ro trong thực thi các mục tiêu của dự án đề ra ban đầu. 2.3. Quản lý chất lượng - Mục đích của quản lý chất lượng Chất lượng thiết bị thi công được đầu tư là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà thị trường thiết bị thi công rất đa dạng, phức tạp, trong đó thị trường thiết bị đã qua sử dụng chiếm tới 50 – 60% thị phần do khả năng vốn đầu tư có hạn và đặc biệt là do ảnh hưởng của đấu thầu cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng. Do vậy mục đích của công tác quản lý dự án đầu tư mua sắm máy thi công nhằm : Đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư Đạt được mục tiêu của dự án Được quản lý trong suốt quá trình thực hiện dự án - Nội dung quản lý chất lượng Lập kế hoạch đảm bảo chất lượng. Khi lập kế hoạch đảm bảo chất lượng cần xác định rõ các yêu cầu và tiêu chuẩn áp dụng, xây dựng quy trình quản lý chất lượng thiết bị cụ thể. Do đặc thù của ngành xây dựng, một công trình có thể cùng lúc sử dụng sản phẩm là một dự án hoặc một tập hợp dự án, hoặc cũng có thể một dự án đầu tư là một tập hợp thiết bị lại được sử dụng cho nhiều dự án công trình xây dựng khác nhau, do đó khi lập kế hoạch đảm bảo chất lượng cần chú ý : - Lập kế hoạch chi tiết cho từng dự án cụ thể, từng thiết bị cụ thể. Lập kế hoạch quản lý chất lượng cho cả giai đoạn mua sắm và giai đoạn vận hành sử dụng. Kế hoạch phải dễ hiểu cho tất cả mọi người, từ nhà quản lý, kỹ sư đến các công nhân kỹ thuật, vận hành sử dụng thiết bị Kế hoạch quản lý phải dễ thực thi phù hợp với điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp. Khi lập kế hoạch quản lý chất lượng cần phải xác định : Mức độ yêu cầu về chất lượng của dự án Các phương pháp đảm bảo chất lượng được thực hiện trong quá trình mua sắm và sử dụng thiết bị. Trách nhiệm của công việc kiểm tra quản lý chất lượng từ cấp Tổng công ty, các doanh nghiệp thành viên, đội sản xuất cho đến người trực tiếp vận hành. Cơ chế kiểm tra chất lượng. - Kiểm soát chất lượng : Mục đích của kiểm soát chất lượng là thỏa mãn yêu cầu của chủ đầu tư và các mục tiêu của dự án. Việc kiểm soát chất lượng trong giai đoạn này nhờ vào nội dung hoạt động thẩm định giá thiết bị, trong đó quan trọng nhất là : Trình độ và khả năng của các kỹ sư chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, sử dụng thiết bị của doanh nghiệp. Có bộ phận kiểm tra, giám sát từng giai đoạn chính của hoạt động mua sắm, lắp đặt, vận hành, chạy thử… Kiểm soát chất lượng trong quá trình sử dụng thiết bị… Mục đích của công tác này là đảm bảo cho việc sử dụng thiết bị đúng tiến độ trong dự án đặt ra. Một yếu tố quan trọng trong nội dung này là đảm bảo được hệ số sử dụng thiết bị Hệ số sử dụng thiết bị g = S ngày trung bình tốt trong năm 365 Đạt được mục đích này phải dựa vào : Trình độ và năng lực của kỹ sư, công nhân vận hành thiết bị Sự hợp tác chặt chẽ của nhà cung cấp Quá trình giám sát kỹ thuật trên công trường Tổ chức việc sửa chữa bảo dưỡng thiết bị - Hệ thống quản lý chất lượng thiết bị của doanh nghiệp xây dựng. Mỗi tổ chức tham gia dự án phải quản lý chất lượng phần việc của tổ chức mình theo một cách riêng tuân thủ theo nguyên tắc : Chất lượng phải được đảm bảo bằng hệ thống quản lý chất lượng. Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính pháp lý thể hiện thông qua các văn bản thủ tục nhằm đảm bảo cho các sản phẩm đầu ra đáp ứng được yêu cầu chất lượng. Đối với các doanh nghiệp xây dựng, hệ thống quản lý chất lượng được tổ chức thống nhất từ Tổng công ty cho đến các doanh nghiệp thành viên và đội sản xuất. Hệ thống quản lý chất lượng được kiểm tra một cách độc lập dựa trên các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, nhất là thoả mãn tiêu chuẩn của chủ đầu tư và tư vấn giám sát các gói thầu. 1.4. Quản lý rủi ro Sơ đồ : Mô tả các khả năng rủi ro trong đầu tư Giai đoạn lập dự án Dự án không được phê duyệt Thông tin kém chất lượng Chậm trễ do các yếu tố khách quan Tranh chấp hợp đồng Khả năng huy động vốn Phá sản khủng hoảng kinh tế Đánh giá không đúng thị trường Năng lực lập dự án Giai đoạn quản l‎ý dự án Chất lượng sản phẩm Thời tiết Quá trình vận dụng thiết bị Thị trường công việc Trượt giá Tác động của cạnh tranh Hệ số sử dụng Năng lực quản l‎ý dự án Đặc điểm của dự án đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng cùng với những đặc điểm của ngành xây dựng là luôn luôn biến động, chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan. Đặc trưng của dự án là có nhiều thành phần, nhiều bộ phận với các kỹ năng là lợi ích khác nhau, cùng tham gia vào các hoạt động để thực hiện dự án. Quá trình đó gồm nhiều yếu tố không kiểm soát được gọi là những yếu tố rủi ro. Vì vậy một trong những mục tiêu của quản lý dự án là phải dự đoán được những rủi ro và đề xuất các biện pháp dự phòng nhằm giảm nhẹ hoặc ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Những quá trình cơ bản của quản lý rủi ro Xác định những khả năng rủi ro có thể xảy ra Đánh giá ảnh hưởng và phân loại các rủi ro Lựa chọn và thực hiện các biện pháp phù hợp để giảm nhẹ rủi ro Rủi ro có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn. từ khi lập dự án cho đến khi kết thúc dự án. Những khả năng có thể kiểm soát Nhìn chung không thể loại bỏ rủi ro mà chỉ có thể hạn chể rủi ro xuống mức thấp nhất để có được hiệu quả trong triển khai dự án. Những khả năng có thể kiểm soát gồm. Tiến hành khảo sát kỹ hơn thông qua việc nâng cao chất lượng thông tin Gắn việc lập và quản lý dự án đầu tư với nhau làm cho sự gần nhau vêd các nội dung chỉ tiêu càng lớn càng tốt Tiến hành thí nghiệm các giải pháp dự phòng, có kế hoạch khắc phục các sự cố và nâng cao vai trò của hệ thống quản lý chất lượng. Chương II: Thực trạng công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội II. Tình hình hoạt động đầu tư của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội 1. Đôi nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Hà Nội (tên giao dịch quốc tế là CCIC ) là doanh nghiệp Nhà nước loại I, được thành lập theo quyết định số 702/QĐUB, ngày 31 tháng 5 năm 1996 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, trên cơ sở đổi tên và bổ sung nhiệm vụ cho Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà Nội ( tên cũ của công ty). Chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng số 254/BXD – CSXD do Bộ Xây dựng cấp ngày 11 tháng 12 năm 1998. Đăng ký kinh doanh số 100637, 305688 và 305689 do Uỷ ban kế hoạch ( Sở Kế hoạch và đầu tư ) thành phố Hà Nội cấp ngày 13 tháng 4 năm 1995 và ngày 16 tháng 9 năm 1995. Công ty bao gồm 2 xí nghiệp trực thuộc là xí nghiệp xây lắp và xí nghiệp khảo sát và 8 đội sản xuất, mỗi xí nghiệp có một giám đốc và một phó giám đốc; mỗi đội sản xuất đều có đội trưởng để điều hành đội sản xuất. Cả hai xí nghiệp trực thuộc được phép hạch toán độc lập, có con dấu riêng, có tài khoản tại ngân hàng. Các đơn vị trực thuộc vẫn phải gửi hoá đơn lên để công ty hoạch toán. Quy định cụ thể về việc sử dụng tài khoản của hai xí nghiệp như sau: - Xí nghiệp xây lắp: + Đối với những hợp đồng kinh tế về tư vấn, khảo sát – thiết kế: Giám đốc công ty ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản thu chi của công ty và hạch toán đối với xí nghiệp xây lắp theo đúng quy chế hạch toán và khoán sản phẩm nội bộ ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999. + Đối với những hợp đồng kinh tế về thi công xây lắp: Giám đốc công ty uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp xây lắp ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với Nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban hành ngày 5 tháng 4 năm 1999. Trong trường hợp chủ đầu tư yêu cầu phải sử dụng tài khoản của công ty trong hợp đồng kinh tế thì Giám đốc uỷ quyền cho Giám đốc Xí nghiệp sử dụng tài khoản của Công ty để thanh toán, quyết toán với chủ đầu tư. Xí nghiệp khảo sát + Đối với những công trình được giao theo Kế hoạch Pháp lệnh ( A1) và các công trình do công ty tự khai thác ( A2): Giám đốc công ty trực tiếp ký hợp đồng với chủ đầu tư bằng tài khoản của Công ty. Xí nghiệp khảo sát thực hiện nhiệm vụ sản xuất theo đúng phiếu giao việc của Công ty. Việc hạch toán và phân bổ lợi ích với Xí nghiệp được thực hiện theo đúng quy chế đã ban hành ngày 5 tháng 2 năm 1999. + Đối với công trình do xí nghiệp tự khai thác ( A3): Giám đốc công ty uỷ quyền cho giám đốc Xí nghiệp khảo sát ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư bằng khoản thu của Xí nghiệp. Xí nghiệp tự hạch toán, làm nhiệm vụ đối với nhà nước và thực hiện trách nhiệm tài chính đối với Công ty theo quy chế ban hành ngày 14 tháng 4 năm 1999. Cả hai xí nghiệp đều có bộ phận nghiệp vụ chuyên ngành kế hoạch nghiệp vụ để giúp Giám đốc Xí nghiệp quản lý hạch toán theo chế độ chính sách hiện hành cũng như các quy định của Công ty. Các xí nghiệp phải làm văn bản báo cáo định kỳ hàng tháng và hàng quý tình hình thu – chi theo nghiệp vụ quản lý tài chính của đơn vị cho phòng Tài vụ của Công ty để tổng hợp thành báo cáo chung trình các cơ quan quản lý doanh nghiệp. Các khoản chi phí để duyệt đề cương, hội họp, duyệt quyết toán về các nội dung khảo sát trong Hợp đồng kinh tế đối với các công trình A1, A2 đều do Công ty thực hiện. Khi quyết toán công trình, phòng Tài vụ lập báo cáo tổng hợp các chi phí sản xuất, trình Giám đốc công ty xem xét để xác định phần trách nhiệm của Xí nghiệp khảo sát theo nguyên tắc “Các chi phí sản xuất được phân bổ theo tỷ trọng giá trị mà chủ đầu tư thanh toán cho tư vấn, thiết kế và cho khảo sát”. Đối với các công trình lớn, phòng tài vụ và phòng kế hoạch – kỹ thuật cần hạch toán đầy đủ các khoản Chi phí trong quá trình thực hiện Hợp đồng kinh tế để phân bổ trách nhiệm đóng góp một cách hợp lý cho các đơn vị tham gia. 2. Thực trạng tình hình đầu tư ở Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Trong thời gian qua, với xu thế hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và tại Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC đã nhận thức được rằng để nâng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng, để khai thác triệt để các tiềm năng sẵn có, tạo điều kiện phát triển vốn với chủ trương phát triển sản xuất kinh doanh thì không thể không có các hoạt động đầu tư. Do đó, trong những năm gần đây, công ty đã tiến hành đầu tư vào các lĩnh vực sau: Đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư vào công nghệ và thiết bị xây dựng Đầu tư vào nguồn nhân lực. Biểu 1 : Tình hình đầu tư của công ty trong những năm qua. Đơn vị: Triệu đồng Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 TổngmứcVĐT 8434 7984 13285 19801 13857 11028 VĐT XDCB 900 1520 2400 1236 870 724 VĐT CN & thiết bị XD 7500 6400 10800 18400 12800 10100 VĐT nhân lực 34 64 85 165 187 204 Tốc độ phát triển liên hoàn(%) - 94.66 166.4 148.0 69.9 79.6 Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC Biểu trên cho thấy tình hình đầu tư thực tế của công ty luôn đạt ở mức cao suốt từ năm 1998 cho đến nay. Đặc biệt vào các năm 1999 và 2000, tốc độ tăng trưởng đã lên đến 166.4% và 148%. Nguyên nhân của sự tăng đầu tư mạnh trong giai đoạn này là do năm 1997, công ty được đổi tên mới và bổ sung chức năng nhiệm vụ ( tên cũ là Công ty khảo sát thiết kế GTCC Hà Nội ) nên công ty đã tiến hành đâu tư rất mạnh trên các mặt Xây dựng cơ bản và máy móc công nghệ. Trong giai đoạn này công ty đã tiến hành xây dựng thêm hai hạng mục công trình lớn tại Hà Nội làm trụ sở cho xưởng Thiết kế đô thị 2 và Xưởng thiết kế cầu đường 2 (thuộc Xí nghiệp khảo sát) và mở rộng trụ sở của Xí nghiệp Xây lắp. Đồng thời công ty cũng mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư mới nhiều thiết bị thi công hiện đại để tạo cơ sở mở rộng sản xuất kinh doanh. Sang đến năm 2001 cho đến nay, tình hình đầu tư vào xây dựng cơ bản và công nghệ thiết bị thi công của Công ty giảm dần do đã tạo được một khối lượng tài sản cố định tương đối đầy đủ. Thay vào đó, công ty lại tăng cường đầu tư vào nguồn nhân lực của mình trên tất cả các mặt: chính trị ,tư tưởng cũng như những kiến thức và tay nghề chuyên môn. Tuy nhiên cho đến thời điểm này, đội ngũ cán bộ có tay nghề cao của công ty hãy còn rất mỏng, việc tiếp cận với công nghệ thi công mới, hiện đại hãy còn nhiều bỡ ngỡ do trước đó chủ yếu sử dụng công nghệ thi công từ Liên Xô cũ và các nước XHCN. Vì vậy, trong những năm gần đây, đầu tư vào nguồn nhân lực lại càng được Công ty quan tâm sâu hơn nữa. Cụ thể là công ty thường sử dụng những hình thức đầu tư vào nguồn nhân lưc bằng cách: Liên kết với một số trường đại học như Đại học Xây dựng, đại học Kiến Trúc, Đại học GTVT... đầu tư cho sinh viên học tập để tiếp nhận khi ra trường. Tuyển chọn đội ngũ lao động trẻ, có trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn cao đi đào tạo thời chuyên môn kỹ thuật ở nước ngoài. Thông qua các chuyên gia nước ngoài để đào tạo thực tiễn cán bộ, chuyên gia, công nhân kỹ thuật của mình. Đây là một hình thức đầu tư nhanh, hiệu quả để bắt kịp với nhu cầu lao động có trình độ cao của công ty. Cho đến thời điểm hiện nay, về cơ bản lực lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật, kỹ sư của công ty đã có thể đảm đương được hầu hết các công việc trong toàn bộ dây chuyền sản xuất kinh doanh xây dựng hạ tầng giao thông. Tuy nhiên mức độ linh hoạt và tinh xảo của các kỹ năng cũng như mức độ am hiểu về công nghệ kỹ thuật tiên tiến trên thế giới của cán bộ và công nhân kỹ thuật hãy còn hạn chế và đòi hỏi phải tiếp tục rèn luyện qua đào tạo thực tế thi công. II. Thực trạng hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của công ty. 1. Đánh giá chung về hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng của công ty. Máy móc và công nghệ xây dựng có tầm quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp xây dựng. Chính vì thế các doanh nghiệp đều coi đây là chìa khoá mở ra và tạo đà cho chính sách, chiến lược phát triển doanh nghiệp. Thực trạng về đầu tư mua sắm máy móc xây dựng có thể được phân theo các giai đoạn sau: Giai đoạn trước năm 1990: Thực tế hoạt động đầu tư mua sắm thiết bị của doanh nghiệp thiết kế và xây dựng công trình giao thông chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp. Thị trường xây dựng về cơ bản chưa thực hiện cơ chế đấu thầu, các công trình xây dựng chủ yếu được chỉ định thầu, hoặc bằng hình thức giao nhiệm vụ theo kế hoạch của nhà nước, vì thế máy móc thi công cũng được coi là một khâu đảm bảo kế hoạch của Nhà nước. Mặt khác do công nghệ xây dựng đường chủ yếu từ Liên Xô và các nước XHCN và việc cung cấp máy móc xây dựng qua thị trường này tương đối dồi dào bằng hình thức nhập khẩu theo kế hoạch với tỷ giá quy đổi theo đồng rúp rất rẻ. Thế nhưng công ty chưa coi việc mua sắm máy móc thiết bị xây dựng là một hình thức đầu tư, nhất là đầu tư chiến lược. Tuy nhiên việc có được một nguồn thiết bị từ thị trường này cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong một số năm sau khi bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nhất là một số thiết bị làm đất như máy ủi, lu, xe Ben tự đổ… Giai đoạn 1990 – 1993: Được coi là thời kỳ đệm của Công ty trong hoạt động đầu tư. Thời kỳ này do tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều yếu tố khách quan về cơ chế, chính sách nên các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào hệ thống cơ sở hạ tầng ngành Giao thông chưa triển khai được. Việc xây dựng chủ yếu tập trung vào công tác duy tu, bảo dưỡng, cải tạo bằng các nguồn vốn đầu tư trong nước là chính. Tuy đã nhìn thấy được khả năng về các nguồn vốn đầu tư sẽ được huy động trong tương lai, nhưng do hạn chế về năng lực tài chính, mặt khác do thiếu thông tin về thị trường thiết bị máy thi công, thiếu thông tin về quy trình công nghệ thiết bị thi công, nên hoạt động đầu tư mua sắm máy móc xây dựng trong giai đoạn này chỉ mang tính thăm dò, cầm chừng, chưa trở thành mục tiêu cấp bách của Công ty. Giai đoạn._.ếm lĩnh thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng ở Hà Nội và từng bước mở rộng thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng trong cả nước. Do đó, sự thành bại của các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng hiện nay có vai trò quyết định đến kết quả của chiến lược dài hạn này. Hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án trước hết sẽ tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án, và quan trọng hơn là nâng cao sức cạnh tranh của toàn công ty, từng bước mở rộng và chiếm lĩnh thị trường xây dựng. Với những cơ hội và thách thức như vậy, việc hoàn thiện công tác lập và quản lý các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng là một yêu cầu cấp bách cần được công ty quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Đây sẽ là nền tảng quan trọng cho việc mở rộng các hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư mua sắm thiết bị xây dựng nói riêng của công ty trong những năm tới. II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại công ty 1. Xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Các vấn đề cần phải chú ý khi xây dựng chiến lược phát triển của công ty bao gồm. - Chiến lược phát triển thị trường Trên cơ sở chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải của Nhà nước cho Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung từ nay đến năm 2010, trong đó so với thời kỳ 1995 – 2000, tốc độ tăng về nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bình quân hàng năm tăng 1.5 lần (đối với cả nước) và 2.5 lần (đối với riêng Hà Nội). Cùng với việc nghiên cứu quy mô đầu tư trong các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, khả năng vươn ra thị trường các tỉnh lân cận và thị trường quốc tế, công ty cần đặt mục tiêu dài hạn trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua hàng loạt các biện pháp. Chiến lược huy động vốn Việc xây dựng chiến lược huy động vốn của công ty cần dựa trên quy hoạch chung của Nhà nước, bộ, ngành, cơ quan chủ quản và phù hợp với xu thế phát triển trên thị trường vốn Việt Nam. Đồng thời công ty cần xác định rằng việc tích luỹ từ quá trình sản xuất kinh doanh là nguồn vốn đầu tư chính. Cần phải cân đối giữa mở rộng quy mô đầu tư với năng lực tài chính thực tế của mình trên cơ sở theo sát những thay đổi của cơ chế chính sách Nhà nước được điều chỉnh cho từng thời kỳ. Chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng Như đã phân tích ở trên, thiết bị xây dựng là một yếu tố quyết định đến mọi hoạt động và sự phát triển của toàn công ty. Vì vậy, chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công có ảnh hưởng quan trọng đến việc thực hiện các mục tiêu lâu dài của đơn vị. Ngoài chiến lược mở rộng quy mô đầu tư, công ty cần chú trọng đến hoạt động đầu tư vào các dây chuyền thiết bị thi công đồng bộ, hiện đại, công nghệ tiên tiến, chất lượng cao phù hợp với tốc độ phát triển của ngành xây dựng cơ sở hạ tầng nói riêng và chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá của cả nước nói chung. Trong chiến lược đầu tư vào thiết bị thi công, cần phải thể hiện rõ chiến lược đầu tư về mặt quy mô, chiến lược đầu tư về mặt chất lượng công nghệ, chiến lược đầu tư về mặt hiệu quả kinh tế có thể thu được, đồng thời phải có chiến lược đào tạo đội ngũ thợ công nhân kỹ thuật sử dụng thiết bị cũng như các vấn đề bảo đảm khác cho việc nâng cao hệ số sử dụng thiết bị 2. áp dụng hình thức đấu thầu trong mua sắm máy móc xây dựng Trước hết, công ty cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn về hình thức đấu thầu trong mua sắm thiết bị. Quy chế đấu thầu đã quy định rằng đối với những gói thầu mua sắm hàng hoá trị giá từ 2 tỷ đồng trở lên cần thực hiện phương thức đấu thầu. Việc áp dụng đấu thầu trong mua sắm hàng hoá sẽ làm giảm chi phí đầu tư và nâng cao chất lượng thiết bị đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình chấm thầu để lựa chọn cho mình nhà cung cấp cũng như loại thiết bị phù hợp nhất, công ty cần chú trọng đến cả chất lượng cũng như giá cả của loại thiết bị đó. Thực tế đã cho thấy do vốn đầu tư thấp nên công ty thường chỉ chú ý đến mặt giá cả mà bỏ qua những yếu tố quan trọng khác như chất lượng, bảo hành hay uy tín của nhà cung cấp thiết bị trên thị trường. Để đảm bảo được yêu cầu về chất lượng cũng như giá thành, công ty cần phải tuân thủ những nội dung sau: Đánh giá nội dung kỹ thuật + Đánh giá mức độ đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng. + Tính đồng bộ của công nghệ và thiết bị (đặc biệt quan trọng đối với những dây chuyền thiết bị có công nghệ cao đòi hỏi phải được vận hành đồng bộ). + Đáp ứng được các yêu cầu về điều kiện tự nhiên, khí hậu…Yếu tố này cũng rất quan trọng bởi phần lớn các thiết bị hiện đại công nghệ cao được sản xuất ở các nước phát triển có khí hậu ôn đới ( như Nga, Pháp, Đức, Mỹ...) có thể không phù hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam, dẫn đến công tác bảo hành bảo trì thiết bị gặp nhiều khó khăn và kết quả là tuổi thọ của thiết bị thường bị sụt giảm. + Phương án cung ứng lắp đặt thiết bị máy móc. + Mức độ thực hiện chuyển giao công nghệ. Đối với những loại thiết bị có công nghệ phức tạp, công tác chuyển giao cần phải được nghiên cứu tìm hiểu kỹ, đảm bảo cho lao động của công ty có thể vận hành tốt trong giai đoạn sử dụng sau nay. + Những biện pháp khắc phục ảnh hưởng của máy móc thiết bị tới môi trường. + Những giải pháp kỹ thuật phụ. Nhìn chung nếu thiết bị xây dựng đạt trên 70% thì đạt yêu cầu về chất lượng kỹ thuật. Tuy nhiên đối với những thiết bị đặc chủng, giá thành cao thì tỷ lệ này nhất thiết phải cao hơn để đảm bảo được một cách tốt nhất các yêu cầu kỹ thuật. Đánh giá nội dung tài chính Cần phải xác định được giá đánh giá dựa trên tổng chi phí cho toàn bộ đời máy để làm cơ sở so sánh giữa các nhà thầu khác nhau. Thiết bị của nhà cung cấp nào đảm bảo được trên 70% yêu cầu kỹ thuật hoặc cao hơn tuỳ từng trường hợp cụ thể, đồng thời có giá chào thầu thấp nhất sẽ trúng thầu và được công ty ký kết hợp đồng giao hàng. Bên cạnh đó, công ty cũng cần có một bộ máy chuyên nghiệp, có năng lực, có trình độ, có trách nhiệm và có khả năng nắm bắt tốt thông tin về thị trường thiết bị máy xây dựng để tổ chức triển khai đấu thầu cho từng dự án. Việc thực hiện tốt công tác đấu thầu sẽ giúp công ty giảm được chi phí đầu tư, đồng thời nâng cao chất lượng thiết bị được đầu tư, xét về mặt lâu dài sẽ có ảnh hưởng tốt đến hiệu quả của dự án đầu tư và hiệu quả hoạt động chung của cả công ty. 3. Sử dụng hình thức thức thuê mua đối với những loại máy móc đặc chủng. Trong thực tế hoạt động của doanh nghiệp, khi thắng thầu những công trình có giá trị lớn, thời gian thực hiện công trình kéo dài, công ty thường tiến hành mua ngay những loại thiết bị đặc chủng để phục vụ cho công trình đó. Khi công trình kết thúc, các loại máy móc thiết bị đã được đầu tư hầu như ít khi được sử dụng, hệ số sử dụng kỹ thuật có khi chỉ đạt tới 20 – 30% năm, gây ra rất nhiều sự lãng phí. Máy móc thiết bị tuy không được sử dụng nhưng vẫn hao mòn và do đó vẫn phải tính khấu hao. Để khắc phục tình trạng này, công ty có thể sử dụng phương thức thuê mua (hay còn gọi là thuê leasing) đối với những loại thiết bị đặc chủng để phục vụ cho việc thi công một công trình cụ thể nào đó. Thuê mua là thuê quyền sử dụng vốn dưới dạng tài sản được vận hành trong kinh doanh. Hiện nay có 2 loại thuê mua là thuê trọn gói ( thuê tài chính) và thuê vận hành, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà công ty có thể lựa chọn hình thức thuê mua nào cho phù hợp với hoàn cảnh điều kiện thi công cụ thể của mình. Các phương thức giao dịch của tín dụng thuê mua Tín dụng thuê mua là hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc thiết bị. Đây là một phương thức giao dịch có lịch sử khá lâu đời, song nó mới được phát triển ở thị trường Việt Nam trong thời gian gần đây ở các Ngân hàng Thỏa thuận thuê mua là một hợp đồng giữa hai bên hay nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều loại thiết bị. Theo đó, bên cho thuê chuyển giao cho bên thuê quyền sử dụng thiết bị trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại, bên thuê phải phải trả một số tiền cho chủ tài sản tương ứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng thiết bị Đối với phương thức thuế trọn gói: Là phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hay dài hạn , không được huỷ ngang khi không được sự nhất trí của cả hai bên. Theo phương thức này, bên cho thuê thường đầu tư tài sản, thiết bị mà bên đi thuê cần và đã có những bước nghiên cứu về thị trường. Thông thường, một giao dịch được gọi là thuê trọn gói khi thời hạn thuê mua chiếm phần lớn đời máy và hiện giá thuần của toàn bộ khoản tiền thuê phải đủ để bù đắp những chi phí mua thiết bị tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. Đối với phương thức thuê vận hành, thời hạn thuê thường tương đối ngắn so với toàn bộ tuổi thọ thiết bị, điều kiện chấm dứt hợp đồng cũng rất linh hoạt, chỉ cần báo trước và thời gian tương đối ngắn. Bên thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của thiết bị như chi phí bảo trì, bảo hiểm, chi phí thuế…cùng mọi rủi ro và sự sụt giảm giá trị của thiết bị. Đối với công ty, với tư cách là người đi thuê thì việc lựa chọn phương pháp thuê vận hành có hiệu quả hơn. Còn đối với giao dịch thuê trọn gói, thực chất là một khoản vay đầu tư trung và dài hạn trong điều kiện thiếu khả năng bảo lãnh để vay vốn. Nhưng điều quan trọng hơn cả là công ty phải lựa chọn đúng giữa đầu tư mua sắm thiết bị và thuê mua thiết bị (cả thuê mua vận hành và trọn gói). Tuy nhiên sự lựa chọn thường dựa trên cơ sở trực giác mà chưa so sánh giữa ưu điểm và nhược điểm của các hình thức khác nhau. Công ty có thể lựa chọn giữa đầu tư hay thuê mua dựa trên việc tính toán các chỉ tiêu tài chính. Hai chỉ tiêu quan trọng nhất thường được dùng để so sánh lựa chọn phương án là NPV va IRR. Công ty dựa trên dòng tiền kỳ vọng do thiết bị xây dựng đó mang lại và từng loại lãi suất chiết khấu có thể tính được NPV và IRR của từng dự án. Khi đã xác định được dòng tiền của mỗi phương án, doanh nghiệp sẽ quyết định: Mua thiết bị nếu NPV của phương án đầu tư mua sắm thiết bị lớn hơn NPV của phương án thuê mua thiết bị và lớn hơn 0 Thuê mua thiết bị nếu NPV của phương án thuê mua thiết bị lớn hơn NPV của phương án đầu tư mua sắm thiết bị và lớn hơn 0 Trong thực tiễn, việc áp dụng những cơ sở trên đây còn phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh của tổ chức thuê mua tài chính tại các ngân hàng, các tổ chức tài chính và đặc biệt là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, quy chế quản lý có liên quan đến lĩnh vực này của Nhà nước. 4. Nâng cao chất lượng của công tác lập dự án Mặc dù công ty đã tuân theo đầy đủ các bước của công tác lập dự án từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhưng trên thực tế tầm quan trọng của nó chưa được đề cao đúng mức. Chính vì vậy trong quy trình lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng, công ty cần đặc biệt quan tâm đầy đủ đến vấn đề này để đảm bảo chất lượng dự án đầu tư được lập. Việc thực hiện đúng trình tự, nội dung lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ và máy xây dựng phù hợp với thực tiễn sẽ cho phép triển khai thực hiện dự án thuận lợi, đúng hướng. Muốn vậy, công ty cần phải chú ý làm tốt từ khâu nghiên cứu cơ hội đầu tư. Đây là một công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hiệu quả của công tác được lập vì có xác định được đúng đắn cơ hội đầu tư thì mới đảm bảo cho dự án đạt được hiệu quả cao. Nghiên cứu kỹ cơ hội đầu tư bao gồm nghiên cứu toàn diện các giải pháp công nghệ kỹ thuật trong hoạt động xây dựng của công ty để phục vụ cho chiến lược tổng thể chung hoặc phục vụ cho một công trình lớn mà công ty sẽ tham gia. Bên cạnh đó, công tác thẩm định dự án cũng cần phải được tính toán cụ thể và nghiêm túc, đặc biệt là thẩm định về giá và chất lượng của máy móc thiết bị xây dựng sẽ được đầu tư. Việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả trong phân tích tài chính cũng cần được theo sát với thực tế thị trường và tình hình hoạt động của công ty. Đặc biệt những yếu tố như chi phí nguyên vật liệu, doanh thu, khấu hao, lãi định mức cần phải được điều chỉnh sao cho phản ánh thực tế nhất những kết quả mà công ty sẽ thu được trong tương lai thông qua đầu tư vào dự án đổi mới công nghệ và máy xây dựng. Những biến động của thị trường xây dựng hay những thay đổi của Nhà nước về đơn giá xây dựng và đơn giá nguyên vật liệu xây dựng cũng cần phải được dự trù đầy đủ bằng các tính toán dựa trên cơ sở khoa học để việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả được chính xác và có ý nghĩa thực tế. Các yếu tố cần được quan tâm xem xét trong việc phân tích các chỉ tiêu tài chính bao gồm Chỉ tiêu thời hạn khấu hao tính toán Thông thường việc tính khấu hao thường tính đều đặn hàng năm, phụ thuộc chủ yếu vào 2 căn cứ: áp lực của tiến độ hoàn trả vốn vay của nguồn cung cấp tín dụng. Thời hạn khấu hao theo quy định của Nhà nước tại quyết định số 1062/TC/QĐ/CSTC ban hành ngày 14/11/1996 quy định về chế độ quản lý, sử dụng và tính khấu hao tài sản cố định. Để việc tính toán chỉ tiêu này được phù hợp với thực tiễn vận hành quản lý thiết bị, công ty cần tìm ra tỷ lệ khấu hao phù hợp cho từng dự án đầu tư khác nhau. Đối với các dự án thắng thầu có giá trị lớn, các thiết bị có khả năng phát huy công suất tối đa thì có thể tăng tỷ lệ khấu hao. Còn đối với các thiết bị đặc chủng được đầu tư thì tỷ lệ khấu có thể giảm đi tuỳ từng trưng hợp cụ thể. Xác định chỉ tiêu doanh thu hàng năm của thiết bị được đầu tư Qn = K . Q . G Trong đó: K: Số ca thiết bị hoạt động bình quân trong năm Q: Năng suất một ca máy tính theo đơn vị sản phẩm G: Đơn giá sản phẩm Trong khi Q và G thường có sai lệch không nhiều so với thực tế thì K lại là yếu tố bị sai lệch nhiều nhất. Sai lệch này bắt nguồn từ tác động của thị trường công việc, chất lượng thiết bị cũng như quá trình quản lý điều hành sản xuất trên công trường xây dựng. Để có thể đưa ra chỉ tiêu K có độ chính xác cao, khi lập dự án và để thuận lợi trong quá trình quản lý sử dụng thiết bị, công ty có thể vận dụng cách tính sau cho từng thiết bị hoặc cho tập hợp các thiết bị của dự án Qn= 365. W. a . g. G a: Hệ số sử dụng thiết bị bình quân hàng năm. g: Chỉ tiêu hệ số kỹ thuật. Nt: Số ngày thiết bị tốt bình quân trong năm Nh: Số ca hoạt động bình quân trong năm. Các chỉ tiêu a, g có ảnh hưởng quan trọng đến công tác lập và quản l‎ý dự án đầu tư của doanh nghiệp xây dựng. Hệ số kỹ thuật thiết bị phụ thuộc vào chất lượng, chủng loại thiết bị, phụ thuộc vào hệ thống tổ chức, bảo dưỡng, sửa chữa cũng như phụ thuộc vào trình độ vận hành của người điều khiển. Hệ số sử dụng thiết bị phụ thuộc vào thị trường công việc, phụ thuộc vào công tác quản lý, điều hành, sử dụng thiết bị, phụ thuộc vào thời tiết, chể độ nghỉ…Các chuyên gia khi xem xét chỉ tiêu này cần phải phân loại chất lượng, chủng loại thiết bị, đồng thời xem xét các yếu tố cụ thể dự kiến thời hạn đầu tư, tính toán của dự án để xác định các chỉ tiêu này một cách phù hợp. Để nâng cao hệ số kỹ thuật, hệ số sử dụng thiết bị trong giai đoạn quản lý, vận hành, cần: Tạo thị trường công việc ổn định Xây dựng chương trình sản xuất hợp lý Có hệ thống sửa chữa, bảo dưỡng linh hoạt Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành của dự án thắng thầu. - Phân tích độ nhạy của dự án đầu tư Trong phân tích tài chính, các dự án đầu tư vào công nghệ và máy xây dựng của công ty cũng cần phải tính toán cả độ an toàn về mặt tài chính, bao gồm tính toán mức độ an toàn về vốn, an toàn về khả năng thanh toán nghĩa vụ tài chính ngắn hạn và khả năng trả nợ và quan trọng nhất là tính toán độ nhạy của dự án. Phân tích độ nhạy của dự án là xem xét các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án như NPV, IRR, thời gian hoàn vốn đầu tư…khi các yếu tố có liên quan như doanh thu, chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp thay đổi, qua đó cho biết dự án có đạt hiệu quả hay không khi những yếu tố tác động đến nó thay đổi theo chiều hướng không có lợi ( chi phí tăng, doanh thu giảm…). Khi các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính thay đổi trong giới hạn nhất định theo hướng bất lợi mà các chỉ tiêu hiệu quả xem xét vẫn đạt hiệu quả (NPV vẫn đảm bảo dương, IRR vẫn đảm bảo lớn hơn r giới hạn) thì dự án đang xem xét được xem là an toàn. Hay nói một cách khác, phân tích độ nhạy nhằm xác định hiệu quả của dự án trong điều kiện biến động của các yếu tố liên quan đến chỉ tiêu hiệu quả tài chính đó. Phân tích độ nhạy của dự án giúp cho doanh nghiệp biết được dự án nhạy cảm với các yếu tố nào, hay yếu tố nào gây nên sự thay đổi nhiều nhất của chỉ tiêu hiệu quả xem xét để từ đó có biện pháp quản lý chúng trong quá trình thực hiện dự án. Mặt khác phân tích độ nhạy của dự án còn cho phép lựa chọn những dự án có độ an toàn hơn cho những kết quả dự tính. Dự án có độ an toàn cao là những dự án vẫn đạt được hiệu quả khi những yếu tố tác động đến nó thay đổi theo chiều hướng không có lợi. Trong điều kiện thị trường xây dựng ở nước ta thuờng xuyên biến động, tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày một gay gắt, giá cả đầu vào nguyên vật liệu không ổn định thì việc phân tích độ nhạy trong các dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC là hết sức cần thiết. Độ nhạy của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng có thể được tính toán trên cơ sở sau ( Phân tích chi tiết độ nhạy ở phần Phụ lục) Biểu 78: Phân tích độ nhạy của dự án đầu tư vào dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật Bản năm 2000. Đơn vị: 1000đ Chi phí Doanh thu -10% PA cơ sở +10% -10% IRR 0,153784767 0,067835089 0,031275808 NPV 4.145.458,298 -528.251,4716 -5.264.545,534 PA cơ sở IRR 0,241669111 0,163944765 0,079212288 NPV 9.349.803,831 4.727.238,601 63.470,21806 +10% IRR 0.324572365 0,251134129 0,174000522 NPV 14.553.757,3 9.931.192,073 5.308.626,844 Nguồn: Tự tính dựa trên nguồn số liệu của dự án đầu tư vào dây chuyền rải bêtông cấp phối Nhật Bản năm 2000 Bảng phân tích độ nhạy dự án trên cho thấy, trong trường hợp có những thay đổi đồng thời bất lợi cho dự án (doanh thu giảm 10% và chi phí tăng 10% so với dự kiến ) thì dự án không còn khả thi nữa vì lúc này NPV < 0 và IRR nhỏ hơn tỷ suất chiết khấu. - Phân tích tài chính dự án đầu tư trong trường hợp tính toán đến các yếu tố trượt giá và lạm phát Trượt giá và lạm phát là yếu tố khách quan tác động đến các khoản thu chi và mức lãi suất thực tế của dự án. Bởi vậy để đánh giá đúng hiệu quả tài chính của dự án trong trường hợp có trượt giá và lạm phát cần phải tiến hành phân tích các yếu tố này. Cơ sở tính toán: Hệ số trượt giá doanh thu năm i = Hệ số trượt giá năm (i-1) * Tỷ lệ trượt giá hàng năm. Hệ số trượt giá chi phí năm i = Hệ số trượt giá năm (i-1) * Tỷ lệ trượt giá hàng năm Hệ số khử lạm phát năm i = 1/ ( 1+ tỷ lệ lạm phát năm (i-1))i. Trong đó, hệ số trượt giá và hệ số khử lạm phát năm thứ nhất bằng 1. Từ đó có thể tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính có tính đến các yếu tố trượt giá và lạm phát như trong biểu sau: 5. Công tác quản lý dự án cần phải được bám sát và phù hợp với công tác lập dự án Thực tế tại công ty, công tác quản lý dự án thường do các đội sản xuất trực tiếp thực hiện tại công trường, do vậy mà công tác quản lý dự án thường không theo sát với công tác lập dự án. Ngược lại, công tác lập dự án cũng chỉ dựa vào mục tiêu chiến lược của công ty hay những yêu cầu cụ thể của một công trình nào đó chứ ít khi quan tâm đến kết quả thực tiễn từ công tác quản lý của những dự án trước. Để khắc phục hạn chế này, công ty cần có những biện pháp đẩy mạnh sự gắn bó chặt chẽ giữa công tác lập và công tác quản lý Công tác quản lý cần phải tuân theo những yêu cầu cụ thể về nội dung và trình tự trong khâu lập dự án đã quy định, tiến hành quản lý từ khi chuẩn bị lập dự án cho đến khi dự án đi vào giai đoạn vận hành và kết thúc dự án. Đồng thời công tác lập dự án cũng cần phải tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn từ khâu quản lý dự án nhằm làm cho các kết quả tính toán mang tính thực tiễn cao và phù hợp với điều kiện thực tế của công ty. 6. Nâng cao năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ tham gia công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng Con người luôn là yếu tố trung tâm quyết định đến kết quả và hiệu quả của mọi hoạt động mà cụ thể ở đây là hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư . Một dự án đầu tư dù cho có khả thi đến đâu cũng chỉ là vô nghĩa nếu người thực hiện không ý thức được nó, không có khả năng thực hiện được đồng thời cũng không cố gắng để đạt được mục tiêu. Chính vì vậy, tập trung vào nguồn nhân lực chính là biện pháp, chiến lược hàng đầu nhằm nâng cao hiệu quả của công tác lập và quản lý dự án đầu tư mua sắm máy xây dựng của công ty. Điều này đòi hỏi các cán bộ thực hiện công tác lập và quản lý dự án của công ty phải được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng để theo kịp được với những đỏi hỏi khắt khe của công tác này. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện những biện pháp sau nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lưc của chính mình: Tổ chức đào tạo và đạo tạo lại cán bộ công ty nói chung và cán bộ lập và quản lý dự án nói riêng để nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn ngay tại cơ quan hoặc cử đi học ở nước ngoài..với kinh phí do công ty tài trợ. Bên cạnh đó, công ty cũng cần phải có những biện pháp trả lương thích hợp đối với những đối tượng này. Thực hiện tốt chủ trương trích quỹ lương hàng tháng để lập quỹ đào tạo, đồng thời có kế hoạch đào tạo thường xuyên, ổn định và luân phiên nhau. Thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận, trao đổi về tình hình lập và quản lý dự án giữa nhóm chuyên gia lập và quản lý dự án với các đội sản xuất để có thể nâng cao tính thực tiễn cho đội ngũ cán bộ này. Việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cần đảm bảo thoả mãn những yêu cầu sau: Năng động, chính xác, phù hợp với thị trường. Việc lựa chọn chuyên gia phải đảm bảo yêu cầu này để có thể xử lý linh hoạt, kịp thời phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp và tuỳ thuộc vào diễn biến của thị trường. Biết cách điều chỉnh, vận dụng những kiến thức mới, kiến thức thực tiễn. Chuyên sâu một công việc nhưng phải hiểu biết tổng thể nhiều lĩnh vực. Hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư là một dây chuyền, trong đó các quá trình, nội dung công việc có liên quan chặt chẽ với nhau, đồng thời từng nội dung, từng công việc có yêu cầu chuyên sâu riêng. Do đó, việc bố trí, sử dụng các chuyên gia theo nguyên tắc này sẽ nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Thông thao ngoại ngữ, pháp luật. Đây là một yêu cầu đặc biệt quan trọng của các chuyên gia. Để đảm bảo được yêu cầu này, công ty phải vận dụng bằng cách vừa làm vừa đào tạo, hoăc có thể tuyển chọn các chuyên gia, kỹ sư giỏi từ thị trường lao động, hoặc lựa chọn các kỹ sư mới ra trường cho tiếp xúc với thực tiễn. 7. Xây dựng hệ thống thông tin thường xuyên đảm bảo cho quá trình lập và quản lý dự án Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì yêu cầu đảm bảo về hệ thống thông tin ngày càng cao, đồng thời công tác lập và quản lý dự án ngày càng đòi hỏi tính chính xác và đầy đủ. Do đó, ngoài việc trực tiếp bổ xung các thông tin còn thiếu, công ty cần phải tiếp tục bổ xung những thông tin mới dự án diện hơn, chi tiết hơn và đảm bảo tính chính xác cao hơn. Xuất phát từ những đặc trưng của hoạt động lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị xây dựng, trước hết công ty cần phải xác định được những loại thông tin cần bổ xung. Đó là những thông tin phản ánh đầy đủ những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế thị trường. Những thông tin quan trọng mà công ty cần nắm bắt bao gồm : Thông tin ở tâm vĩ mô, gồm : Chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư, các quy định về đấu thầu, thuê mua thiết bị, các chính sách liên quan đến các hoạt động tín dụng và huy động vốn… Thông tin về thị trường xây dựng, gồm xu hướng phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố và các tỉnh lân cận, quy hoạch hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống cấp thoát nước, các công trình trọng điểm sẽ được triển khai xây dựng trong những năm tới. Thông tin về thị trường thiết bị xây dựng, bao gồm thông tin về các nhà cung cấp, thông tin về các công nghệ và thiết bị mới, thông tin về thị trường thiết bị đã qua sử dụng… Khi đã xác định được các thông tin cần thu thập, các chuyên gia lập và quản lý dự án cần tổng hợp và phân tích các thông tin một cách khoa học và có hệ thống theo phương pháp kênh thông tin, trong đó mỗi kênh phải có trách nhiệm tổng hợp đầy đủ và chính xác các thông tin liên quan tới lĩnh vực mà mình phụ trách. Theo đặc điểm và tính chất của nguồn thông tin, có thể phân thành các kênh sau : - Kênh thu thập các thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước như :Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,…Kênh này chuyên thu thập thông tin về các chính sách ưu đãi đầu tư, các loại thuế, tình hình hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động đấu thầu, tín dụng và các hoạt động huy động vốn khác. - Kênh thu thập thông tin từ các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, đài phát thanh, mạng Internet…Kênh này có thể thu thập các thông tin về tình hình thị trường xây dựng hay thị trường cung cấp công nghệ và thiết bị xây dựng trong nước và trên thế giới. - Kênh thu thập các thông tin tổng hợp khác. Việc phân chia các kênh thông tin như ở trên chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì trong quá trình thu thập và tổng hợp thông tin không có sự tách bạch rõ ràng giữa các loại thông tin cũng như các nguồn thông tin. Do đó, việc kết hợp hoạt động của các kênh thông tin này sẽ là nhân tố quan trọng quyết định mức độ hoàn thiện của hoạt động thu thập thông tin. Bên cạnh đó, việc đảm bảo dòng thông tin được lưu chuyển thông suốt trong toàn bộ công ty cũng cần đặt lên hàng đầu. Những thông tin cần thiết liên quan đến lập và phân tích dự án cần phải được đặt lên hàng đầu và phải được cung cấp đầy đủ nhanh chóng. Hầu hết các cán bộ của công ty đều là những người rất có kinh nghiệm trong lưu trữ, phân tích và xử lý thông tin. Vì vậy công ty cần tiến hành tập hợp và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mang đặc thù riêng của Công ty và hoạt động đầu tư của công ty, trong đó có tổng hợp lưu trữ những thông tin có giá trị liên quan đến lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Kết luận Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng cũng đang ngày một mở rộng. Chính điều này đã tạo ra những cơ hội cũng như thách thức cho Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng Giao thông công chính trên bước đường phát triển của mình. Trong điều kiện cạnh tranh găy gắt như hiện nay cộng với sự hạn chế về năng lực tài chính, công ty cần phải có những bước đi hợp lý, vững chắc để có thể tồn tại và phát triển. Trong giai đoạn hiện nay và trong những năm tới, thiết bị xây dựng vẫn là một yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của công ty trên thị trường. Vì vậy, công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công là một đòi hỏi có tính chất thực tiễn, cấp bách nhằm nâng cao sức cạnh tranh của chính mình. Trong quá trình thực tập của mình tại Công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng GTCC, em đã có điều kiện tiếp xúc với thực tế hoạt động lập và quản lý dự án của công ty. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị xây dựng nói riêng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, em đã đi sâu nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề này. Qua đây, em cũng bước đầu đề đạt những suy nghĩ về phương hướng, biện pháp nhằm giải quyết những tồn tại hiện có và góp phần nâng cao hiệu quả của công tác lập và quản lý dự án đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị thi công tại công ty. Cuối cùng, một lần nữa em xin được cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương cùng tập thể cán bộ phòng Tư vấn - Đầu Tư Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Tài liệu tham khảo Th.S Từ Quang Phương – Giáo trình Quản lý dự án đầu tư. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Bộ môn Kinh tế đầu tư – NXB Giáo Dục. PGS – TS Nguyễn Ngọc Mai – Giáo trình Kinh tế đầu tư. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Bộ môn Kinh tế đầu tư – NXB Giáo dục năm 1998. TS Nguyễn Bạch Nguyệt – Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư – Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân – Bộ môn Kinh tế đầu tư – NXB Thống Kê năm 2000. Nguyễn Văn Chọn – Kinh tế đầu tư – NXB Giáo dục năm 1997. Trần Văn Khôi – Dự án đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công bằng hình thức trả chậm của Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn – Tạp chí Công nghiệp số 22 tháng 11/1999. Trần Văn Khôi – Hiệu quả đầu tư tăng năng lực thiết bị thi công ở Tổng công ty xây dựng Trường Sơn – Tạp chí công nghiệp số 6 tháng 3/1999. Hoàng Trọng Nhân – Một số vấn đề về đầu tư ở các doanh nghiệp xây dựng hiện nay – Tạp chí Người xây dựng số 12 năm 2002. Bùi Ngọc Khánh – Quy hoạch giao thông Hà Nội từ nay đến năm 2010 – Tạp chí Giao Thông Vận Tải số 1 năm 2003. Nguyễn Nam Trung – Bàn về vấn đề phá giá trong đấu thầu xây lắp – Tạp chí Công nghiệp Việt Nam số 7 tháng 4/2001. Cung Hồng Phương – Hoàn thiện nội dung, phương pháp đấu thầu mua sắm thiết bị trong các doanh nghiệp xây dựng giao thông – Tạp chí Công nghiệp quốc phòng và kinh tế số 1/2000. Đoàn Phương Minh – Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư ở các doanh nghiệp quốc doanh – Thời báo Kinh tế số 94/2002. Lê Đăng Chính – Các mô hình quản lý dự án ở các công ty xây dựng nước ngoài – Tạp chí Người xây dựng số 11 năm 2002. Đàm Thanh Phong – Các biện pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển ở các Tổng Công ty – Tạp chí Kinh Tế và dự báo số 8 năm 2001. Báo cáo Tổng kết của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 và 2002. Hồ sơ dự thầu xây lắp – Gói thầu Hạ tầng kỹ thuật khu liên hợp thể thao quốc gia Mỹ Đình – Mễ Trì (110 ha) – Giai đoạn 1 của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội năm 2000 Hồ sơ dự thầu xây lắp – Gói thầu xây dựng mạng lưới cấp nước khu đô thị mới Yên Hoà của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội năm 1999. Hồ sơ dự thầu xây lắp – Gói thầu Thiết kế Tuynen kỹ thuật để đặt đường ống cấp nước và các loại dây cáp qua nút giao thông của Công ty Tư vấn Đầu tư Xây dựng GTCC Hà Nội năm 2002. Dự án đầu tư vào hệ thống trộn bê tông asphalt của Nhật năm 1995. Dự án đầu tư vào thiết bị đóng cọc DJ2 năm 1999. Dự án đầu tư vào dây chuyền rải bê tông cấp phối năm 2000. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1368.doc
Tài liệu liên quan