Nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) - Chi nhánh Hà Nội

Tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) - Chi nhánh Hà Nội: ... Ebook Nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) - Chi nhánh Hà Nội

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1823 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Sơ đồ luân chuyển vốn 6 Hình 1.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức ngân hàngTMCP Sài Gòn_ Chi nhánh Hà Nội 25 Bảng 2.1.Tổng dư nợ qua các năm tại NH TMCP Sài Gòn - chi nhánh HN 30 Bảng 2.2.Tổng tài sản của NH qua các năm (đơn vị: triệu đồng) 31 Bảng 2.3: Tình hình dư nợ tại chi nhánh 2007- 2008 31 Bảng 2.4. Phân tích chất lượng nợ cho vay 33 Biều đồ cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng và loại hình doanh nghiệp. 33 Biểu đồ cơ cấu cho vay theo ngành năm 2007 - 2008 34 Bảng 2.5. Kết quả hoạt động dịch vụ 2007-2008 36 Bảng 2.6.Kết quả tài chính tại ngân hàng TMCP Sài Gòn- CN Hà Nội 37 Bảng 2.7: Quy mô nguồn vốn huy động qua các năm. 38 Bảng 2.9: Tình hình huy động vốn từ tổ chức kinh tế và doanh nghiệp 40 Bảng 2.10: Tình hình huy động vốn của SCB Hà Nội. Theo đối tượng khách hàng, loại hình doanh nghiệp: 41 Bảng 2.11: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo nội ngoại tệ của khách hàng 43 Bảng 2.12: Cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời gian. 44 Bảng 2.8: Cơ cấu kỳ hạn vốn tiền gửi tiết kiệm 46 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SCB :Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn NHTMCP :Ngân hàng thương mại cổ phần NHNN :Ngân hàng nhà nước TCKT :Tổ chức kinh tế NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại CN :chi nhánh LỜI MỞ ĐẦU Năm 2008, nền kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường,đặcbiệt là diễn biến bất thường của giá dầu, giá vàng; cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ lan rộng ra phạm vi toàn cầu làm kinh tế thế giới suy giảm mạnh. Kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn, lạm phát lớn, lạm phát gia tăng làm ảnh hưởng tới sản xuất và sống nhân dân. Đây là năm có rất nhiều biến động đối với kinh tế Việt Nam nói chung và đối với ngành ngân hàng nói riêng, một năm thực sự sóng gió đối với các ngân hàng thương mại cổ phần. Nửa đầu năm Ngân hàng nhà nước ban hành chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc ,ban hành quyết định 03 tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu và hút 20.300 tỷ trái phiếu bắt buộc. Cuộc chạy đua lãi suất tới chóng mặt của các ngân hàng có lúc lãi suất huy động lên tơí 19%. Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng kinh tế MỸ ,mà dù được coi là ít ảnh hưởng thì kinh tế Việt Nam cũng không tránh khỏi những khó khăn nhất định.Các ngân hàng mà đăc biệt là các ngân hàng TMCP đã phải “oằn mình” chống đỡ với tình hình trên và thực tế là đã có rất nhiều ngân hàng phải chịu lỗ trong ngắn hạn. Trong những điều kiện trên,để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và chống lạm phát tiếp đến là giảm phát theo chủ trương chung của chính phủ và NHNN,cùng với các định chế tài chính khác, Ngân hàng TMCP Sài Gòn đã có những quyết sách đúng, nhanh nhạy, nên vẫn giữ được an toàn hoạt động,an toàn thanh khoản và giữ niềm tin đối với khách hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần SÀI GÒN(SCB)-chi nhánh Hà Nội, bằng những bước đi linh hoạt thích nghi với tình hình mới ,chi nhánh SCB Hà Nội đã mang về lợi nhuận cao trong năm qua. Một trong những nguyên nhân mang lại thành công đó không thể không kể tới công tác huy động vốn Trong thời gian thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-chi nhánh Hà Nội, được sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của TS.Cao Ý Nhi cùng các anh chị tại ngân hàng đã giúp em hiểu được phần nào sơ đồ, bộ máy tổ chức cũng như hoạt động cơ bản của một ngân hàng trong thực tế. Em xin trình bày chuyên đề thực tập của em về vấn đề: “Nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- chi nhánh Hà Nội” cho chuyên đề thực tập của mình trong thời gian thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-chi nhánh Hà Nội Do thời gian có hạn, vấn đề lại rất phức tạp và đa dạng, hơn nữa khả năng chuyên môn và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những gì em trình bày trong chuyên đề khó tránh khỏi sai sót, rất mong có sự bổ sung, góp ý hướng dẫn của các thầy, cô và cơ sở nơi em thực tập. 3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là những lý luận cơ bản về vốn ,cách thức sử dụng vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng mà trọng tâm là nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn. Phạm vị nghiên cứu : khảo sát hoạt động của của NHTM CP Sài Gòn-CN Hà Nội trong 3 năm từ 2006 đến 2008. Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTM CP Sài Gòn-CN Hà Nội. 4- Kết cấu của chuyên đề Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm: Chương 1: Lý luận chung về công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- chi nhánh Hà Nội (SCB-CN HÀ NỘI) Chương 3: Giải pháp nâng cao huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- chi nhánh Hà Nội CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1.1.Khái niệm Ngân hàng được hình thành, phát triển phải trải qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng. Hiện nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là ngân hàng hai cấp trong đó có Việt Nam: NHNN là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM. Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác định : “ Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán’’. Luật các TCTD được bổ sung sửa đổi năm 2004, điều 20 giải thích: “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.” và “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Cách tiếp cận thận trọng nhất là xem xét các tổ chức tín dụng này trên phương diện loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng ,tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế 1.1.2.Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế núi chung cũng trong việc thực thi chính sách tài chính – tiền tệ nói riêng. Thực tế cho thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần có lượng vốn lớn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh và phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng vững mạnh.Giữa ngân hang , nền kinh tế có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau.Vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện : 1.1.2.1.NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế Với vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có những điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm cho xã hội. 1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường Để có thể tiếp cận với thị trường đầu ra và tìm kiếm lợi nhuận các doanh nghiệp cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào của mình mà vốn chính là yếu tố đầu vào quan trọng nhất, là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh và nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp không những trông chờ vào vốn tự có mà còn phải biết khai thác các nguồn vốn khác tài trợ cho hoạt động của mình. Nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được khó khăn đó.Từ đó ta thấy:ngân hàng chính là cầu nối để doanh nghiệp đến với thị trường giúp doanh nghiệp tìm kiếm được đầu vào, bôi trơn hoạt động sản xuất kinh doanh làm cho nó phát huy hiệu quả một cách tốt nhất trên thị trường và giúp doanh nghiệp và thị trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian. 1.1.2.3. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Nếu NHNN có nhiệm vụ xây dựng đồng thời thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ như: thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất,… thì các NHTM một mặt chịu sự tác động trực tiếp của các cộng cụ này mặt khác còn tham gia điều tiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức kinh tế, cá nhân về các hoạt động tài chính tín dụng. Nói cách khác, thông qua hoạt động của NHTM với các chủ thể khác trong nền kinh tế, mọi thông tin có liên quan đến việc hoạch định chính sách tiền tệ sẽ được phản hồi lại NHNN, giúp NHNN có thể hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp trong từng thời kỳ để đảm bảo thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng , phát triển ổn định. 1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia độc lập thường xuyên tiến hành những mối quan hệ đa dạng và phức tạp trên nhiều lĩnh vực như : kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, khoa học- kỹ thuật, …trong đó quan hệ kinh tế thường chiếm vị trí quan trọng. Cạnh tranh buộc nền kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt mà quan trọng nhất là tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hoà nhập nền kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới thì hệ thống NHTM với hàng loạt các nghiệp vụ không ngừng được hoàn thiện và phát triển: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối hay uỷ thác đầu tư, …đáp ứng nhu cầu trên. Hệ thống NHTM trong nước đã điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế và đưa nền tài chính trong nước bắt kịp với nền tài chính quốc tế. 1.1.3.Các chức năng của NHTM 1.1.3.1. Chức năng làm trung gian tín dụng. Sơ đồ 1: Sơ đồ luân chuyển vốn Uỷ thác đầu tư Gửi tiền Ngân hàng thương mại cho vay Đầu tư Cá nhân và doanh nghiệp Gửi tiền Ngân hàng thương mại Cá nhân và doanh nghiệp cho vay Đầu tư Cá nhân và doanh nghiệp cho vay Đầu tư Cá nhân và doanh nghiệp Với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại làm "cầu nối" giữa người thừa vốn và người thiếu vốn cho nên nó đã không chỉ đem lại lợi ích cho những người dư thừa vốn, những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đây chính là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, quyết định sự duy trì và phát triển của Ngân hàng và đây cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng sau: 1.1.3.2. Chức năng trung gian thanh toán Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo yêu cầu của khách hàng. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách hang và chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển và xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng. Hệ thống Ngân hàng thương mại góp phần phát triển nền kinh tế thông qua chức năng trung gian thanh toán. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng nhanh hơn, làm cho hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Đối với Ngân hàng thương mại chức năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Không những thế, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ dừng lại ở phạm vi giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của tahnh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. Đây cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại. 1.1.3.3 Chức năng tạo tiền Là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng : Từ một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Khối lượng tiền được điều tiết qua các Ngân hàng Thương mại là : Trong đó D : khối lượng tiền qua hệ thống Ngân hàng Thương mại R : số lượng tiền ban đầu ngân hàng phát hành. Các ngân hàng thương mại hoạt động như một kênh dẫn để thông qua đó tiền cung ứng được tăng lên hay giảm xuống nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng đó nói trên. rd: tỷ lệ dự trữ bắt buộc : hệ số nhân tiền Một ngân hàng khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng thương mại đã thực hiện được chức năng tạo tiền 1.1.4. Hoạt động cơ bản của NHTM Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng,doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu,thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. **/.Mua,bán ngoại tệ Ngân hàng thực hiện mua bán một loại ngoại tệ này lấy một loại ngoại tệ khác đồng thời hưởng phí dịch vụ. **/.Nhận tiền gửi Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết trả đúng hạn .Ngân hàng thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó. **/.Cho vay Ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình để cho khách hàng vay lại, lấy lãi và thu nhập của ngân hàng chính là phần chênh lệch lãi suất huy động và cho vay. **/.Bảo quản tài sản hộ Ngân hàng thưc hiện giữ hộ khách hàng các tài sản tài chính như giấy tờ có giá , vàng…trong két của mình và thu phí **/.Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Ngân hàng còn thực hiện các lệnh chi trả hộ cho khách hàng có tài khoản thanh toán tại ngân hàng..Việc thanh toán thông qua các ngân hàng chính là mở đầu cho phương thức thanh toán không dùng tiền mặt **/.Quản lý ngân quĩ Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. **/.Tài trợ các hoạt động của chính phủ Ngân hàng thường mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được **/.Bảo lãnh Ngân hàng bảo lãnh sẽ cam kết trả thay cho khách hàng nếu khách hàng không có khả năng thanh toán **/.Cho thuê thiết bị trung và dài hạn Cho thuê có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn **/.Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn Nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lí tài sản và quản lí hoạt động tài chính hộ họ. **/.Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Các ngân hàng mở ra các công ty chứng khoán hoặc các công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán **/.Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con ,ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí … **/.Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ , phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 1.2.Vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1.2.1.Khái niệm về vốn của NHTM Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ sở hữu của chúng gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho Ngân hàng, để Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập. Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 1.2.2.Vai trò của nguồn vốn huy động trong hoạt động kinh doanh của NHTM Mục tiêu lớn nhất của bất kỳ NHTM nào cũng là vì lợi nhuận và vì sự tăng trưởng không ngừng của nguồn vốn. Đây là yếu tố không thể thiếu được để tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh. Vốn là cơ sở để Ngân hàng Thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Bởi vì với đặc trưng hoạt động Ngân hàng Thương mại, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. Vì vậy có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Vì lẽ đó nên ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng,các hoạt động khác của ngân hàng. Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Các ngân hàng trường vốn sẽ có lợi hơn so với các ngân hàng nhỏ vì khả năng vốn của họ có thể đáp ứng được nhiều nhu cầu vay trên thị trường. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị trường. Để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín cao, với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả vừa giữ chữ tín vừa nâng cao uy tín của ngân hàng. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.Vốn lớn chính là điều kiện thuân lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng và doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng nên ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đồng thời vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường không những đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết... Bên cạnh vai trò quan trọng của nguồn vốn trong kinh doanh ngân hàng thì chức năng hoạt động của ngân hàng là “đi vay để cho vay”đã đặt ra cho các Ngân hàng Thương mại một vấn đề là: phải không ngừng chăm lo tới sự phát triển của nguồn vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình. Do đó, hiện nay cùng với công tác sử dụng vốn thì các ngân hàng cũng rất quan tâm đến công tác huy động vốn. Cho nên công tác huy động vốn có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi Ngân hàng Thương mại. 1.2.3.Các hình thức huy động vốn của NHTM 1.2.3.1 Phân loại theo thời gian huy động */Huy động vốn ngắn hạn Là hình thức ngân hàng huy động vốn để cho vay ngắn hạn thường là dưới 1 năm. Vốn ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động ( nếu ngân hàng thuộc khối phục vụ cho vay dân cư) : cho vay để mua đồ sinh hoạt, cho vay tiêu dùng, cho vay vốn lưu động...Vì vậy nguồn vốn này được huy động với lãi suất thấp. */Huy động vốn dài hạn Đây là hình thức ngân hàng để huy động để phục vụ hoạt động cho vay trung và dài hạn,thời hạn từ 1 năm trở lên. Nguồn vốn huy động dài hạn được sử dụng chủ yếu cho các khoản tín dụng trung hạn và dài hạn như : đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp thay đổi công nghệ, cải tiến sản phẩm, đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới dây chuyền công nghệ... Đây là khoản vốn huy động mà ngân hàng phải trả lãi cao. 1.2.3.2.Phân loại theo đối tượng */Vốn chủ sở hữu Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. +) Nguồn vốn hình thành ban đầu. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngan sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu, ngân hàng lien doanh do các bên liên doanh góp;ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân. +)Nguồn vốn bổ sung trong trong quá trình hoạt động. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu. Nguồn vốn phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở rộng quy mô hoạt động, đổi mới trang thiết bị. +)Các quỹ Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,… +) Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần. Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. */Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước Đây là lĩnh vực ngân hàng huy động được nhiều vốn nhất vì các đơn vị này gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Giao dịch tiền tệ giữa các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thanh toán và các khoản phải thu tiền mà trên tài khoản của các tổ chức này tại ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định và trở thành một nguồn vốn có chi phí thấp giúp các ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay ngắn hạn đôi khi cả trung hạn. Tuy nhiên, tính ổn định và độ lớn của nguồn vốn này phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. */Huy động vốn từ các tầng lớp dân cư Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có những khoản tiền dự phòng cho những tiêu dùng và rủi ro trong tương lai. Khi xã hội càng phát triển thì các khoản dự phòng càng tăng lên. Nắm bắt được những đặc tính đó, các Ngân hàng Thương mại tìm mọi hình thức để huy động các khoản tiết kiệm này, vì nếu gom được chúng ngân hàng sẽ có một nguồn vốn không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng thời thu được lợi nhuận. */Huy động vốn từ các ngân hàng khác và các tổ chức tài chính Các hình thức huy động vốn nói trên đóng vai trò chủ yếu trong công tác huy động vốn của Ngân hàng Thương mại. Tuy nhiên, trong tình hình kinh doanh của các ngân hàng ngày nay, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến nguồn vốn có thể huy động được bằng cách vay các Ngân hàng Thương mại khác thông qua thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng. Các Ngân hàng Thương mại là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giống như những doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác, ở các ngân hàng và các tổ chức tài chính cũng thường xuất hiện tình trạng tạm thời thừa, thiếu vốn so với nhu cầu ở đầu ra của họ. 1.2.3.3. Phân loại theo các công cụ huy động vốn của ngân hàng */Huy động các tài khoản tiền gửi của khách hàng Đây là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu tài sản nợ của các Ngân hàng Thương mại. Huy động tiền gửi là đặc trưng cơ bản trong kinh doanh của các ngân hàng. Tiền gửi bao gồm : .Tiền gửi thanh toán (thường không có kỳ hạn) Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, thuận tiện và an toàn. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản : tài khoản tiền gửi thanh toán, tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba được thực hiện bằng séc hoặc chuyển khoản. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư Nợ có lúc dư Có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một thời gian nhất định. Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên tồn khoản mà ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh cho mình. .Tiền gửi có kỳ hạn Là loại tiền được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng với ngân hàng.Vì thế, theo nguyên tắc khách hàng ký thác chỉ được rút ra khi đến hạn đã thoả thuận. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ , xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi.Cho nên, khác với tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến nguồn này. Các Ngân hàng Thương mại nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn : tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (khi rút phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền có kỳ hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các tài khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vai trò trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, trước hết các Ngân hàng Thương mại thường áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng được mọi nhu cầu của các loại khách hàng khác nhau. Mỗi kỳ hạn ngân hàng thường áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. .Tiền gửi tiết kiệm Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm đứng ở vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kkỳ. Tiền gửi tiết kiệm gồm có : tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào và không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là khoản tiền có sự thoả thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. */ Huy động vốn qua thị trường Các Ngân hàng Thương mại còn tăng cường nguồn vốn bằng cách vay vốn trên thị trường, phát hành các phiếu nợ như kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu Ngân hàng Thương mại. Các hình thức này ngày càng phổ biến và mang lại những kết quả tốt . .Phát hành các loại phiếu nợ: Trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động vốn rất cơ động và thoáng. Bằng các công cụ này các ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng vốn lớn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách. Điều này đặc biệt cần thiết khi nền kinh tế có lạm phát. Các trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng được phát hành ra vừa có tác dụng duy trì khối lượng huy động vừa có tác dụng chống lạm phát. Các Ngân hàng Thương mại phải trả lãi suất cao hơn cho các hình thức huy động này so với lãi suất tiền gửi huy động. Như vậy, khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động vốn. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã đủ khối lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu. .Huy động vốn thông qua việc vay các Ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng và ngân hàng trung ương (huy động thông qua các hình thức vay vốn khác trên thị trường ): Các Ngân hàng Thương mại khi xuất hiện trên thị trường để vay vốn thường do một số nguyên nhân cấp thiết như thiếu hụt dự trữ tại ngân hàng trung ương, thiếu tiền mặt... nên ngoài việc phát hành phiếu nợ, các Ngân hàng Thương mại có thể đi vay lẫn nhau giữa các ngân hàng tại những khoản dự trữ tại ngân hàng trung ương. Đây là các khoản mua bán chứng khoán mà Ngân hàng Thương mại đang kinh doanh bên tài sản Có đối với các tổ chức trung gian tài chính khác. Thời hạn vay mượn giữa các Ngân hàng Thương mại rất linh hoạt có thể ít ngày hoặc cũng có thể dài hạn phù hợp với nhu cầu về vốn của Ngân hàng Thương mại trong từng giai đoạn cụ thể. Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục k._.hông đáp ứng được đủ nhu cầu sử dụng của Ngân hàng Thương mại thì Ngân hàng Thương mại sẽ đi vay của ngân hàng trung ương. Trong quan hệ với ngân hàng trung ương, các Ngân hàng Thương mại đóng vai trò là khách hàng thường xuyên và ngân hàng trung ương với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng đồng thời là người “cứu cánh cuối cùng” đối với các Ngân hàng Thương mại. 1.2.4 Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn Điểm khác nhau cơ bản trong nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại với các doanh nghiệp phi tài chính là: Ngân hàng Thương mại kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế còn các doanh nghiệp khác hoạt động dựa trên vốn tự có là chính. Vì vậy đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn là công tác không thể thiếu trong nghiên cứu nguồn vốn của các ngân hàng. Khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn, các nhà nghiên cứu thường tập trung vào một số tiêu chí sau đây: Tỉ lệ quỹ đảm bảo khả năng thanh toán: Các Ngân hàng Thương mại phải chấp hành tỷ lệ này nhằm đảm bảo an toàn cho các khoản huy động. Ngân hàng nào có tỷ lệ này đúng theo quy định chứng tỏ ngân hàng đó rất coi trọng công tác huy động vốn bởi vì bên cạnh huy động vốn - mục tiêu của ngân hàng thì ngân hàng cũng đảm bảo được an toàn cho khách hàng, tạo được tâm lý yên tâm cho khách hàng khi họ “gửi gắm ” tiền cho ngân hàng. Sở dĩ các ngân hàng phải chấp hành tỷ lệ này vì không phải các khoản huy động nào cũng có tính ổn định, các ngân hàng phải có khả năng thanh toán để đảm bảo cho các nhu cầu rút tiền mặt bất thường của khách hàng nhằm không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng, từ đó góp phần làm ổn định nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm bình quân đầu người : Để đánh giá mức độ huy động được từ dân cư, ta xét hệ số trên. Nếu tỉ lệ này càng cao chứng tỏ hoạt động huy động vốn đạt kết quả tốt, bởi vì ngân hàng đã tác động vào ý thức tiết kiệm, ý thức gửi tiền vào ngân hàng và đã thu hút được một nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ dân cư để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. So sánh nguồn vốn huy động và việc sử dung vốn: Nếu một Ngân hàng Thương mại có nguồn sử dụng vốn tương xứng với nguồn vốn huy động, chứng tỏ nguồn vốn huy động đã được sử dụng có hiệu quả và công tác huy động vốn của ngân hàng đã thành công. Bởi vì phần lớn thu nhập từ hoạt động sử dụng vốn sẽ bù đắp phần nào chi phí huy động và đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Hơn nữa việc sử dụng vốn tốt sẽ thúc đẩy hoạt động huy động vốn. Cho nên khi đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác huy động vốn người ta thường xem xét đến công tác sử dụng vốn của ngân hàng đó. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm: Sự phát triển của các ngân hàng đều tập trung vào mục tiêu lợi nhuận và tăng trưởng dư nợ. Để tăng trưởng được dư nợ thì ngân hàng phải mở rộng doanh số cho vay và điều này có liên quan đến nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng lớn hay nhỏ. Việc gia tăng nguồn vốn biểu hiện qua nghiệp vụ huy động vốn. Nếu huy động vốn có hiệu quả sẽ làm tăng nguồn vốn kinh doanh, tăng doanh số cho vay, tăng lợi nhuận. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn vốn của ngân hàng được bổ sung như thế nào tuỳ thuộc chủ yếu vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng đó. Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu các khoản huy động: Mỗi loại tiền gửi có các yêu cầu khác nhau về chi phí, thanh khoản, thời hạn...Do đó, việc xác định rõ cơ cấu vốn huy động sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hoá chi phí đầu vào. Chúng ta sẽ so sánh những khoản vốn có tính thời hạn dài so với các khoản vốn có tính thời hạn thấp để xem xét sự ổn định của nguồn vốn huy động. Từ đó tìm ra nguyên nhân và biện pháp để tăng các khoản huy động có thời hạn dài. Chi phí huy động là vấn đề mà các ngân hàng đều quan tâm. Để có được chi phí đầu vào hợp lý, có lợi cho ngân hàng thì các ngân hàng phải xem xét khoản mục nào có tỷ trọng lớn nhất. Trong thực tế các khoản huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có tính ổn định tương đối cao, chi phí vừa phải rất có lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cho nên để đẩy mạnh hiệu quả công tác huy động vốn thì các ngân hàng phải tìm cách nâng cao tỷ trọng của nhóm này lên hơn nữa trong cơ cấu vốn huy động của mình. Bên cạnh đó các khoản vốn huy động từ khu vực dân cư rất tiềm tàng giúp Ngân hàng mở rộng kinh doanh tín dụng tiêu dùng, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông có lợi cho nền kinh tế. 1.2.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM Nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ kinh doanh truyền thống của các ngân hàng. Nó có ý nghĩa quan trọng với hoạt động của bất cứ Ngân hàng Thương mại nào vì nó cung cấp vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó để nghiệp vụ này mang lại kết quả cao nhất thì bên cạnh việc tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng huy động vốn, các Ngân hàng Thương mại cũng phải xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn, để tìm cách hạn chế chúng. 1.2.5.1 Nhóm nhân tố khách quan: Ý thức tiết kiệm của dân cư: Xu hướng hiện nay của các Ngân hàng Thương mại ở các nước phát triển là đẩy mạnh công tác huy động vốn trong khu vực dân cư, nơi mà tầng lớp trung lưu đang tăng lên nhanh chóng, có nhiều tiền nhàn rỗi và tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm ở các nước này chiếm một tỷ trọng khá cao trong vốn huy động( thường là : 80%). Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được trong dân cư nên ngân hàng có thể dùng cho vay. Thực tế đã chứng minh : nếu quốc gia nào có tỷ lệ tiết kiệm cao thì quy mô, chất lượng công tác huy động vốn của ngân hàng sẽ tăng lên và do đó công tác tín dụng cũng rất phát triển. Nhân tố thu nhập của dân cư: Khả năng huy động vốn của ngân hàng tỷ lệ thuận với thu nhập của dân cư, điều này có nghĩa là thu nhập của dân cư càng cao thì tiền gửi tiết kiệm càng tăng lên. Tuy nhiên khối lượng tiền trong dân cư không thể xác định một cách dễ dàng. Vì vậy , muốn dân chúng gửi tiền vào ngân hàng thì phải có chính sách lãi suất thích hợp cùng với sự hấp dẫn về các dịch vụ ngân hàng. Lòng tin của dân chúng đối với ngân hàng vào đồng bản tệ: Khi nền kinh tế phát triển không ổn định, có lạm phát hay có nguy cơ xuất hiện lạm phát thì người dân phần lớn không thích gửi tiết kiệm, họ thích tích trữ vàng, ngoại tệ mạnh như đô la, với kỳ vọng là bảo toàn được giá trị. Trong hoàn cảnh này nếu ngân hàng không có chính sách huy động vốn thích hợp, hấp dẫn như tiền gửi đảm bảo bằng vàng, tiền gửi có tính đến trượt giá thì sẽ không huy động được tiền gửi tiết kiệm và lạm phát có thể bị đẩy lên cao hơn. Nhân tố thời kỳ tiêu dùng: Thời kỳ tiêu dùng cũng có ảnh hưởng lớn đến tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm của một Ngân hàng Thương mại trong một thời gian nhất định. Vào thời vụ tiêu dùng thì nói chung tiền gửi tiết kiệm giảm xuống. Chẳng hạn vào dịp Tết Nguyên đán chẳng những tiền gửi tiết kiệm không tăng mà còn có thể giảm do dân chúng rút tiền để sắm Tết. Nhân tố môi trường pháp lý Trong hoạt động ngân hàng đòi hỏi phải có hệ thống luật điều chỉnh thì hoạt động kinh doanh mới có thể an toàn, đồng thời các Ngân hàng Thương mại tuân thủ nghiêm chỉnh luật pháp cũng là một hình thức tạo niềm tin đối với khách hàng của mình, có vậy xã hội mới đi vào trật tự, kỷ cương. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng cũng phải tuân theo sự điều hành của các chính sách tiền tệ do chính phủ và ngân hàng nhà nước ban hành. Nhân tố môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh đó là các điều kiện kinh tế - xã hội nơi ngân hàng hoạt động và sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng Thương mại trên cùng một địa bàn. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện hoặc hạn chế khả năng huy động vốn của bản thân ngân hàng, do vậy ngân hàng phải linh hoạt bám sát thị trường, quyết đoán trong khi quyết định áp dụng các hình thức huy động vốn cho thích hợp để huy động tối đa lượng tiền tiết kiệm trong dân chúng. Bảo hiểm tiền gửi : Các tổ chức kinh tế và dân cư gửi tiền vào ngân hàng đều tin tưởng ngân hàng là nơi giữ tiền an toàn nhất. Nhưng do sự phát triển của nền kinh tế có thể có biến động ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng và tác động đến tâm lý người dân. Để xoá đi tâm lý lo lắng về sự an toàn của các khoản tiền gửi thì các Ngân hàng Thương mại nên phối hợp với công ty bảo hiểm để mở bảo hiểm tiền gửi. Nếu có rủi ro xảy ra, ngân hàng không có khả năng thanh toán thì công ty bảo hiểm sẽ thanh toán thay. Làm tốt bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng sẽ hạn chế được một nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn góp phần tăng cường công tác huy động vốn tại ngân hàng. 1.2.5.2 Nhân tố chủ quan Chính sách lãi suất cạnh tranh Chính sách lãi suất cạnh tranh( bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và lãi suất cạnh tranh cho vay) là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Việc duy trì lãi suất cạnh tranh huy động đặc biệt cần thiết khi lãi suất thị trường đã ở mức tương đối cao. Các Ngân hàng Thương mại không chỉ cạnh tranh giành vốn với nhau mà còn với các tổ chức tiết kiệm, người phát hành các công cụ khác nhau của thị trường vốn. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tiết kiệm này sang một công ty khác hay một tổ chức. Chính sách khách hàng: Trong công tác khách hàng, ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều loại để có cách ứng xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm, giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn và gây được tín nhiệm cho bản thân ngân hàng thì ngân hàng sẽ có một chính sách thích hợp về lãi suất, kỳ hạn của món vay cũng như việc bảo lãnh các hợp đồng... Công tác cân đối vốn của ngân hàng : Một chiến lược huy động vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh. Sự hài hoà giữa huy động vốn và sử dụng vốn chính là công tác cân đối vốn của ngân hàng. Công tác cân đối vốn là hết sức quan trọng đồng thời cũng rất cần thiết đối với hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào. Đó là một biện pháp nghiệp vụ và là một công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo ngân hàng, thông qua bảng cân đối vốn đã lập, các cán bộ ngân hàng xem xét, phân tích cơ cấu, tỷ trọng các nguồn vốn và từng khoản sử dụng để dự đoán nhu cầu vốn biến động trong tương lai, từ đó co chính sách huy động vốn thích hợp. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng : Đây cũng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế sẽ càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu tâm lý của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức càng cao thì càng dễ dàng đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiết kiệm phù hợp mà lại an toàn. Cho nên các Ngân hàng Thương mại thường cân nhắc rất kỹ trước khi đưa vào áp dụng một hình thức huy động mới. Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng: Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện thành phố chật chội ngân hàng có quầy giao dịch mặt đường trên các phố chính, có hệ thống rút tiền tự động làm việc ngày đêm... có cán bộ giao dịch niềm nở, có trách nhiệm tạo được niềm tin với khách hàng cũng là những lợi thế đáng quan tâm của các Ngân hàng Thương mại. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn, do vậy đây là điểm mạnh để các ngân hàng thắng thế trong cạnh tranh. Chính sách Marketing Không một ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo trong thời đại ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại quảng cáo luôn được đề cao , cần phải có một chi phí nhất định cho công tác này. Đồng thời ngân hàng cũng phải có chiến lược quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả panô, áp phích nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN- CHI NHÁNH HÀ NỘI (SCB_CN HÀ NỘI) 2.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn-chi nhánh Hà Nội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển * Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Sài Gòn ( Sai Gon Commercial Joint Stock Bank - SCB) xuất thân từ NHTMCP Quế Đô, được thành lập năm 30/06/1992, theo số ĐKKD gốc 05019/NH-GP. Vì một số nguyên nhân, sau khi đi vào hoạt động NH Quế Đô đã gặp phải rất nhiều khó khăn, hoạt động kinh doanh không hiệu quả, thậm chí trên bờ vực phá sản. Trước tình hình đó hội đồng cổ đông (HĐCĐ) hiện tại của NH đã tiến hành mua lại ngân hàng, cơ cấu lại tổ chức và hoạt động để tiếp tục đưa NH phát triển. Thương hiệu NHTMCP Sài Gòn chính thức được giới thiệu trên thị trường từ ngày 08/04/2003, có hội sở chính tại 193-203 Trần Hưng Đạo, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Với thương hiệu mới, cùng những nỗ lực đổi mới và phát triển, SCB đã đạt được những kết quả đáng kể trong thời gian. Chi nhánh SCB tại Hà Nội được thành lập theo GPTL số 0113009192 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 04/10/2005.Ngày 8/10/2005,Ngân hàng thương mại cổ phần SÀI GÒN(SCB) đã chính thức khai trương và đi vào hoạt động Chi nhánh tại số 4 Hồ Xuân Hương,quận Hai Bà Trưng. Đây chính là bước tiến đưa thương hiệu SCB đến với các tầng lớp dân cư và doanh nghiệp ở Hà Nội cũng như thị trường phía Bắc. Là ngân hàng “Bắc tiến” muộn hơn so với các ngân hàng khác nhưng SCB đã và sẽ cạnh tranh bằng chính chất lượng dịch vụ để chiếm lĩnh thị phần. Ngay trong ngày khai trương chi nhánh Hà Nội, SCB đã ký hợp đồng tiền gửi với Công ty kỹ thuật Hatex trị giá 20 tỷ đồng và Hợp đồng tiền vay với Công ty kim khí Hưng Yên trị giá 15 tỷ đồng.chi nhánh cũng đã trao tặng số tiền ủng hộ 100 triệu đồng cho Quĩ vì người nghèo Thành phố Hà Nội. Chi nhánh Hà Nội là chi nhánh đầu tiên có mặt ở miền Bắc. Đến 30/9/2006, tại trụ sở của chi nhánh có 4 phòng: phòng Kế toán, phòng Tín dụng, phòng Ngân quĩ, phòng Hành chính tổ chức, và có 3 phòng giao dịch trực thuộc là phòng giao dịch Đống Đa, phòng giao dịch Hoàn Kiếm, phòng giao dịch Ba Đình.Chi nhánh có tổng số 59 cán bộ công nhân viên, trong đó có 41 người có trình độ cử nhân và trên đại học, chiếm 69,5% tổng số cán bộ công nhân viên. Sau ba năm thành lập, chi nhánh Hà Nội vừa hoạt động vừa mở rộng mạng lưới. Đến thời điểm hiện tại chi nhánh có 8 phòng giao dịch trên địa bàn Hà Nội là: phòng giao dịch Đống Đa, phòng giao dịch Hoàn Kiếm, phòng giao dịch Ba Đình, phòng giao dịch Thanh Xuân, phòng giao dịch Thanh Nhàn, phòng giao dịch Cầu Giấy, phòng giao dịch Láng Hạ, phòng giao dịch Trần Hưng Đạo. Tổng số cán bộ nhân viên là 96 người, trong đó có 75 người có trình độ cử nhân và trên đại học, chiếm 75% tổng số nhân viên. Đội ngũ nhân viên có tuổi đời rất trẻ, bình quân là 26 tuổi, có kiến thức chuyên môn và say mê công việc. SCB CN Hà Nội luôn chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại từ cấp quản lý đến đội ngũ cán bộ nhân viên, bổ sung nguồn nhân lực trẻ được đào tạo bài bản từ các trường Học viện ngân hàng và đại học Kinh tế thông qua thi tuyển trực tiếp... nhằm có được đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp phục vụ nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất. Tại trụ sở chi nhánh đã mở thêm một số phòng ban mới nhằm tạo điều kiện quản lý dễ dàng và chuyên môn hóa công việc vµ đó là các phòng mới như: tổ định giá tài sản, tổ kiểm soát nội bộ. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHTMCP Sài Gòn –CN Hà Nội 2.1.2.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức Hội sở Ban giám đốc Hội sở Phßng kiÓm so¸t héi së Phòng kiểm soát hội sở Tæ ®Þnh gi¸ héi së Ban giám đốc Hội sở Phòng kiểm soát hội sở Ban giám đốc Ban giám đốc Hội sở Phòng kiểm soát hội sở Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ dịnh giá Phòng giao dịch Phòng quản lý Phòng tín dụng Phòng tín dụng Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm soát nội bộ Tổ định giá hội sở Hình 1.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức ngân hàngTMCP Sài Gòn_ Chi nhánh Hà Nội Giám đốc chi nhánh là: Ông Trần Minh Cương (kiêm Phó tổng giám đốc SCB) Phó giám đốc là: - Bà Đoàn Thu Hương Với 8 phòng giao dịch trên địa bàn Hà Nội là : - Phòng giao dịch Đống Đa - Phòng giao dịch Hoàn Kiếm - Phòng giao dịch Ba Đình - Phòng giao dịch Thanh Xuân - Phòng giao dịch Thanh Nhàn - Phòng giao dịch Cầu Giấy - Phòng giao dịch Láng Hạ - Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo 2.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban */Phòng tín dụng Phòng tín dụng có các nhiệm vụ sau đây: - Đầu mối tham mưu đề xuất với giám đốc chi nhánh xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng sản xuất, lưu thông, tiêu dùng. - Phân tích kinh tế theo ngành , nghề kĩ thuật, danh mục khách hàng để lựa chọn biện pháp cho vay an toàn,đạt hiệu quả cao. Thẩm định, đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền, thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ xuất trình ngân hàng cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. Thường xuyên phân loại nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân đồng thời đề xuất hướng khắc phục. - Quản lý ( hoàn chỉnh, bổ sung, bảo quản, lưu trữ, khai thác,…) hồ sơ tín dụng theo quy định; tổng hợp, phân tích, quản lý thông tin , lập báo cáo về công tác tín dụng theo phạm vi được phân công. Phối hợp với các phòng ban khác theo quy trình tín dụng. - Giúp giám đốc chi nhánh chỉ đạo, kiểm tra hoạt động tín dụng của các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn. Tổng hợp, báo cáo, kiểm tra chuyên đề theo quy định và thực hiện các nhiệm vụ do giám đốc chi nhánh giao. */ Phòng kế toán Phòng Kế toán gồm có: Kế toán giao dịch, Kế toán nội bộ (kế toán tổng hợp, kế toán nội bộ và thanh toán quốc tế) Phòng kế toán có các nhiệm vụ sau đây: - Trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê và thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và ngân hàngTMCP Sài Gòn - Chấp hành quy định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ theo quy định. Chấp hành chế độ báo cáo và kiểm tra chuyên đề, thực hiện các nhiệm vụ do giám đốc chi nhánh giao - Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế trực tiếp theo quy định. - Thực hiện công tác thanh toán quốc tế thông qua mạng SWIFT - Thực hiện nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh ngoại tệ có liên quan đến thanh toán quốc tế. - Thực hiện các dịch vụ kiều hối và chuyển tiền, mở tài khoản khách hàng nước ngoài. Thực hiện quản lý thông tin, thực hiện các nhiệm vụ khác */ Phòng ngân quỹ Phòng ngân quĩ có các nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng chỉ tiêu kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, quỹ tiền lương đối với các chi nhánh trên địa bàn. - Quản lý sử dụng các quỹ chuyên dùng theo quy định của ngân hàng. Tổng hợp lưu trữ hồ sơ tài liệu về kế toán, quyết toán và báo cáo theo quy định. */ Phòng hành chính nhân sự Phòng hành chính nhân sự có các nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng công tác hàng tháng, quý của chi nhánh và có trách nhiệm thường xuyên đôn đốc việc thực hiện chương trình đã được giám đốc chi nhánh phê duyệt. Tư vấn pháp chế trong việc thực thi các nhiệm vụ cụ thể về giao kết hợp đồng, hoạt động tố tụng, tranh chấp dân sự, hình sự, kinh tế, lao động, hành chính liên quan đến cán bộ công nhân viên và tài sản của ngân hàng. - Đầu mối quan hệ với các cơ quan tư pháp của địa phương. Lưu trữ văn bản pháp luật liên quan hoạt động tại chi nhanhs, định chế của ngân hàng. Phân tích đánh giá văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động tại chi nhánh. - Dự thảo đường lối làm việc tại đơn vị và mối quan hệ với tổ chức Đảng, Công đoàn, chi nhánh trực thuộc địa bàn. Tham gia đề xuất mở rộng mạng lưới, chuẩn bị nhân sự cho mở rộng mạng lưới, hoàn tất hồ sơ, thủ tục liên quan phòng giao dịch, chi nhánh - Trực tiếp định mức lao động, giao khoán quỹ tiền lương đến các phòng giao dịch.Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng của chi nhánh, chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm tra chuyên đề, thực hiện các nhiệm vụ khác do giám đốc giao */ Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ có các nhiệm vụ sau đây: - Xây dựng chương trình công tác năm, quý phù hợp với chương trình công tác kiểm tra, kiểm soát của chi nhánh Hà Nội. Tuân thủ tuyệt đối sự chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán. - Tổ chức kiểm tra, xác minh, tham mưu cho giám đốc giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền. Làm nhiệm vụ thường trực Ban chống tham nhũng, tham mưu cho lãnh đạo trong hoạt động chống tham nhũng, tham ô, lãng phí, thực hành tiết kiệm tại đơn vị mình. Như vậy, với bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ, ngân hàng TMCP Sài Gòn - Chi nhánh Hà Nội luôn đạt được những thành công đáng kể. Đến nay đã tạo được một thị phần đáng kể trên địa bàn, xây dựng mối quan hệ gắn bó với khách hàng truyền thống, tạo cơ sở vững chắc cho Ngân hàng phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo niềm tin với khách hàng. 2.1.3. Kết quả hoạt động của NHTMCP Sài Gòn –CN Hà Nội Từ năm 2005 đến cuối năm 2008, tình hình tài chính của CN Hà Nội đã từng bước được lành mạnh hoá và hoạt động kinh doanh liên tục có lãi, năm sau cao hơn năm trước.Năm 2008 được coi là năm có nhiêu biến động đối với ngành ngân hàng,đặc biệt là các ngân hàng TMCP khi Ngân hàng Nhà nước thắt chặt chính sách tiền tệ, buộc các ngân hàng nâng dự trự bắt buộc theo quy định, mua tín phiếu bắt buộc... thì hầu hết các ngân hàng rơi vào khủng hoảng thanh khoản, từ khủng hoảng thanh khoản buộc các ngân hàng phải nhảy vào cuộc chạy đua lãi suất huy động,có những lúc lãi suất huy động lên tới 19%.  Sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế trong năm qua đã khiến các ngân hàng không chủ động trong mục tiêu kinh doanh và vì thế không đạt mức lợi nhuận đề ra từ đầu năm.Tuy nhiên tại ngân hàngTMCP Sài Gòn-Chi nhánh Hà Nội lại thu được những kết quả tốt. Các chỉ tiêu tổng tài sản, nguồn vốn huy động, dư nợ đầu tư tín dụng đều có mức tăng trưởng cao và ổn định. Năm 2005, mức cổ tức chia là 12%, năm 2006 mức cổ tức chia là 16%,năm 2007 là 16% Cuối năm 2005, vốn điều lệ SCB đạt 271.788 tỷ đồng với 235 cổ đông. Năm 2006 tiếp tục chứng kiến những bước tăng trưởng đột phá của SCB với hàng loạt chỉ tiêu và hoạt động kinh doanh đều có mức tăng trưởng cao, và ổn định và vượt rất xa so với yều cầu của Hội Đồng Quản Trị. Tổng tài sản của ngân hàng đã vượt ngưỡng 10,000 tỷ đồng. Đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của SCB đạt 600 tỷ đồng với 291 cổ đông, tổng thặng dư vốn xấp xỉ 88 tỷ đồng được chia lại cho cổ đông hịên hữu nâng tổng thu nhập trên một cổ phần năm 2006 (phần cổ tức năm 2006 và thặng dư vốn) lên 45.1%. Trong năm 2007, bên cạnh hình ảnh một ngân hàng vững mạnh, SCB Hà Nội còn được công chúng biết đến là một ngân hàng luôn hướng đến cộng đồng thông qua những đợt quyên góp, tài trợ những chương trình từ thiện của các tổ chức chính trị xã hội Trung ương và các địa phương diễn ra đều đặn, liên tục khắp các vùng, miền trong cả nước,cổ tức chia đạt 16%. Năm 2008, SCB Hà nội tiếp tục hoàn thiện và phát triển trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Lợi nhuận sau thuế đạt tới 212.7 tỷ đồng. Đây quả là một thành tích tốt. *Hoạt động huy động vốn Bảng 2.1.Tổng dư nợ qua các năm tại NH TMCP Sài Gòn - chi nhánh HN Đơn vị :Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 % Năm 2007 % Năm 2008 % Tổng nguồn vốn 591,383 100 5,962,039 100 5,941,062 100 I Cơ cấu nguồn vốn theo đối tượng KH 1 Tiền gửi của KBNN 0 0 0 0 0 0 2 Tiền gửi của TCKT 450,389 76 1,584,780 26.58 602,703 10.144 3 Tiền gửi của cá nhân 140,544 24 4,377,174 73,42 4,053,439 68.226 4 Tiền gửi của các đối tượng khác 0 0 85 0.0014 1,284,920 21,63 II Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền gửi 1 Tiền,vàng gửi không kỳ hạn 151,898 25.6 270,787 4.55 307,082 6.609 2 Tiền, vàng gửi có kỳ hạn 438,197 74.1 5,686,731 95.38 4,286,769 92.044 3 Tiền gửi vốn chuyên dùng 18 3 85 0.0014 45,346 0.974 4 Tiền gửi ký quỹ 1,270 0.21 4,436 0.07 18,099 0.337 Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2006- 2007-2008 của SCB chi nhánh Hà Nội. * Về cơ cấu huy động: + Cơ cấu huy động theo kỳ hạn : tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đều tăng về mặt tuyệt đối qua các năm.Điều đo chứng tỏ các doanh nghiệp đã thấy được tính ưu việt của viêc thanh toán qua ngân hàng.Vì còn dừng lại ở con số khiêm tốn tới năm 2008 mới chiếm 6.609% tổng vốn huy động, mà đây lại là nguồn vốn rẻ, do đó ngân hàng cần hướng tới các giải pháp để nâng cao hơn nữa nguồn này. + Cơ cấu huy động vốn theo đối tượng khách hàng: ta thấy tỷ trọng vốn huy đông từ khách hàng cá nhân vẫn nhiều nhất năm 2006 đạt 140,544 triệu chiếm 24%, năm 2007 đạt 4,377,174 triệu chiếm 73.42%, năm 2008 đạt 4,053,439 triệu chiếm 68.226 %. Đây là nguồn mang tính ổn định cao, mang lại sự chủ động cho ngân hàng. *Hoạt động sử dụng vốn: Bảng 2.2.Tổng tài sản của NH qua các năm (đơn vị: triệu đồng) TT Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Tỷ lệ gia tăng (lần) 1 Tiền mặt 8,272.9 12,845 1.55 2 Tiền gủi tại NHNN 342.9 659 1.92 3 Tiền gửi tại TCTD trong và ngoài nước 1,972.3 1,596.342 0,8095 4 Cho vay khách hàng 1,051,437.2 896,013 0.852 5 Tài sản cố định 41,806.7 36,918 0.883 6 Tài sản có khác 5,524,053.8 6,832,479 1.236 Tổng tài sản có 6,627,885.3 7,779,073 1.174 Toàn hàng 25,980,000.00 31,116,292 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2007, 2008. Bảng 2.3: Tình hình dư nợ tại chi nhánh 2007- 2008 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Tuyệt đối Tỷ trọng (%) Tuyệt đối Tỷ trọng(%) Tuyệt đối Tỷ lệ (%) Theo thời gian 1051.44 100 896.013 100 -155.427 14.782 Nợ ngắn hạn 615.00 58.49 377.617 42.144 -237.383 38.599 Nợ trung hạn 266.66 25.36 281.187 31.382 14.527 5.448 Nợ dài hạn 169.78 16.15 237.209 26.74 67.429 39.716 Theo đối tượng khách hàng 1051.44 100 896.013 100 -155.427 14.782 Cho vay các TCKT 615.17 58.51 802.631 89.58 187.461 30.473 -Công ty cổ phần khác -Công ty TNHH tư nhân 439.00 176.22 41.47 16.76 717.222 85.409 80.05 9.53 278.222 -90.811 63.376 51.533 Cho vay cá nhân 416.86 39.65 93.382 10.42 -323.478 77.599 Cho vay khác 19.41 1.85 0 0 -19.41 100.000 theo ngành 1051.44 100 896.013 100 -155.427 14.782 Chế biến 1.2 0.11 890 0.01 888.8 74066.667 Thương nghiệp 142.94 13.59 568.149 63.4 425.209 297.474 Xây dựng 147.04 44.80 233.593 26.07 86.553 58.864 Hoạt động tài chính 0 0 0 0 0 0 Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 436.26 41.49 93.381 10.43 -342.879 78.595 Nguồn :Thuyết minh báo cáo tài chính của SCB-chi nhánh Hà Nội năm 2008 Do giới hạn về qui mô hoạt động và do đặc thù của ngân hàng nên trong hoạt động sử dụng vốn thì hoạt động được đề cập ở đây tập trung vào cho vay.Qua bảng trên ta thấy tình hình dư nợ trong năm qua có sụt giảm do lãi suất biến động nên ngân hàng giảm dư nợ, nhưng vẫn ở con số dư nợ cao 896,013 tỷ đồng. Trước tình hình biến động của nền kinh tế, cắt giảm cho vay là biện pháp thận trọng phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Bảng 2.4. Phân tích chất lượng nợ cho vay Đơn vị: triệu đồng Năm 2007 Năm 2008 Nợ đủ tiêu chuẩn 1,046,766 890,224 Nợ cần chú ý 0 1,167 Nợ dưới tiêu chuẩn 2,833 4,622 Nợ nghi ngờ 1,838 0 Nợ có khả năng mất vốn 0 0 Tổng 1,051,437 896,013 Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính của SCB- chi nhánh Hà Nội năm 2008 Việc kiểm soát và quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng được quan tâm đúng mức.SCB đã duy trì 100% các quy trình cho các sản phẩm tín dụng được triển khai, vấn đề tuân thủ quy trình được hệ thống kiểm tra kiểm soát một cách nghiêm ngặt. Ngoài ra từ tháng 9 năm 2007 SCB đã triển khai phân nhóm nợ bằng chương trình tự động, tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2007 là 4.671 triệu đồng, đến năm 2008 con số này là 4.622 triệu đồng. Đặc biệt, nhóm nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn đến năm 2008 không còn nữa. Biều đồ cơ cấu cho vay theo đối tượng khách hàng và loại hình doanh nghiệp. Năm 2007 Năm 2008 Cơ cấu dư nợ theo thời gian: ta thấy có sự chuyển dịch từ nợ ngắn hạn sang nợ trung và dài hạn. Năm 2007 nợ ngắn hạn chiếm 58,49 thì sang năm 2008 chỉ còn 42,144 tỷ đồng, giảm 237,383 tỷ đồng. Điều này cho thấy chi nhánh luôn phấn đấu hết mình để mang lại lợi nhuận cao song cũng hết sức thận trọng. Điều đó là hợp lý vì chi nhánh mới được thành lập, trước nhiều khó khăn thách thức nhất là rủi ro luôn tiềm ẩn, đây là cơ cấu khá hợp lý theo kế hoạch của ngân hàng đưa ra. Nếu như cho vay các tổ chức kinh tế năm 2007 giảm về mặt tương đối so với năm 2006 (năm 2006 là 90,49%, năm 2007 là 58,51% thì đến năm 2008 tỷ lệ cho vay các tổ chức kinh tế lại tăng lên là 90%). Trong đó dư nợ cho vay các công ty cổ phần vẫn chiếm ưu thế. Đây là xu hướng kinh doanh tất yếu phù hợp với bối cảnh kinh tế nhiều thành phần, thành phần kinh tế quốc doanh đang thể hiện sự yếu kém. Số liệu gần đây cho thấy hầu như các ngân hàng đã không coi các thành phần kinh tế quốc doanh là khách hàng ưu tiên như trước nữa, dư nợ cho vay đối với đối tượng khách hàng này giảm. trong khi đó, dư nợ cho vay các doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần không ngừng tăng lên do ngày càng có nhiều công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân ra đời thay thế cho các doanh nghiệp nhà n._. khách hàng là các doanh nghiệp: Khách hàng là doanh nghiệp thường có quan hệ giao dịch cả tiền gửi và tiền vay tại ngân hàng. Đối với tiền gửi do có tính ổn định thấp vì thường xuyên có nhu cầu thanh toán, nên chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng chỉ cần trả lãi theo chế độ qui định. Muốn khai thác tăng nguồn vốn này ngân hàng phải làm tốt khâu thanh toán: nhanh gọn, chính xác, kịp thời, tạo những điều kiện thuận lợi trong thanh toán. Đối với những doanh nghiệp thường xuyên có số dư lớn, ổn định thì ngoài việc ưu tiên trong thanh toán, phục vụ tốt, cần có chính sách khuyến khích kể cả nâng lãi suất tiền gửi và khuyến mại tặng quà, thực hiện chính sách ưu đãi khi khách hàng này có quan hệ vay vốn…nhằm thu hút nhiều hơn nguồn vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp. * Khách hàng thuộc các tầng lớp dân cư: Đây là nhóm khách hàng đa dạng, phong phú và tiềm năng nhất của ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển thì tầng lớp dân cư có thu nhập dưới hình thức tiền tệ gia tăng. Để thu hút nguồn vốn quan trọng này, ngân hàng cần đa dạng các hình thức huy động với nhiều kỳ hạn khác nhau mang tính linh hoạt về lãi suất, tạo ra các phương thức trả lãi và vốn thích hợp. Ngân hàng cần chủ động mở rộng mạng lưới hiện có, tăng thêm các điểm giao dịch mới với những điều kiện thuận lợi dễ dàng trong gửi và rút tiền thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều tiền gửi tiết kiệm. Mặt khác, cần cải tiến giờ giấc giao dịch, phù hợp với sinh hoạt và công việc của dân cư trên địa bàn, có thể làm việc cả ngày nghỉ, ngoài giờ hành chính để dân có thể thuận tiện trong việc gửi và rút tiền. Như vậy, hoạt động ngân hàng sẽ gần gũi với đời sống của dân chúng và cơ hội để mở rộng và tăng trưởng nguồn vốn sẽ nhiều hơn. Để mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng bình đẳng trên cơ sở lợi ích và hiệu quả kinh tế của cả bên, ngân hàng cần phải mở rộng chiến lược Marketing như: hàng năm vào các dịp lễ tết ban giám đốc cùng các trưởng phòng có liên quan nên tổ chức thăm khách hàng của mình. Với cách làm này ngân hàng sẽ thực sự coi khách hàng là “thượng đế’’ đồng thời cũng có điều kiện xem xét tại chỗ hoạt động của khách hàng. Song song với việc duy trì các khách hàng truyền thống, thu hút các khách hàng không thường xuyên, mở ra những khách hàng mới, ngân hàng cần có biện pháp để từng bước tiếp xúc với các tổ chức xã hội, các tổ chức có lượng tiền nhàn rỗi lớn. Cùng với sự phát triển của các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như nguồn đầu tư ngoài nước, SCB-CN Hà Nội cần nhận định tình hình, xác định các đơn vị trực tiếp sử dụng vốn tài trợ, đầu tư cho các công trình mục tiêu đã và đang được SCB-CN Hà Nội duyệt để đặt mối quan hệ dịch vụ cho các đơn vị này, từ đó nắm lấy nguồn vốn dồi dào của các công trình, đơn vị. Không ngừng mở rộng và phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác rộng rãi với các ngân hàng trong và ngoài nước với phương châm bình đẳng và cùng phát triển. SCB-CN Hà Nội cần phát huy vai trò trong quan hệ đối ngoại để mở rộng thêm mối quan hệ bạn hàng trên thị trường quốc tế. 3.2.2. Mở rộng, đa dạng và nâng cao chất lượng các hình thức huy động vốn 3.2.2.1. Các giải pháp huy động vốn từ dân cư Nguồn vốn huy động từ dân cư được SCB-CN Hà Nội xác định là nguồn vốn quan trọng và lâu dài nhất. Để huy động nguồn vốn này chi nhánh cần tập trung thực hiện những giải pháp sau: - Củng cố và nâng cao mạng lưới hiện có, khảo sát và mở thêm các chi nhánh cấp 2, các phòng giao dịch…tại những nơi có lợi thế khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. - Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, quảng cáo, in tờ rơi…để giới thiệu đến khách hàng về ngân hàng làm cho họ có sự hiểu biết và tin tưởng đối với ngân hàng. - Nâng cao chất lượng công tác thanh toán, xây dựng cơ chế khuyến khích tư nhân mở tài khoản tiền gửi, trước mắt nghiên cứu áp dụng tài khoản thấu chi cho dân cư.: sử dụng tài khoản thấu chi, ngân hàng có thể cho vay tạm thời vốn thanh toán cho người gửi tiền khi tài khoản không có hoặc thiếu số dư để thanh toán các chi phí dịch vụ từ yêu cầu của người thụ hưởng theo một hạn mức thấu chi đẫ thoả thuận trong hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng. Đây là tiền đề để thu hút cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thông qua ngân hàng để thực hiẹn các thanh toán chi trả dịch vụ. - Thực hiện văn hoá giao dịch nhằm đổi mới phong cách thái độ giao dịch, nâng cao chất lượng phục vụ, tạo uy tín để thu hút khách hàng. 3.2.2.2. Đối với các tổ chức tài chính, tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp - Duy trì và giữ vững mối quan hệ với các khách hàng truyền thống trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. - Xúc tiến việc xác lập quan hệ tín dụng, quan hệ tiền gửi, thanh toán nội ngoại tệ đối với các doang nghiệp lớn, doanh nghiệp mới thành lập có triển vọng để thu hút nguồn vốn mới từ khách hàng này. - Đưa ra các chính sách ưu đãi về phí thanh toán, lãi suất tiền gửi,lãi suất tiền vay, chi phí giao dịch thiết lập mối quan hệ bạn hàng. Từ đó chấp nhận cạnh tranh để dành thị trường, giữ khách hàng truyền thống, khách hàng lớn khi cần thiết. SCB-CN Hà Nội đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn với các mức lãi suất biểu phí linh hoạt, hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu khách hàng đến giao dịch. Tuy nhiên trong thời gian tới, để có thể tăng nguồn vốn huy động, ngân hàng cần phải đa dạng hơn nữa cỏc hình thức huy động, thường xuyên cải tiến các hình thức huy động vốn theo hướng có lợi cho khách hàng mà ngân hàng vẫn đạt kết quả cao. Thứ nhất, đa dạng hoá các hình thức tiền gửi tiết kiệm trong dân bao gồm tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm đến 5 năm. Phát triển mạnh các hình thức tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, cần chú ý đưa ra các hình thức huy động tiết kiệm bằng nội tệ được đảm bảo theo giá trị vàng, hay ngoại tệ mạnh tại thời điểm kinh tế có biểu hiện lạm phát. Việc đưa ra nhiều hình thức tiết kiệm phải tương ứng với điều hành linh hoạt lãi suất phù hợp có tác dụng khuyến khích và thu hút người gửi, làm sao cho cả ngân hàng và người gửi đều có lãi suất thoả đáng. Lãi suất tiết kiệm phải kích thích người gửi, thời gian gửi càng lâu thì lãi suất càng cao, và phải đẩm bảo lợi ích cho người gửi trong suốt thời gian họ giao quyền sử dụng vốn cho ngân hàng dể thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi. Đồng thời phải quan tâm đến hình thức thanh toán như thế nào khi đến hạn đối với mỗi loại tiền gửi như : trả lãi trước hay sau, trả lãi khi đến hạn hay trả lãi theo định kỳ…Bên cạnh đó, ngân hàng cần tăng cường các hình thức khuyến mãi, tặng quà tạo thêm tính hấp dẫn của các hình thức huy động để thu hút khách hàng. Thứ hai, SCB-CN Hà Nội cần phải tăng cường huy động vốn thông qua việc mở tài khoàn cá nhân, áp dụng mức lãi suất hấp dẫn hơn khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân. Hướng dẫn cho khách hàng thấy được tiện ích khi sử dụng tài khoản này để họ hiểu được ưu điểm của tài khoản và thường xuyên sử dụng nó. Ngoài ra, khi tài khoản thanh toán của khách hàng có số dư cao, ngân hàng sẽ chuyển bớt sang tài khoản tiền gửi có kỳ hạn để giúp khách hàng không bị thiệt. Ngược lại, khi khách hàng có nhu cầu thanh toán cao ngân hàng sẽ tự động chuyển tiền gửi có kỳ hạn thành tiền gửi thanh toán để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thứ ba, ngày nay, bên cạnh sản phẩm huy động vốn mang tính truyền thống thì các NHTM đang đẩy mạnh phát triển phương thức huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá như: trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi…Mặc dù hình thức này ngân hàng phải trả chi phí tương đối cao, song ngân hàng lại có thể huy động được những nguồn vốn dài hạn, mang tính ổn định cao. Với kết quả kinh doanh ngày càng đi lên, uy tín ngày càng được khẳng định thì việc phát hành giấy tờ có giá nhăm mục đích huy động vốn là hoàn toàn có thể. điều đó giúp ngân hàng chủ động về nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là vốn trung dài hạn. 3.2.3. Tăng cường hoạt động kinh doanh theo hướng đa dạng hoá và nâng cao các loại hình dịch vụ Trước mắt một mặt ngân hàng vẫn ưu tiên vào đầu tư phát triển, mặt khác phải triển khai vào đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, chú trọng vào kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, mở L/C, cho vay thanh toán xuất nhập khẩu vì đây cũng chính là nguồn thu nhập lớn và là thế mạnh của ngân hàng. Phần lớn các đơn vị kinh tế ngày nay đều linh hoạt tổng hợp nhằm tránh rủi ro và hoạt động của họ không chỉ hạn chế trong nước mà có xu hướng vươn ra trực tiếp giao dịch với nước ngoài. Do đó một ngân hàng chuyên biệt sẽ không thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng và các doanh nghiệp sẽ tất yếu tìm đến một ngân hàng khác. Trong một hệ thống ngân hàng phát triển, các ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng hệ thống dịch vụ ngân hàng, một công cụ cạnh tranh không có giới hạn. Tỷ trọng các khoản thu từ dịch vụ ngân hàng đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của kinh doanh ngân hàng.Để hoạt động kinh doanh dịch vụ sớm trở thành công cụ cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng, tăng nguồn vốn huy động, đồng thời làm tăng nguồn thu nhập cho ngân hàng ngoài các dịch vụ đã áp dụng ngân hàng nên tiến hành các dịch vụ sau: - Dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn thông tin: Trong dịch vụ tư vấn đầu tư ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng xây dựng một dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất tiền vay có lợi nhất…Trong việc tham gia thi trường tiền tệ ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng với số lượng vốn nhất định và thời gian cần thiết để tham gia thị trường tiền tệ ngắn ngày được hưởng lãi suất cao. Trong kinh doanh ngân hàng thông tin được coi là tiền. Vì vậy thông tin có giá trị và có thể đem bán. Trong mô hình ngân hàng hiện đại nghiệp vụ tư vấn thông tin đã trở nên cực kỳ quan trọng. Các ngân hàng đều có bộ phận tư vấn và có mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan thông tin chuyên môn để có thể cung cấp dịch vụ thông tin cho khách hàng. - Dịch vụ tư vấn tài chính: Nhiều khi ngân hàng cũng phải giúp cho doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch tài chính, phân tích tài chính hoặc lập hẳn một kế hoạch thuế( với các món thuế lập như thế nào để có chi phí thấp nhất). - Tư vấn về pháp luật: Ngân hàng có thể giúp nhiều cá nhân doanh nghiệp có thể nắm rõ để thực hiện đúng các luật pháp hiẹn hành như: Luật doanh nghiệp, Luật kinh tế… Các loại hình dịch vụ này có thể phát triển ở nước ta bởi vì hiện nay có rất nhiều người lãnh đạo công ty, xí nghiệp nhưng thiếu hiểu biết về luật pháp, về thông tin và về công nghệ…Đặc biệt có công ty tư nhân không có cả ban tài chính. 3.2.4. Gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn Việc huy động vốn có hiệu quả là cơ sở để ngân hàng thực hiện việc huy động vốn sau này. Về mặt kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho ngân hàng có khả năng trang trải cho những nguồn vốn đã huy động, tạo ra uy tín của ngân hàng đồng thời tạo cơ sở để ngân hàng áp dụng các biện pháp kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Hơn nữa việc sử dụng vốn có hiệu quả thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng của mình, tạo cho ngân hàng ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch, gửi tiền vào ngân hàng . Huy động vốn và sử dụng vốn nên gắn bó với nhau theo một nguyên tắc đó là có sự tương ứng về thời hạn, nghĩa là nguồn vốn nào cho vay loại hình ấy. Tuy nhiên trong điều kiện của ngân hàng nến có nguồn vốn trung dài hạn dư thừa thì có thể cân đối cho vay ngắn hạn hoặc nếu có nguồn vốn ngắn hạn có tính ổn định cao hoặc nguồn vốn ngắn hạn thường xuyên luân chuyển ngân hàng có thể lợi dụng điều này để cho vay trung hạn nhưng phải xem xét để phòng rủi ro có thể xảy ra. 3.2.5. Ngân hàng cần sử dụng lãi suất linh hoạt đáp ứng với sự biến động của thị trường Lãi suất là công cụ quan trọng để ngân hàng thu hút nguồn tiền gửi có trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng khác. Sử dụng chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Chính sách lãi suất phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ. 3.2.6. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Công tác huy động vốn và công tác thanh toán có tác động hỗ trợ lẫn nhau. Giải quyết công tác thanh toán tốt sẽ là động lực thu hút các nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế – xã hội và dân cư. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng làm tốt sẽ thu hút các thành phần kinh tế vầ tầng lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua ngân hàng, do đó khối lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ giảm xuống. Ngân hàng sẽ có được nguồn vốn to lớn. Như vậy nếu ngân hàng làm tốt công tác thanh toán sẽ có ảnh hưởng tốt đến hoạt động tín dụng, một mặt thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều để tiến hành cho vay phục vụ phát triển kinh tế, mặt khác tăng vòng quay sử dụng tín dụng có hiệu quả. Muốn vậy , SCB –Hà Nội cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhanh chóng khai thác mạng vi tính để chuyển tiền nhanh, rút ngắn thời gian thanh toán mở rộng và đẩy mạnh thanh toán bù trừ, áp dụng các hình thức thanh toán hiện địa như thẻ tín dụng, thr thanh toán, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, sử dụng máy rút tiền tự động. Cần quan tâm chú trong công tác đào tạo cán bộ kinh doanh trong cơ chế mới, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phục vụ với số lượng ngày càng lớn và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Một hệ thống ngân hàng mạnh, từng bước hội nhập cộng đồng tài chính quốc tế, trước tiên phải dựa vào công nghệ hiện đại và thiết lập một hệ thống thanh tra kiểm soát, phòng ngừa hữu hiệu mọi rủi ro, có như vậy mới nâng cao được sức mạnh cạnh tranh, thu hút được nhiều nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng giúp cho Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn chi nhánh Hà Nội vừa nâng cao chất lượng dịch vụ, vừa tránh tụt hậu trong cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và nước ngoài. 3.2.7. Đưa ra các chương trình quảng cáo hấp dẫn Để thu hút khách hàng ngân hàng cần đẩy mạnh và phát triển công tác thông tin tuyên truyền, quảng cáo để công chúng có thể hiểu biết hơn về lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng so với việc cất giữ hoặc đầu tư vào các lĩnh vực khác dưới các hình thức: quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, tạp chí ngân hàng, tờ rơi…Kèm theo đó là một loạt các hình thức khuyến mại khác, tác động trực tiếp vào tâm lý của người gửi tiền. 3.2.8. Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt Việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đang là vấn đề hết sức cấp thiết không chỉ đối với các NHTM Việt Nam mà ngay cả đối với SCB-CN Hà Nội. Bởi vì chính việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng của SCB-CN Hà Nội là cơ sở để ngân hàng mở rộng tín dụng, giảm lãi suất cho vay, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động thanh toán. Phát triển thanh toán qua ngân hàng giúp ngân hàng có được một nguồn vốn trong thanh toán khá lớn mà chi phí lại thấp. Tuy nhiên, do tâm lý cũng như thói quan sử dụng tiền mặt của người dân Việt Nam nên việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của các NHTM Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời gian tới SCB-CN Hà Nội cần đưa ra các biện pháp để đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển dịch vụ thanh toán qua ngân hàng như: * Khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân * Phát hành séc cá nhân * Phát triển thẻ thanh toán. Có thể nói, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt cũng là một kênh huy đông vốn có hiệu quả, có được nguồn vốn tương đối rẻ này sẽ giúp ngân hàng có thể giảm lãi suất cho vay và phí dịch vụ khác để thu hút khách hàng. 3.2.9. Ứng dụng hoạt động Marketing vào công tác huy động vốn Marketing ngân hàng có một ý nghĩa quan trọng đối với các NHTM. Đây được xem là công cụ hữu hiệu không thể thiếu nhằm giúp các ngân hàng có thể cung cấp thông tin về bản thân ngân hàng, về các loại hình sản phẩm dịch vụ mới…nhằm giúp phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng. Mọi NHTM đều hiểu rằng kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì khách hàng chính là lực lượng nuôi sống mình, là định hướng trung tâm cho các hoạt động của ngân hàng do vậy marketing được tìm đến như một công cụ để thu hút khách hàng. Trong thời gian tới, SCB-CN Hà Nội cần đẩy mạnh hoạt động marketing nhằm thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. 3.2.10. Đổi mới phương thức quản lý và điều hành 3.2.10.1. Củng cố cơ sở hiện có và mở rộng màng lưới huy động Cơ sở giao dịch là bộ mặt của ngân hàng, là nơi biểu hiện lòng tin và tình cảm của khách hàng với hoạt động ngân hàng, tạo nên hình ảnh đẹp của ngân hàng để khách hàng yên tâm gửi vốn vào ngân hàng. Đồng thời, chủ động nghiên cứu địa bàn để mở thêm các điểm giao dịch mới có sức thu hút khách hàng và tăng thêm sự phục vụ thuận tiện cho khách hàng. 3.2.10.2. Nâng cao chất lượng khoán huy động vốn, có chính sách khuyến khích đối với người trực tiếp huy động vốn Bên cạnh việc quán triệt đối với đội ngũ cán bộ CNV về nhiệm vụ huy động vốn là quan trọng cần tổ chức giao khoán chỉ tiêu huy động vốn đến từng cá nhân người lao động. Trên cơ sở gắn với tiền lương kinh doanh và chỉ tiêu thi đua, nhằm tạo động lực khuyến khích mọi người đều tích cực, chủ động tham gia làm nhiệm vụ huy động vốn. Ngoài ra cần tổ chức khen thưởng kịp thời trực tiếp bằng hiện vật, tiền mặt và xét thi đua để khuyến khích cán bộ luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu huy động. Tóm lại, việc mở rộng và đa dạng các hình thức huy động vốn tại SCB-CN Hà Nội nhằm tăng cường nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh là hết sức quan trọng và cần thiết. Việc đưa ra các giải pháp cụ thể có tính khả thi, góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ vốn đòi hởi phải có bước đi cụ thể rõ ràng cả tầm vĩ mô và vi mô bao gồm những hình thức trực tiếp, gián tiếp và sự kiên trì trong thực hiện. Như vậy, công tác huy động vốn tại SCB-CN Hà Nội sẽ mang lại hiệu quả với qui mô ngày càng lớn hơn và chất lượng cao hơn. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với NHTMCP Sài Gòn SCB-CN Hà Nội đề nghị NHTMCP Sài Gòn chỉ đạo giúp đỡ và tạo điều kiện đặc biệt là cơ sở vật chất để có thể nâng cao khối lượng và chất lượng giao dịch góp phần tích cực hơn vào hiệu quả kinh doanh chung. Là một chi nhánh ngân hàng nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội- một địa bàn có sự tham gia rất “sôi động’’ của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, do đó phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt trong quá trình hoạt động kinh doanh. NHTMCP Sài Gòn nên nghiên cứu, soạn thảo và đưa ra những qui định mới cho việc triển khai ứng dụng các sản phẩm thanh toán, sản phẩm tiền gửi mới cũng như hàng loạt các sản phẩm dịch vụ hiện đại khác để có thể đáp ứng được sụ đòi hỏi ngày càng cao từ phía khách hàng từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Thêm vào đó, NHTMCP Sài Gòn nên cho phép SCB-CN Hà Nội mở rộng thêm phòng giao dịch vì với một địa bàn rộng như Hà Nội mà chỉ có 8 phòng giao dịch là quá ít để có thể mở rộng khả năng thu hút vốn cho hoạt động kinh doanh. NHTMCP Sài Gòn cụ thể là bộ phận tin học nên nghiên cứu và triển khai những phần mềm kế toán mới, phù hợp hơn với hoạt động tác nghiệp hàng ngày. 3.3.2. Kiến nghị với NHNN 3.3.2.1. Chính sách về lãi suất Lãi suất là công cụ quan trọng để ngân hàng có thể thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Chính sách lãi suất hợp lý sẽ phát huy hiệu quả trong công tác huy động vốn. Sử dụng lãi suất hợp lý sẽ thu hút nguồn vốn ngày càng nhiều trong xã hội, kích thích các đơn vị tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiêu quả trong sản xuất kinh doanh. Chính sách lãi suất hợp lý phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của cả ngân hàng và khách hàng, đồng thời phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ theo nguyên tắc thị trường. Vấn đề lãi suất đầu vào và đầu ra là một vấn đề phức tạp, song để giúp cho ngân hàng có được lãi suất hợp lý để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và đồng thời đẩy mạnh chính sách cho vay mang lại nguồn lợi nhuận cho ngân hàng, làm giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông…Muốn vậy, NHNN phải xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt trong quản lý hoạt động kinh doanh của NHTM. Xây dựng chính sách lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu hợp lý trong từng thời kỳ vì đây là điều kiện chủ yếu tác động vào việc thực hiện chính sách lãi suất của NHTM. Xây dựng lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng khoa học vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động ngân hàng là cơ sở để TCTD tham khảo và xác định lãi suất kinh doanh. Lãi suất giao dịch bình quân phản ánh đúng bản chất giá cả trong quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng. 3.3.2.2. Chính sách tỷ giá Chính sách tỷ giá cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh của NHTM trong đó có cả công tác huy động vốn. Khi tỷ giá không ổn định tăng hoặc giảm một cách nhanh chóng mà không thể lường trước thì nó sẽ gây ra những tác động xấu tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Chẳng hạn khi tỷ giá tăng nhanh đồng nội tệ mất giá thì cho dù lãi suất đồng ngoại tệ được giảm xuống và lãi suất đồng nội tệ được đẩy lên thì chưa chắc nguồn vốn huy động VND của các NHTM đã tăng lên do tâm lý người dân còn khá e ngại đồng VN tiếp tục bị mất giá. Như vậy trong thời gian tới NHNN cần tiếp tục xây dựng chính sách tỷ giá ổn định và hợp lý tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các NHTM. 3.3.2.3. Phát triển thị trường vốn Trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô, thì việc phát triển thị trường vốn là rất có ý nghĩa với Việt Nam hiện nay. Thị trường vốn phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Mặt khác đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình ra tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thị trường vốn sẽ là nơi gặp gỡ giữa những người có khả năng cung ứng vốn và người có nhu cầu vốn. Qua đó tập trung được các nguồn vốn phân tán với khối lượng nhỏ thành các nguồn vốn lớn nhằm đầu tư có hiệu quả và mang lại lợi ích nhiều nhất. Hiện nay, NHTM huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành trái phiếu nói chung là khó khăn vì khả năng chuyển đổi từ trái phiếu thành tiền và ngược lại là không đơn giản. Nếu có thị trường vốn tập trung thì việc phát hành trái phiếu của ngân hàng sẽ rất thuận lợi. Thị trường vốn sẽ giải quyết mâu thuẫn giữa khả năng cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn và nhu cầu sử dụng vốn dài hạn, người phát hành chứng khoán để huy động vốn dài hạn nhưng người mua chứng khoán thì có thể bán chứng khoán lấy tiền mặt vào bất cứ lúc nào.Thị trường vốn giúp cho người đầu tư có thể tuỳ ý lựa chọn nơi đầu tư và hình thức đầu tư. 3.3.3. Kiến nghị với Nhà nước 3.3.3.1. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Nó có thể tạo thuận lợi đồng thời cũng có thể cản trở, hạn chế công tác huy động vốn. Đối với Việt Nam hiện nay, một trong những nội dung của việc tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô chính là việc chống lạm phát, ổn định tiền tệ. Nó là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các giải pháp huy động tiền gửi có hiệu quả. Thực tế đã chứng tỏ rằng trong thời gian qua, Nhà nước và các ngành, các cấp, trong đó trước hết là NHNN đã thành công trong việc tạo lập, duy trì ổn dịnh tiền tệ. NHNN đã bước đầu sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô có hiệu quả, tốc độ lạm phát giảm xuống. Tuy nhiên, vấn đề ổn định không chỉ được đặt ra trong từng thời kỳ nào đó mà quan trọng hơn cả là năng lực điều chỉnh chính sách và các công cụ sao cho thích nghi với sự biến động nhanh chóng của tình hình. Thực hiện tốt điều này sẽ là điều kiện để thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời tác động mạnh mẽ tới việc tăng nguồn vốn huy động qua ngân hàng. Tuy nhiên cần phải xác định rằng khi tăng cường thu hút các nguồn vốn phục vụ phát triển đất nước thì hiểm họa lạm phát có thể xảy ra nên chúng ta phải bằng nhiều biện pháp để kiềm chế và kiểm soát. Do đó trong giai đoạn tới một trong những giải pháp ổn định chủ yếu là phải kiểm soát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho nến kinh tế tăng trưởng cao trong thế ổn định và bền vững. Để góp phần ổn định tiền tệ, giảm lạm phát thì chính sách tài chính cũng đóng vai trò quan trọng. Do vậy trong giai đoạn tới tiếp tục duy trì một chính sách tài chính chặt chẽ là rất cần thiết cho việc chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Đồng thời cũng là điều kiện phát huy tác dụng của chính sách tiền tệ trong việc điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng hay thu hẹp mức cung tiền tệ cho phù hợp với mục tiêu và sự biến động của nền kinh tế. 3.3.3.2. Tạo lập môi trường pháp lý đồng bộ và ổn định Hiện nay, hệ thống luật kinh tế của Việt Nam chưa hoàn chỉnh đặc biệt là những bộ luật căn bản cần thiết trong quan hệ kinh tế hiện nay như luật thương mại, luật kinh tế…Do đó để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người đầu tư ( trực tiếp và gián tiếp qua ngân hàng) người sử dụng vốn đầu tư cần phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ như: Luật bảo vệ quyền tài sản tư nhân, luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật hối phiếu, thương phiếu… Việc ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng sẽ tạo niềm tin của dân chúng, đồng thời với những quy định khuyến khích của nhà nước sẽ tác động trực tiếp tới việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một phần tiêu dùng sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào ngân hàng. 3.3.3.3. Tạo lập môi trường tâm lý Yếu tố tâm lý xã hội, trình độ văn hoá của từng dân tộc, đất nước cũng có ảnh hưởng đến cách thức, tập quán huy động tiền gửi. Hoạt động ngân hàng trước hết là thu hút mọi nguồn vốn tiết kiệm và để dành trong dân cư, các TCKT nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội. Yếu tố tâm lý đòi hỏi ngân hàng phải có tính động viên và khả năng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Luôn tìm hiểu tâm lý nhu cầu của khách hàng, đáp ứng theo nhu cầu của khách hàng là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong hoạt động của NHTM. Đó là điều kiện không thể thiếu được để thực hiện có hiệu quả các giải pháp huy động tiền gửi từ ngân hàng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt giữa các TCTD nhằm thu hút khách hàng về mình càng nhiều. Để đứng vững trong cạnh tranh, các ngân hàng phải có những chính sách khách hàng thích hợp để đưa ra những biện pháp kích thích, gây ảnh hưởng hoặc thoả mãn những nhu cầu tâm lý của khách hàng nhằm không ngừng thu hút vốn nhàn rỗi vào ngân hàng. Kết luận chương 3: Trong chương này, chuyên đề đã nêu ra các nhóm giải pháp chủ yếu mang tính đồng bộ để mở nâng cao hơn nữa công tác huy động vốn với qui mô và chất lượng ngày càng cao. Đồng thời chuyên đề cũng nêu ra một số kiến nghị với Nhà nước, với NHNN và NHTMCP Sài Gòn nhằm tạo được những hành lang pháp lý đồng bộ, các cơ chế khuyến khích phù hợp trên cơ sở đó SCB-CN Hà Nội có điều kiện nâng cao hoạt động kinh doanh nói chung cũng như công tác huy động vốn nói riêng. KẾT LUẬN Kinh nghiệm quốc tế rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ sự quản lý yếu kinh doanh tín dụng ngân hàng tại Mỹ đã giúp các Ngân hang thương mại Việt Nam nói chung , trong đó có SCB phải luôn tuân thủ đúng đắn mọi chính sách , chủ trương của Nhà nước và qui chế hoạt động kinh doanh tiền tệ ngân hàng theo luật pháp trong cơ chế thị trường ;định hướng mục tiêu chung là phát triển phải đảm bảo ổn định bền vững ; hiệu quả hoạt động kinh doanh cần đặt trên cơ sở giữ vững các thiết chế an toàn hoạt động ngân hàng làm mục tiêu xuyên suốt ; đề cao vai trò kiểm tra giám sát trong tất cả các nghiệp vụ kinh doanh; mọi hoạt động kinh doanh tác nghiệp đều gắn với giải pháp phòng chống các loại rủi ro có thể phát sinh; thường xuyên duy trì tính thanh khoản cao trong mọi luc mọi nơi; tuyệt đối giữ vững uy tín của ngân hàng trong lòng khách hàng... Công tác huy động của NHTM có vai trò to lớn trong việc quyết định qui mô hoạt động của NHTM và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn mang tính cấp thiết cho cả ngân hàng và cho nền kinh tế, vì nó là yếu tố “đầu vào” tác động trực tiếp đến qui mô “đầu ra” sinh lời cho ngân hàng, đồng thời phục vụ trực tiếp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Với những hiểu biết của mình cùng với những kiến thức thực tế có được trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Ngõn hàng thương mại cổ phần Sài Gòn_chi nhánh Hà Nội. Chuyên đề đã tập trung hoàn thành các nội dung quan trọng sau đây: 1. Phân tích để làm rõ nội dung cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường. 2. Phân tích thực trạng công tác huy động vốn trong 3 năm từ 2006 đến 2008, tìm ra những ưu điểm và những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó trong công tác huy động vốn tại SCB-CN Hà Nội. 3. Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn tại trong thời gian tới. Đề xuất một số kiến nghị với Ngân hàng thương mại cổ phần sài gũn, với NHNN, với Nhà nước để tạo điều kiện cho những giải pháp trên phát huy tác dụng trong thực tiễn. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức cũng còn những hạn chế nhất định nên chuyên đề không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong muốn nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tiến sỹ Cao Ý Nhi cùng các anh chị trong phòng kế toán SCB-CN Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn CN Hà Nội: - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2006,2007,2008. - Bảng cân đối kế toán năm 2006,2007,2008. - Báo cáo thường niên năm 2006,2007,2008. 2. Giáo trình Ngân hàng thương mại, TS Phan Thị Thu Hà. 3.Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter Rose. 5. Tạp chí Ngân hàng. 6. Tạp chí thị trường Tài chính tiền tệ. 7. Các trang web: scb.com, bantintaichinh.com,sbv.gov.com. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22030.doc
Tài liệu liên quan