Nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty XNK xây dựng Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp

Lời nói đầu Đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng của mỗi quốc gia trên thế giới. Khái niệm đầu tư tuy đã được các nhà kinh tế học đề cập từ rất lâu ở Việt nam. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự được chú ý từ khi Nhà nước ta chuyển hướng phát triển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Đối với nhiều doanh nghiệp lớn hiện nay, luôn xác định đầu tư là ưu tiên số một, là nhiệm vụ quan trọng chiến lược hàng đầu, để nâng cao năng lực và hiệu quả

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty XNK xây dựng Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất kinh doanh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Như chúng ta đã biết khâu lập dự án rất quan trọng trong hoạt động đầu tư. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của một dự án đầu tư. Thấy rõ được tầm quan trọng của dự án đầu tư, ngay từ khi mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình sang đầu tư theo dự án từ năm 1996, Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam rất quan tâm đến các quá trình nghiên cứu, đào tạo phát triển kiến thức chuyên môn về công tác lập dự án đầu tư. Từ những kiến thức được học trong Nhà trường và qua thời gian thực tập tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, trong Luận văn này em xin đề cập đến vấn đề "Nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương: Chương I. Những vấn đề lý luận chung Chương II. Thực trạng công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Chương III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Để hoàn thành tốt bài viết này rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn để có thể hoàn chỉnh hơn về các góc độ nghiên cứu đề tài trong phạm vi kiến thức đã học trong nhà trường và những hiểu biết thực tế nhất định. Chương I Những vấn đề lý luận chung I. Lý luận chung về đầu tư 1. Khái niệm đầu tư Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, là trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, các tài sản vật chất, các tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có điều kiện và đủ khả năng làm việc với năng suất cao hơn trong nền văn hoá xã hội. 2. Phân loại hoạt động đầu tư Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau mà hoạt động đầu tư được phân loại thành nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu chung lại thì nó bao gồm 3 loại chính như sau: a) Đầu tư tài chính Đầu tư vào hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền đầu tư vào việc mua các chứng chỉ có giá như cổ phần, cổ phiéu, các loại chứng khoán khác hay đơn thuần là việc gửi tiền vào Ngân hàng để được hưởng lãi suất… Như vậy việc đầu tư tài chính có kết quả là số tiền đầu tư không cao, độ rủi ro không lớn, độ mạo hiểm không cao, mà lãi suất hay cổ tức thu được là tương đối ổn định. Tuy không đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế song nó rất quan trọng trong việc kích thích nền kinh tế phát triển, tạo ra một nền kinh tế năng động, nhất là các kênh lưu thông tiền tệ được linh hoạt hơn. b) Đầu tư thương mại Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư là tương đối ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp trong một thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dễ đạt độ chính xác cao. Trong thực tế, những người có tiền thường thích đầu tư thương mại (kinh doanh hàng hoá). Tuy nhiên trong giác độ xã hội, hoạt động này không tạo ra của cải xã hội một cách trực tiếp, nhưng giá trị tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ là sự phân phối thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. c) Đầu tư phát triển Đây là hoạt động đầu tư có tính chất quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, trực tiếp tạo ra các tài sản cho đất nước. Các tài sản tăng thêm có thể là tài sản hữu hình như nhà cửa, các công trình, các máy móc trang thiết bị, các vật dụng khác. Các tài sản vô hình như đầu tư vào phát triển giáo dục, nghiên cứu khoa học, sự tăng thêm về trình độ quản lí... Đặc điểm của hoạt động đầu tư này là thời gian đầu tư thường kéo dài, số tiền đầu tư lớn, độ mạo hiểm cao. Đây là cái giá của hoạt động đầu tư phát triển. Mặt khác trong quá trình đầu tư thì luôn phải có một quá trình nghiên cứu kĩ càng được ghi trong một tập tài liệu gọi là dự án đầu tư. Khi thực hiện quá trình đầu tư (bao gồm khâu lập dự án cho tới khâu thực hiện dự án) thì có nhiều bộ phận cơ quan tham gia với các chức năng khác nhau như lập và quản lí dự án, thẩm định dự án, quản lí Nhà nước về đầu tư nhằm tạo ra tính chính xác và hiệu quả cho công cuộc đầu tư. Ngày nay đầu tư phát triển được quan tâm rộng rãi giữa các quốc gia, các ngành, các vùng, các địa phương. 3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển Nói về vai trò của hoạt động đầu tư tác động đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, các lí thuyết kinh tế đều coi đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng. a) Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế v Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế: * Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm 20-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động vào tổng cầu ngắn hạn. *Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên trong khi giá cả giảm cho phép khả năng tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất phát triển hơn, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư. v Đầu tư tác động hai mặt tới sự ổn định của nền kinh tế: Do sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung nên mỗi sự thay đổi trong đầu tư dù là tăng hay giảm đều phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu đối với yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả hàng hoá có liên quan tăng (coi phí tổn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất bị đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do sản lượng thực tế ngày càng thấp, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các các yếu tố liên quan tăng, sản xuất ở các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống và giảm tệ nạn xã hội. Tất cả tác động này tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành kinh tế vĩ mô, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. v Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế: Vốn là một yếu tố quan trọng đối với quá trình sản xuất, là đông lực thúc đẩy tăng trưởng phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Giữa tăng trưởng và đầu tư là những nhân tố trực tiếp làm tăng nhanh GDP. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình từ 8%-10% thì tỷ lệ đầu tư so với GDP phải đạt từ 15%-20% tuỳ vào hệ số ICOR của mỗi nước. Ta có: Với I là vốn đầu tư còn g là mức tăng GDP. Như vậy nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng GDP chỉ phụ thuộc vào mức tăng đầu tư. ICOR của mỗi nước khác nhau thì khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước đó. ở các nước phát triển ICOR thường lớn (5"7) vì họ thừa vốn thiếu lao động và sử dụng những công nghệ đắt tiền hiện đại nên để tăng 1%GDP cần tăng nhiều vốn, ngược lại đối với những nước chậm phát triển thì ICOR thấp (2"3). Như vậy đầu tư đóng vai trò như một cái kích ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. v Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế: Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9%-10%/năm) là tăng cường đầu tư cho các ngành Công nghiệp và Dịch vụ. Do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học của ngành Nông lâm ngư nghiệp nên để đạt tới tốc độ tăng trưởng từ 5%-6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế xã hội... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các ngành khác phát triển. b) Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại; sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ, lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả các hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. II. Lý luận chung về dự án đầu tư 1. Khái niệm dự án đầu tư Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và các chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết quản nhất định và thực hiện những mục tiêu xác định trong tương lai. 2. Chu kỳ dự án đầu tư Chu kỳ dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành, chấm dứt hoạt động. Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Sx KD DV ý đồ về dự án mới ý đồ về dự án Ta có thể minh hoạ chu kỳ dự án theo sơ đồ sau đây: 3. Phân loại Dự án đầu tư Trên giác độ quản lý nền kinh tế vĩ mô, dự án đầu tư được phân thành 3 nhóm: A, B, C. Tuỳ thuộc vào từng loại dự án và số tiền đầu tư vào dự án mà phân loại dự án đầu tư như sau: - Công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng… cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ B C A 30 tỷ 600 tỷ - Thuỷ lợi, giao thông (không thuộc nhóm 1), cấp thoát nước,… kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế…bưu chính viễn thông, BOT trong nước… B C A 20 tỷ 400 tỷ A B C - Hạ tầng kỹ thuật đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ thuỷ tinh, in, vườn quốc gia… mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản… 15 tỷ 300 tỷ A B C - Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học… 7 tỷ 200 tỷ - Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới: đều là dự án nhóm A (không kể mức vốn). - Các Dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ không phụ thuộc và quy mô đầu tư: đều là dự án nhóm A (không kể mức vốn). 4. Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án Xuất phát từ những đặc điểm đặc trưng của công cuộc đầu tư phát triển thì việc đầu tư theo dự án là cần thiết. Hoạt động đầu tư là một hoạt động kinh tế nhằm tái sản xuất cho nền kinh tế xã hội, đây là một hoạt động phức tạp và có những đặc điểm nổi bật sau đây: + Nguồn lực huy động cho một công cuộc đầu tư là rất lớn trong một thời gian khá dài. Đây là cái giá khá lớn cho hoạt động đầu tư. Trong quá trình này thì nguồn vốn nằm khê đọng không sinh lời. + Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi vốn đã bỏ ra hay cho đến khi thanh lí tài sản do vốn tạo ra có thể cần một thời gian dài, thường là vài năm, có khi hàng chục năm hay lớn hơn. + Các thành quả của quá trình đầu tư có thể được sử dụng trong nhiều năm đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những chi phí đã bỏ ra trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. + Các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố bất định về tự nhiên, các điều kiện về kinh tế xã hội pháp luật, chính trị, nhu cầu thị trường và các quan hệ quốc tế khác... Do đó hoạt động đầu tư có độ mạo hiểm cao. Vì vậy để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt công tác chuẩn bị. Có nghĩa là khi xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư phải dự đoán các yếu tố bất định (sẽ xảy ra trong suốt quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư cho tới khi thành quả của nó phát huy tác dụng) có ảnh hưởng tới sự thành bại của công cuộc đầu tư thực chất của sự xem xét chuẩn bị này là là phải chuẩn bị nó trong một dự án đầu tư. Có thể nói dự án đầu tư được soạn thảo tốt là kim chỉ nam, là sự vững chắc, là tiền đề cho các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội như mong muốn. 5. Công của dự án đầu tư Công dụng của dự án đầu tư thể hiện ở 2 góc độ: Đối với sự phát triển kinh tế, đối với các chủ thể. Trong đó Các chủ thể bao gồm: Chủ đầu tư, Nhà nước và các định chế tài chính. Cụ thể công dụng của dự án đầu tư được thể hiện như sau: a) Đối với sự phát triển kinh tế Đầu tư theo dự án sẽ tạo ra cho nền kinh tế xã hội với những tài sản cố định có chất lượng cao, chi phí hợp lí, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Dự án đầu tư sẽ làm cho công cuộc đầu tư phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế phát triển và điều kiện phát triển kinh tế mỗi nước. b) Đối với các chủ thể - Chủ đầu tư: Dự án là một cách để thực hiện đầu tư với phương án tối ưu về mặt kinh tế kĩ thuật làm sao cho công cuộc đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất, chi phí tối thiểu và giảm thiểu rủi ro gây ra. Lập dự án đầu tư còn là điều kiện đảm bảo tính hợp pháp và tính khả thi của công cuộc đầu tư giúp cho nó nhanh được đi vào thực hiện (chẳng hạn liên quan đến việc được cấp giấy phép đầu tư, hay được giải ngân vốn, giải phóng mặt bằng). - Đối với Nhà nước: Dự án là cơ sở để kiểm tra tính hợp pháp, tính khả thi, tính định hướng của công cuộc đầu tư. Từ đó là cơ sở để thẩm định và cấp giấy phép đầu tư (mà cơ quan đại diện quản lí Nhà nước về đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ và cơ quan ngang bộ khác, Uỷ Ban Nhân dân). Dự án đầu tư giúp cho Nhà nước thực hiện được mục tiêu quản lí của mình là phù hợp với các chính sách, chiến lược đầu tư mà tiêu chuẩn đánh giá chính là hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án mang lại. - Đối với các định chế tài chính (Ngân hàng, các tổ chức tài chính): Dự án là cơ sở để các tổ chức này thẩm định để đứng ra cho vay hay tài trợ. Bởi lẽ khi dự án đi vào hoạt động thì số tiền cần huy động là rất lớn mà khi vận hành các kết quả đầu tư thường mất nhiều năm tháng mới có thể trả được hết nợ. Do vậy để an toàn cho nguồn vốn của mình thì đòi hỏi các định chế tài chính dựa vào dự án để ra quyết định cho vay hoặc tài trợ vốn. (Loan and finance). 6. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư. Bảng 1: Các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành kết quả đầu tư (sản xuất, K D,DV) Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án Nghiên cứu khả thi (lập dự án LCKTKT) Đánh giá và quyết định (thẩm định dự án) Đàm phán và ký kết các hợp đồng Thiết kế và lập dự toán thi công Thi công xây lắp công trình Chạy thử và nghiệm thu sử dụng Sử dụng chưa hết công suất Sử dụng công suất ở mức cao nhất Công suất giảm dần và thanh lý Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp. Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Tổng phí cho giai đoạn này chiếm 0,5-15% vốn đầu tư của dự án làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng tốt 85-99,5% vốn đầu tư ở giai đoạn thực hiện đầu tư đảm bảo đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác; Trong giai đoạn 2, 85-99,5% vốn đầu tư của dự án được chia ra và nằm khê đọng trong suốt thời gian thực hiện đầu tư. Đây là những năm lương vốn lớn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư, thiết bị chưa hoặc đang thi công, đối với công trình đang được xây dựng dở dang. Vì vậy phải tuân thủ theo đúng tiến độ và các bước vạch ra trong hồ sơ dự án. ở giai đoạn 3, nếu kết quả do đầu tư do giai đoạn thực hiện đầu tư đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, địa điểm tiêu thụ thích hợp và với quy mô tối ưu thì dự án chắc chắn sẽ có lãi. Ngược lại, có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp cũng như lãng phí tiền của công sức của toàn xã hội, lúc đó sẽ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực trong đầu tư. 7. Nội dung của dự án đầu tư Nội dung chủ yếu của dự án đầu tư bao gồm các khía cạnh kinh tế vi mô và vĩ mô, quản lí và kĩ thuật. Những khía cạnh này ở các dự án của các ngành khác nhau đều có những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên việc xem xét các khía cạnh này đối với dự án công nghiệp và xây dựng là phức tạp hơn cả. Nội dung chủ yếu của một dự án đầu tư xem xét các vấn đề sau đây: 1. Nghiên cứu khía cạnh kinh tế xã hội tổng quát và thị trường của dự án 1.1. Xem xét các khía cạnh kinh tế xã hội tổng quát liên quan đến dự án Có thể coi tình hình kinh tế tổng quát là nền tảng của dự án đầu tư. Nó thể hiện khung cảnh đầu tư, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hiệu quả kinh tế tài chính của dự án đầu tư. Tình hình kinh tế tổng quát được đề cập trong dự án bao gồm: ữ Điều kiện về địa lí tự nhiên (địa hình, khí hậu, địa chất...) có liên quan đến việc lựa chọn, thực hiện và phát huy hiệu quả dự án sau này. ữ Điều kiện về dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án. ữ Tình hình chính trị, các chính sách và luật lệ có ảnh hưởng đến sự an tâm của nhà đầu tư. ữ Tình hình phát triển kinh tế của đất nước, địa phương và tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của ngành, cơ sở có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và phát huy hiệu quả dự án sau này. ữ Tình hình ngoại hối (cán cân thanh toán ngoại hối, dự trữ ngoại tệ, nợ nần và tình hình thanh toán nợ...) đặc biệt đối với các dự án phải nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị của nước ngoài. ữ Hệ thống kinh tế và các chính sách phát triển kinh tế của chính phủ. ữ Tình hình ngoại thương và các định chế tài chính có liên quan như tình hình xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu, luật đầu tư nước ngoài. 1.2. nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường nhằm xác định các yếu tố sau: + Thị trường cung cầu sản phẩm và dịch vụ mà dự án dự kiến sản xuất và cung cấp ở thời điểm hiện tại, tiềm năng phát triển của thị trường này trong tương lai. + Các biện pháp khuyến thị và tiếp thị cần thiết giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của dự án được thuận lợi. + Khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với các sản phẩm cungd loại có sẵn và các sản phẩm có thể được sản xuất sau này. a) Xem xét loại thị trường của sản phẩm Mọi sản phẩm làm ra đều nhằm đáp ứng một nhu cầu nào đó của xã hội các nhu cầu này rất đa dạng và có tầm quan trọng khác nhau đối với mỗi người. Vì vậy cần làm rõ những đối tượng tiêu thụ sản phẩm của dự án và sản phẩm của dự án thuộc loại gì. Đối với mỗi loại sản phẩm và mỗi loại thị trường đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu và tiếp thị riêng biệt. b) Xem xét mức tiêu thụ hiện tại và trong quá khứ. Dự đoán nhu cầu tương lai. Đây là việc cần thiết nhằm xác định rõ xu hướng biến động của thị trường để nhằm xác định quy mô của dự án. Gồm: đ Tính đàn hồi của nhu cầu so với giá: Nhu cầu sẽ thay đổi khi giá cả thay đổi, giá cả tăng thì người mua sẽ phải cân nhắc kĩ hơn khi mua sản phẩm. Việc ước lượng nhu cầu của thị trường có thể áp dụng phương pháp thống kê mối liên hệ giữa giá cả và lượng sản phẩm tiêu thụ. đ Tính đàn hồi của cầu so với thu nhập: Chúng ta biết rằng trên thực tế thu nhập tăng thì mức tiêu dùng cũng tăng. Để xem xét mối quan hệ giữa nhu cầu và thu nhập chúng ta áp dụng những phương pháp nghiên cứu tương quan giữa thu nhập đầu người và mức tiêu thụ sản phẩm của dự án trên cơ sở các số liệu thống kê trong và ngoài nước. đ Các yếu tố khác ảnh hưởng tới nhu cầu: Tuỳ theo từng loại sản phẩm có những yếu tố đặc thù tác động rất mạnh đến thị trường của nó như việc điện khí hoá một vùng nào đó là cho mức tiêu thụ hàng điện dân dụng vùng đó tăng lên... c) Nghiên cứu các vấn đề tiếp thị và khuyến thị Việc xác định vấn đề này để giải quyết câu hỏi là làm sao để khách hàng mua sản phẩm của mình thay vì sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. + Tiếp thị: Để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách hữu hiệu nhất cần phải xem xét đối tượng khách hàng, tức là phải xem yếu tố quyết định để khách hàng mua sản phẩm là gì? đối với mỗi khách hàng khác nhau thì việc phân phối sản phẩm cũng sẽ cần phải khác nhau. Nghiên cứu các hình thức phân phối và hiệu lực của chúng; các chi phí để đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng. +Khuyến thị: Đây là một bộ phận chủ yếu của công tác tiếp thị. Mục đích của khuyến thị là làm sao để người tiêu dùng mua sản phẩm của mình thay vì mua sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. d) Xem xét khả năng cạnh tranh của sản phẩm Chúng ta biết rằng vị thế cạnh tranh phụ thuộc vào quy mô sản xuất, chất lượng sản phẩm, khả năng về vốn để vòng quay về vốn liên tục, bán chịu, giảm giá bán... Để chứng minh khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án người ta áp dụng phương pháp điều tra mẫu, so sánh các sản phẩm của dự án với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp giá cả là vấn đề chính cho việc chiếm lĩnh thị trường thì cần phải xem xét giá cả ở khâu tiêu thụ cuối cùng với sản phẩm cạnh tranh, phải xem xét những ưu điểm vốn có của thị trường cũng như những rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện đầu tư. Sau khi xem xét các vấn đề phải đi đến kết luận làm sao chứng minh được rằng dự án có một thị trường tiêu thụ và khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại ở trong và ngoài nước. Chứng tỏ được rằng dự án có thể cạnh tranh một cách có hiệu quả ở thị trường này trên cơ sở phân tích những lợi thế chi phí cuả dự án. Đó là những lợi thế về chi phí nguyên vật liệu, nhân công vận chuyển, điện, nhiên liệu, máy móc thiết bị, quản lí và các chi phí về tiêu thụ sản phẩm. Đối với các nhà cạnh tranh nước ngoài cần làm rõ những lợi thế của dự án về mặt thuế quan, về tiết kiệm chi phí vận chuyển, đồng thời những hạn chế về ngoại tệ và nhập khẩu của dự án. Sau khi nghiên cứu khía cạnh thị trường của dự án phải xác định được rằng dự án có khả thi về mặt thị trường hay không. 2. Phân tích kĩ thuật dự án đầu tư Phân tích kĩ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích về mặt kinh tế tài chính và lập dự toán ch dự án đầu tư. Không có số liệu về phân tích kĩ thuật thì không thể tiến hành phân tích về mặt kinh tế tuy rằng các thông số kinh tế có ảnh hưởng đến các quyết định về mặt kĩ thuật. Các dự án không khả thi về mặt kĩ thuật phải được bác bỏ để tránh tổn thất trong quá trình thực hiện đầu tư. 2.1. Mô tả sản phẩm sẽ sản xuất của dự án a) Đặc tính của sản phẩm Các đặc tính về mặt lí học,hoá học so sánh với các sản phẩm trong nước và ngoài nước hoặc với tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm đo lường trong nước và quốc tế. Các hình thức bao bì đóng gói, các công dụng và cách sử dụng sản phẩm. Các sản phẩm ở đây bao gồm: sản phẩm chính, sản phẩm phụ và chất thải. b) Đánh giá chất lượng sản phẩm Để đánh giá chất lượng sản phẩm phải xem xét các phương pháp và phương tiện để kiểm tra sản phẩm xác định các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt, dự kiến bộ phận kiểm tra chất lượng sau khi đã xác định phương pháp kiểm tra, dự kiến chi phí cho phương pháp kiểm tra. 2.2. Nghiên cứu kĩ thuật và phương pháp sản xuất Nghiên cứu kĩ thuật và phương pháp sản xuất Việc nghiên cứu kĩ thuật và phương pháp sản xuất cần được tiến hành theo các vấn đề sau đây: + Bản chất của kĩ thuật sản xuất. + Yêu cầu tay nghề của người sử dụng, khả năng tiép thu kĩ thuật. + Yêu cầu về năng lượng và nguyên nhiên liệu sử dụng. + Khả năng chuyển sang sản xuất các mặt hàng khác trong trường hợp mặt hàng cũ không còn hợp thời nữa. + Nhà cung cấp, cách thức cung cấp và quyền sở hữu công nghiệp. + Yêu cầu về đầu tư và ngoại tệ. Chọn kĩ thuật và phương pháp sản xuất Sau khi nghiên cứu các phương pháp kĩ thuật sản xuất khác nhau chúng ta phải lựa chọn phương pháp sản xuất hoặc quy trình công nghệ thích hợp nhất đối với điều kiện thực tế hiện có mà vẫn đảm bảo sản phẩm đáp ứng được mọi yêu cầu chất lượng, số lượng với chi phí tối thiểu. Như vậy việc lựa chọn kĩ thuật sản xuất có liên quan đến các kiến thức cề đặc tính kĩ thuật, chất lượng, số lượng sản phẩm, thời gian cần thiết để sản xuất và tiêu thụ. Việc lựa chọn kĩ thuật sản xuất cần tránh mọi kĩ thuật quá mới mẻ hay đang thử nghiệm. Tuy nhiên cần chú ý không chọn kĩ thuật sản xuất đã lỗi thời để tạo ra sản phẩm kém chất lượng. Sau khi đã lựa chọn được phương pháp sản xuất hoặc quy trình công nghệ cho dự án phải mô tả chi tiết và làm rõ lí do chọn. Tiếp đó lập hồ sơ quy trình công nghệ đã chọn. Sơ đồ này cho thấy một cách đơn giản hoặc chi tiết tiến trình sản xuất từ đầu vào qua các công đoạn sản xuất chế biến đầu ra. Các sơ đồ chi tiết hơn có thể cho thấy cả các nhu cầu và vị trí không gian, kích thước và khoảng cách của các máy móc thiết bị, và các tiện nghi phục vụ sản xuất khác. 2.3. Chọn máy móc thiết bị Tuỳ thuộc vào công nghệ và phương pháp sản xuất mà lựa chọn máy móc thiết bị thích hợp. Đồng thời còn căn cứ vào trình độ tiến bộ kĩ thuật, chất lượng giá cả phù hợp với khả năng vận hành và vốn đầu tư, với điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa, công suất, các điều kiện về khí hậu... Ngoài ra đối với bất cứ loại thiết bị nào nếu nhập khẩu thì nên nhập luôn phụ tùng thay thế, thông thường chi phí này chiếm khoảng 10-20% chi phí máy móc thiết bị của dự án. Trong số các thiết bị phải nhập khẩu, có thể có một số thiết bị đòi hỏi phải thuê chuyên gia hướng dẫn. Sau khi đã chọn được loại máy móc thiết bị cho dự án phải lập bảng liệt kê mô tả đầy đủ theo các căn cứ để lựa chọn. 2.4. Xác định công suất của máy móc thiết bị và của dự án P Công suất của máy móc thiết bị: Cần phân biệt các loại công suất: + Công suất thiết kế: là khả năng sản xuất sản phẩm trong một giờ của thiết bị. + Công suất lí thuyết; là công suất tối đa trên lí thuyết mà thiết bị có thể thực hiện được với giả thiết là thiết bị hoạt động liên tục không bị gián đoạn vì bất kì một lí do nào. Ta có: CSLT/năm=CS/giờ/ ngày/năm + Công suất thực tế: là công suất thực tế đạt được, luôn nhỏ hơn công suất lí thuyết. Trong điều kiện hoạt động tốt công suất thực tế chỉ đạt được trên dưới 90% công suất lí thuyết. P Công suất của dự án Nội dung và trình tự của việc xác định công suất của dự án bao gồm các bước sau đây: + Xác định công suất bình thường: có thể của dự án đó là số sản phẩm cần sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường mà dự án dự kiến sẽ chiếm lĩnh. + Xác định công suất tối đa danh nghĩa: Công suất tối đa danh nghĩa biểu hiện bằng số sản phẩm cần sản xuất vừa đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường, vừa để bù đắp những hao hụt tổn thất trong quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển và bốc dỡ. + Công suất sản xuất: của dự án là số sản phẩm mad dự án cần sản xuất trong một đơn vị thời gian nhỏ nhất để đáp ứng nhu cầu của thị trường có tính đến thời gian và chế độ làm việc của lao động, của máy móc thiết bị trong năm. P Công suất khả thi của dự án Để xác định Công suất khả thi của dự án cần căn cứ vào các yếu tố sau đây: + Nhu cầu thị trường (công suất sản xuất). + Trình độ kĩ thuật của máy móc thiết bị + Khả năng cung cấp nguyên vật liệu, chi phí sản xuất , khả năng và chi phí của vốn đầu tư. Thông thường trong những năm đầu do có những khó khăn khác nhau nên chỉ sử dụng công suất khoảng 40-90% công suất lí thuyết, vài năm sau nhu cầu tăng thì sẽ sản xuất hết công suất (công suất khả thi). 2.5. Nguyên vật liệu đầu vào Nguyên vật liệu đầu vào bao gồm tất cả các nguyên vật liệu chính và phụ, vật liệu bao bì đóng gói. Đây là một khía cạnh kĩ thuật quan trọng của dự án cần xem xét kĩ các vấn đề sau: + Trước hết phải xem xét nguyên vật liệu sẽ sử dụng cho dự án thuộc loại nào. + Đặc tính và chất lượng nguyên vật liệu sử dụng cho dự án: + Nguồn và khả năng cung cấp nguyên vật liệu có ảnh hưởng đến sự sống còn và quy mô dự án. + Giá thu mua, vận chuyển và kế hoạch cung ứng. Phải lập kế hoạch, ước tính thu mua, vận chuyển nguyên vật liệu đảm bảo yêu cầu của sản xuất. ._.2.6. Cơ sở hạ tầng Nhu cầu năng lượng, nước, giao thông, thông tin liên lạc... của dự án phải được xem xét, nó sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu tư và chi phí sản xuất do có hay không các cơ sở hạ tầng này. 2.7. Lao động và trợ giúp kĩ thuật của nước ngoài Cần phải xác định nhu cầu về lao động, nguồn lao động, chi phí lao động. Cần xác định được số lượng lao động trực tiếp và số lượng lao động địa phương. Cần ưu tiên sử dụng lao động địa phương. Đối với dự án mà trình độ lao động kĩ thuật của chúng ta chưa thể tiếp nhận khi chuyển giao công nghệ thì phải thuê chuyên gia nước ngoài. Chi phí thuê chuyên gia nước ngoài rất cao nên phải xem xét kĩ lưỡng. 2.8. Địa điểm thực hiện dự án Khi xem xét lựa chọn địa điểm dự án thực chất là xem xét các khía cạnh về địa lí tự nhiên kinh tế xã hội kĩ thuật...có liên quan đến dự án. Vì vậy cần phải biết rõ các vị trí, diện tích của địa điểm thực hiện dự án. Phải khảo sát các điều kiện về địa lí, địa hình, thuỷ văn tự nhiên ở các địa điểm khác nhau để cân nhắc giá mua hoặc thuê quyền sử dụng đất đai, tính toán chi phí san lấp mặt bằng, xây dựng nền móng cho nhà xưởng và lắp đặt thiết bị máy móc. 2.9. Kỹ thuật xây dựng công trình của dự án Công trình xây dựng của dự án bao gồm các hạng mục nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động an toàn và thuận lợi. Đối với mỗi hạng mục công trình phải xem xét: Diện tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc (bê tông, cốt thép, khung sắt, lắp ghép...), kích thước... và chi phí dự kiến. Tổ chức xây dựng việc thi công các hạng mục công trình có thể được tiến hành theo phương thức tự làm hoặc bao thầu, đấu thầu, tuỳ tài chính phức tạp của công trình. 2.10. Đánh giá tác động của môi trường Cùng với sự phát triển của công nghiệp, ô nhiễm môi trường cũng gia tăng. Nhiều nước và nhiều địa phương đã ban hành các luật lệ, quy chế buộc các cơ sở sản xuất phải gia tăng áp dụng các biện pháp xử lí chất thải. Trong nghiên cứu khả thi phải nghiên cứu các vấn đề này. 2.11. Lịch trình thực hiện dự án Việc lập lịch trình thực hiện từng hạng mục công trình từng công việc trong mỗi hạng mục công trình trong mỗi dự án phải đảm bảo làm sao cuối cùng dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đúng thời gian dự định. Đối với các dự án quy mô lớn có nhiều hạng mục công trình, kĩ thuật xây dựng công trình phức tạp, để lập hạng mục công trình đòi hỏi phải phân tích một cách có hệ thống và có phương pháp. 3. Phân tích tài chính dự án đầu tư 3.1. Xác định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn của dự án a) Xác định tổng vốn đầu tư Tính toán chính xác tổng vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với tính khả thi của dự án. Nếu vốn đầu tư được dự tính quá thấp, dự án không thực hiện được, ngược lại nếu dự tính quá cao không phản ánh được chính xác hiệu quả tài chính dự án. Tổng mức vốn đầu tư của dự án bao gồm toàn bộ số vốn cần thiết để thiết lập và đưa dự án vào hoạt động. Nó được chia ra làm hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động ban đầu (chỉ tính cho một chu kì sản xuất kinh doanh đầu tiên). b) Xác định các nguồn tài trợ cho dự án Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án, vừa để tránh ứ đọng vốn các nguồn tài trợ cần được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả thời điểm nhận tài trợ. Các nguồn vốn dự kiến này phải được đảm bảo chắc chắn. Sự đảm bảo này có cơ sở pháp lí và cơ sở thực tế. 3.2. Lập các báo cáo tài chính dự kiến cho từng năm hoặc từng giai đoạn của đời dự án Các báo cáo tài chính giúp cho chủ đầu tư thấy được tình hình hoạt động tài chính của dự án và nó là nguồn số liệu giúp cho việc tính toán phân tích các chỉ tiêu phản ánh về mặt tài chính của dự án. a) Dự tính doanh thu từ hoạt động của dự án Doanh thu từ hoạt động của dự án bao gồm doanh thu do bán sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu, phế phẩm và từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. Doanh thu của dự án được tính cho từng năm hoạt động và dựa vào kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng năm của dự án để xác định. b) Dự tính chi phí sản xuất Chỉ tiêu này cũng được dự tính cho từng năm trong suốt cả đời dự án. Việc dự tính chi phí sản xuất dựa trên kế hoạch sản xuất hàng năm, kế hoạch khấu hao và kế hoạch trả nợ của dự án. c) Dự tính lãi lỗ của dự án Trên cơ sở dự tính về tổng doanh thu, chi phí từng năm tiến hành dự tính hàng năm thì tiến hành dự tính lãi lỗ của dự án. Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ trong từng năm và cả đời dự án. d) Bảng dự trù cân đối kế toán Bảng dự trù cân đối kế toán của dự án được tính cho từng năm hoạt động nó mô tả tình trạng tài chính hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án thông qua việc cân đối tài sản với nguồn vốn. Đây là nguồn tài liệu giúp cho chủ đầu tư phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính của dự án. Việc dự trù được tiến hành theo bảng mẫu theo quy định của Nhà nước. e) Dự tính cân đối thu chi Phân tích tài chính dự án quan tâm tới lượng tiền đi vào và đi ra của dự án. Đảm bảo cân đối thu chi (cân đối dòng tiền vào và dòng tiền ra là mục tiêu quan trọng của phân tích tài chính dự án). Việc dự tính cân đối dòng tiền được thực hiện theo bảng mẫu theo quy định của Nhà nước. 3.3 Các chỉ tiêu phản ánh về mặt tài chính của dự án đầu tư a) Các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp + Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay.Hệ số này phải lớn hơn hoặc bằng 1. Đối với những dự án có nhiều triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ số này có thể nhỏ hơn 1 và lớn hơn 2/3 thì thuận lợi. + Tỷ trọng vốn tự có so với vốn đầu tư phải lớn hơn hoặc bằng 50%, đối với những dự án có triển vọng thì hệ số này có thể nhỏ tới 40%. b) Các chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án Đây là các chỉ tiêu đánh giá quy mô lãi của dự án. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần được tính cho từng năm hoặc từng giai đoạn hoạt động của đời dự án. Chỉ tiêu này có tác dụng so sánh giữa các năm hoạt động của dự án. Wi=Oi-Ci Trong đó: Wi: Lợi nhuận thuần năm i Oi: Doanh thu thuần năm i Ci: Chi phí ở năm i Chỉ tiêu tổng lợi nhuận thuần của cả đời dự án có tác dụng so sánh quy mô lãi giữa các dự án. Để tính tổng lợi nhuận các năm của đời dự án ta phải tính chuyển tổng lợi nhuận thuần hàng năm về cùng mặt bằng thời gian ở hiện tại hoặc tương lai.. Ta có: Chỉ tiêu lợi nhuận thuần bình quân năm được tính theo công thức: Để đánh giá đầy đủ quy mô lãi của đời dự án trong phân tích tài chính thường sử dụng chỉ tiêu thu nhập thuần. Thu nhập thuần của dự án là thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí của cả đời dự án. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô lãi ở thời điểm hiện tại hoặc tương lai. Với cách tính ở thời hiện tại, ta có chỉ tiêu NPV (Net present value) Trong đó: Bi: là khoản thu của năm i Ci: là khoản chi của năm i Dự án chỉ có thể được chấp nhận khi mà NPV≥0. c) Tỷ số lợi ích trên chi phí (B/C) Chỉ tiêu B/C (Benefit-cost ratio) được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích và chi phí bỏ ra để thu được lợi ích đó. Chỉ tiêu này tính bằng: Với PV(B) và PV(C) là giá trị hiện tại của lợi ích và chi phí Tỷ số B/C ≥ 1 thì dự án có thể được chấp nhận. d) Hệ số hoàn vốn (RR) còn được gọi là tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư Hệ số hoàn vốn (Rate of return) nói lên mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thu được hàng năm. Chỉ tiêu này được tính như sau: + Nếu tính cho từng năm hoạt động của dự án: + Nếu tính bình quân năm của đời dự án: tỉ số này dùng để so sánh giữa các dự án với nhau, và đồng thời nó cũng phải lớn hơn lãi suất ngân hàng. e) Hệ số hoàn vốn nội bộ (Internal rate of return) Hệ số hoàn vốn nội bộ là suất chiết khấu (r) mà tại đó giá trị hiện tại của các khoản thu, chi bằng nhau hay NPV=0 và được xác định như sau: Trong đó: + r2>r1 và r2-r1Ê5% + NPV1(ứng với r1)>0 và gần 0 + NPV2(ứng với r2)<0 và gần 0 Dự án có IRR ≥ rgh và lớn nhất hay khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao thì sẽ được chọn giữa các phương án đầu tư, rgh có thể là lãi suất đi vay nếu phải vay vốn để đầu tư, có thể là tỷ suất lợi nhuận định mức do Nhà nước quy định nếu có vốn do Ngân sách cấp và cũng có thể là mức chi phí cơ hội nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư. f) Thời gian hoàn vốn (T) Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian mà các kết quả của các quá trình đầu tư cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra bằng những khoản lợi nhuận thuần dự án thu được. Thời gian hoàn vốn là chỉ tiêu hiệu quả thường được dùng để so sánh lựa chọn dự án nhất là đối với trường hợp dự án có nhiều rủi ro và thị trường tương đối khan hiếm. Thời gian hoàn vốn chỉ tính ở dạng tiềm năng còn trên thực tế chỉ có khấu hao TSCĐ và một phần lợi nhuận dòng được dùng để thanh toán vốn đầu tư ban đầu. Thời gian hoàn vốn (T) có thể tính bằng: hoặc là Nếu thời gian hoàn vốn T Ê Tgh(thời gian giới hạn do nhà đầu tư lựa chọn) thì dự án có thể chấp nhận. Trường hợp so sánh lựa chọn dự án thì dự án có T nhỏ nhất sẽ được lựa chọn. g) Phân tích hoà vốn Phân tích hoà vốn được tiến hành nhằm xác định mức sản xuất hoặc doanh thu tối thiểu mà dự án có thể vận hành và không gây nguy hiểm tới khả năng tồn tại của dự án về mặt tài chính. Phân tích hoà vốn thực chất là tìm điểm hoà vốn (BEP-break event point) mà tại đó doanh thu bán sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất hay nói cách khác là tìm mức vận hành mà tại đó hàng năm dự án không có lãi nhưng cũng không bị lỗ. Nói chung điểm hoà vốn được tính bằng: Doanh thu hoà vốn là , trường hợp sản xuất nhiều loại sản phẩm thì doanh thu hoà vốn là Với x: sản lượng hoà vốn; f: định phí; vi biến phí sản phẩm i; pi giá sản phẩm i Điểm hoà vốn càng thấp, cơ hội thu lợi của dự án càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Điểm hoà vốn có thể được thể hiện bằng khối lượng sản phẩm tối thiểu, tỷ lệ đạt công suất tối thiểu, giá trị doanh thu tối thiểu. Nó cũng có thể hiện qua giá bán tối thiểu, giá thành đơn vị sản phẩm cho phép. h) Phân tích khả năng biến động dự án Trên thực tế, những tính toán ban đầu khi xây dựng dự án không phải bao giờ cũng đạt như dự kiến: + Nguồn vốn cố định và nguồn vốn lưu động có thể bị thiếu hụt, tình trạng thâm hụt Ngân sách có thể trở nên căng thẳng. + Thời gian thi công, xây dựng và chạy thử có thể bị kéo dài. + Năng lực sản xuất (công suất thiết kế) dự kiến ban đầu có thể không thực hiện được. Hơn nữa khó có thể lường hết đươch những biến động của thị trường, nền kinh tế như: ảnh hưởng của lạm phát, những biến động thay đổi về tương quan giá cả, những biến động về công nghệ tiên tiến... Ngoài ra còn có những nguyên nhân chủ quan do trình độ quản lí của các nhà doanh nghiệp có thể chưa phù hợp với những biến động của thị trường. Do đó, cần phải tiến hành phân tích khả năng biến động của dự án để đánh giá khả năng thực hiện của dự án cũng như để cho các nhà doanh nghiệp lường trước được những khó khăn khi thực hiện dự án và đề xuất những biện pháp quản lí kinh doanh thích hợp. i) Phân tích độ nhạy Phân tích độ nhạy cho biết sự biến động của các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế như: lợi nhuận, NPV, IRR, thời gian hoà vốn đầu tư.... khi thay đổi các thông số đầu vào như: giá cả của sản phẩm, doanh thu, vốn đầu tư, chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chiều hướng lạc quan hay bi quan. Phân tích độ nhạy của dự án có thể được tiến hành thay đổi một hoặc một vài biến số cùng một lúc. Biến số có thể thay đổi theo chuỗi số liệu hoặc theo tỷ lệ % tăng hay giảm số liệu ban đầu. Nếu các chỉ tiêu hiệu quả quan trọng của dự án nhạy cảm với sự thay đổi của các thông số cơ bản mang ý nghĩa sống còn đối với dự án thì dự án được coi là có tỷ lệ rủi ro cao và khi đó cần áp dụng những biện pháp nghiêm ngặt để thẩm tra xét duyệt dự án. 4. Phân tích hiệu quả xã hội dự án đầu tư Một dự án đầu tư nếu được thực hiện nhiều cũng ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, xã hội, môi trường của một vùng, khu vực, hay cả nền kinh tế quốc dân. Trên góc độ nhà đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể của việc thực hiện dự án có thể có nhiều nhưng quy tụ lại là đạt được lợi nhuận cao. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đối với nền kinh tế xã hội. Do đó trên góc độ quản lí vĩ mô, phải xem xét những lợi ích kinh tế xã hội do việc thực hiện dự án mang lại hay là so sánh giữa cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có (tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động...) và lợi ích do đầu tư tạo ra cho toàn bbộ nền kinh tế như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các mục tiêu, các chủ trương của Nhà nước, góp phần phát triển địa ohương và các ngành khác, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh (định tính)... hay định lượng như tăng thu Ngân sách, gia tăng số người có việc làm, tăng thu ngoại tệ... Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho dự án. Chính vì vậy nhiệm vụ của các nhà lập dự án đầu tư là chỉ ra được sự đóng góp của dự án vào mục tiêu phát triển của đất nước. Trình tự phân tích, đánh giá ảnh hưởng của dự án đến nền kinh tế quốc dân được tiến hành thông qua việc phân tích các chỉ tiêu dưới đây: 4.1. Giá trị gia tăng thuần tuý NVA Giá trị gia tăng thuần tuý (net value added) là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính toán như sau: Trong đó: + O là giá trị đầu ra của dự án. + MI là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây (như năng lượng, giao thông, bảo dưỡng...) Giá trị gia tăng thuần tuý quốc gia NNVA (national net value added) được tính như sau: Với RP là các khoản chuyển ra nước ngoài có liên quan đến dự án như tiền lương, lợi nhuận, tiền trả kì vụ, tiền bảo hiểm, tiền thuê, lãi vay... NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của dự án đối với nền kinh tế đất nước, cho thu nhập quốc gia (NDI- national disposable Income). - Ngoài ra còn tính tới chỉ tiêu như SS (social surplus) thặng dư xã hội. 4.2. Chỉ tiêu số lao động có việc làm Chỉ tiêu này bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (gián tiếp). Có 2 chỉ tiêu cần xem xét là tổng số lao động có việc làm và số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư. 4.3. Tác động đến phân phối thu nhập và công bằng 4.4. Tiết kiệm và tăng ngoại tệ Tiết kiệm và tăng ngoại tệ nhằm hạn chế dần sự phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài và tạo nên cán cân thanh toán hợp lí là hết sức cần thiết đối với các nước đang phát triển như nước ta. Các bước tiến hành: + Xác định các khoản thu chi ngoại tệ. + Xác định các khoản thu chi ngoại tệ của dự án liên đới (nếu có). + Tính dòng ngoại tệ thuần đưa về mặt bằng hiện tại. + Xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất thay thế hàng nhập khẩu. + Tính tổng toàn bộ số ngoại tệ tiết kiệm ở hai bước trên. 4.5. Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế (IC-International competitiveness) 4.6. Những tác động khác của dự án + Mục tiêu và phạm vi phân tích tác động đến môi trường sinh thái. + Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng. + Tác động dây chuyền tới các ngành nghề, lĩnh vực khác. III. công tác lập dự án đầu tư Vì giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau,hơn nữa dưới góc độ nghiên cứu của một sinh viên thực tập nên trong phạm vi luận văn em sẽ đi sâu vào công tác lập dự án đầu tư của Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam. Dưới đây em xin trình bày một số vấn đề lý luận chung về lập dự án đầu tư 1. Khái niệm Lập dự án đầu tư là quá trình xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế-kĩ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường pháp lí, xã hội... có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư, phải dự đoán được mọi yếu tố bất định có ảnh hưởng đến sự thành bại của công cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét tính toán và chuẩn bị này được thể hiện trong dự án đầu tư. Kết quả của công tác lập dự án đầu tư chính là dự án khả thi. Dự án khả thi chính là tài liệu cơ sở, chủ đầu tư đã nghiên cứu so sánh và lựa chọn các phương án đầu tư (phương án tối ưu) để gửi cơ quan có thẩm định đầu tư và trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét quyết định. 2. Các yêu cầu của công tác lập dự án - Tính chính xác: Dự án được lập ra phải đảm bảo tính chinh xác, nhất là những con số được tính toán, những phương án công nghệ được sử dụng để vận hành dự án sau này. Rõ ràng rằng tính chính xác sẽ thể hiện độ tin cậy mà dự án mang lại cho chủ đầu tư, các cơ quan quản lí tức thông qua đó cho biết mức độ đáp ứng mục tiêu của dự án như thế nào. Dự án lập ra không chính xác sẽ gây hậu quả to lớn khi vận hành nó (chẳng hạn như các con số về dự báo nhu cầu sản phẩm, các con số tính toán các chỉ tiêu tài chính như NPV, IRR). - Tính khoa học, tính hệ thống: Công tác lập dự án phải đảm bảo yêu cầu này nhằm đáp ứng những nguyên tắc nhất định nào đó giúp cho dự án được lập chính xác, phù hợp với mục tiêu của đơn vị và mục tiêu xã hội. Tính khoa học được thể hiện khi thực hiện có sự phối hợp nhịp nhàng, linh động giữa các bộ phận tham gia, nội dung dự án được lập theo những phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá, được sử dụng rộng rãi trong nước và quốc tế. Tính hệ thống được thể hiện là sự tổng hợp tất cả các yếu tố có liên quan đến dự án đều được đưa ra xem xét và phân tích do vậy tính khả thi dự án sẽ được nâng cao, được chấp nhận khi nó đi vào thực hiện và vận hành. - Đáp ứng tốt nhu cầu thị trường: Mục đích cuối cùng của công cuộc đầu tư chỉ là để cung cấp những sản phẩm dịch vụ của mình đến thị trường và đạt được hiệu quả kinh tế tài chính cao nhất cho chủ đầu tư, mặt khác đáp ứng nhu cầu này sẽ là cho công cuộc đầu tư không bị chệch hướng, sai mục tiêu và thậm chí là không phù hợp với quy hoạch phát triển của Nhà nước. Chẳng có gì phải bàn cãi khi mà dự án không đáp ứng được nhu cầu thị trường thì sản phẩm làm ra sẽ không bán được thế là thua lỗ. 3. Các bước của quá trình lập dự án đầu tư Dự án đầu tư được lập thường trải qua các bước như sơ đồ dưới đây: Nghiên cứu cơ hội đầu tư Lập các báo cáo khả thi Trình duyệt - Nghiên cứu cơ hội đầu tư là tìm ra những ý tưởng, những cơ hội đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh mà tại đó nhu cầu thị trường về nó chưa đáp ứng đầy đủ về mặt hiện tại mà nếu đầu tư vào lĩnh vực đó sẽ tạo ra hiệu quả to lớn về mọi mặt kinh tế xã hội đất nước mà lợi ích chủ đạo là của chủ đầu tư. - Lập các báo cáo khả thi là quá trình biến ý tưởng thành một phương thức hoạt động đầu tư cụ thể nhằm đạt được ý tưởng đó. Trong giai đoạn này bao gồm báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi nhằm kế hoạch hoá đầu tư vào một tập tài liệu cụ thể trong đó nghiên cứu mọi khía cạnh có thể tác động tới công cuộc đầu tư. - Trình duyệt: Sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi được trình duyệt thì nó sẽ chính thức trở thành Dự án khả thi, là cơ sở cho chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ của mình, là cơ sở cho cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư hay cho vay vốn... 4. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới công tác lập dự án - Yếu tố con người: lực lượng cán bộ phải có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm. Đây là tố chất cần thiết phản ánh chất lượng của dự án, nó có tính quyết định trong quá trình lập dự án đầu tư mà không có thiết bị máy móc nào có thể thay thế nổi. - Cách tổ chức quản lí: Là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận chuyên môn và bộ phận chức năng một cách năng động, linh hoạt nhằm tạo ra sự phân tích và nghiên cứu toàn diện một dự án đầu tư. Đảm bảo dự án được lập mang tính khoa học, tính chính xác và đáp ứng được nhiều mục tiêu hơn. - Máy móc thiết bị và các phần mềm phụ trợ cho các công tác khảo sát thiết kế. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì đây là công cụ hỗ trợ đắc lực cho con người giúp cho công tác lập dự án chất lượng cao hơn, chính xác hơn, thời gian được rút ngắn lại do vậy sẽ tiết kiệm được các chi phí khác liên quan. - Yếu tố thông tin: đóng vai trò quyết định đến mục tiêu định hướng của dự án, thông tin bao gồm thông tin bên trong (giữa lãnh đạo tới các nhân viên) và thông tin bên ngoài (tình hình thị trường, đối thủ cạnh tranh, yếu tố luật pháp, nguồn lực, kinh tế xã hội...). Thông tin nắm bắt và xử lí càng nhanh thì mức độ chính xác trong công tác lập dự án càng cao bấy nhiêu. - Các yếu tố khác: sự ưu đãi, cơ chế thưởng phạt đối với CNV, hay các quy hoạch, chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước... Các yếu tố này chính là chất xúc tác nhằm kích thích sự hăng hái nhiệt tình và có trách nhiệm cao đối với công việc và đối với việc đầu tư theo dự án mà Nhà nước khuyến khích. Trên đây là các lý luận chung liên quan đến tất cả các khía cạnh, các vấn đề liên quan đến công tác lập dự án đầu tư, phần 2 sau đây sẽ đi sâu vào phân tích thực trạng công tác lập dự án đầu tư của công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Chương II Thực trạng công tác lập dự án đầu tư tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam I. Giới thiệu chung về Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng việt nam vinaconex Tên Công ty: Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Tên giao dịch quốc tế: vinaconex viêt nam import - export contruction corporation Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam bao gồm các đơn vị thành viên sau: - Các công ty 100% vốn Nhà nước: gồm 47 Công ty - Các Công ty cổ phần do Tổng Công ty giữ cổ phần chi phối: có 19 Công ty - Các công ty có vốn góp của Công ty: có 10 Công ty - Văn phòng đại diện ở nước ngoài: có 8 văn phòng 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam 1.1. Giai đoạn từ 1980 đến 1990 Những năm đầu của thập kỷ 80 thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp cao. Để giải quyết vấn đề thất nghiệp, Nhà nước đã hợp tác với các nước Đông Âu và Liên Xô, đưa người lao động Việt Nam sang các nước đó làm việc. Trong bối cảnh đó, vào năm 1982 Bộ Xây Dựng đã chủ trương đưa các đơn vị thi công xây dựng đi làm việc ở nước ngoài. Với chủ trương đó, tổ chức thi công xây dựng đầu tiên của Việt Nam ở nước ngoài được thành lập ở Askhabat thuộc nước Cộng hoà Tuôcmênia, Liên Xô cũ. Sau đó các đơn vị thi công xây dựng khác được thành lập ở một loạt các nước Liên Xô, Bulgaria, Tiệp Khắc, Algeria, Irag và một số nước Đông Âu khác. Sau đó 3 năm, năm 1985 số người lao động Việt Nam làm việc ở các công ty xây dựng ở nước ngoài đã tăng lên rất nhanh. Tại Algeria có hơn 1200 CBCN tại Bulgaria có trên 3500 CBCN thuộc 6 công ty, tại Liên Xô có hơn 1500 CBCN làm việc tại công ty VINAVLASTROL, tại Irag có gần 6000 CBCN thuộc 4 công ty. Với sự hình thành và phát triển rất nhanh của các công ty xây dựng ở nước ngoài, tháng 3 năm 1988 Bộ Xây Dựng đã quyết định thành lập Ban quản lý Hợp tác lao động và xây dựng nước ngoài. Và sau đó để phù hợp với các chức năng nhiệm vụ được giao, với việc chuyển hẳn sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế, Bộ Xây Dựng ra quyết định số 1118/BXD-TCLĐ ngày 27/09/1988 chuyển Ban quản lý Hợp tác lao động và xây dựng nước ngoài thành công ty Dịch vụ và xây dựng nước ngoài, tên giao dịch quốc tế là VINACONEX. 1.2. Từ năm 1990 đến nay Đến năm 1990, số lượng CBCN ở nước ngoài đã lên tới 13000 người, làm việc trong 15 công ty và xí nghiệp xây dựng. Thời gian những năm đầu thập kỷ 90 tình hình chính trị thế giới có những biến động to lớn. Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ và chiến tranh Irag xảy ra đã làm cho VINACONEX mất hết thị trường ở nước ngoài. Đại bộ phận lực lượng lao động xây dựng của VINACONEX ở nước ngoài phải rút về nước. Đúng vào thời kỳ đó nền kinh tế nước ta chuyển hẳn sang cơ chế thị trường, phần lớn các công ty, xí nghiệp xây dựng không còn nhận được kế hoạch Nhà nước giao, không còn được Nhà nước bao cấp như trước nữa. Hàng nghìn cán bộ công nhân xây dựng phải tự lo sản xuất, tự kiếm việc làm, mở thêm nghề phụ và một phần không ít đã phải nghỉ việc chế độ. Do không còn được bao cấp nên đại bộ phận lao động từ nước ngoài hồi hương không được tiếp nhận trở lại đơn vị cũ. Trước tình hình đó, ngày 10/08/1991 Bộ Xây Dựng ra quyết định số 432/BXD-TCLĐ chuyển công ty Dịch vụ và xây dựng nước ngoài thành Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam – VINACONEX. Tổng công ty VINACONEX lúc đó có nhiệm vụ thu nạp hết số lao động từ nước ngoài trở về. Để làm được việc này, VINACONEX đã xin thành lập 4 công ty. Lãnh đạo 4 công ty này chính là những cán bộ quản lý, những giám đốc, phó giám đốc các công ty xây dựng ở nước ngoài trở về nước. Cùng với lực lượng các kỹ sư xây dựng, các công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao và có đủ ở các ngành nghề, các công ty mới thành lập đã có được một nguồn nhân lực dồi dào. Tuy nhiên cả 4 công ty này đều có một đặc điểm nổi bật đó là không có xe máy thiết bị, công cụ thi công, không được cấp vốn cố định và vốn lưu động, không được cấp trụ sở làm việc. Trước tình hình đó, Tổng công ty vừa gấp rút ổn định tổ chức vừa đẩy mạnh hoạt động xây lắp, kinh doanh trong nước… Vì vậy trong giai đoạn từ 1992 đến 1994 các lĩnh vực chủ yếu của Tổng công ty là xây lắp, xuất khẩu lao động và kinh doanh xuất nhập khẩu. Phát huy những thuận lợi của Tổng công ty: có đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, được tuyển chọn kỹ để đưa ra nước ngoài làm việc, được tiếp xúc với công nghệ tiên tiến quốc tế cùng với sự năng động, nhạy bén tiếp xúc thị trường mới, từ năm 1990 Tổng công ty đã ký được nhiều hợp đồng xây dựng công nghiệp và dân dụng lớn trong phạm vi cả nước, đưa một lực lượng lớn kỹ sư và công nhân ra nước ngoài làm việc, đẩy mạnh xuất nhập khẩu vật tư-xe máy-thiết bị, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và tích lũy của đơn vị. Bước sang năm 1995, Tổng công ty đã đạt được doanh thu trên 1000 tỷ đồng, đóng góp cho Ngân sách Nhà nước trên 49 tỷ đồng và trở thành một trong số những doanh nghiệp thành đạt của Việt Nam. Cũng trong năm, 1995 Tổng công ty có nhiều thay đổi lớn: công tác tổ chức và xây dựng lực lượng được củng cố và tăng cường thêm một bước. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện quyết định số 90/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, Bộ Xây Dựng đã có quyết định số 275/BXD-TCLĐ ngày 15/04/1995 chuyển một số doanh nghiệp trực thuôc Bộ Xây Dựng sang trực thuộc Tổng công ty VINACONEX gồm: Xí nghiệp liên hợp xây dựng số 1, số 2, các công ty xây dựng số 5, số 8, số 9. Tất cà 5 đơn vị với tổng số cán bộ công nhân viên được bổ sung là 5261 người. Hầu hết các đơn vị thành viên mới đều có bề dày lịch sử từ 20 đến 25 năm xây dựng và phát triển. Tuy nhiên khi gia nhập Tổng công ty, các đơn vị này cũng đang trong tình trạng rất khó khăn: xe máy thiết bị thi công đã rệu rã, số người không đủ việc làm quá lớn. Tiếp đó, thực hiện việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước quy mô cấp tổng công ty, Bộ Xây Dựng được uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 992/BXD-TCLĐ ngày 20/11/1995 về việc thành lập lại Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam – VINACONEX với chức năng nhiệm vụ lớn hơn. Để thực hiện các nhiệm vụ mới được giao, Tổng công ty đã huy động mọi nguồn lực hiện có, tăng cường năng lực tiếp thị, tham gia đấu thầu và thi công nhiều công trình xây dựng quy mô lớn trong cả nước, đồng thời đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xe máy, thiết bị, vật tư, mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh khác có hiệu quả, Tổng công ty đã đầu tư nhiều máy móc thiết bị thi công hiện đại phù hợp với công nghệ mới, kỹ thuật mới có hiệu quả cao nhằm tăng tỷ trọng cơ giới hoá trong ngành xây dựng, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm. Trong những năm gần đây, Tổng công ty đã mở rộng quan hệ liên doanh, hợp doanh với các nhà thầu xây dựng lớn, với các hãng kinh doanh nước ngoài, với các cơ sở nghiên cứu và sản xuất phát triển ở trong nước. Ngoài ra Tổng công ty cũng đã thiết lập các liên doanh về sản xuất vật liệu xây dựng và kinh doanh xuất nhập khẩu.Thông qua ca hoạt động liên doanh, liên kết, đầu tư vốn vào các công ty cổ phần, công ty TNHH, Tổng công ty ngày càng hoà nhập vào các thị trường xây dựng và xuất nhập khẩu quốc tế, vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đào tạo được một đội ngũ kỹ sư và cán bộ thông thạo nghiệp vụ có trình độ ngoại ngữ, có kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất theo các quy trình công nghệ tiên tiến. Về lĩnh vực đầu tư, Tổng công ty đã và đang triển khai các dự án như BOT, BT, BO về cấp nước cho khu công nghiệp Dung Quất, khu công nghệ cao Hoà Lạc, khu công nghiệp và khu đô thị Nghi Sơn – Thanh Hoá, các dự án khu đô thị mới Trung Hoà - Nhân Chính Hà Nội, dự án Plaza Tràng Tiền Hà Nội… bằng nội lực của chính doanh nghiệp. Về xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 cơ sở hạ tầng cho công tác quản lý, Tổng công ty đã triển khai ở Tổng công ty và 6 đơn vị thành viên và đã được cấp chứng chỉ ISO 9001-2000. Bốn năm liền 1997, 1998, 1999, 2000 Tổng công ty được Thủ tướng Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc. Đến nay, Tổng công ty VINACONEX đã trở thành một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, đa sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: xây lắp, xuất nhập khẩu, xuất khẩu lao động, Đầu tư dự án và kinh doanh; dịch vụ khách sạn, du lịch lữ hành,… hoạt động ở cả trong và ngoài nước, trở thành một Tổng công ty mạnh của Bộ Xây Dựng. 2. Sơ cấu tổ chức và các lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam 3. Năng lực và hoạt động của Tổng Công ty trong những năm gần đây 3.1. Năng lực tài chính Bảng 2: Số liệu tài chính * Số liệu tài chính trong những năm gần đây: Đơn vị: triệu đ 1998 1999 2000 2001 2002 1. Tổng tài sản 813,059 982,145 1.258,255 1,712,635 3.013,685 2. Tổng nguyên giá TSCĐ 248,235 262,469 318,282 434,798 638.434 3. Tổng tài sản lu động hiện có 648,099 814,443 1.039,135 1.292,750 2.208.064 4. Vốn kinh doanh 447,134 569,743 705,514 1.013,700 1.696.979 5. Doanh số 1.780.000 1.948.000 2.321.000 2.709.000 3.188.857 (Nguồn số liệu: Báo cáo kết q._.t lượng lập dự án và rút ngắn được thời gian lập dự án rất nhiều. Chất lượng của Dự án đựơc lập ngày càng tăng lên, thể hiện qua việc triển khai dự án thuận lợi trong những năm qua. Thời gian lập dự án: Với trách nhiệm của mình, Phòng đầu tư đã làm hết sức mình để dự án được lập một cách nhanh chóng và chất lượng. Các dự án đầu tư tại Tổng Công ty được lập theo một quy trình cụ thể do Tổng Công ty tự đưa ra dưạ trên quy trình đầu tư theo quy định của Nhà nước. Các dự án tại Tổng Công ty do Phòng đầu tư trực tiếp lập. Đối với những dự án đòi hỏi tính chuyên môn cao, Tổng Công ty tiến hành đấu thầu tư vấn. Chi phí cho việc lập dự án phải được tính toán kỹ lưỡng và tỷ mỷ. Tránh trường hợp chi phí quá lớn. Tuy nhiên không phải giảm chi phí mà giảm chất lượng, giảm chi phí trên cơ sở chất lượng lập dự án vẫn được giữ nguyên. Tổng Công ty có nhiều dự án với quy mô lớn nên chí phí cho công tác lập dự án cũng lớn hơn. Theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Tổng Công ty tập trung theo đúng định hướng vào các lĩnh vực quan trọng và cần thiết như: Ximăng, thuỷ điện, các dự án phát triển đô thị, hạ tầng cơ sở dọc tuyến đường Láng - Hoà Lạc, cấp nước chuỗi đô thị Sơn Tây - Hoà Lạc - Miếu Môn - Hà Nội - Hà Đông và các Dự án sản xuất vật liệu xây dựng…Đây là chủ trương đầu tư có trọng điểm của Công ty. Nhiều Dự án Tổng Công ty đầu tư đã đưa vào sử dụng, đang phát huy hiệu quả tốt như các dự án: Trung tâm thương mại Tràng Tiền; đá ốp lát nhân tạo cao cấp Bretonstone và Tðatone; kính dán an toàn; vật liệu lát hè đường Teazzo; sản xuất nước tinh khiết; xây dựng khu đô thị hiện đại Trung Hoà - Nhân Chính… Năm 2002: Tổng Công ty đã thực hiện 90 Dự án xây dựng và mua sắm thiết bị (09 dự án chuyển tiếp), trong đó có: 02 dự án nhóm A; 17 Dự án nhóm B; 71 Dự án nhóm C. Năm 2003: Tổng Công ty đã thực hiện 107 dự án đầu tư xây dựng và mua sắm thiết bị (21 dự án chuyển tiếp), trong đó có: 08 dự án nhóm A, 19 dự án nhóm B và 80 dự án nhóm C Hiệu quả của công tác lập dự án đầu tư Như phần trên đã đề cập đến, một dự án đầu tư được lập sẽ đem lại cho 3 đối tượng chính: Hiệu quả cho đơn vị lập dự án, hiệu quả cho doanh nghiệp có dự án, hiệu quả cho ngành và cho nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, đặc biệt trong những năm gần đây hoạt động đầu tư ngày càng trở thành hoạt động chính đem lại thu nhập cũng như công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty. Số dự án đầu tư được lập ngày càng nhiều qua các năm với giá trị đầu tư ngày càng cao. Từ việc là chủ thầu xây lắp, công ty chuyển dần sang vai trò là chủ đầu tư, tham gia vào nhiều dự án thuộc nhiều ngành ngề. Trong đó rất nhiều dự án được lập tại Công ty. Nhiều dự án đầu tư của Tổng Công ty đã được triển khai và đưa vào sử dụng như dự án khu đô thị Trung Hoà Nhân Chính, Dự án trung tâm Thương mại Tràng Tiền, Nhà máy nước Dung Quất, Nhà máy kính an toàn… là yếu tố quan trọng làm tăng năng lực thay đổi cơ cấu sản phẩm của Tổng Công ty. Những dự án Công ty lập không chỉ mang lại hiệu quả cho chính Tổng Công ty mà còn mang lại hiệu quả Kinh tế xã hội lớn Việc lập thành công các dự án đầu tư đã và đang tạo uy tín của công ty đối với nội bộ Tổng công ty Xây dựng và uy tín cạnh tranh trong ngành xây dựng. Điêù này sẽ được phát huy và trong tương lai công ty sẽ còn được đảm nhận nhiều dự án đầu tư hơn. Công tác lập dự toán công trình được thực hiện tương đối tốt, đã thực hiện tốt các định mức (nguyên vật liệu, máy móc, nhân công) của Nhà nước mặc dù chưa có hệ thống định mức nội bộ Bước đầu tạo cho đội ngũ các cán bộ công nhân viên phong cách làm việc khoa học, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm. Mỗi dự án được coi là một thử thách không chỉ đối với các đội dự án mà còn đối với các cán bộ, xây dựng thẩm định dự án. Qua mỗi dự án, từng người với chức năng nhiệm vụ của mình đã rút ra được nhiều kinh nghiệm quý giá để vận dụng cho nhiều dự án sau này. Đặc biệt đây là môi trường tốt nhằm rèn luyện cho các kĩ sư trẻ mà trong tương lai sẽ là nòng cốt của các đội dự án. 2. Những tồn tại trong công tác lập dự án đầu tư Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn tồn tại một số vấn đề trong công tác lập dự án. Trên cơ sở phân tích thực trạng lập dự án đầu tư Nhà máy sản xuất ống nhựa PPR, HDPE và qua tìm hiểu một số dự án đầu tư tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam ta có thể rút ra một số nhận xét sau: Đối với công tác nghiên cứu thị trường trong quá trình lập các dự án đầu tư phần lớn đã trả lời được câu hỏi vì sao lại cần thiết đầu tư dự án nhưng cần tính đến nhu cầu của thị trường trong tương lai xa hơn nữa có thể có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác Trong công tác lập dự án đầu tư cần chú ý hơn nữa đến hiệu quả kinh tế xã hội do dự án đem lại. Đối với những dự án có đặc điểm tác động đến môi trường cần phân tích kỹ ảnh hưởng của dự án đồng thời đưa ra được những biện pháp cụ thể khắc phục những ảnh hưởng không tốt. Trong phân tích tài chính của dự án đầu tư đã tính được những chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu. Tuy nhiên cần đưa vào phương pháp phân tích độ nhạy và rủi ro nhằm tăng tính thuyết phục hơn nữa đối với các dự án được lập. Quy trình lập dự án đã được cụ thể hoá đối với Tổng Công ty. Tuy nhiên chưa gắn được trách nhiệm của từng bộ phận tham gia trong hoạt động lập dự án với kết quả của dự án. Khi dự án hoạt động kém hiệu quả (công tác lập dự án đóng vai trò rất quan trọng) thì không thể quy trách nhiệm cho ai. Một số dự án chưa không có các chuyên viên, buộc Tổng Công ty phải thuê tư vấn, tăng chi phí cho công tác lập dự án và đồng thời những ý kiến tư vấn vẫn thường xây dựng trên cơ sở lợi ích của bên tư vấn. IV. Nguyên nhân còn tồn tại một số hạn chế trong công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam 1. Nguyên nhân khách quan Đầu tư là một lĩnh vực mà Tổng Công ty mới tham gia trong thời gian gần đây. Ngày càng nhiều dự án được lập với quy mô đầu tư lớn, thời gian hoạt động dài. Do đó dự án khả thi được lập chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Đội ngũ cán bộ phòng đầu tư của Công ty mới được thành lập, cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế, số cán bộ có tay nghề cao, nhiều kinh nghiệm không nhiều. Những dự án được lập ra thuộc nhiều lĩnh vực nên phải thuê các chuyên gia nước ngoài. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng lập dự án cũng như tiến độ lập dự án. 2. Nguyên nhân chủ quan. Lãnh đạo phòng Đầu tư do phải quản lý nhiều công trình một lúc nên những biện pháp kịp thời để xử lý các công trình kém chất lượng, chậm kế hoạch, không thể kiểm tra cụ thể khối lượng tất cả các công việc được thực hiện. Việc đưa ra các biện pháp xử lý đôi khi còn thiếu kiên quyết. Mặt khác, công ty chưa có những chế độ thích đáng đối với những cá nhân có tinh thần trách nhiệm cao, đóng góp nhiều vào quá trình lâp dự án. Một số cán bộ công nhân viên còn thiếu trách nhiệm với công việc làm ảnh hưởng không nhỏ đến qúa trình điều hành công việc. Do thiếu những chuyên gia đầu ngành có trình độ, kinh nghiệm nên có những dự án phức tạp thì phải thuê tư vấn. Vì vậy không thể chủ động trong việc thực hiện đúng tiến độ đã đề ra và làm tăng thêm chi phí cuả quá trình lập dự án. V. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập dự án đầu tư tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam. 1. Những biện pháp chính của Tổng Công ty Để nâng cao hiệu quả công tác lập dự án đầu tư tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt nam đòi hỏi nhiều giải pháp cả chủ quan lẫn khách quan. Về phần mình Tổng Công ty đặt ra các biện pháp chính để phấn đấu như sau: - Tăng cường quan hệ để tìm hiểu để được hướng dẫn thực hiện và giải quyết các thủ tục đầu tư với các cơ quan trung ương và địa phương. - Kiện toàn bộ máy tư vấn, bộ máy làm công tác đầu tư của Tổng Công ty, có quan hệ rộng rãi với các cơ quan tư vấn khác trong và ngoài nước để đẩy nhanh công tác tư vấn, lập quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết và Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án. - Tăng cường tìm hiểu để huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước, áp dụng hình thức đa sở hữu vốn bằng việc thành lập các công ty cổ phần cho các dự án, bằng hình thức liên danh, liên doanh liên kết. Trên đây là những biện pháp chính để nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam.Sau đây có thể nêu lên mội số giải pháp cụ thể: 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập dự án 2.1. Đầu tư vào công tác tổ chức lập dự án Lập dự án là khâu rất quan trọng đối với một dự án đầu tư. Vì vậy để nâng cao hiệu quả các dự án phải chú trọng đến chất lượng của các dự án được lập. a. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lập dự án Dự án được lập là kết quả làm việc của các chuyên gia. Năng lực chuyên môn của các chuyên gia sẽ góp phần làm tăng chất lượng của dự án được lập trong cùng một giới hạn thời gian hoặc rút ngắn thời gian lập dự án. Sự cạnh tranh giữa các chuyên gia sẽ là cơ sở để tăng chất lượng, giảm chi phí. Điều này đòi hỏi phải thực hiện đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Các nhà tư vấn cũng như chủ đầu tư để đảm bảo được tiến độ, chất lượng và chi phí phải không ngừng cải tiến quy trình, nội dung và phương Trong thời đại ngày nay, nhịp độ phát triển trên tất cả các lĩnh vực đều diễn ra với tốc độ chóng mặt. Tất cả các ngành nghề lĩnh vực đều ứng dụng công nghệ thông tin. Việc ứng dụng nó vào thực tế là rất cần thiết, điều đầu tiên tiếp thu hiệu quả nó là yếu tố con người. Nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đòi hỏi phải có đội ngũ các cán bộ có trình độ kĩ năng, kinh nghiệm, và đặc biệt là có tâm huyết với nghề mình đang làm. Để nâng cao trình độ đội ngũ lao động có khả năng phản ứng một cách linh hoạt trước sự biến động của thị trường muốn thực hiện được nó cần phải: + Tiếp tục tổ chức đào tạo và đào tạo lại cho các cán bộ công nhân viên nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Các hình thức đào tạo có thể là học tại cơ quan, các trường Đại học, hoặc liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước trong vấn đề đào tạo và chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó cũng cần phải có chính sách về lương hợp lí đối với những đối tượng này. + Tăng cường phổ cập tin học cho các cán bộ + Thường xuyên tổ chức các cuộc trao đổi, thảo luận về chuyên môn, nghiệp vụ về công tác quản lí và thiết kế giữa các phòng ban trong công ty để học hỏi những kinh nghiệm trong phương pháp là việc. + Cần giao trách nhiệm cho các cán bộ phụ trách công tác giám sát thiết kế tại các công trình xây dựng, tổng kết các ưu khuyết điểm do cơ quan thiết kế lập, các kinh nghiệm thực tế xây lắp. Hàng quý báo cáo để cán bộ thiết kế ưu khuyết điểm của mình kết hợp với việc luôn phiên cử các cán bộ thiết kế xuống để sản xuất nâng cao năng lực thiết kế. + Mở rộng quan hệ hợp tác để tránh thủ tục hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức nước ngoài nhằm thu thập thông tin, kinh nghiệm quản lí kĩ thuật cũng như gửi các cán bộ tham gia khảo sát mở rộng tầm nhìn, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. + Sắp xếp lại lao động phù hợp hơn với chuyên môn của mình nếu cần. + Đối với những công trình có yêu cầu khẩn trương, nên mở rộng hình thức tổ chức sản xuất tập trung theo nhóm công trình cho chủ nhiệm dự án hoặc giám đốc trực tiếp điều hành (rút các cán bộ phòng thiết kế tập trung thực hiện). Ràng buộc trách nhiệm của người lập dự án với kết quả của dự án là rất quan trọng, có như vậy người lập dự án mới hết lòng thực hiện nhiệm vụ được giao, nếu không lập dự án sẽ trở thành hình thức, nó chỉ dừng lại ý nghĩa của một thủ tục bắt buộc mà không được coi là cơ sở quan trọng để nâng cao hiệu quả đầu tư Hiện nay rất nhiều dự án của công ty còn phụ thuộc nhiều vào các công ty tư vấn. Do đó xây dựng được đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ vững sẽ tạo thế chủ động cho công ty. Công tác lập dự án cần được chuyên môn hoá cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban để có thể nâng cao chất lượng của dự án được lập. Những tài liệu về phân tích và lập dự án chưa được phong phú hiện nay nên các cán bộ trong quá trình phân tích cần phải tìm hiêu, tham khảo thêm sách báo từ nước ngoài. Hiện nay đội ngũ cán bộ lập dự án tại Tổng Công ty đều là những người đã tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học tuy nhiên cần phải xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực cho cán bộ lập dự án như tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo, tập huấn nghiệp vụ, mời các chuyên gia về tập huấn. Cán bộ trực tiếp tham gia quá trình lập dự án yêu cầu là cần phải có năng lực, trình độ và nắm vững quy trình nghiệp vụ lập dự án. Đồng thời phải có phẩm chất đạo đức nghiêm túc trong công việc và luôn đặt mục tiêu chất lượng của dự án lên hàng đầu. b. Xây dựng được quy trình lập dự án hợp lý Giải pháp này được xây dựng trên cơ sở coi dự án đầu tư như một sản phẩm hàng hoá và do đó việc lập dự án cũng coi như một quá trình sản xuất hàng hoá. Số lượng các dự án được lập và thẩm định ngày càng tăng, yêu cầu về thời gian chất lượng chi phí ngày càng khắt khe thì việc chuẩn hoá các quy trình lập dự án ngày càng trở nên cần thiết. Trong thời gian tới Tổng Công ty cần phải xây dựng và hoàn thiện được một quy trình lập dự án hợp lý, tuân thủ đúng các yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đặc điểm riêng của ngành xây dựng và của Tổng Công ty. c. Nâng cao chất lượng phân tích tài chính của dự án Việc phân tích tài chính của dự án là rất quan trọng, đặc biệt là các chỉ tiêu NPV, IRR, thời gian thu hồi vốn… Tăng việc đưa phương pháp phân tích rủi ro vào phân tích hiệu quả tài chính của dự án. Vòng đời của dự án là rất dài, có khi hàng chục năm. Khi đưa ra các quyết định đầu tư chúng ta thường dựa trên các số liệu giả định. Những số liệu này đôi khi không thể lường trước được những tình huống bất trắc sẽ nảy sinh trong tương lai, dẫn đến tình trạng khi lập dự án rất khả thi nhưng khi thực hiện dự án lại gặp rất nhiều khó khăn, nhiều dự án bị thua lỗ quá nhiều nên phải chấm dứt hoạt động trước thời hạn. Chính vì vậy chúng ta cần phân tích đầy đủ, cần lường trước được những nảy sinh trong tương lai, trên cơ sở đó tính toán lại hiệu quả đầu tư. Nếu trong trường hợp bất trắc nảy sinh mà dự án vẫn có hiệu quả thì đó là một dự án vững chắc, có thể chấp nhận được. Ngược lại Công ty phải có biện pháp phòng chống rủi ro hoặc phải khước từ dự án đó. Những chỉ tiêu hiệu quả cơ bản của một dự án như NPV, IRR, thời gian thu hồi vốn, tỷ lệ lợi ích trên chi phí…luôn nhạy cảm với sự thay đổi của nhiều yếu tố ví dụ: vốn đầu tư, thu nhập và chi phí của từng năm, giá trị thanh lý tài sản, tỷ lệ lãi huy động vốn, thời gian hoạt động của dự án…Về phần mình những yếu tố này lại bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác. Việc phân tích đầy đủ được những yếu tố khác nhau cho phép chúng ta có được các căn cứ để xác định tính khả thi của dự án trong trường hợp có nhiều bất trắc trong tương lai. d. Phân tích các chỉ tiêu kinh tế xã hội Việc phân tích các chỉ tiêu kinh tế xã hội trong các dự án của Tổng Công ty thường bị xem nhẹ, dođó cần tăng cường công tác này trong quá trình lập dự án. Hệ thống chỉ tiêu kinh tế xã hội giúp cho lập dự án có thể được các cơ quan chức năng thông qua một cách dễ dàng hơn. e. Tăng cường thu nhập thông tin của dự án Công tác lập dự án đòi hỏi phải làm tốt khâu chuẩn bị có nghĩa là phải xem xét tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế - kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường, xã hội, pháp lý có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy hiệu quả của công cuộc đầu tư. Các dự án lớn đòi hỏi thời gian nghiên cứu, khảo sát rất công phu, tỷ mỉ, tốn nhiều thời gian công sức. Vì vậy nếu được trang bị máy móc hiện đại, các thiết bị khảo sát, đo đạc tiên tiến sẽ rút ngắn thời gian khảo sát, tăng được chất lượng thông tin. 2. Đầu tư đổi mới công nghệ nhằm phục vụ cho các công tác khảo sát thiết kế và lập dự toán công trình Các thiết bị máy móc hay phần mềm tin học về lĩnh vực xây dựng, khảo sát thiết kế tỏ ra rất có hiệu quả về sự chính xác, hiệu quả cả về mặt chất lượng lẫn về mặt thời gian. Như vậy cần nhanh chóng thực hiện các biện pháp thúc đẩy đầu tư về các lĩnh vực này và thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế Việt nam tránh lãng phí. Ngoài ra việc đầu tư nâng cấp các thiết bị khảo sát đo đạc thí nghiệm, phương tiện vận tải cũng phải chú trọng đầu tư thích đáng. Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ sử dụng thành thạo nó. 2.3. Thực hiện chấn chỉnh và tăng cường khâu quản lí kinh tế kĩ thuật Mặc dù quy trình triển khai lập dự án đã được thực hiện từ lâu nhưng nhiều chủ nhiệm dự án ở nhiều công trình do chỉ dựa vào năng lực kinh nghiệm và thiếu tâm huyết nên đã không chấp hành một cách nghiêm chỉnh các bước đi, đặc biệt là chưa đầu tư thích đáng vào các công việc quan trọng như: + Lập phương hướng, điều kiện kinh tế kĩ thuật Đây là bước đi đầu tiên quan trọng của dự án do vậy cần đặc biệt lưu ý và kiên quyết thực hiện đúng quy trình. Nên xem xét và bổ sung vào quy trình thiết kế bước thông qua các phương hướng và điều kiện kĩ thuật. + Việc nghiên cứu và thu thập tài liệu tại thực địa không được thực hiện đầy đủ, kĩ càng cũng như không đúng các quy định đã ban hành. Có thể do địa hình phức tạp, xa xôi mà việc đề ra các giải pháp đề xuất trong thực hiện dự án có thể không chính xác. Nhiều tài liệu thu thập được, các cá nhân không xử lí, thu thập vào hồ sơ lưu trữ công trình (sử dụng làm tài liệu cá nhân) gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Do vậy cần chỉ đạo việc thu thập tài liệu hiện trạng một cách đầy đủ, chi tiết, xử lí và nhập vào các kho lưu trữ tài liệu trên một cách nghiêm túc. + Xét duyệt các phương án công nghệ còn thiếu thận trọng. + Công tác tìm hiểu và cập nhật thông tin một cách có hệ thống về các yếu tố liên quan đến hiệu quả dự án. Đây là một công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hiệu quả dự án được thiết lập. Chính vì vậy, công ty cần bố trí các cán bộ chuyên trách làm công tác thông tin tiến bộ khoa học kĩ thuật nhằm tổng kết đánh giá những thành tựu của công ty cũng như các cơ sở sản xuất trong ngành. Thường xuyên tìm hiểu, cập nhật các hệ thống thông tin về tiến bộ khoa học công nghệ, tình hình sản xuất, giá cả các vật tư trong nước và trên thế giới cần thiết cho ngành cũng như các chỉ tiêu khác có liên quan như: định mức giá cả, tình hình thị trường, kế hoạch, chính sách phát triển của Nhà nước... để có thể giới thiệu, đề xuất các giải pháp ứng dụng có năng suất và hiệu quả. Ngoài ra như đã nói ở trên, phòng kĩ thuật chủ yếu đảm nhận được chức năng thẩm tra các yêu cầu và sản phẩm thiết kế, chưa tiến hành thường xuyên việc trao đổi và hướng dẫn kĩ thuật cho phòng thiết kế, chưa thực hiện tốt chức năng chủ trì công tác biên soạn và hướng dẫn quy trình, quy phạm, thông báo các tiến bộ khoa học kĩ thuật cho các phòng trực tiếp thiết kế. Do vậy có thể dẫn đến tình trạng sau khi thiết kế xong phần công nghệ lại phải sửa lại, là lại do sai sót về mặt kĩ thuật, không phù hợp với điều kiện thực tế. Chính vì vậy bên cạnh việc bổ sung cán bộ kĩ thuật, cần có giải pháp hỗ trợ khác nhau như thuê chuyên gia thẩm định từ các cơ quan khác, các cán bộ có kinh nghiệm đã nghỉ chế độ hoặc lấy các cán bộ kĩ thuật chủ chốt của các phòng thiết kế thực hiện nhiệm vụ trong thời gian ngắn: đào tạo nâng cao trình độ của các cán bộ; tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ tiếp nhận thông tin khoa học tiên tiến... đề phòng thực sự góp vai trò tham mưu kĩ thuật với công ty và các xí nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng các dự án được lập, rút ngắn thời gian và chi phí thiết kế, nâng cao uy tín của công ty đối với khách hàng. 2.4. Điều chỉnh thu nhập, cơ chế thưởng phạt hợp lí nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công ty, nâng cao năng suất lao động - Lương bổng là một trong những động lực mạnh mẽ kích thích con người làm việc hăng hái , năng suất nhưng đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân gây trì trệ, bất mãn và thậm chí là di dời cơ quan tới đơn vị kháccó mức thu nhập cao hơn. Chính vì vậy, việc kích thích người lao động bằng chế độ lương bổng là điều không kém phần quan trọng, đòi hỏi người lãnh đạo phải có chính sách phân chia hợp lí và công bằng vừa tương xứng với công sức người lao động bỏ ra, vừa điều chỉnh mức thu nhập hợp lí giữa các thành viên khác nhau. Trong những năm gần đây, để đảm bảo tiền lương được trả đúng đối tượng, khuyến khích người lao động. Công ty quy định các nguyên tắc phân chia tiền lương cho các phòng sản xuất như sau: + Tiền lương được trả theo mức đóng góp vào khối lượng công việc đảm nhiệm thực hiện trong tháng. Các phòng sản xuất xây dựng quy chế chia lương của phòng mình theo nguyên tắc trên thông qua phòng tổ chức hành chính mà giám đốc đã phê duyệt. Nhìn chung việc thực hiện cơ chế thu nhập theo lương cứng và mềm như trên đã góp phần kích thích, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động, tạo lòng tin cậy cho mọi người yên tâm thực hiện công việc được giao. Tuy nhiên việc phân phối thu nhập ở công ty vẫn còn là vấn đề phức tạp mà việc giải quyết không dễ dàng do: + Khi phân phối quỹ lương công trình, chủ nhiệm đề án và các trưởng phòng chỉ dựa vào kinh nghiệm mà chưa xây dựng kế hoạch thật chi tiết. Do vậy việc phân chia quỹ lương thường rất phức tạp ( nhiều khi phải giải quyết thông qua nhiều cuộc họp cá biệt khi không thoả thuận được, phải chờ quyết định của giám đốc). + Một số sản phẩm thiết kế ít có căn cứ để xác định một cách chính xác chi phí thực hiện. + Khối lượng công việc giữa các phòng ban là khác nhau. Vì vậy để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới công ty cần phải thực hiện các vấn đề sau: + Các trưởng phòng thiết kế phải dự tính một cách tương đối chính xác khối lượng công việc, số công lao động cần thiết các chi phí khác để có thể bảo vệ tỷ lệ quỹ lương của phòng mình trong tổng quỹ lương công trình trước khi đi vào thực hiện. + Giải quyết rõ ràng, thống nhất với nhau về cách phân biệt chia thu nhập giữa các cá nhân trong phòng tham gia thực hiện đề án. + Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán công việc, công trình đến từng đối tượng thực hiện nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thực hiện với phần công việc của mình phải thực hiện. Việc tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán là cần thiết để nâng cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, CNV và cũng là để nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. + Công ty cần điều tiết, sử dụng lao động thừa trong tháng kế hoạch hợp lí để tránh tình trạng chênh lệch quá nhiều về thu nhập giữa các phòng, cá nhân tham gia thiết kế. - Xây dựng quy chế thưởng phạt hợp lí Việc đề ra quy chế này nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động, nhằm tạo môi trường làm việc cho họ một cách hấp dẫn, đồng thời phải gắn trách nhiệm cho họ làm việc với độ tập trung cao, tinh thần hăng hái cao, nhằm đem lại hiệu quả, năng suất chất lượng cho công ty. Bên cạnh việc khen thưởng đồng thời xây dựng nội quy lao động, nội lệ thiết kế chặt chẽ và hợp lí để đưa cán bộ công nhân viên thực hiện đúng các chuẩn mực mà công ty quy định, đảm bảo đúng kỉ cương và trật tự trong công việc. Đưa ra hình thức kỉ luật và xử lí vi phạm đối với các trường hợp không hoàn thành kế hoạch, không đảm bảo chất lượng công trình, không tuân thủ chặt chẽ các quy định của công ty. 2.5. Thực hiện tiết kiệm chi phí Chi phí cho công tác lập dự án chủ yếu là chi phí về quỹ lương (bao gồm cả chi phí chuyên gia), thông thường chiếm khoảng 40-45%. Để nâng cao hiệu quả cần phải quan tâm đặc biệt đến việc giảm chi phí công trình, tập trung vào đối tượng chủ yếu: Lương và chi phí điều tra cơ bản (chiếm 65-75% giá thành). Các yếu tố làm tăng chi phí trên thường tập trung ở một số: + Các đề án không đảm bảo chất lượng và thời gian (do thay đổi về các yếu tố thị trường, giá cả hàng hoá, các yếu tố đầu vào, không được phê duyệt hoặc phải điều chỉnh nhiều lần... làm tăng chi phí tiền lương, công tác phí, vật tư... nhiều khi lên gấp đôi giá dự toán). + Trong quá trình thu thập tài liệu cơ sở và hiện trạng, việc thoả thuận các điều kiện và giải pháp kĩ thuật với các cơ sở làm không đầy đủ do vậy phải tổ chức lại nhiều lần công tác gây nhiều tốn kém về công tác chi phí và tiền lương. 2.6. Tăng cường các khâu giám sát tất cả các giai đoạn từ khâu lập dự án cho tới khâu thực hiện dự án Giám sát là một trong những hoạt động quan trọng nhằm phát hiện ra những sai sót từ đó điều chỉnh cho phù hợp với công việc được giao. Quản lí đòi hỏi cũng phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban, các thành viên lập dự án cũng như là chủ nhiệm đề án. Như vậy giám sát là một đòi hỏi tất yếu của bất cứ đơn vị nào từ cả phía doanh nghiệp lẫn Nhà nước nhằm đảm bảo lợi ích doanh nghiệp cũng như lợi ích kinh tế xã hội trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Quản lí khâu lập dự án giúp cho các hướng phân tích các khía cạnh liên quan đến dự án không bị chệch khỏi quỹ đạo của yêu cầu công việc và các nhu cầu của khách hàng. Quản lí giai đoạn thực hiện dự án là việc làm quan trọng, có tính quyết định đến việc hình thành nên sản phẩm, từ đó lấy nó làm thước đo tiêu chuẩn cho những dự án sau này cùng lĩnh vực với nó. 2.7. Những kiến nghị với Bộ XD và Nhà nước Ngành xây dựng có nhiệm vụ tạo nên cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, vì vậy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành xây dựng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp là một yêu cầu cấp thiết. Mặt khác để có thể nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư bên cạnh sự nỗ lực của từng doanh nghiệp, còn đòi hỏi sự hỗ trợ, liên kết với các doanh nghiệp liên quan và sự đổi mới quản lí Nhà nước về kinh tế, tạo lập môi trường bên ngoài thuận lợi và ổn định cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy công ty xây dựng quốc tế kính đề nghị: - Đối với Bộ Xây dựng + Với chức năng quản lí Nhà nước, Bộ giúp các đơn vị vượt bỏ các hàng rào thủ tục hành chính phiền hà trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư phát triển tại địa phương. Đối với cơ quan Bộ cần triển khai cải tiến các thủ tục hành chính để các yêu cầu của đơn vị được giải quyết nhanh nhất. + Bộ nghiên cứu đề xuất với Nhà nước các chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng để tăng nhanh năng lực toàn ngành. + Bộ có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ của ngành, đặc biệt là công tác tư vấn và quản lí dự án để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành và hội nhập quốc tế. + Dưới sự chỉ đạo của Bộ cần sớm tạo được mối liên kết, liên hiệp giữa các đơn vị sản xuất thi công với các tổ chức nghiên cứu khoa học, các Cục, Vụ, Viện của Bộ, các trường Đại học để sớm đưa vào thực tiễn sản xuất những công nghệ mới, các biện pháp thi công tiên tiến, đẩy nhanh quá trình công xưởng hoá tiêu chuẩn hoá ngành xây dựng. - Đối với Nhà nước + Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá năng lực của doanh nghiệp xây lắp theo tinh thần và nội dung sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp; tích cực triển khai công tác cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu. Trước mắt đẩy nhanh quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp. + Trong tiến trình sắp xếp, đổi mới, cải tiến quản lí doanh nghiệp dưới hình thức cổ phần hoá cần triển khai tích cực và kiên quyết, các mô hình khác cần thận trọng trong quá trình xem xét và áp dụng. + Nhà nước và Bộ sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật áp dụng trong ngành để tạo môi trường pháp lí lành mạnh cho quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, trước hết tạo ra mối quan hệ bình đẳng, lành mạnh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các đơn vị trong ngành. + Nhà nước và Bộ cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đã nỗ lực phát huy nội lực để tích tụ vốn từ lợi nhuận, tăng nhanh khấu hao, tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Bộ cần sớm ban hành các chỉ tiêu định mức lợi nhuận/vốn trong ngành xây dựng để đổi mới phương thức giao kế hoạch về chỉ tiêu chất lượng. Như vậy trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng của công tác lập dự án đầu tư. Mọi giải pháp cũng chỉ là cách thức, là sự phô bày nếu như doanh nghiệp không vận dụng nó vào thực tế . Đối với Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, đây luôn là xu hướng chủ đạo mà ban lãnh đạo công ty lập ra nhằm điều chỉnh, hoàn thiện dần dự án đầu tư. Kết luận Lập dự án là một công việc có ý nghĩa quyết định đến việc một ý tưởng đầu tư có thể được thực hiện thành một công cuộc đầu tư hay không. Qua thời gian thực tập cũng như nghiên cứu về công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam đã giúp em có cái nhìn thực tế hơn, chuyên sâu hơn về lĩnh vực lập và quản lý dự án so với những kiến thức đã học trong nhà trường. Bản thân với tư cách là một sinh viên của khoa Đầu tư thì việc nghiên cứu về vấn đề lập dự án đầu tư đã tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn em khi làm đề tài này vì nó không chỉ bám sát vào môn chuyên ngành '' Lập và quản lý DAĐT'' mà thông qua đó sẽ nhận thức một cách khoa học, một cách tư duy mới khi xem xét bất cứ một lĩnh vực gì thì phải nghiên cứu tất cả những gì liên quan tới nó, từ đó chọn cho mình một phương án tối ưu khi lựa chọn. Do có sự hạn chế về trình độ và sự hiểu biết thực tế nên trong bài luận văn này em chỉ đi vào nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến chương trình giảng dạy ở Nhà trường, vì vậy có thể chưa thể hiện được hết những khía cạnh còn tồn tại trong thực tế hiện nay, rất mong có sự ủng hộ của các bạn sinh viên, các thầy cô giáo trong trường để có thể hoàn thiện dần được phần kiến thức, mức độ hiểu biết của mình. Để hoàn thành tốt hơn được bài luận văn này, em xin cám ơn cô giáo Phạm Thị Thêu và các cô các chú trong Phòng Đầu tư Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam đã giúp đỡ nhiệt tình trong việc giảng giải những tình hình thực trạng lập dự án tại công ty và các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác lập dự án tại công ty. danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình lập và quản lí dự án đầu tư - TS. Nguyễn Bạch Nguyệt- Đại học kinh tế quốc dân HN. 2. Luận văn của sinh viên các khoá 40, 41 của ĐH kinh tế quốc dân. 3. Các tài liệu tại Phòng Đầu tư Tổng Công ty Xuất Nhập khẩu xây dựng Việt Nam 4. Một số văn bản hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lí đầu tư và xây dựng - Nghị định 52 CP. 5. Một số các báo và tạp chí liên quan. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0003.doc