Lời nói đầu
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mở ra những cơ hội lớn cho nền kinh tế đất nước phát triển và vươn lên tầm cao mới. Những kết quả đạt được sau gần 20 năm đổi mới là minh chứng thuyết phục nhất cho đường lối đúng đắn mà Đảng ta đã lựa chọn. Đất nước đang “thay da đổi thịt” từng ngày, tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế đều đang hoà mình vào dòng cuốn của guồng máy nền kinh tế thị trường. Ngân hàng- một trong những ngành kinh tế then chốt, cũng không nằm ngoài ti
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến trình phát triển chung đó. Tất cả các ngân hàng đều đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, dần khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Với sự cải cách cơ bản về cách thức quản lý, tư duy kinh doanh, với sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước và cơ hội ứng dụng những công nghệ ngân hàng hiện đại, các NHTM đang có được những điều kiện rất thuận lợi để tự hoàn thiện mình và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, các ngân hàng cũng đang phải đối mặt với những thách thức rất lớn, đó là cạnh tranh, nguy cơ tụt hậu, trình độ nhân viên, kinh nghiệm về hội nhập kinh tế,... và đặc biệt là vấn đề rủi ro- ngươì bạn đồng hành trong tất cả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tín dụng hiện vẫn là mảng kinh doanh chủ đạo của các NHTM Việt Nam hiện nay. Đây cũng chính hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất và cũng gây hậu quả nặng nề nhất cho ngân hàng khi rủi ro tín dụng xảy ra. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 7-8%/ năm, tình trạng “tín dụng nóng” ngày càng gia tăng, các khoản nợ xấu phát sinh,... nguy cơ rủi ro tín dụng luôn hiện diện và đe doạ sự an toàn của các ngân hàng. Vì vậy toàn ngành ngân hàng nói chung và từng ngân hàng nói riêng cần thiết lập và duy trì hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát nhằm ngăn chặn, phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro trong qúa trình hoạt động của mình. Trong đó, cần chú trọng hơn nữa đến công tác Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng.
Từ nhận thức về vai trò và sự cần thiết của KTNB hoạt động tín dụng, cùng với những kiến thức được học, được nghiên cứu trong trường và trên thực tế, em dẫ mạnh dạn chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa”
Mục đích của khoá luận là nhằm phân tích, làm rõ các vấn đề về KTNB hoạt động tín dụng trên phương diện lý luận và thực tế tại một ngân hàng cụ thể. Từ đó thấy được những kết quả, tồn tại và hạn chế của công tác này tại đơn vị, đề xuất một số giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả của KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các vấn đề liên quan đến hệ thống KTNB, thực trạng hoạt động KTNB tín dụng tại NHCT Đống Đa trong những năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu: khoá luận sử dụng phương pháp tư duy duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét các vấn đề, kết hợp với các phương pháp phân tích , thống kê, so sánh đối chiếu... để làm sáng rõ các vấn đề nêu ra.
Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Kiểm toán và Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại các NHTM
Chương 2: Thực trạng công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa.
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa.
Chương 1
Lý luận chung về Kiểm toán và Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1 Tổng quan về Kiểm toán
1.1.1 Sơ lược về sự ra đời và phát triển của Kiểm toán
“Auditus” là từ gốc Latinh của thuật ngữ Kiểm toán (Audit), có nghĩa là “nghe”. Ngay từ thời kỳ đế chế La Mã, Kiểm toán đã xuất hiện với hình thức các thông tin được đọc to trước hội nghị để đảm bảo tính trung thực của nó.
Chủ nghĩa tư bản ra đời( thế kỷ 17), rồi bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ( cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19) đã làm cho đời sống kinh tế, xã hội các nước tư bản có những đổi thay căn bản, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tất cả các ngành nghề và loại hình kinh doanh đều có bước phát triển vượt bậc. Đó là môi trường lý tưởng cho hoạt động Kiểm toán không ngừng hoàn thiện và tạo đựơc vị thế ngày càng cao.
Cho đến trước thế kỷ 20, Kiểm toán vẫn chỉ được tiến hành để xác định tính chính xác của các thông tin tài chính, hoạt động Kiểm toán tuân thủ do các Kiểm toán viên Nhà nước và Kiểm toán viên nội bộ thực hiện là chủ yếu. Với sự ra đời của mô hình Công ty cổ phần và Thị trưòng chứng khoán, quy mô của các Doanh nghiệp ngày càng mở rộng, diễn ra sự tách rời giữa quyền sở hữu của các cổ đông với chức năng quản lý của các nhà điều hành. Điều này làm xuất hiện nhu cầu kiểm tra của người chủ sở hữu nhằm chống lại sự gian lận của các nhà quản lý lẫn nguời làm công, từ đó Kiểm toán độc lập ra đời nhằm thoả mãn nhu cầu này.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động Kiểm toán đã đạt được những thành tựu to lớn và có bước phát triển toàn diện, mang tính hệ thống trên toàn thế giới, trở thành bộ phận không thể thiếu trong đời sống kinh tế toàn cầu. Có thể kể đến một loạt các công ty Kiểm toán với mạng lưới hoạt động rộng khắp và uy tín mang tầm cỡ quốc tế như : ERNST AND YOUNG, KPMG, DELOITTE, PRICE WATERHOUSE, TOUCH AND TOMASU... Danh tiếng của chúng có được là nhờ những kết quả và cống hiến trong nhiều năm với nhiều cố gắng, nỗ lực phát huy vai trò của Kiểm toán trong nền kinh tế hiện đại. Hoạt động của các công ty Kiểm toán đa quốc gia không chỉ dừng lại ở kiểm toán BCTC đơn thuần mà đã mở rộng sang các hoạt động tư vấn về thuế, về quản trị hay đầu tư...
ở nước ta, Công ty Kiểm toán độc lập đầu tiên là VACO được thành lập vào năm 1998 và nhanh chóng trở thành lá cờ đầu trong lĩnh vực Kiểm toán. Hiện nay, số lượng các công ty kiểm toán đã là một con số ấn tượng, chúng tồn tại dưới nhiều mô hình tổ chức khác nhau và các mảng hoạt động cũng rất đa dạng, phong phú.
1.1.2 Khái niệm và bản chất của Kiểm toán
Cũng như nhiều thuật ngữ khác, Kiểm toán đước định nghĩa dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau, tuỳ từng cách tiếp cận. Vì thế hiện có rất nhiều khái niệm khác nhau về Kiểm toán, dựa vào các mục đích nghiên cứu cụ thể để lựa chọn xem xét.
Uỷ ban thực hành Kiểm toán Quốc tế đưa ra khái niệm: Kiểm toán được hiểu là việc kiểm tra độc lập và trình bày ý kiến về các bản BCTC của một doanh nghiệp do một kiểm toán viên được chỉ định thực hiện cùng một nhiệm vụ đựơc giao và tuân thủ mọi nghĩa vụ luật định có liên quan.
Theo hiệp hội Kế toán Mỹ (aicpa), Kiểm toán là một quá trình có hệ thống nhằm thu thập và đánh giá một cách khái quát các bằng chứng đối với vấn đề đựơc khẳng định những hoạt động và những sự kiện kinh tế để xác định mức độ phù hợp giữa những điều khẳng định với những tiêu chuẩn chính thức đã được thiết lập và công bố những kết quả đó cho những người quan tâm.
Tuy nhiên, khái niệm Kiểm toán thông dụng và được chấp nhận nhiều hơn cả là: Kiểm toán là một quá trình do Kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập tiến hành nhằm thu thập và đánh giá các bằng chứng về những thông tin có thể định luợng của một tổ chức nhằm thẩm định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập.
Theo đó, các Kiểm toán viên độc lập là những người có đủ trình độ, năng lực để thực hiện Kiểm toán bằng cách thu thập các bằng chứng, thẩm định và đánh giá các thông tin xem có phù hợp với chuẩn mực đã đựơc lựa chọn làm tiêu chuẩn từ khi bắt đầu kiểm toán hay không, sau đó sẽ báo cáo kết quả. ở đây, KTV có đủ năng lực và độc lập được hiểu là những người làm nhiệm vụ kiểm toán phải có đủ khả năng để hiểu các chuẩn mực kiểm toán được sử dụng, từ đó biết đựoc những bằng chứng cần thu thập cần đảm bảo về chủng loại, số lượng... như thế nào để có được kết luận hợp lý sau quá trình phân tích, xem xét. Hơn nữa, tính độc lập, khách quan, vô tư khi nhận xét, đánh giá các bằng chứng là điều kiện tiên quyết đối với mỗi KTV khi tiến hành một cuộc kiểm toán, là cơ sở cho một báo cáo kiểm toán xác thực, khách quan.
Các bằng chứng kiểm toán là những thông tin mà KTV sử dụng để xác định thông tin được kiểm toán có phù hợp với các chuẩn mực đã đề ra hay không? Đó có thể là các văn bản, tài liệu, chứng từ, tệp tin...Tuỳ vào mục đích kiểm toán cũng như chất lượng các bằng chứng sẽ quyết định về số lượng của chúng là nhiều hay ít.
Chuẩn mực kiểm toán được hiểu là các nguyên tắc, thủ tục cơ bản, những văn bản hướng dẫn, giải thích được lựa chọn khi tiến hành một cuộc kiểm toán. Có những chuẩn mực chung áp dụng trên phạm vi quốc tế, bên cạnh đó cũng có những chuẩn mực riêng của từng quốc gia được xác định phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Kết quả của mỗi cuộc kiểm toán là các báo cáo Kiểm toán trình bày ý kiến nhận xét, đánh giá của KTV về mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng với các chuẩn mực đã lựa chọn. Dựa vào đây những người sử dụng thông tin kiểm toán sẽ biết được tình hình thực trạng hoạt động của đơn vị được kiểm toán.
Như vậy, Kiểm toán là tổng thể quá trình mà các chuyên gia tiến hành thu thập, đánh giá các bằng chứng liên quan đến các thông tin định lượng được căn cứ vào các chuẩn mực để đưa ra kết luận trong các báo cáo Kiểm toán, phục vụ nhu cầu của người sử dụng thông tin.
1.1.3 Chức năng và vai trò của Kiểm toán
1.1.3.1 Chức năng của Kiểm toán
Là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế, Kiểm toán thực hiện các chức năng cơ bản sau đây:
* Chức năng kiểm tra, thẩm định:
Kiểm toán xem xét mức độ trung thực của các thông tin, các tài liệu, tính hợp pháp của các nghiệp vụ hoặc các bản khai tài chính trên hai phương diện cơ bản: Một là độ tin cậy của các thông tin, số liệu đã công bố. Hai là mức độ trung thực cũng như tính đúng đắn của các biểu mẫu, sổ sách, chứng từ so với các quy định của Luật pháp cũng như các chuẩn mực đã được công nhận rộng rãi.
* Chức năng xác nhận và giải toả trách nhiệm:
Thông qua quá trình kiểm tra, thẩm định, Kiểm toán bày tỏ ý kiến của mình về các thông tin, tài liệu đã kiểm tra, từ đó, chia sẻ trách nhiệm với các cơ quan chỉ đạo, giám sát hoặc với các nhà quản trị, nhằm giảm rủi ro thông tin (tuy nhiên, không đảm bảo giảm rủi ro cho các quyết định). Kiểm toán đua ra nững nhận xét, đánh giá từ đó để các cơ quan, nhà quản trị đưa ra các quyết định dựa trên các báo cáo kiểm toán cũng giúp làm giảm trách nhiệm khi rủi ro xảy ra, vì Kiểm toán sẽ phải chia sẻ một phần trách nhiệm.
* Chức năng tư vấn:
Đây là chức năng của Kiểm toán hiện đại, thông qua Kiểm toán đểphát hiện những yếu kém trong bộ máy lãnh đạo, trong quá trình điều hành hoặc sự không hợp lý trong vận dụng chính sách, thể lệ, chế độ. Kiểm toán còn đưa ra kiến nghị đối với những người có thẩm quyền để cải tiến cho phù hợp hơn với thực tiễn.
1.1.3.2 Vai trò của Kiểm toán:
Quản lý là hoạt động tất yếu của mỗi tổ chức. Để quản lý có hiệu quả, đạt các mục tiêu đã định của tổ chức, nhà quản trị phải có được các thông tin chính xác, phản ánh chân thực tình hình kinh kế của đơn vị. Rủi ro thông tin là nguy cơ luôn tiềm ẩn, có khả năng gây hại lớn nếu chúng xảy ra. Vì thế, để đem lại sự an toàn trong kinh doanh, đảm bảo cao nhất hiệu quả trong hoạt động cần phải có sự hiện diện của Kiểm toán trong các thông tin kinh tế, tài chính.
Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước, Kiểm toán là một công cụ không thể thiếu trong việc đánh giá tính trung thực và hợp lý của các thông tin về hoạt động kinh tế, tài chính của các đối tượng quản lý. Nhờ có Kiểm toán mà các nhà quản lý có thể đảm bảo rằng các đối tượng này chấp hành đúng và đầy đủ các nguyên tắc, chế độ, pháp luật mà Nhà nước đề ra. Đồng thời, các thông tin tài chính đó chính là nguồn thông tin tin cậy cho hoạt động quản lý vĩ mô về kinh tế. Bên cạnh đó, với các doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách thì Kiểm toán còn nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn đúng đắn, hiệu quả.
Trên phuơng diện của các nhà đầu tư, các cổ đông, các đối tác kinh doanh thì Kiểm toán càng có vai trò quan trọng, sự chứng thực của một tổ chức chuyên môn độc lập về các hoạt động, thông tin tài chính của đơn vị mà họ bỏ vốn vào là sự đảm bảo cho tính trung thực của các thông tin đó, từ đây, họ sẽ tin tưởng hơn vào quyết định sử dụng vốn của mình.
Với những ý nghĩa to lớn đó, vai trò của Kiểm toán trong đời sống kinh tế càng ngày càng nâng cao, trở thành một bộ phận quan trọng trong guồng máy hoạt động của mỗi tổ chức, một lĩnh vực có tiềm năng phát triển cao trong nền kinh tế.
1.1.4 Phân loại Kiểm toán
Dựa trên mỗi tiêu thức khác nhau, Kiểm toán lại được phân thành các loại khác nhau, tuỳ vào mục đích nghiên cứu mà ta sẽ lựa chọn tiêu thức nào cho hợp lý. Có hai cách phân loại phổ biến thường đựơc tiếp cận hơn cả là: phân loại theo chức năng và phân loại theo chủ thể của Kiểm toán.
1.1.4.1 Phân loại theo chức năng
Theo đó, Kiểm toán được phân thành 3 loại là: Kiểm toán BCTC, Kiểm toán tuân thủ và Kiểm toán hoạt động.
a. Kiểm toán BCTC (Financial statement Audit): là kiểm toán nhằm kiểm tra, xác nhận tính trung thực, hợp lý, khách quan của các BCTC do một đơn vị lập ra dựa theo các nguyên tắc của chuẩn mực kế toán và yêu cầu của pháp luật.
Theo tiêu chuẩn quốc tế, các BCTC bao gồm: BCĐ Kế toán( Balance sheets), BC Thu nhập- Chi phí- Kết quả kinh doanh( Income Statement), BC lưu chuyển tiền tệ( Cash folows), BC quyền sở hữu( Owner’s Equydity Statement) và thuyết minh BCTC. ở nước ta, đối tượng của Kiểm toán BCTC là các BC sau: BCĐ Kế toán, BC kết quả kinh doanh, BC lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh BCTC, chưa có BC về quyền sở hữu do các DN Nhà nwocs vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Kiểm toán BCTC nhằm mục tiêu đảm bảo các thông tin trên các BC đó là đáng tin cậy, giúp người sử dụng tin tưởng và lấy làm cơ sở để đưa ra quyết định kinh tế đúng đắn.
Kiểm toán BCTC chủ yếu do các Kiểm toán viên chuyên nghiệp của các tổ chức Kiểm toán độc lập tiến hành. Đây là loại Kiểm toán rất phổ biến trong nền kinh tế các nước và được thường xuyên tiến hành.
b. Kiểm toán tuân thủ (Compliance Audit)- hay còn được gọi là Kiểm toán quy tắc( Regulary Audit) là việc kiểm tra để xem xét xem đơn vị được Kiểm toán có tuân thủ các thủ tục, các nguyên tắc, các quy chế của cơ quan quản lý hoặc các chính sách của Nhà nước hay không.
Mục tiêu của Kiểm toán tuân thủ là xác định việc chấp hành, tuân thủ các quy định, các nguyên tắc đã được ban hành hay không. Người thực hiện kiểm toán chính là các KTV của đơn vị hoặc của Nhà nước tiến hành. Do có căn cứ là pháp luật, chính sách, chế độ, quy định... nên tính thẩm quyền và hiệu lực của Kiểm toán tuân thủ rất cao. Kết quả của loại Kiểm toán này thường phục vụ các cơ quan quản lý nhà nước.
c. Kiểm toán hoạt động (Operational Audit): là việc kiểm tra, xem xét để đánh giá tính hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị.
Với mục tiêu là đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực nhằm phục vụ cho các nhà quản trị nhận đựơc thông tin phản hồi sau khi đưa ra các quyết định, khó có căn cứ cụ thể cho việc đánh giá này nhưng các chuẩn mực kiểm toán đưa ra dù mang tính chủ quan cũng cần căn cứ vào mặt bằng chung của ngành hay các mục tiêu lợi nhuận của từng đơn vị.
Đối tượng của loại Kiểm toán này rất biến động, có thể là hoạt động của cả tập đoàn, của một DN, một xí nghiệp, một bộ phận, một dây chuyền hay một thiết bị... Người tiến hành kiểm toán hoạt động chủ yếu là các KTV nội bộ trong chính đơn vị được kiểm toán.
1.1.4.2 Phân loại theo chủ thể tiến hành: kiểm toán được phân thành các loại sau:
a. Kiểm toán độc lập ( Independent audit): là Kiểm toán được thực hiện bởi các KTV chuyên nghiệp thuộc các tổ chức Kiểm toán độc lập tiến hành. KTV chuyên nghiệp là những người có trình độ chuyên môn, đã trải qua các quá trình đào tạo để đạt những tiêu chuẩn nhất định, có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp, họ phải trải qua các kì thi cấp quốc gia để có các chứng chỉ nghề nghiệp.
Kiểm toán độc lập là loại hình Kiểm toán có phạm vi áp dụng rộng rãi và phổ biến nhất trong nền kinh tế. Dưới sự quản lý của các hiệp hội chuyên ngành, Kiểm toán độc lập được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế có nhu cầu được kiểm toán, trên cơ sở tự nguyện và hợp đồng kinh tế đã kí kết.
Đối tượng phục vụ của Kiểm toán độc lập là bên thứ ba_ những đối tác kinh doanh, những người bên ngoài đơn vị được kiểm toán.
b. Kiểm toán Nhà nước (Government audit): là Kiểm toán do các tổ chức kiểm toán của Nhà nước tiến hành, chủ yếu thực hiện các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành luật pháp, chính sách, chế độ của Nhà nước ở các đơn vị kinh tế, đặc biệt là các đơn vị có sử dụng vốn hoặc kinh phí do Ngân sách cấp. Bên cạnh đó, kiểm toán Nhà nước còn tiến hành các cuộc kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của các đơn vị kể trên.
Tính thẩm quyền của Kiểm toán Nhà nước là rất cao, mang tính bắt buộc và các KTV thường là công chức nhà nước.
c. Kiểm toán nội bộ (Internal audit): là kiểm toán do các nhân viên trong nội bộ đơn vị tiến hành. Nội dung và phạm vi của Kiểm toán nội bộ tuỳ thuộc vào các yêu cầu của nhà quản lý trong đơn vị nhưng thường tập trung vào việc rà soát hệ thống kế toán, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính... Các nội dung cụ thể sẽ được trình bày kĩ hơn ở phần sau của khoá luận.
1.1.5. Các phương pháp Kiểm toán
Để tiến hành Kiểm toán, bên cạnh các yếu tố cần thiết thì việc lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp là điều rất quan trọng. Phương pháp Kiểm toán là hệ thống các biện pháp, cách thức sử dụng trong khi kiểm toán nhằm thực hiện mục tiêu mà trước mỗi cuộc kiểm toán đã đặt ra. Gắn liền với đó là các kỹ thuật mà KTV sử dụng trong quá trình kiểm toán như kỹ thuật thu thập bằng chứng, kiểm tra, đối chiếu, tính toán, phân tích... Sau đây em xin trình bày một số phương pháp Kiểm toán chủ yếu, thường được sử dụng rộng rãi.
1.1.5.1 Phương pháp Kiểm toán cơ bản
Là phương pháp dùng để thu thập bằng chứng về mức độ trung thực và hợp lý của các số liệu tài chính, kế toán. Đặc trưng của nó là luôn có sự tiến hành các thử nghiệm, rồi đánh giá dựa vào những số liệu, thông tin trên các BCTC và hệ thống kế toán thu thập được. Phương pháp này bao gồm các bước thử nghiệm sau:
a. Phân tích số liệu kế toán: đó là việc phân tích xu hướng diễn biến của hoạt động kinh doanh và phân tích các tỷ suất quan trọng, gồm cả việc kiểm tranhững biến động và tính hợp lý của các thông tin thích đáng khác hoặc kiểm tra các biến động về số liệu có mức chênh lệch quá lớn giữa giá trị thực tế so với dự kiến. Phân tích số liêukj sẽ cho phép KTV có cái nhìn khái quátvề tình hình hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động tài chính của đơn vị được kiểm toán, tìm ra những điều bất hợp lý, những biến động bất thường hay những vấn đề bất cập trong hệ thống kế toán.
Trong khi kiểm tra, phân tích số liệu, các KTV sử dụng các kỹ thuật cơ bản sau:
So sánh các thông tin: giữa thông tin thực tế với kế hoạch, giữa thực tế với chuẩn mực, giữa thông tin thực tế kỳ này với các kỳ khác, với các đơn vị khác cùng ngành... Việc làm này khá đơn giản, dễ tiến hành và cho ra nhận xét tổng hợp nhưng chưa thể hiện được tương quan giữa các chỉ tiêu.
Phân tích các tỷ suất: để xác định các mối quan hệ giữa các thông tin tài chính với nhau hay với các thông tin không mang tính chất tài chính thì cần phải so sánh, xác định tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu này, phân tích chúng phục vụ cho việc lập kế hoạch, xác định thời gian, pham vi sử dụng các phương pháp kiểm toán, kiểm tra cơ bản. Các tỷ lệ được lựa chọn sẽ tuỳ theo kinh nghiệm và trình độ của các KTV, ví dụ như: các chỉ số thanh khoản, tỷ lệ giữa nguồn vốn huy động với vốn chủ sở hữu, mối quan hệ giữa chi phí nhân viên với số lượng nhân viên….
Có thể xem xét mức độ tin cậy của các thủ tục phân tích thông qua tính trọng yếu của các yếu tố liên quan, các thủ tục kiểm toán khác, độ chính xác dự kiến của chúng, những rủi ro tiềm tàng...
b. Kiểm tra chi tiết: là việc KTV kiểm tra trực tiếp các nghiệp vụ và số dư để xác định xem các nghiệp vụ kế toán có được phê duyệt đúng đắn hay không, có hạch toán và ghi sổ chính xác không, các số dư trên bảng cân đối tài khoản có xác thực và đúng đắn không.
Do số lượng các nghiệp vụ và số dư rất nhiều nên với các doanh nghiệp có quy mô hoạt động và khối luợng giao dịch lớn thì phải sử dụng kỹ thuật chọn mẫu một số nghiệp vụ và số dư cần kiểm tra. Phương pháp nay thích hợp hơn với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các nghiệp vụ không quá phức tạp và nhiều. Các KTV có thể chọn mẫu theo lô, chọn ngẫu nhiên hay chon phán xét.
1.1.5.2 Phương pháp Kiểm toán hệ thống
Là phương pháp kiểm toán tiếp cận đối tượng Kiểm toán dựa trên hệ thống để kiểm tra một lĩnh vực hoạt động, một khâu tác nghiệp trong mối tương quan với các lĩnh vực, các khâu tác nghiệp khác. KTV thực hiện các thử nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán để đảm bảo rằng hệ thống kiểm soát nội bộ mà Kiểm toán dựa vào đó để Kiểm toán là một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả.
Khi tiến hành Kiểm toán, các KTV có thể sử dụng phương pháp khảo sát hệ thống hay các thử nghiệm chi tiết đối với hệ thống kiểm soát. Các tiêu thức cần quan tâm là sự tồn tại của quy chế và sự hoạt động liên tục của quy chế kiểm soát nội bộ, cũng như tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Phương pháp này tuy không đi vào chiều sâu, không mang lại sự đảm bảo cao về tính trung thực, hợp lý của các số liệu kế toán nhưng chi phí không cao và có thể định hướng vào việc hạn chế các rủi ro xảy ra trong tương lai nhờ vào việc phát hiện ra những điểm yếu trong hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị.
1.1.6 Quy trình Kiểm toán
Quy trình Kiểm toán là toàn bộ các bước, các giai đoạn mà bất kỳ một cuộc Kiểm toán thông thường nào cũng trải qua. Mặc dù có sự khác nhau về thời gian, quy mô và nội dung tiến hành nhưng nhìn chung, các cuộc Kiểm toán nội bộ đều bao gồm các bước sau:
Phân tích rủi ro
Lập kế hoạch Kiểm toán
Thực hiện Kiểm toán
Lập báo cáo Kiểm toán
a. Phân tích rủi ro
Việc phân tích rủi ro là nhằm mục đích không để bỏ sót lĩnh vực nhiều rủi ro nào khi lên kế hoạch Kiểm toán. Các KTV sẽ phân tích theo hệ thống, theo đó, các đối tượng Kiểm toán có rủi ro cao sẽ được lựa chọn đưa vào chương trình Kiểm toán trước, các đối tượng rủi ro được đánh giá thấp hơn sẽ đưa vào kỳ sau, sau khi trưởng bộ phận Kiểm toán nội bộ xét thấy đối tượng có rủi ro cao đã được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh biện pháp phân tích theo hệ thống, KTV cần chú ý ưu tiên Kiểm toán các đối tượng hay bộ phận đang có “sự cố”, từ đó có thể phát hiện ra các sai sót của hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị được Kiểm toán.
Việc phân tích rủi ro này còn giúp KTV có thể quyết định các phương pháp Kiểm toán phù hợp với thực tế cơ sở. Nếu đánh giá mức độ rủi ro thấp, KTV có thể sẽ sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên hệ thống kiểm soát nội bộ và giảm bớt phương pháp kiểm tra chi tiết hoặc ngược lại trong trường hợp đánh giá mức độ rủi ro là cao.
b. Lập kế hoạch Kiểm toán
Lập kế hoạch Kiểm toán là bước đầu tiên nhưng lại có vai trò quan trọng nhất mà mỗi KTV phải thực hiện khi tiến hành mỗi một cuộc Kiểm toán. Lập kế hoạch đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả cao và sự thuận lợi lớn cho mỗi cuộc Kiểm toán. Lập kế hoạch hợp lý phải đảm bảo rằng mọi lĩnh vực hoạt động có nhiều rủi ro đều phải được quan tâm một cách hợp lý, và việc nhận biết, xử lý các vấn đề phát sinh trong cuộc Kiểm toán cũng như tiến hành Kiểm toán phải nhanh gọn, hiệu quả.
Để lập kế hoạch Kiểm toán đúng đắn, KTV cần xác định được các rủi ro Kiểm toán như rủi ro nội tại, rủi ro kiểm soát hay rủi ro phát hiện, từ đó sẽ giúp giảm thiểu rủi ro phát hiện trong trách nhiệm Kiểm toán. Và điều quan trọng nữa là các KTV cần hiểu công tác Kiểm toán các BCTC là cả quá trình phân tích liên tục các bằng chứng Kiểm toán liên quan và thường xuyên cập nhật.
c. Thực hiện Kiểm toán
Đây chính là quá trình mà các KTV áp dụng các phương pháp Kiểm toán để thu thập, đánh giá các bằng chứng Kiểm toán theo như kế hoạch và chương trình đã vạch ra. Giai đoạn này gồm có các công việc: tiến hành kiểm tra, thử nghiệm hệ thống kiểm soát nội bộ; đánh giá lại rủi ro kiểm soát và thiết lập mức rủi ro phát hiện; thực hiện Kiểm toán căn bản với các thủ tục phân tích, kiểm tra chi tiết từng nội dung cụ thể ; ghi chép các bước Kiểm toán và các dữ liệu lập dự thảo báo cáo, đưa ra ý kiến, yêu cầu chỉnh sửa; thảo luận, bàn bạc kết quả Kiểm toán và thống nhất ý kiến với các bộ phận được Kiểm toán.
Trong quá trình thực hiện Kiểm toán, nếu phát hiện ra dấu hiệu về sự tồn tại của các gian lận, sai sót thì các chuyên gia Kiểm toán phải xét tới những ảnh hưởng có thể tác động tới những thông tin đang được Kiểm toán. Khi xét thấy có khả năng này, các KTV phải thực hiện những thủ tục sửa đổi, bổ sung thích hợp.
d. Lập báo cáo Kiểm toán
Kết thúc cuộc Kiểm toán, trưởng đoàn Kiểm toán phải tiến hànhkiỉem tra, đánh giá lại công việc đã thực hiện để đảm bảo rằng kế hoạch đã được thực hiện, xem xét các ý kiến của các KTV cũng như đánh giá mục tiêu Kiểm toán đã đạt được hay không. Và sản phẩm cuối cùng được đưa ra là báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán là văn bản được KTV phát hành để trình bày ý kiến của mình về những thông tin được Kiểm toán. Báo cáo kiểm toán bao gồm cá nhận xét, đánh giá, kết luận của KTV, vì thế nó thể hiện kết quả cuối cùng của cuộc Kiểm toán, có vai trò quan trọng đối với các chủ thể có liên quan. Cụ thể:
Đối với KTV, báo cáo kiểm toán là sản phẩm của chính họ cung cấp cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm về những ý kiến của mình.
Đối với người sử dụng thông tin được Kiểm toán, báo cáo kiểm toán là căn cứ để họ đánh giá các thông tin này, từ đó đưa ra các quyết định kinh tế quan trọng. Do đó, bản báo cáo phải rõ ràng, minh bạch, tránh những hiểu lầm không đáng có.
Còn đối với đơn vị được Kiểm toán, báo cáo kiểm toán giúp tăng vị thế của đơn vị và có thể là căn cứ quan trọng để nhà quản trị đánh giá đúng để có các cải tiến cho hoạt động của đơn vị mình về các tổng thể chung cũng như các mảng riêng còn yếu.
Về nội dung của báo cáo kiểm toán, cần phải có sự nhất quán về hình thức và kết cấu để mọi người đọc đều có thể hiểu một cách thống nhất. Có thể tham khảo nội dung quy định cụ thể của một báo cáo kiểm toán trong chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 700 “báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính” như tên công ty Kiểm toán, phần tiêu đề, bố cục bản báo cáo....
Có 2 loại ý kiến cơ bản của KTV về báo cáo tài chính là ý kiến chấp nhận toàn phần và ý kiến chấp nhận không toàn phần. Theo chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 700 “báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính” ở nội dung 35 thì báo cáo kiểm toán có ý kiến chấp nhận toàn phần khi KTV và công ty Kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính của đơn vị được Kiểm toán là trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành. Cả với truờng hợp báo cáo tài chính được Kiểm toán có những sai sót nhưng đã được đơn vị chỉnh sửa theo yêu cầu của KTV, hoặc những sai sót không là trọng yếu thì cũng đều có thể có được ý kiến chấp nhận toàn phần.
Về ý kiến chấp nhận không toàn phần thì có 2 loại là chấp nhận từng phần và không chấp nhận. ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp KTV cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần và phần bị loại trừ là không quan trọng hay không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục có thể dẫn tới ý kiến không chấp nhận hoàn toàn. Các chuyên gia Kiểm toán sẽ đưa ra báo cáo dạng “không thể cho ý kiến” trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi Kiểm toán là quan trọng hoặc liên quan đến các khoản mục mà KTV không thu thập được bằng chứng Kiểm toán đầy đủ, phù hợp để cho ý kiến về báo cáo tài chính.
ý kiến không chấp nhận chỉ đưa ra trong trường hợp khong thống nhất với ban giám đốc về tính quan trọng hoặc có liên quan đến số lượng lớn các khoản mục mà KTV cho rằng không chấp nhận từng phần là chưa đủ khi cho ý kiến về mức độ sai lạc của báo cáo tài chính.
1.2 Kiểm toán nội bộ hoạt động Tín dụng
1.2.1 NHTM và hoạt động tín dụng
1.2.1.1 Khái quát về NHTM
a. Khái niệm NHTM
Ngân hàng là loại hình tổ chức có vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn nền kinh tế nói chung và với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Hệ thống ngân hàng được ví như mạch máu của nền kinh tế, nếu thiếu, nền kinh tế sẽ không thể “sống” được. Nó giúp cho tiền tệ lưu thông và luân chuyển một cách nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Khi tiếp cận khái niệm về NHTM trên phương diện những sản phẩm dịch vụ mà chúng cung cấp, Peter Rose trong cuốn “Quản trị NHTM” có viết: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa dạng trong các dịch vụ cung cấp và chức năng hoạt động đã khiến các NHTM được coi là “bách hoá tài chính”( Financial department stores). Thực tế cho thấy ngày càng có sự “lấn sân” của NHTM sang các hoạt động của lĩnh vực khác như kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, bất động sản, môi giới tài chính..., do đó khái niệm trên đây về NHTM thể hiện tính khái quát và tiêu biểu cao.
ở nước ta, điều 20 Luật các TCTD có quy định: “TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.”
b. Chức năng
NHTM thực hiện 3 chức năng chủ yếu đó là: làm thủ quỹ cho xã hội( nhận tiền gửi của khách hàng, đáp ứng mọi nhu cầu rút tiền, chi tiền của họ...); chức năng làm trung gian thanh toán ( nhờ việc giữ các tài khoản tiền gửi của khách hàng mà NHTM có thể làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ hay nhập tiền vào tài khoản của người hưởng...; chức năng trung gian tín dụng ( theo đó, NHTM trở thành cầu nối giữa những người dư thừa với những người thiếu hụt về vốn, ngân hàng lúc đó vừa là người “đi vay”, vừa là người “cho vay” )
Bên cạnh 3 chức năng cơ bản nêu trên, NHTM còn thực hiện cung cấp rất nhiều các sản phẩm dịch vụ khác như tư vấn, hỗ trợ, bảo lãnh, môi giới, đầu tư...và ngày một hoàn thiện theo mô hình “ngân hàng đa năng”. Nhờ vậy, vai trò của NHTM trong nền kinh tế ngày càng tăng cao. Muốn phát triển, nền kinh tế cần phải tập hợp được và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó, nguồn lực về vốn là vô cùng quan trọng. Mà bất kỳ một “chuyển động” hay một động thái nào của nền kinh tế đều cần đến vốn, vì thế có thể coi vốn là nề._.n tảng cơ bản nhất cho sự phát triển kinh tế. Trong khi đó, ngân hàng chính là cơ quan nắm giữ, kiểm soát hoạt động tiền tệ và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ- vốn, giúp điều hoà và luân chuyển vốn trong nền kinh tế, làm gia tăng hiệu quả sử dụng, giảm lãng phí vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Do vậy, để có một nền kinh tế phát trển mạnh không thể không kể đến vai trò to lớn của hệ thống các NHTM.
c. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Tiền tệ là lĩnh vực hoạt động hết sức nhạy cảm và chứa đựng vô số những rủi ro. Bên cạnh các rủi ro cá thể, rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn đặc trưng bởi rủi ro hệ thống, sự thất bại hay sụp đổ của một ngân hàng sẽ kéo theo ảnh hưởng “dây chuyền” đến các ngân hàng khác, gây mất lòng tin của khách hàng đến cả hệ thống các TCTD, và tác động xấu này không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn lan ra phạm vi quốc tế. Cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam á cuối những năm 90 hay sự sụp đổ của hệ thống tài chính tại Achentina kéo theo những ảnh hưởng tiêu cực về kinh tế đến cả khu vực châu Mỹ Latinh trong thời gian gần đây.... Chính hiệu ứng lây lan trong hoạt động ngân hàng là nguyên nhân trực tiếp của tính hệ thống trong rủi ro gặp phải của các NHTM. Chỉ cần một ngân hàng gặp rủi ro sẽ kéo theo hàng loạt các ngân hàng khác, từ đó gây ra khủng hoảng cho cả hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế.
Rủi ro luôn là bạn đồng hành trong kinh doanh nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Với các NHTM, rủi ro tín dụng là loại rủi ro thường gặp nhất và cũng có hậu quả nặng nề nhất đối với tình hình kinh doanh. Bên cạnh đó, các loại rủi ro như rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản... cũng luôn tiềm ẩn và tạo những tác động không tốt đến các ngân hàng. Hơn nữa, hoạt động ngân hàng cũng gặp nhiều bất lợi bởi sự nhạy cảm cao với sự biến động của tình hình chính trị, xã hội.... Mỗi động thái chính trị hay chỉ cần một sự kiện bất thường nào đó của chính trường cũng đều có tác động ngay đến hệ thống các NHTM. Gần đây, những sự kiện như Mỹ tấn công irăc, giá dầu tăng cao, sóng thần....đều có tác động không nhỏ đến hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới. Hay các vụ bê bối tài chính của các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, các phát hiện mới về những hành tinh bên ngoài trái đất..., tất cả đều có ảnh hưởng đến các ngân hàng nói riêng và tình hình tài chính thế giới nói chung. Điều này là hệ quả tất yếu của sự nhạy cảm trong hoạt động ngân hàng, vì thế, rủi ro luôn là vấn đề phải đặt lên hàng đầu đối với mỗi nhà ngân hàng trong quá trình quản lý và điều hành tại các đơn vị.
Với những rủi ro thường nhật và hậu quả nghiêm trọng của chúng thì việc kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phòng tránh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng là nhiệm vụ quan trọng và nhất thiết phải lưu tâm của các nhà quản lý. Đồng thời, việc kiểm tra, kiểm soát cũng sẽ tạo thêm hình ảnh, độ tin cậy của các khách hàng đối với ngân hàng và đảm bảo tính trung thực, hợp lý cho các thông tin tài chính của các đơn vị ngân hàng khi cung cấp cho nền kinh tế, từ đó có được cái nhìn chính xác về tình hình tài chính- tiền tệ của quốc gia, giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô có được những quyết định sáng suốt, phù hợp và có hiệu quả cao.
d. Những đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngân hàng ảnh hưởng tới việc Kiểm toán
Hoạt động ngân hàng rất phức tạp nhưng lại mang tính đặc thù cao. Trong đó có nhưng đặc điểm có ảnh hưởng lớn đến quá trình Kiểm toán tại các NHTM, cả Kiểm toán từ bên ngoài hay KTNB.
Với đối tượng kinh doanh đặc thù và chủ yếu là tiền tệ và các GTCG, khối lượng tiền nắm giữ của ngân hàng là vô cùng lớn.Vì thế, vấn đề an toàn luôn có vị trí ưu tiên nhất. Cũng chính vì khối lượng tiền nắm giữ rất lớn này mà các hiện tượng biển thủ, tham ô, gian lận là rất dễ xảy ra và khó tránh khỏi gây khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát, và mỗi khi tiến hành Kiểm toán thì phải xem xét đến tất cả các yếu tố liên quan, đặc biệt là những yếu tố nhạy cảm như nhân sự...
Mỗi một NHTM đều hoạt động với mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch lớn, nằm rải rác và phân tán về mằt địa lý, sự phân quyền quản lý tồn tại như một tất yếu. Điều này là trở ngại lớn trong việc thống nhất lề thói hoạt động và cách thức hạch toán ở mỗi ngân hàng dẫn đến khó khăn khi tiến hành Kiểm toán tài chính tại các cơ sở.
Các cam kết ngoại bảng thường chiếm tỷ trọng không nhỏ trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, tuy nhiên, về mặt kế toán chúng lại không được hạch toán. Do đó, việc phát hiện những sai sót trong khi xử ký các nghiệp vụ này là rất bất cập. Đặc biệt, những cam kết ngoại bảng lại có hệ số rủi ro cao, khi Kiểm toán không đạt được hiệu qủa mong muốn thì kiểm soát những rủi ro này là rất khó khăn.
Ngoài ra, Kiểm toán NHTM còn phải quan tâm đến các đặc điểm khác của hoạt động ngân hàng như đối tượng khách hàng, quy chế kiểm tra, kiểm soát tại đơn vị... để có thể Kiểm toán một cách toàn diện và đạt hiệu quả mong muốn.
1.2.1.2 Hoạt động tín dụng
a. Khái niệm và nội dung
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ và là một bộ phận hết sức quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Tín dụng có thể được định nghĩa như sau: “ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”. Theo đó, quan hệ tín dụng chính là quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời, được dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay và mang tính hoàn trả. TDNH là quan hệ tín dụng đựơc hình thành trên cơ sở tín dụng thương mại với sự sử dụng vốn tạm thời lẫn nhau của các doanh nghiệp. TDNH là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó, ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và chủ đạo của mỗi một NHTM. Nội dung của hoạt động này rất rộng và phong phú, bao gồm cả các nghiệp vụ trong và ngoài bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Có thể kể đến các nghiệp vụ như: cho vay đối với khách hàng cũng như các TCTD khác; nghiệp vụ cho thuê tài chính; đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp... Hay các nghiệp vụ tài chính phái sinh; các hoạt động bảo lãnh tín dụng thư...
b. Đặc điểm của hoạt động tín dụng dưới góc độ Kiểm toán
Khi tiếp cận từ các khía cạnh khác nhau, đặc điểm của nghiệp vụ tín dụng sẽ có các điểm khác nhau.Nhìn từ góc độ Kiểm toán, hoạt động tín dụng có một số đặc điểm cơ bản sau:
Số dư của các tài khoản cho vay là khoản mục tài sản có chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và là tài sản sinh lời chủ yếu của các NHTM. Vì thế, mỗi sai sót nhỏ trong việc phản ánh giá trị khoản mục tín dụng trên bảng cân đối cũng có ảnh hưởng lớn đến giá trị thu nhập, chi phí của ngân hàng.
Giá trị của các khoản tín dụng ghi sổ ban đầu không bao gồm các khoản dự phòng rủi ro nhưng khi định giá lại các khoản này lại tính theo giá thị trường hoặc giá trị tương đương theo thời gian, tức là đã hàm chứa yếu tố rủi ro. Việc trích lập dự phòng rủi ro theo đó cũng bị ảnh hưởng, đồng thời, công tác Kiểm toán sẽ gặp khó khăn trong việc sử dụng phương pháp đánh giá giá trị nào áp dụng cho các khoản tín dụng này.
Vấn đề định danh khách hàng trong quan hệ tín dụng cũng vô cùng quan trọng. Các đối tượng đến vay ngân hàng có thể là pháp nhân, thể nhân hay công ty đối nhân, có thể có sự độc lập hay phụ thuộc lẫn nhau, những mối quan hệ này thường rất khó xác định. Đã có rất nhiều rủi ro lớn xảy ra bắt nguồn từ nguyên nhân không định danh chính xác khách hàng dẫn đến cho vay quá tập trung vào một đối tượng và khi doanh nghiệp đó phá sản thì thiệt hại của các NHTM là rất lớn. Các vụ điển hình có thể kể ra như : Minh Phụng Epco, Tamexco, Lã Thị Kim Oanh...Do vậy hoạt động Kiểm toán cần phải chú ý xem xét những mối quan hệ, những sự liên quan lẫn nhau của các đối tượng khách hàng vay, đánh giá rủi ro tín dụng, giảm thiệt hại và đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Muốn thế, mỗi KTV phải có sự hiểu biết rộng rãi về các đối tượng khách hàng, nhạy cảm trong đánh giá và nhìn nhận các mối quan hệ này.
Rủi ro tín dụng phụ thuộc cả vào ngân hàng và khách hàng, do đó, để bảm bảo cho mỗi khoản tín dụng đều an toàn thì phải theo dõi chúng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc hợp đồng. Hệ thống KTNB cần phải đựơc các NHTM thiết lập một cách nghiêm túc, chặt chẽ và có khả năng phát huy hiệu quả cao nhất. Khi tiến hành Kiểm toán, các KTV cũng cần tập trung đánh giá hoạt động của bộ phận này để thấy được mức độ hiệu quả trong ngăn ngừa và đối phó với các rủi ro của ngân hàng như thế nào.
1.2.2 Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
1.2.2.1 Kiểm toán nội bộ tại NHTM
a. Khái niệm Kiểm toán nội bộ (KTNB)
KTNB là thuật ngữ gần đây mới thường được sử dụng, trước đó người ta chỉ biết nhiều đến Kiểm toán các báo cáo tài chính của các tổ chức Kiểm toán độc lập. KTNB có thể đựơc hiểu một cách rộng rãi là một chức năng đánh giá độc lập, được thiết lập trong tổ chức để xem xét, đánh giá các hoạt động của nó, như một dịch vụ phục vụ chính tổ chức đó. Mục tiêu của KTNB chính là để hỗ trợ các nhà quản trị của tổ chức thực hiện có hiệu quả trách nhiệm của họ. Như vậy, KTNB đòi hỏi phải đánh giá được tổng thể các hoạt động; độc lập với những hoạt động đã hoặc đang được thẩm tra; và nó được thiết lập với tính chất hỗ trợ, xây dựng.
KTNB càng ngày càng trở thành một hoạt động nghề nghiệp phức tạp, cần có sự nghiên cứu, đào tạo và tổ chức hoạt động tuơng ứng với chức năng và lĩnh vực trong từng thời kỳ và phù hợp với chiến lược của tổ chức. Mục tiêu của KTNB là các thông tin Kiểm toán đều đáng tin cậy và đầy đủ; xem xét việc tuân thủ các chính sách, kế hoạch, thủ tục pháp lý, các quy định của pháp luật của đơn vị; vấn đề bảo vệ tài sản; tính hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực...
b. Chức năng của KTNB tại NHTM: xuất phát từ sự cần thiết của kiểm toán nội bộ là để hạn chế và giảm đến mức tối thiểu những nguy cơ dẫn đến các sai phạm gây ra rủi ro cho ngân hàng trong quá trình hoạt động thì KTNB của các NHTM thực hiện các chức năng:
* Chức năng kiểm tra: Kiểm tra tính trung thực, hợp lý của thông tin tài chính. Việc kiểm tra hệ thống thông tin là cơ sở để khẳng định các sổ sách, báo cáo tài chính của đơn vị chứa đựng các thông tin chính xác kịp thời và hữu ích.
Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, các qui định, các nguyên tắc và các thủ tục hiện hành. Các KTV nội bộ phải kiểm tra các hệ thống nhằm thiết lập xem có đảo bảo sự tuân thủ các chính sách thủ tục, luật pháp và các qui định mà có thể tác động quan trọng tới mọi hoạt động của ngân hàng. Kiểm tra việc thực hiện các biện pháp nhằm đảo bảo an toàn tài sản, tránh hiện tượng mất mát xảy ra.
Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chương trình hay các hoạt động nghiệp vụ.
Các KTV nội bộ kiểm tra các hoạt động, các chương trình để xem kết quả thu được có phù hợp với mục tiêu đề ra hay không và các hoạt động chương trình này có được thực hiện theo kế hoạch đã định không. Bên cạnh đó KTV nội bộ phải là những trợ thủ đắc lực cho lãnh đạo khi xây dựng các mục tiêu cho các chương trình hành động.
* Chức năng đánh giá: Đó là đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả của các nguồn lực cụ thể, đánh giá các kế hoạch và mục tiêu của các Nhà ngân hàng; đánh giá các qui định và chính sách hiện hành trong việc thực hiện các kế hoạch và mục tiêu đặt ra; đánh giá công tác kiểm soát nội bộ cũng như mức độ giám sát của các bộ phận chuyên môn nghiệp vụ khác. Đây là chức năng rất quan trọng của KTNB, nó có vai trò rất tích cực trong việc khẳng định tính chất hoạt động độc lập của bộ phận KTNB trong NHTM.
* Chức năng xác nhận: chức năng này có thể hiện trong việc đánh giá lại tính chính xác của các quyết định cũng như các kết quả kiểm soát đã thực hiện. Đồng thờigiúp kiểm toán thường xuyên, có hệ thống và toàn diện hoạt động của đơn vị, để đưa các kết luận, một cách khoa học và hợp lý.
c. Nhiệm vụ của KTNB tại NHTM: là việc kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ trong NHTM; kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tính hợp thức, hợp pháp của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi trình hội đồng quản trị, Ban giám đốc ngân hàng ký duyệt;kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính - kế toán, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc ngân hàng; đồng thời cũng phải phát hiện được những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của ngân hàng,từ đó đề xuất các giải pháp, hỗ trợ, tư vấn cải thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của NHTM.
Trong hoạt động của mình, các NHTM thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ với nhiệm vụ được quy định rõ ràng, cụ thể trong quyết định 03/1997/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam như sau:
Phải thường xuyên kiểm tra việc chấp hành pháp luật các qui định của Ngân hàng Nhà nước và các qui định cụ thể của Ban lãnh đạo ngân hàng trực tiếp kiểm tra các lĩnh vực của ngân hàng mình.
Kiểm toán hoạt động nghệp vụ từng thời kỳ từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác kết quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài của ngân hàng dự thảo để Tổng giám đốc (Giám đốc) trình Hội đồng quản trị để ban hành các phương thức, nội dung và qui trình nghiệp vụ trong kiểm tra kiểm toán nội bộ trong tổ chức tín dụng.
Xây dựng trình Tổng giám đốc (Giám đốc) duyệt và triển khai thực hiện kế hoạch định kỳ hoặc đột xuất về kiểm tra kiểm toán nội bộ.
Trực tiếp hoặc phối hợp với các Ban kiểm soát tiến hành kiểm tra công tác quản lý và điều hành theo đúng qui định của pháp luật về hoạt động ngân hàng, qui định nội bộ tổ chức tín dụng.
Đánh giá mức độ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và kiếm nghị các biện pháp nâng cao khả năng đảo bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Báo cáo Tổng giám đốc (Giám đốc), Ban kiểm soát kết quả kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất và nêu những kiến nghị khắc phục khuyết điểm tồn tại.
Rà soát hệ thống các qui định an toàn trong kinh doanh, phát hiện các cơ sở bất hợp lý để kiến nghị bổ sung sửa đổi.
Đánh giá thủ trưởng các bộ phận chuyên môn có nghiêm túc hoàn thành trách nhiệm của mình hay không?
Đánh giá nguyên tắc cơ bản về quản lý kinh tế các chế đọ quản lý kinh tế, các qui định của pháp luật có được tuân thủ chấp hành không.
Đánh giá các giá trị tài sản có được đảo bảo an toàn và đày đủ hay không?
Đồng thời trong quá trình kiểm toán phải tìm ra được những sai sót những bất cập của hệ thống, các văn bản để từ đó đưa ra các ý kiến, kiến nghị cho Ban lãnh đạo để có biên pháp xử lý kịp thời.
d. Nguyên tắc cơ bản trong KTNB tại NHTM: cũng tuân theo các nguyên tắc cơ bản của KTNB là: Tính độc lập ( Bộ phận KTNB chỉ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo và chỉ thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập, tự chủ và không chịu bất kỳ một sự chỉ đạo nào khác trong quá trình phân tích, đánh giá, kết luận và lập báo cáo kiểm toán); Phân tích tách chức năng ( KTV nội bộ không kiêm nhiệm các công việc của các phòng nghiệp vụ và ngược lại); Thông tin đầy đủ ( để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, KTV nội bộ có quyền nhận thông tin mà họ yêu cầu một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời. Tất cả các văn bản của Nhà nước, ngành, đơn vị có tầm quan trọng, liên quan trực tiếp và gian tiếp đều phải được thông báo cho bộ phận KTNB biết); Trình độ nghiệp vụ của KTV.
KTNB trong các NHTM phải đảm bảo mọi nghiệp vụ phát sinh đều được kiểm tra và kiểm tra một cách độc lập, khách quan. Về tổ chức bộ phận kiểm tra, kiểm toán và các vấn đề về bổ nhiệm, miễn nhiệm đều do cấp lãnh đạo quyết định như Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hay Giám đốc quyết định.
1.2.2.2 KTNB hoạt động Tín dụng
a. Khái niệm
KTNB hoạt động tín dụng là việc kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng cũng như hệ thống KSNB đối với hoạt động tín dụng tại các NHTM.
Tín dụng là sản phẩm chủ đạo trong danh mục sản phẩm kinh doanh của các NHTM hiện nay, chiếm tỷ trọng thu nhập lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng ( khoảng từ 70-90%). Có vai trò quan trọng như vậy nhưng tín dụng lại chính là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro và khi xảy ra thì hậu quả là nghiêm trọng nhất. Nguyên nhân của hiện tượng này rất nhiều, cả từ phía khách quan lẫn chủ quan, có thể nêu ra một số nguyên nhân cơ bản như: trình độ cán bộ tín dụng, thông tin thiếu hụt hoặc không chính xác, những gian lận, sai sót trong quá trình triển khai chính sách cho vay, thiếu sự giám sát...Tất nhiên, để giải quyết hiện trạng này, vai trò của kiểm toán tín dụng là rất lớn.
Dưới con mắt của kiểm toán, những nguyên nhân của rủi ro tín dụng không đơn thuần chỉ là biểu hiện bề ngoài như vậy mà phải xem xét ở giác độ sâu hơn. Đó là phải xem xét từ mối quan hệ của các đối tượng khách hàng vay, nguồn thông tin họ cung cấp, xét đến các dạng tín dụng mà khách hàng đề nghị, đến nguồn gốc của các tài sản thế chấp...
Do quy mô hoạt dộng ngày càng mở rộng của các NHTM, do tính chất đặc thù và vai trò to lớn của hoạt động tín dụng, công tác kiểm toán tín dụng tại các NHTM cũng ngày càng trở nên cần thiết, KTNB đối với hoạt động tín dụng có mục tiêu, đối tượng và nội dung sau:
Mục tiêu của KTNB hoạt động tín dụng: đó là việc đánh giá đúng tính thích đáng, chính xác của việc định giá các khoản vay; xem xét tình trạng rủi ro của tất cả các nghiệp vụ trong quy trình tín dụng; đánh giá về tính nghiêm túc, đúng đắn của toàn quy trình nghiệp vụ tín dụng cũng như các chốt kiểm soát đã cài đặt trong quy trình này.
Đối tượng của KTNB hoạt động tín dụng: đó chính là tổng thể các nghiệp vụ được thực hiện trong quy trình tín dụng áp dụng tại mỗi ngân hàng; cơ cấu tín dụng; cơ cấu rủi ro cũng như cách thức cấp tín dụng cho khách hàng. Đồng thời phân tích, đánh giá khách hàng vay, vấn đề tài sản đảm bảo và các nguyên tắc xét duyệt, cấp, giám sát, kiểm tra, kiểm soát... đối với hoạt động tín dụng. Ngoài ra, kiểm toán tín dụng còn xét đến cả các vấn đề về dự phòng rủi ro, các khoản nợ có vấn đề, tình hình nợ quá hạn... tức là toàn bộ các vấn đề liên quan đến công tác tín dụng tại ngân hàng.
Nhiệm vụ của KTNB đối vơí hoạt động tín dụng: là kiểm tra, xác nhận độ tin cậy của các tài liệu liên quan, đánh giá về sự tuân thủ pháp luật và các quy chế cấp tín dụng của NHNN cũng như chính ngân hàng cơ sở; kiểm tra và đánh giá tính hiệu qủa của hoạt động sử dụng vốn; kiểm tra đánh giá tính hiệu qủa, hiệu lực của hệ thống KSNB trong ngân hàng; kiểm tra tính tuân thủ cá nguyên tắc và chế độ trong công tác quản lý, xét duyệt tín dụng; phát hiện ra những yếu kém, sơ hở cũng như các gian lận, sai sót trong hoạt động tín dụng, xét đén các nguyên nhân của chúng; đề xuất các biện pháp giải quyết, nâng cao hiệu quả hoạt động và quản lý, hoàn thiện hệ thống quản trị tín dụng nói riêng và quản trị ngân hàng nói chung.
Nội dung của KTNB hoạt động tín dụng: bao gồm tất cả các mặt trong hoạt động tín dụng, từ cơ cấu tín dụng, các khoản vay, tổ chức, quy trình tín dụng đến thẩm quyền phán quyết, chốt kiểm soát tín dụng…...Trong đó, kiểm toán về cơ cấu tín dụng sẽ cho cái nhìn tổng quát về rủi ro tín dụng, mức độ tập trung các khoản tín dụng của ngân hàng; kiểm toán chi tiết từng món vay sẽ xét được rủi ro tiềm ẩn cụ thể trong từng món đó, mức độ tuân thủ quy định cũng như nguyên tắc tín dụng của chúng; kiểm toán tổ chức, quy trình tín dụng giúp đánh giá tính hiệu lực, hiệu qủa của công tác quản lý tín dụng trong đơn vị. Từ đó có thể đề xuất được các biện pháp hay, có giá trị cho việc cải tiến, hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành hoạt động tín dụng tại các NHTM.
b. Quy trình kiểm toán tín dụng
(1) Phân tích rủi ro: Rủi ro tín dụng xuất hiện trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc việc thanh toán này không đúng thời hạn thoả thuận. Có thể phân tích rủi ro tín dụng theo nhóm đối tượng và theo sự thất thoát tài sản.
Theo nhóm đối tượng, rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro thất thoát các khoản cho vay do khả năng tài chính của khách hàng yếu kém, trong đó bao hàm cả những rủi ro từ các giao dịch ngoại bảng cân đối; loại rủi ro tín dụng nữa là rủi ro giá trị quyền sở hữu khi tài sản giảm do những biến động của ngân hàng như thay đổi Ban lãnh đạo hay sự phát triển quá nhanh mà trình độ quản lý không theo kịp..
Theo sự thất thoát tài sản, rủi ro tín dụng ở đây chính là nguy cơ giảm giá trị tài sản mà ngân hàng nắm giữ như các tài sản thế chấp, các chứng khoán mà ngân hàng nhận cầm cố, thế chấp...
Việc phân tích rủi ro này sẽ giúp KTV lập kế hoạch kiểm toán thích hợp, không bỏ sót những điểm quan trọng cần kiểm toán.
(2) Lập kế hoạch kiểm toán: bao gồm việc lập kế hoạch về nội dung, về thời gian và nhân sự.
Khi lập kế hoạch về nội dung,cần xác định được quy mô kiểm toán về cơ chế KSNB, kiểm toán tín dụng, các lĩnh vực cần kiểm toán, trọng tâm kiểm toán. Trong đó, quy mô kiểm toán cơ chế KSNB phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức và kinh doanh của ngân hàng cũng như cơ cấu tín dụng về ngành nghề. Quy mô kiểm toán tín dụng có thể lựa chọn căn cứ vào các tiêu chí: kết quả phân tích rủi ro ở trên; kết quả kiểm toán cơ chế KSNB của ngân hàng; cơ cấu nghiệp vụ tín dụng, danh mục vốn đầu tư; mức độ thận trọng của lãnh đạo trong việc định giá các khoản vay...
Lập kế hoạch nhân sự và thời gian, trong kế hoạch nhân sự cần nêu rõ sự phân công cụ thể từng KTV cho mỗi lĩnh vực, sự phân công này dựa trên trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, sự hiểu biết của mỗi KTV về lĩnh vực đang kiểm toán. Nguyên tắc cần đảm bảo luôn là “bốn mắt” trong quá trình kiểm toán.
Kế hoạch về thời gian cũng cần phải xác định cho phù hợp với từng bước kiểm toán để đảm bảo rằng công tác kiểm toán được tiến hành nhanh chóng, mà vẫn hiệu quả. Do nghiệp vụ tín dụng có khối lượng lớn, nên theo kinh nghiệm của các công ty kiểm toán lớn, kiểm toán tín dụng thường bắt đầu vào tháng 9-10 hàng năm, khi đó sẽ tập trung kiểm toán các nghiệp vụ phát sinh trong 9 tháng đầu năm, sang năm sau, khi các báo cáo tài chính đã lập xong, các KTV sẽ kiểm tra phần còn lại. Như thế sẽ không gặp tình trạng thiếu thời gian, giảm áp lực công việc, giảm thiểu rủi ro kiểm toán.
(3) Thực hiện kiểm toán: gồm các công việc cụ thể như sau:
Tài liệu phục vụ kiểm toán tín dụng: bao gồm các văn bản khung về hoạt động tín dụng, các văn bản hướng dẫn của nội bộ ngân hàng, kế hoạch kinh doanh của bản thân ngân hàng, cơ sở phân loại tín dụng, hồ sơ về cơ cấu tín dụng, kết quả thanh tra, kiểm toán kỳ trước.
Kiểm toán hệ thống KSNB: kiểm toán cần xem xét tổng quát về tổ chức cơ cấu của bộ phận tín dụng và quy trình làm việc của bộ phận này. Việc làm ấy sẽ giúp KTV có thể đánh giá được cả hệ thống KSNB về hoạt động tín dụng, biết được cách thức mà ngân hàng áp dụng để theo dõi diễn biến rủi ro trong kinh doanh. Các tài liệu cần thiết trong khi thực hiện là quy định về thực hiện giao dịch tín dụng, kết quả phỏng vấn các CBTD ...Cụ thể quy trình có thể bắt đàu bằng việc xem xét đơn xin vay vốn của khách hàng; xem xét quyết định cho vay, cam kết cho vay và giải ngân; giám sát tín dụng; quản lý hồ sơ và lưu giữ tài sản thế chấp; kiểm toán những đảm bảo tín dụng; kiểm toán việc chờ xử lý các khoản nợ có vấn đề...
Thực hiện các thử nghiệm cơ bản: sau khi kế hoạch kiểm toán đã được điều chỉnh thì KTV sẽ tiến hành các thử nghiệm cơ bản để có đủ các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến đánh giá, nhận xét về hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Kiểm toán nghiệp vụ quản lý rủi ro tín dụng: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng luôn là công việc quan trọng mà các nhà lãnh đạo ngân hàng hết sức quan tâm, chú ý. Quản lý rủi ro tín dụng là giúp hạn chế rủi ro xảy ra nhưng cũng hạn chế cơ hội sinh lời của ngân hàng, do đó phải cân nhắc và chấp nhận rủi ro trong chừng mực kiểm soát được.
Kiểm toán số liệu kế toán: đó là các số liệu về thu nhập chi tiết của các tài khoản, xác nhận món nợ có số dư cao nhất, chú ý đến các khoản nợ vay trung, dài hạn bằng VND hay ngoại tệ...
(4) Báo cáo kiểm toán tín dụng: một báo cáo kiểm toán tín dụng phải đảm bảo yêu cầu cơ bản của một báo cáo kiểm toán, trình bày theo yêu cầu của ngân hàng, do KTV nội bộ hoặc độc lập lập, gửi lên ban lãnh đạo ngân hàng phục vụ cho hoạt động quản trị. Báo cáo chính thức về kết quả kiểm toán báo cáo tài chính trong đó có kết quả hoạt động tín dụng do KTV độc lập thực hiện được chuẩn hoá theo chuẩn mực kiểm toán chung và là tài liệu đáng tin cậy. Yêu cầu chung của một báo cáo kiểm toán tín dụng là: đánh giá được về tổ chức nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng; cơ cấu nghiệp vụ tín dụng; khía cạnh kinh tế của tín dụng; việc tuân thủ quy định; đánh giá các báo cáo....
Kết luận chương 1:
Trong chương 1, em đã trình bày các kiến thức lý luận cơ bản về Kiểm toán, NHTM, hoạt động KTNB trong NHTM nói chung và KTNB hoạt động tín dụng nói riêng, cùng các vấn đề liên quan đến quy trình, nguyên tắc, phương pháp,... kiểm toán được các KTV nội bộ thực hiện trong quá trình kiểm toán tại các đơn vị. Sau đây, em xin đi vào chương 2 của khoá luận, nghiên cứu về thực trạng công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa.
Chương 2
Thực trạng công tác kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa
2.1 Khái quát hoạt động kinh doanh của NHCT Đống Đa
2.1.1. Đôi nét về môi trường kinh tế - xã hội
Đống Đa là một quận nội thành có lịch sử lâu đời và tình hình phát triển kinh tế rất mạnh mẽ. Với địa bàn rộng, gồm 26 phường và dân số trên 40 vạn người, hoạt động kinh tế sôi động, Đống Đa là là khu vực kinh doanh đầy tiềm năng đối với hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, quận Đống Đa còn là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất lớn, nhu cầu về vốn, thanh toán, luân chuyển tiền tệ.... là rất cao. Có thể kể đến các doanh nghiệp như: công ty xe máy-xe đạp Thống Nhất, công ty FPT, Vietronics, Công ty công nghệ cao, VDC, Bánh kẹo Hà Nội... Cùng với đó là các trung tâm thương mại lớn, các khu phố kinh doanh sầm uất, các hoạt động dịch vụ phong phú....,thế mạnh về kinh tế trên địa bàn là rất rõ ràng. Vì thế, Đống Đa tạo được một môi trường kinh doanh đầy hứa hẹn đối với các loại hình kinh doanh nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng.
Trên địa bàn quận Đống Đa hiện nay, rất nhiều các NHTM đang hoạt động, sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng là rất cao, tất cả các NHTM quốc doanh đều có chi nhánh tại đây, các NHTMCP, liên doanh.... như ACB, Đông Nam á, Techcombank,....Tuy nhiên, NHCT Đống Đa là một trong những ngân hàng lớn, hoạt động sớm và có hiệu quả nhất tại quận Đống Đa. Với tiềm lực về vốn, kinh nghiệm, mối quan hệ tốt với các khách hàng, NHCT Đống Đa luôn đứng vững và ngày càng khai thác được các thế mạnh của địa bàn, khẳng định vị thế trong cạnh tranh và ngày một phát triển.
2.1.2 Khái quát quá trình hình thành và phát trển của NHCT Đống Đa
Năm 1951 đánh dấu sự ra đời của NHCT Đống Đa, nhưng khi đó có tên là Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa vừa thực hiện quản lý Nhà nước, vừa tiến hành hoạt động kinh doanh trên địa bàn. Đến ngày 01/07/1988, dẫn từ NĐ 53/HĐBT, NHNN quận Đống Đa được chuyển thành chi nhánh NHCT Đống Đa trực thuộc NHCT Hà Nội. Vào năm 1990, theo quy định số 402/CT của HĐBT, pháp lệnh Ngân hàng, HTX tín dụng và các công ty tài chính ra đời, các NHTM thực sự tách ra khỏi hoạt động của NHNN, tiến hành kinh doanh các dịch vụ của một NHTM đúng nghĩa. Và bắt đầu từ ngày 01/04/1993, NHCT quận Đống Đa trở thành NHCT khu vực Đống Đa, là một đơn vị hạch toán phụ thuộc NHCT Việt Nam, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng của một NHTM theo quy định của pháp luật. Tháng 7/1998, ngân hàng có tên chính thức là: chi nhánh NHCT khu vực Đống Đa ( gọi tắt là NHCT Đống Đa ).
Với lịch sử phát triền lâu dài, với bề dầy kinh nghiệm và sự năng động trong kinh doanh, NHCT Đống Đa đã từng bước khẳng định được vị trí của mình trên thị trường tài chính-tiền tệ khu vực nói riêng và của cả nước nói chung, ngân hàng đang trên đà hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ. Hiện NHCT Đống Đa có khả năng cung cấp đầy đủ các sản phẩm dịch vụ ngân hàng từ truyền thống đến hiện đại, với sự trang bị công nghệ đồng bộ và hiện đại, đội ngũ cán bộ và nhân viên luôn được chuẩn hoá về trình độ, nghiệp vụ, hứa hẹn những thành công lớn trong tương lai.
NHCT Đống Đa có quan hệ đại lý với hơn 450 ngân hàng tại hơn 40 nước và khu vực trên thế giới, là thành viên của hệ thống tài chính viễn thông liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) giúp các giao dịch ngân hàng quốc tế được tiến hành nhanh chóng, thuận tiện. Đây cũng là ngân hàng đầu tiên trong hệ thống NHCT Việt Nam thực hiện thành công chương trình giao dịch một cửa OSFA và tháng 2/2005 vừa qua, NHCT Đống Đa đã tiến hành chạy chương trình INCASH, với phần mềm ngân hàng hiện đại.
Sau hơn 10 năm đổi mới và phát triển, NHCT Đống Đa với sự cố gắng, nỗ lực của tất cả tập thể cán bộ, nhân viên trong ngân hàng đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế của quận Đống Đa nói riêng, thành phố Hà Nội cũng như của cả nước nói chung. Các phần thưởng cao quý ghi nhận kết quả và sự đóng góp của ngân hàng có thể kể ra như: Huân chương Lao Động hạng 3 (1995), Huân chương Lao Động hạng 2 (1998), Huân chương Lao Động hạng nhất (2002) của chủ tịch nước, cờ thi đua xuất sắc của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, bằng khen của Thủ tướng chính phủ.... Tất cả tập thể ngân hàng sẽ luôn cố gắng phấn đấu để phát huy những thành tích đã đạt được và giành thêm những kết quả mới cao hơn, tốt hơn.
2.1.3 Mô hình tổ chức và hoạt động
Trên cơ sở mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh theo dự án hiện đại hoá ngân hàng của NHCT Việt Nam, theo quyết định của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, NHCT Đống Đa đang có sự chuyển mới về mô hình tổ chức. Theo đó, kể từ ngày 01/02/2005, cơ cấu tổ chức mới của ngân hàng sẽ bao gồm 12 phòng nghiệp vụ như sơ đồ 2.1
Các phòng nghiệp vụ trong chi nhánh đều thực hiện các hoạt động theo chức năng nhiệm vụ do Hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ban hành.
Sự chuyển mới này ban đ._.ông lớn, đặc biệt là những nhân viên được đào tạo chuyên ngành kiểm toán là rất hiếm. Do vậy khả năng hoàn thành công việc một cách có hiệu quả thực sự không cao.
Với biên chế 4 nhân viên kiểm toán nội bộ hiện nay, khối lượng công việc kiểm toán tín dụng rất đồ sộ, với hàng trăm nghìn hợp đồng tín dụng mỗi năm, các tài liệu, văn bản liên quan rất nhiều, số sai phạm cần xử lý không nhỏ...hiện tại tình trạng quá tải là không thể tránh khỏi.
* Về Ban lãnh đạo của chi nhánh: vẫn chưa thực sự chú trọng đến công tác KTNB hoạt động tín dụng một cách đúng mức, vẫn có sự chi phối một cách tương đối đến công tác này. Đôi khi ban lãnh đạo chi nhánh còn hạn chế phạm vị và quyền hạn kiểm toán của các KTV, một số vấn đề khi KTV phát hiện được không được xử lý theo những đề xuất hợp lý họ nêu ra. Hơn nữa, hoạt động tín dụng tại chi nhánh hiện tại không thực sự ẩn chứa rủi ro cao, các đối tượng khách hàng đa phần là các Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả, có tài sản đảm bảo... Bên cạnh đó, NHCT Đống Đa là chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam- một trong 5 NHTM quốc doanh của Việt Nam, vẫn chịu sự bảo hộ rất lớn của Nhà nước, tư tưởng của ban lãnh đạo ngân hàng vẫn mang nặng tính hành chính Nhà nước và đặc biệt chưa thấy cần thiết phải chú trọng tới công tác quản lý rủi ro tín dụng tại đơn vị.
Kết luận chương 2:
Trong chương 2, em đã trình bày về thực trạng công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa- ngân hàng em đã thực tập. Qua thực tế tại đơn vị, cùng với kiến thức được học tại trường và quá trình nghiên cứu các tài liệu liên quan, em đã đưa ra thực trạng, phân tích và thấy được những kết quả đóng góp của công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa, tìm được một số hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác KTNB tại ngân hàng. Tại chương 3 của khoá luận, em xin được trình bày một số giải pháp và xin mạnh dạn đề xuất kiến nghị với các cơ quan chức năng để công tác KTNB hoạt động tín dụng sẽ phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Chương 3
Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa
3.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Cùng với xu thế phát triển chung của đất nước cũng như của ngành ngân hàng, NHCT Việt Nam đã xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn cho toàn hệ thống, phấn đấu đến năm 2010 phát trển thành một ngân hàng uy tín, hiện đại mang tầm cỡ khu vực và dần khẳng định chỗ đứng trên những tầm địa lý xa hơn.
NHCT đều đặt ra những chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho các chi nhánh trực thuộc trong quá trình hoạt động kinh doanh của chúng nhằm đạt được mục tiêu chung.
Căn cứ vào những chỉ tiêu công tác NHCT giao, chi nhánh NHCT Đống Đa đã đề ra một số nhiệm vụ, chỉ tiêu kinh doanh cụ thể trong năm 2005 để toàn bộ tập thể các cán bộ nhân viên trong chi nhánh nỗ lực và cố gắng hoàn thành xuất sắc những chỉ tiêu này. Với sự hoàn thiện về công nghệ, thường xuyên đào tạo, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cũng như tác phong làm việc cho các nhân viên, chi nhánh NHCT Đống Đa hi vọng sẽ đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng.
Về mặt dài hạn, chi nhánh phấn đấu giữ vững và ngày càng nâng cao vị trí của mình trong hệ thống NHCT, luôn là lá cờ đầu trong mọi hoạt động của cả hệ thống. Tổng nguồn vốn huy động luôn đảm bảo nhu cầu sử dụng cho trong kinh doanh của chi nhánh, dư nợ tín dụng đạt mức cao, đảm bảo an toàn vốn, tất cả các hoạt động khác đều đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Trong năm 2005 , chi nhánh đặt ra các chỉ tiêu cụ thể như sau:
Về nguồn vốn huy động: tính đến hết ngày 31/12/2005 đạt 3400 tỷ đồng
tăng11,7% so với năm 2004,
Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm là 1587 tỷ đồng
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 1613 tỷ
Huy động từ kì phiếu là 200 tỷ,
Tổng dư nợ: đạt 2600 tỷ đồng, tăng 15,9% so với năm trước.
Trong đó: Dư nợ trung dài hạn đạt 40%
Tỷ lệ nợ quá hạn : không quá 1%
Lợi nhuận hạch toán : đạt 66 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2004
Để đạt được mục tiêu đặt ra, toàn thể cán bộ nhân viên Chi nhánh cần thực hiện các biện pháp cụ thể mà Ban giám đốc đã đề ra như sau:
+ Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng them định dự án đầu tư, tăng cướng công tác huy động vốn của các tổ chức và dân cư.
+ Làm tốt công tác tiếp thị, tiếp cận khách hàng, rà soát, phân loại doanh nghiệp, đối với các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, thua lỗ thì phải giảm dần mức độ đầu tư để đảm bảo an toàn tín dụng.
+ Phát triển tốt hoạt động kinh doanh đối ngoại, kinh doanh ngoại tệ, tăng số lượng khách hàng xuất khẩu.
+ Tích cực tìm biện pháp thu hồi các khoản nợ quá hạn và nợ tồn đọng.
+ Đào tạo, bồi dưõng cán bộ về nghiệp vụ, chuyên môn, công nghệ, ngoại ngữ, vi tính.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
+ Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tăng cường hoạt động của Đảng, Đoàn thanh niên, Phụ nữ... trong chi nhánh.
Với những thành tích đã đạt được, toàn thể cán bộ nhân viên trong chi nhánh NHCT Đống Đa quyết tâm thực hiện tốt các chỉ tiêu, kế hoạch mà NHCT giao, với mục tiêu “ Chất lượng- An toàn- Hiệu quả”, xứng đáng là đơn vị Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, đóng góp vào sự lớn mạnh của NHCT Việt Nam.
Riêng với hoạt động tín dụng, đây là hoạt động kinh doanh quan trọng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mục chung, luôn đựơc quan tâm hàng đầu. Trong thời gian tới, chi nhánh sẽ tiếp tục nâng cao công tác chỉ đạo, điều hành nghiệp vụ này, theo sát những định hướng kinh doanh chung, chủ động duy trì mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống, tiếp cận những khách hàng tiềm năng, mở rông các đối tượng khách hàng doanh nghiệp khác, chú trọng hơn nữa cho vay tiêu dùng, hộ sản xuất kinh doanh cá thể cũng như các đối tượng khác.
Về công tác KTNB hoạt động tín dụng cần củng cố hoàn thiện hơn, bố trí thêm và nâng cao chất lượng nhân sự, tiến hành kiểm toán đột xuất, chuẩn bị tốt các chương trình kiểm tra, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng
3.2.1 Hoàn thiện cấu tổ chức hệ thống KTNB trong ngân hàng
Với cơ cấu tổ chức hệ thống KTNB trong ngân hàng hiện nay, nguyên tắc độc lập trong KTNB không được tôn trọng, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng, biến hoạt động kiểm toán này chỉ mang tính hình thức, không mang lại hiệu quả xứng đáng. Để tạo ra tính độc lập cũng như nâng cao hiệu quả của công tác KTNB nói chung và KTNB hoạt động tín dụng nói riêng, cần có sự thay đổi lại cơ cấu sắp xếp hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong cả ngân hàng. Tức là thay đổi cơ cấu chung của bộ máy kiểm tra từ trên xuống, cần có sự nhìn nhận của Hội đồng quản trị cũng như Ban giám đốc NHCT Việt Nam trong việc áp dụng mô hình tổ chức mới cho bộ phận này. Sau đây là mô hình được cho là phù hợp và đã từng được áp dụng thành công tại các ngân hàng khác trên thế giới.
Sơ đồ 3: Mô hình hệ thống tổ chức của bộ phận KTNB trong ngân hàng
Hội đồng quản trị
Ban kiểm tra, kiểm toán tại hộ sở chính
Ban giám đốc
Ban giám đốc các chi nhánh
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ tại các chi nhánh
Theo mô hình này, hệ thống KTNB đã tách ra, độc lập hoàn toàn với Ban giám đốc cấp chi nhánh, nó trực thuộc cấp quản lý cao nhất trong ngân hàng là Hội đồng quản trị, các bộ phận khác đều có sự độc lập tương đối, ít có khả năng chi phối hay tạo tác động gì đến bộ phận này.
Ban KTNB tại hội sở chính trực thuộc sự quản lý duy nhất của Hội đồng quản trị ngân hàng, sẽ chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác KTNB trong toàn hệ thống. Thường xuyên chỉ đạo về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, lập và triển khai các kế hoạch KTNB cho Hội sở chính cũng như tất cả các chi nhánh, trực tiếp thực hiện và theo dõi quản lý các cuộc kiểm toán diễn ra trong toàn hệ thống NHCT.
Các phòng KTNB tại các chi nhánh thực hiện kiểm toán tại chính các cơ sở, phụ trách kiểm tra mọi mặt hoạt động của chi nhánh đó. Phòng KTNB chịu sự quản lý của Ban KTNB trên hội sở chính và chỉ chịu trách nhiệm báo cáo công tác cho cơ quan này. Ban giám đốc cũng như tất cả các phòng ban khác trong chi nhánh phụ trách đều không có quan hệ gì khác ngoài quan hệ kiểm tra, kiểm soát với phòng KTNB của chi nhánh. Tất cả các công việc KTNB, kế hoạch thực hiện, kết quả kiểm toán, các sai phạm tìm thấy, các kiến nghị, đề xuất, các sáng kiến đóng góp...tất cả đều được gửi trực tiếp lên Ban KTNB của Hội sở. Tất nhiên, trứơc và sau mỗi cuộc kiểm toán tại đơn vị cơ sở, các KTV nội bộ đều thông báo với Ban Giám đốc chi nhánh, kể cả kết quả KTNB cũng công khai cho Ban lãnh đạo chi nhánh biết, nhưng quan trọng hơn là việc xử lý sẽ được trình bày trên Ban KTNB để tổng hợp và báo cáo Hội đồng quản trị.
Các cuộc kiểm toán có thể tiến hành bất ngờ, không báo trước nhằm chứng kiến hiện trạng thực của các mặt hoạt động tại các đơn vị. Kết quả phản ánh có độ trung thực cao, mang tính khách quan và là tài liệu rất đáng tin cậy cho lãnh đạo ngân hàng biết được chính xác tình hình của ngân hàng để có nhứng xử trí phù hợp.
Ngoài ra, Ban KTNB có thể chỉ đạo kiểm toán chéo giữa các chi nhánh với nhau, vừa tăng tính khách quan, vừ tránh đựơc các vấn đề tế nhị trong quan hệ tại đơn vị.
Với mô hình độc lập trên đây của bộ phận KTNB trong các NHTM đã không những giúp tôn trọng tính độc lập khách quan trong kiểm toán mà còn đưa ra một lời giải thích hợp cho những bất cập về chất lượng, số lượng và hiệu quả của KTV. Bởi, với sự tập trung về phòng KTNB, các KTV có điều kiện chuyên tâm với công việc, những khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ tổ chức dễ dàng hơn, đồng thời cũng tận dụng được năng lực cho bộ phận nhân sự này.
Tóm lại, thực hiện mô hình KTNB độc lập với tất cả các phòng ban nghiệp vụ khác là rất cần thiết để tăng tính hiệu quả và đặc biệt là tính hiệu lực của công tác KTNB nói chung. Riêng với KTNB hoạt động tín dụng thì mô hình này càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các KTV nội bộ trong việc tiếp cận các hồ sơ và các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng tại các chi nhánh ngân hàng.
3.2.2 Tăng cường trách nhiệm và sự nhận thức về vai trò KTNB của các cán bộ lãnh đạo ngân hàng
Nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác KTNB nói riêng và KSNB nói chung là vấn đề luôn cần phải thấy rõ của ban lãnh đạo ngân hàng. Từ nhận thức đó, ban lãnh đạo sẽ có biện pháp xây dựng môi trường kiểm soát lành mạnh, hiệu quả. Ban giám đốc có thể thường xuyên có chính sách động viên, khen thưởng, cổ vũ tinh thần trách nhiệm của các KTV nội bộ nói riêng và tập thể cán bộ nhân viên toàn ngân hàng nói chung;luôn đề cao các chuẩn mực đạo dức nghề nghiệp của các nhân viên; luôn quán triệt ý thức tôn trọng kỷ luật và nguyên tắc trong công việc ở tất cả các bọ phận trong ngn hàng; xử lý các hành vi vi phạm thật thoả đáng, vừa có tính răn đe, vừa nâng cao tính hiệu lực cho công tác KTNB...
3.2.3 Đào tạo, bồi dưõng, nâng cao trình độ cho KTV nội bộ
Hệ thống KTNB trong các NHTM nếu được xây dựng độc lập với các phòng ban khác thì nhất định hiệu quả hoạt động sẽ tăng, tuy nhiên đó chỉ là điều kiện cần, còn rất nhiều yếu tố khác tác động và ảnh hưởng mạnh tới tính hiệu quả của công tác này, trong số đó có trình độ của các KTV. Đây là những nhân viên trực tiếp tiến hành công việc kiểm tra, kiểm toán các hoạt động tại các đơn vị, là người đưa ra những nhận xét, đánh giá cuối cùng về các vấn đề kiểm toán, đó là những căn cứ để lãnh đạo đưa ra quyết định. KTV phải hội tụ những phẩm chất về đạo đức, kỹ năng, kỹ thuật nghiệp vụ, những yếu tố về giao tiếp, nhạy cảm nghề nghiệp...Vì thế, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, phẩm chất người kiểm toán cho các KTV nội bộ cũng là công việc đòi hỏi sự lưu tâm rất nhiều của các bộ phận quản lý về hoạt động KTNB của các NHTM nói chung và NHCT Việt Nam nói riêng.
Từ thực trạng chất lượng KTV tại chi nhánh NHCT Đống Đa, chúng ta có thể nhận thấy một cách khái quát về tình trạng chung của vấn đề này trong cả hệ thống NHCT cũng như các NHTM Việt Nam hiện nay. Do vậy vấn đề rất cần làm ngay là tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và nâng cao trình độ của các KTV phục vụ cho công tác KTNB tại ngân hàng.
Trước hết, nếu KTV không có kiến thức chuyên môn thì sẽ không thể tiến hành công việc một cách chính xác được. Kiểm toán lại là công việc càng đỏi hỏi trình độ nhân viên phải cao, nắm bắt các vấn đề thật nhanh và phát hiện đựơc ra những chỗ mấu chốt. Các KTV nội bộ có kiến thức chuyên môn sâu, thao tác nghiệp vụ tốt thì nhất định hiệu quả công việc sẽ cao, thời gian thực hiện ngắn.
Sau đó, ý thức nghề nghiệp, đạo đức công việc của mỗi người cũng góp phần không nhỏ vào kết quả công việc cuối cùng. Về phẩm chất thì phải rèn luyện theo thời gian và môi trường công tác cũng như kinh nghiệm trong công việc. Tại chi nhánh NHCT Đống Đa, các KTV đều chưa được đào tạo chính quy về chuyên ngành kiểm toán nhưng về kiến thức tài chính- ngân hàng thì đều vững, và họ cũng thưỡng xuyên học tập, tìm hiểu kiến thức chuyên môn để làm tốt hơn công việc của mình. Các KTV tín dụng hầu hết được chuyển từ công tác tín dụng sang, kinh nghiệm làm tín dụng đều đã có, vì thế tiếp cận công tác kiểm toán tín dụng cũng không quá bỡ ngỡ. Nếu lãnh đạo tạo điều kiện cho họ bồi dưỡng nghiệp vụ, theo học các lớp chuyên ngành, tham gia các hội thảo khoa học về kiểm toán thì nhất định trình độ chuyên môn sẽ được nâng cao nhanh chóng. Một số giải pháp cụ thể có thể tham khảo là:
Phòng KTNB chủ động tìm các cơ sở đào tạo uy tín để gửi các KTV đi học nâng cao nghiệp vụ, cùng với đó sẽ đào tạo thêm chuyên môn cần thiết khác như vi tính, tiếng Anh...
Tìm thông tin về các cuộc hội thảo khoa học chuyên ngành, tạo điều kiên về thời gian cho các nhân viên tham gia. Phòng Kiểm tra, KTNB tại đơn vị có thể trực tiếp tổ chức, mời các chuyên gia về đàm đạo về các chủ đề gần gũi với công tác kiểm toán, hoặc đơn giản là đề cập về các vấn đề tâm lý công việc, tất cả đều có tác dụng tốt phuc vụ công tác chung.
Phối hợp với các cơ quan cấp trên, với Ban Kiểm tra của NHCT, tổ chức các Hội nghị chuyên đề hoặc phát động các phong trào thi đua, các buổi trao đổi kinh nghiệm giữa các KTV trong toàn hệ thống.
Xa hơn, khi Hiệp hội kiểm toán phát triển, vai trò của KTNB được nâng lên, sự chuẩn hoá trình độ nghiệp vụ của các KTV sẽ có các tiêu chí nhất định và có các tổ chức chuyên nghiệp đứng ra đào tạo, các chứng chỉ Kiểm toán cũng dần phải đựơc phổ cập đối với các KTV nội bộ.
3.2.4 Tăng cường ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động kiểm toán
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin nói chung và công nghệ ngân hàng nói riêng tạo ra những tiện ích mà chỉ cách đây vài thập kỉ, loài người cũng không thể hình dung đựơc là có thể trở thành hiện thực. Khi ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, tất cả các công việc đều trở nên dễ dàng và hiệu quả tăng lên nhanh chóng. Khi các hoạt động nghiệp vụ cụ thể như huy động, cho vay, bảo lãnh, thanh toán…. đều ứng dụng công nghệ thông tin thì công tác kiểm tra, kiểm soát cũng trở nên dễ dàng, các tài liệu liên quan được tìm kiếm thuận lợi, vì thế, thời gian cũng như hiệu quả công tác kiểm toán cũng tăng cao.
Các thông tin kiểm toán được cung cấp từ các bộ phận nghiệp vụ càng có độ chính xác cao thì tính trung thực từ kết quả kiểm toán càng được đảm bảo. Do đó, khi hệ thống thông tin trong ngân hàng được ứng dụng công nghệ hiện đại, khả năng truyền tải thông tin cho công tác kiểm tra, kiểm toán cũng thực hiện nhanh chóng và đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời nhất cho các nhà quản trị ngân hàng.
NHCT Đống Đa vừa hoàn thành chuyển đổi toàn bộ hệ thống công nghệ sang chương trình INCASH, tất cả các bộ phận đều chạy thống nhất một chương trình sẽ tạo ra sự đồng bộ và dễ dàng cho xử lý thông tin. Tuy nhiên cần quan tâm nhiều đến công tác bảo mật thông tin, và nghiên cứu để tận dụng được hết các ứng dụng của phần mềm này.
Với các KTV, khả năng và trình độ tin học phải đảm bảo đủ để làm chủ công nghệ, xử lý được các dữ liệu trên máy. Đồng thời cần có chương trình riêng dành cho KTNB bởi các thông tin kiểm toán cần độ bảo mật cao, không thể để nhiều người có khả năng truy cập vào.
Tóm lại, nếu có thể ứng dụng hệ thống công nghệ hiện đại sẽ vừa giúp ích cho tất cả mọi mặt hoạt động của ngân hàng vừa tạo điều kiện dễ dàng cho công tác KTNB thực hiện tại đơn vị.
3.2.5 Tăng cường ứng dụng và hoàn thiện kỹ thuật, phương pháp kiểm toán
Thực trạng tại chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng và các chi nhánh khác trong hệ thống NHCT về công tác KTNB đều cho thấy các kỹ thuật mà KTV sử dụng trong tất cả hoạt động kiểm toán và đặc biệt trong kiểm toán tín dụng đều còn ở mức độ rất đơn giản, không có sự linh hoạt, thiếu tính chủ động. Vẫn tiến hành công tác kiểm toán hệ thống, lập kế hoạch, đề cương kiểm toán chi tiết và tiến hành thụ động theo những gì vạch sẵn, khi có tình huống bất ngờ xảy ra thì KTV không thể xử lý.
Trong qúa trình kiểm toán, các KTV cần kết hợp sử dụng các mẫu bảng tường thuật, bảng hỏi, mô tả về quy trình tín dụng, tiếp cận các cán bộ tín dụng, tìm hiểu phương cách làm việc của họ, từ đó nhanh chóng xác định được những điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống KSNB trong hoạt động tín dụng. Các KTV cũng cần kết hợp các thử nghiệm kiểm soát như : kiểm tra hệ thống, kiểm tra mẫu chứng từ, kết hợp với việc đánh giá về hoạt động kiểm soát hệ thống quản lý, kiểm soát bảo vệ tài sản... Và quan trọng nữa là xác định đựơc tính trọng yếu các nội dung kiểm toán , mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng, phân loại rủi ro tín dụng của ngân hàng...Tiếp đó, KTV xây dựng kế hoạch một cách cụ thể, sát với tình hình thực tế của ngân hàng, đặc biệt là phải lập kế hoạch có tính đến yếu tố định hướng theo rủi ro trong hoạt động tín dụng tại ngân hàng.
Trong quy trình KTNB hoạt động tín dụng, trình tự các bước vẫn được tôn trọng. Đầu tiên vẫn là đánh giá độ tin cậy của thông tin từ hệ thống KSNB để lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp nhất. Tiếp đó là tìm các văn bản pháp lý, các quyết định của ngân hàng cấp trên để làm căn cứ cho hoạt động kiểm toán. Công việc kiểm toán chi tiết vào các khoản mục, đánh giá tình hình hoạt động tín dụng nói chung và các vấn đề cụ thể của các khoản tín dụng được lựa chọn kiểm toán. Sau khi xem xét, KTV sẽ đánh giá, nhận xét về chất lượng tín dụng của ngân hàng, sau đó là nhận xét về cách phân loại tín dụng, cơ cấu rủi ro và cách trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Các kỹ thuật kiểm toán mà KTV nội bộ thường áp dụng là chọn mẫu phi thống kê, kỹ thuật này đơn giản, dễ thực hiện nhưng không thể đảm bảo kết quả hoạt động kiểm toán là cao. Bởi không có sự chọn lọc các đối tượng kiểm toán tín dụng cụ thể. Vì vậy, các KTV cần phân tích tổng thể hoạt động tín dụng, lựa chọn các phương pháp chọn mẫu thích hợp cho từng đối tượng cụ thể. Với các khoản tín dụng lớn, KTV có thể phải kiểm toán 100%, tức là kiểm tra tất cả các khoản tín dụng này, cũng có những trường hợp tỷ lệ chọn mẫu không cao do tính chất khoản vay có độ an toàn cao và khối lượng vay không lớn. Cần chú ý rủi ro chọn mẫu trong khi kiểm toán, bởi chọn mẫu không mang tính khái quát, đại diện thì không thể đánh giá chung cho cả khoản mục được, và như vậy thì kết quả kiểm toán không tốt.
Trong khi đánh giá các mẫu, nếu sai sót vượt quá xa so với mức cho phép ban đầu thì KTV cần xem xét lại, hoặc là chọn mẫu bổ sung hoặc tiến hành kiểm toán lại.
Về các phần mềm kiểm toán áp dụng tại ngân hàng hiện nay vẫn là phân mềm cũ: MISAC, tính tích hợp không cao, thiếu linh hoạt. Vì thế, bộ phận quản lý phần mềm trong ngân hàng, trung tâm công nghệ của NHCT cần tìm hiểu và ứng dụng chương trình kiểm toán mới phù hợp và mang tính thích ứng cao hơn.
Việc áp dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của kiểm toán tín dụng cũng cần luôn cập nhật với những thay đổi trong loại hình và tính chất của hoạt động tín dụng.
Trong công tác đánh giá khách hàng vay, KTV phải dùng kỹ thuật xem xét cách đánh giá, cho điểm các khách hàng vay của cán bộ tín dụng. Tiếp đó, các khoản tín dụng cũng được phân chia, phân loại thành các mức để tiện theo dõi: mức độ bình thường, cần chú ý, chú ý đặc biệt, khó đòi và thất thoát hoàn toàn. Dựa vào đó, KTV sẽ có định hướng áp dụng phương pháp kiểm toán hợp lý nhất.
3.2.6 KTV nội bộ cần mở rộng mối quan hệ, phối hợp hoạt động với các phòng ban để nâng cao hiêụ quả chung
Hợp tác trong công việc luôn có tác dụng tích cực trong mọi trường hợp. Với KTV thì tạo được mối quan hệ tốt với các nhân viên phòng ban khác càng có tác dụng hỗ trợ tốt công tác kiểm toán. Với kiểm toán tín dụng, quan hệ giữa KTV với các cán bộ tín dụng vừa có tác dụng hỗ tợ, vừa có tác dụng bổ sung lẫn nhau, giúp cả hai cùng hoạt động tốt hơn. Thông qua hiểu biết về nghiệp vụ tín dụng, KTV tín dụng càng dễ dàng trong việc tìm ra những mặt chưa thoả đáng, những chốt còn yếu trong công tác tín dụng tại cỏ sở, đề xuất và rút kinh nghiệm cho nhau để cùng tiến bộ.
3.2.7 Bộ phận KTNB hoạt động tín dụng cần thực hiện đầy đủ các chức năng của KTNB trong ngân hàng
Mới chỉ thực hiện các chức năng đơn giản của KTNB như kiểm tra, kiểm soát, đưa giải pháp... KTNB chưa thực hiện được các chức năng quan trọng khác như tư vấn quản trị, giải quyết các thắc mắc nội bộ cũng như khiếu nại, tố cáo... thì bộ phận này chưa thực sự thực hiện.Kiểm toán tín dụng chưa thể hiện chức năng hỗ trợ thật nhiều cho cấp lãnh đạo tìm giải pháp xử lý các vấn đề tồn đọng trong công tác tín dụng và nâng cao hiệu quả trong công tác này.
Việc đánh giá các nghiệp vụ cụ thể mà chưa đưa ra bản chất cũng như chưa khái quát đựơc đặc thù của chúng cũng phải khắc phục ngay.
Các biện pháp xử lý, tư vấn xử lý và các biện pháp xử lý các trường hợp vi phạm trong hoạt động tín dụng cũng cần được KTV đưa ra chính xác, kịp thời và được thực hiện nghiêm túc với thái độ tôn trọng.
Ngoài ra, các giải pháp lâu dài, mang tính hệ thống với chi phí không nhỏ cũng cần tham khảo, xem xét để thực hiện trong tương lại nhằm nâng cao hơn nữa vai trò và hiệu quả của công tác KTNB nói chung và KTNB hoạt động tín dụng nói riêng.
3.3 Những kiến nghị
3.3.1 Với NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước
Đ ây là các cơ quan quản lý về mặt luật pháp, có trách nhiệm đảm bảo cho hoạt động tài chính - ngân hàng diễn ra có trật tự và có kiểm soát, không để rủi ro hệ thống xảy ra. Để thực hiện tốt chức năng quản lý, điều tiết của mình, NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước cần:
* Nghiên cứu và hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng
Để tăng tính hiệu qủa của hoạt động kiểm tra, KTNB trong các NHTM hiện nay, điều kiện tiên quyết phải thực hiện là có hệ thống các văn bản pháp quy liên quan, điều chỉnh và quy định chính xác các điều khoản, các quy lợi và nghiã vụ của các bên trong quan hệ tài chính, tín dụng, ngân hàng. Vì thế, NHNN và các cơ quan quản lý Nhà nước cần có sự chỉnh sửa, bổ sung, thêm mới hoặc loại bỏ các văn bản pháp luật về lĩnh vực này, đảm bảo:
Sự thống nhất, không mâu thuẫn nhau về mặt nội dung của các văn bản về hoạt động Kiểm tra, kiểm toán trong nội bộ các ngân hàng.
Các văn bản phải có tính ổn định tương đối, phù hợp trong thời gian dài, không nên thay đổi liên tục, gây trở ngại cho công tác Kiểm tra KTNB vì căn cứ pháp luật thay đổi dễ kéo theo sự sai lệch trong nhận định kiểm toán của các nhân viên thực hiện.
Tính mở của các văn bản cao, có thể bổ sung khi thiết để đảm bảo theo kịp sự thay đổi của thực tế trong hoạt động kiểm tra, KTNB tại các ngân hàng.
Có sự quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ kiểm tra, KTNB.
Đối với các văn bản của các cơ quan chuyên ngành ban hành như Bộ tài chính, NHNN, Thanh tra Nhà nước... cũng cần quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ phận KTNB trong các đơn vị kinh tế và đặc biệt trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đồng thời, các văn bản cần nêu rõ về chức năng kiểm toán của các KTV nội bộ, chỉ rõ phạm vi hoạt động kiểm toán của họ, chức năng kiểm toán, và quyền hạn của các KTV trong và sau mỗi cuộc kiểm toán tại nội bộ cơ sở.
Với các văn bản đã ban hành mà có những điểm chưa phù hợp hoặc không còn đúng với điều kiện mới( bị lạc hậu) thì cần kịp thời bổ sung, thay thế. Các cơ quan chức năng cũng cần ban hành thêm các văn bản quy định mới, các thông tư hướng dẫn để tăng cường hơn nữa vai trò, vị trí của công tác KTNB và các cá nhân thực hiện cũng dễ dàng trong triển khai công việc và có căn cứ pháp luật rõ ràng.
* Các cơ quan giám sát, thanh tra ngân hàng cần phối hợp hoạt động với bộ phận KTNB khi tiến hành các cuộc thanh tra
Các bộ phận thanh tra, giám sát, kiểm toán độc lập và KTNB cùng hoạt động có sự định hướng chung, hỗ trợ lẫn nhau thì nhất định mang lại hiệu quả cao trong tất cả các công tác. Cần có sự quy định cụ thể về sự phối hợp này bởi trong thực tế, nhiều khi các hoạt động trên đây không phối hợp với nhau, hoạt động chồng chéo, lãng phí mà không hiệu quả. Nêu có sự quy định cụ thể thì khi tiến hành bất kì nghiệp vụ nào thì đều cần tinh đến các công tác kia, xem xem có thể sử dụng được kết quả nào không, vừa giảm đựơc thời gian mà vẫn hoàn thành tốt công việc.
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam
* Về các văn bản hướng dẫn: trên cơ sở các văn bản quy định của cấp trên về hoạt động KTNB, ban lãnh đạo NHCT cần xem xét cụ thể thực trạng và điều kiện ngân hàng mình để ban hành các văn bản hướng dẫn thật chi tiết và cụ thể, quán triệt tư tưởng kinh doanh và quản lý chung của ngân hàng. Với hoạt động KTNB còn rất mới so với các công tác khác thì càng cần sự hướng dẫn cụ thể hơn.
Hiện NHCT đã có những văn bản hướng dẫn công tác này nhưng mức độ chi tiết thì chưa cao, cho nên trong thời gian tới, ngân hàng cần nghiên cứu và chú trọng hơn về chi tiết trong các văn bản hướng dẫn gửi xuống các phòng KTNB trong hệ thống.
* Công tác cán bộ kiểm toán
NHCT cần thường xuyên tổ chức các khoá học để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán cho các KTV của ngân hàng, trang bị cho họ những kiến thức cập nhật và sát thực nhất cho công tác kiểm toán tại cơ sở.
Ngoài ra, các chế độ công tác, lương, thưởng... cũng cần xem xét cho phù hợp với tính chất công việc và mức độ đóng góp của các KTV trong quá trình kiểm toán nội bộ tại các đơn vị. Đồng thời, cũng cần tăng cường giám sát quá trình thực hiện công việc của các KTV để tránh tình trạng làm việc qua loa, không hết trách nhiệm, hoặc tìm ra những dấu hiệu chịu sự chi phối của các KTV...
NHCT có thể tổ chức những cuộc thi tay nghề, các cuộc giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các KTV... vừa có tác dụng tăng cường giao lưu, học hỏi lẫn nhau, vừa tăng tình đoàn kết trong nội bộ.
* Về công nghệ
NHCT cần tích cực hơn nữa trong công tác đầu tư, đồng bộ hoá công nghệ trong toàn ngân hàng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho công tác KTNB nói riêng và tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng. Phòng công nghệ của ngân hàng cũng cần cập nhật các phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng để có thể tìm thấy những chương trình phù hợp, có thể ứng dụng vào ngân hàng mình, nâng cao hơn nữa hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý các nghiệp vụ.
Kết luận chương 3:
Trong chương 3, em đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị lên các cơ quan chức năng nhằm nâng cao vai trò, hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng và các NHTM nói chung. Với kiến thức còn hạn chế, thời gian, tài liệu, phương pháp nghiên cứu còn chưa nhiều, em rất mong nhận được những lời nhận xét, góp ý của các thầy cô.
Kết luận
Ngân hàng- định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển chung của tất cả các ngành kinh tế khác. Nếu hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh và có hiệu quả thì sẽ có khả năng thúc đẩy toàn nền kinh tế phát triển. Do đó, các ngân hàng luôn đựơc các cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm, giám sát chặt chẽ.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế nước ta, cơ hội để các ngân hàng vươn lên, khẳng định vị thế của mình là rất lớn. Để kinh doanh đạt hiệu quả cao mà vẫn đảm bảo an toàn, các NHTM đều cần phải chú ý đến việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Vì đây là loại rủi ro có nguy cơ cao và thường gây hậu quả nghiêm trọng. Một trong những biện pháp thiết thực và hiệu quả chính là KTNB hoạt động tín dụng tại các ngân hàng.
Với những kiến thức được trang bị tại trường, cùng quá trình thực tập tại chi nhánh NHCT Đống Đa, em đã chọn đề tài : giải pháp nâng cao hiệu quả công tác Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHCT Đống Đa. Nội dung của đề tài này được trình bày trong khoá luận chủ yếu đi vào nghiên cứu trên phương diện lý luận của vấn đề Kiểm toán, Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại các NHTM; phân tích thực tếcông tác KTNB tín dụng tại ngân hàng. Từ đó, phân tích, đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại cảu công tác này tại ngân hàng, đồng thời, em cũng mạnh dạn nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nằm nâng cao hiệu quả công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHCT Đống Đa nói riêng và các NHTM nói chung.
Với sự giúp đỡ của cô Lê Thị Xuân, cùng những cô chú, anh chị tại đơn vị thực tập và sự nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành đợc klhoá luận này. Do hạn chế về thời gian, trình độ, tài liệu nghiên cứu... nên khoá luận còn nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận đựơc hoàn thiện và có giá trị cao hơn!
Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo- Tiến sỹ Lê Thị Xuân đã quan tâm, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em trong quá trình làm khoá luận và nhờ vậy em đã hoàn thành được khoá luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú, anh chị trong phòng Tín dụng- NHCT Đống Đa đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2005
Sinh viên thực hiện
lÊ THị THANH
Tài liệu tham khảo
Kiểm toán ngân hàng- Học viện Ngân hàng
Kiểm toán nội bộ hiện đại
Kiểm toán căn bản
Kế toán- Kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp
Ngân hàng thương mại
Tạp chí Ngân hàng
Tạp chí Kiểm toán
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0717.doc