Nâng cao hiệu quả cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NHTMCPQĐ: Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội KHDN: Khách hàng doanh nghiệp KHCN: Khách hàng cá nhân Cvtd: Cho vay tiêu dùng Cvk: Cho vay khác LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây,nền kinh tế nước ta luôn đạt tăng trưởng cao.Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,6% là mức cao nhất trong sáu năm qua,và cũng là mức cao so với bình quân của thế giới, đối với trong khu vực chỉ đứng sau Trung Quốc (9%), Singapore (trên 8%).Cùng với mức tăng trưởng của nền kinh tế thì thu nhập của

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người dân cũng được nâng lên ,theo đó nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng tăng theo .Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu cầu tiêu dùng đó cũng được đáp ứng bởi khả năng thanh toán. Nắm bắt được thực tế đó ,các Ngân hàng thươg mại đã đưa ra sản phẩm cho vay tiêu dùng nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể thoã mãn nhu cầu tiêu dùng của mình trước khi họ có đủ khả năng thanh toán cho nhu cầu đó. Mặc dù các Ngân hàng thương mại nước ta mới chỉ đưa sản phẩm cho vay tiêu dùng ra thị trường từ những năm 1993-1994 và chỉ thực sự phát triển mạnh từ những năm 2000 trở lại đây nhưng số lượng khách hàng đến với ngân hàng đã không ngừng tăng lên .Tuy nhiên cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ cả về doanh số cho vay lẫn dư nợ trong toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng và chưa thực sự phát huy hết vai trò và tiềm năng của mình. Với tư cách là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế,các ngân hàng phải làm gì để đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng cùng với nó là việc đảm bảo an toàn ,hiệu quả từ đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và của toàn xã hội Cùng với xu thế phát triển đó,NHTMCPQĐ đã thực hiện những nghiên cứu và triển khai hoạt động cho vay tiêu dùng.Trải qua hơn 6 năm, hoạt động này đã đạt được sự tăng trưởng ổn định và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng cá nhân nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay cho vay tiêu dùng vẫn chưa được mở rộng tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng. Do đó, sau một thời gian thực tập tại NHTMCPQĐ với mong muốn phát triển hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, em xin chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội” làm đề tài cho báo cáo chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề gồm 3 nội dung chính: Chương một: Tổng quan về cho vay tiêu dùng Chương hai: Hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTMCPQĐ Chương ba: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại NHTMCP CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG 1.1.HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1.Khái niệm cho vay tiêu dùng Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì ngân hàng đươc coi như là một tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất của nền kinh tế .Ở các ngân hàng thương mại hiện nay áp dụng rất nhiều các hình thức cho vay đối với khách hàng .Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay khác nhau,phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán của các khoản nợ của khách hàng .Các hình thức cho vay của ngân hàng hiện nay đó là cho vay kinh doanh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ,cho vay tài trợ xuất nhập khẩu trong đó cho vay tiêu dùng là hình thức tín dụng ngày càng được ưa chuộng do lợi nhuận từ hoạt động cho vay này là rất lớn. Nếu dựa vào mục đích sử dụng vốn thì cho vay tiêu dùng được hiểu là một sản phẩm tín dụng hữu ích nhằm tài trợ của ngân hàng cho mục đích chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Các nguồn cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, học tập, du lịch, y tế…Còn nếu trên cơ sở hoạt động cho vay thì có thể hiểu :cho vay tiêu dùng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên đi vay (cá nhân ,doanh nghiệp),trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thòi gian nhất định theo thoả thuận ,bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.Nhưng nhìn chung cho vay tiêu dùng được coi là khoản tiền vay cấp cho các cá nhân ,hộ gia đình để chi cho các mục đích không kinh doanh Ở các nước phát triển thì hoạt động này đã rất phát triển và được sử dụng rất rộng rãi. Còn ở Việt Nam cách đây khoảng 20 năm trở về trước, khái niệm “cho vay tiêu dùng” vẫn còn “khá mới mẻ” và hoạt động này chỉ mới thực sự bắt đầu vào những năm 1993-1994 . Khi đó hoạt động cho vay tiêu dùng của các Ngân hàng thương mại mới chỉ dừng lại ở một số ít cá nhân và khách hàng và chưa được coi là một hoạt động kinh doanh chủ đạo của ngân hàng .Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây (từ năm 2000 đến nay) hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng phát triển mạnh mẽ và sẽ còn tiếp tục phát triển trong tương lai. Trong tương lai ,cho vay tiêu dùng sẽ hướng theo mục tiêu về sự thuận tiện ,Ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho cá nhân ,hộ gia đình nhận được khoản vay sớm hơn trong khi vẫn duy trì được sự kiểm soát đối với món vay tiêu dùng để tránh những giảm sút đáng kể về chất lượng tín dụng 1.1.2. Đặc điểm cho vay tiêu dùng 1.1.2.1. Quy mô và nhu cầu cho vay tiêu dùng Đối với cho vay tiêu dùng ta có thể thấy một đặc điểm là số lượng khách hàng vay thì rất lớn nhưng giá trị mỗi khoản vay thì thường là nhỏ,đặc điểm này là do đối tượng của cho vay tiêu dùng là cá nhân và hộ gia đình chỉ để đáp ứng cho các mục đích tiêu dùng khi mà tích luỹ chưa đủ khả năng chi trả.Ngân hàng thường tốn nhiều thời gian,chi phí,sức lực mà khối lượng cho vay lại rất ít do đó chi phí bình quân cho một hợp đồng cho vay tương đối cao. Bên cạch đó, các khách hàng vay vốn đều có nhu cầu vay nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ổn định, người tiêu dùng sẽ có thái độ lạc quan hơn, họ kỳ vọng sẽ có được khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai. Do đó chi tiêu của người tiêu dùng ở hiện tại sẽ được thúc đẩy, nhu cầu vay tiêu dùng của người tiêu dùng sẽ xuất hiện và tăng lên nhanh chóng. Và ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái người dân có xu hướng giảm chi tiêu, không kỳ vọng nhiều vào nền kinh tế, không muốn đến Ngân hàng để vay vốn nữa, cho vay tiêu dùng sẽ gặp nhiều khó khăn. 1.1.2.2.lãi suất cho vay tiêu dùng Ngân hàng có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định mức lãi suất phù hợp với khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng mà phần lớn lãi suất được xác định dựa trên lãi suất cơ bản ,phần lợi nhuận cận biên và phần bù đắp rủi ro,công thức tính tổng quát như sau: Lãi suất CVTD = Chi phí huy động vốn + Chi phí huy động khác + Rủi ro tổn thất chủ kiến + Phần bù khấu hao với các khoản cho vay dài hạn + Lợi nhuận cận biên Lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất các loại cho vay trong các lĩnh vực khác.Ngoài ra chi phí của nó cũng thường cao hơn so với các khoản cho vay khác do phải bù đắp rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay. Cho vay tiêu dùng từ khi ra đời và phát triển đã đem lại cho các ngân hàng lợi nhuận lớn ,lãi suất cho vay tiêu dùng thường được cố định chứ không thả nổi như những hình thức tín dụng khác. Còn hiện nay, trong môi trường cạnh tranh đã buộc các Ngân hàng thay đổi, lãi suất của cho vay tiêu dùng đã có sự thả nổi nhưng đấy là sự thả nổi chưa hoàn toàn .Khi đưa ra mức lãi suất cho vay cố định đó ,các ngân hàng thường phải dự tính đến yếu tố lãi suất huy động đầu vào sẽ thay đổi như thế nào để làm căn xứ đưa ra lãi suất cho vay tiêu dùng .Vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng không linh hoạt như các khoản cho vay kinh doanh khác . Đây cũng là yếu tố tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất huy động tăng. Ngoài ra ta có thể thấy nhu cầu vay tiêu dùng của khách hàng hầu như ít co giãn với lãi suất .Đối với đối tượng khách hàng này, điều khiến họ quan tâm hơn hết là số tiền mà họ phải trả hàng tháng hơn là lãi suất mà họ phải chịu, mặc dù rõ ràng chính lãi suất trong hợp đồng tín dụng ảnh hưởng đến quy mô số tiền phải trả này. 1.1.2.3.Đối tượng cho vay tiêu dùng Trong cho vay tiêu dùng thì đối tượng chính là các cá nhân và hộ gia đình . Đối tượng cho vay tiêu dùng có thể được phân chia theo mức độ tài chính của khách hàng . Đối với khách hàng có thu nhập thấp thì thường nhu cầu vay để tiêu dùng không cao do hạn chế bởi thu nhập . Đối với khách hàng có thu nhập trung bình thì nhu cầu vay vốn có xu hướng tăng mạnh thậm chí họ còn mong muốn được chi tiêu vượt quá thu nhập của mình ,việc vay vốn của Ngân hàng sẽ giúp họ nhận được cuộc sống đầy đủ ở hiện tại mà chỉ khả năng thanh toán trong tương lai mới đáp ứng được.Còn đối với khách hàng có thu nhập cao thì nhu cầu nảy sinh làm tăng thêm khả năng thanh toán và những nhóm người này thường xuyên cần chi tiêu trong mục đích tiêu dùng với số tiền lớn, vì vậy các ngân hàng thương mại thường quan tâm ,chú ý đến nhóm khách hàng này hơn. Các cá nhân được đề cập ở đây là những cá nhân có đầy đủ năng lực pháp lý, thuộc nhiều thành phần khác nhau (công chức Nhà nước, viên chức trong các đơn vị ngoài quốc doanh, các lao động tự do…) và hơn hết phải đáp ứng được điều kiện vay vốn của Ngân hàng 1.1.2.4. Mức độ rủi ro cho vay tiêu dùng Xuất phát từ bản thân khách hàng của cho vay tiêu dùng, có thể nhận định rằng cho vay tiêu dùng có mức độ rủi ro cao hơn bất kỳ một hình thức tín dụng nào khác. Đúng vậy, đối với mỗi cán bộ tín dụng, quá trình thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề thông tin khách hàng. Các thông tin này thường là không đầy đủ, thậm chí là nhiều lúc còn không chính xác, không rõ ràng.Bên cạnh đó nguồn trả nợ chủ yếu (thu nhập) của người đi vay có thể biến động lớn do những nguyên nhân chủ quan (ốm đau,bệnh tật,chết…);việc trả nợ hay không phụ thuộc rất lớn vào thiện chí trả nợ của khách hàng. Còn có những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh… cũng ảnh hưởng tới thu nhập của người tiêu dùng và như một phản ứng dây chuyền sẽ ảnh hưởng tới quá trình thu hồi vốn vay của Ngân hàng. 1.1.2.5. Mức thu nhập và trình độ học vấn Thu nhập và tiêu dùng có mối quan hệ tỉ lệ thuận với nhau .Khi thu nhập tăng lên thì con người có xu hướng tăng thêm cho tiêu dùng và ngược lại khi thu nhập giảm xuống thì nhu cầu tiêu dùng theo đó cũng giảm xuống. Cũng như thu nhập, trình độ học vấn có mối quan hệ thụân chiều với nhu cầu vay tiêu dùng.Thực tế ở Việt nam cho thấy nhu cầu vay tiêu dùng cũng chỉ mới xuất hiện trong những năm gần đây và hầu như chỉ phát triển ở các thành phố lớn ,thị xã,còn những vùng có trình độ dân trí thấp như các vùng nông thôn, miền núi …thì nhu cầu này hầu như chưa có . 1.1.3. Phân loại cho vay tiêu dùng Có nhiều hình thức cho vay tiêu dùng dựa trên những tiêu thức khác nhau để phân loại .Sau đây là một số căn cứ để chúng ta có thể phân chia cho vay tiêu dùng : 1.1.3.1.Căn cứ vào mục đích vay - Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Khoản vay này có đặc điểm là thời gian dài và quy mô thường lớn. - Cho vay tiêu dùng không cư trú: Là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải trí… Đặc điểm của hình thức vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn và do đó rủi ro sẽ thấp hơn cho vay tiêu dùng cư trú. 1.1.3.2.Căn cứ vào hình thức hoàn trả - Cho vay tiêu dùng trả góp: Là hình thức đi vay trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền cả gốc và lãi) làm nhiều lần theo những kì hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, thuyền, một số đồ dùng phục vụ sinh hoạt đắt tiền, trang trải các khoản nợ... Điều này xuất phát từ khả năng tài chính của khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một lần duy nhất, thêm vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương khi tiến hành sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. - Cho vay tiêu dùng phi trả góp:Theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho Ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn.Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ và thời hạn không dài. - Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là các khoản cho vay trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hay các loại Séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai.Theo phương thức này ,trong thời hạn cấp tín dụng được thoả thuận trước ,căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kì ,khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ từng kì một cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng.Lãi phải trả mỗi kì có thể dựa trên ba cách sau : Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh :Theo phương pháp này số dư nợ được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kì sau khi khách hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng. Lãi được tính trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh :Theo cách này số dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ mỗi kì có trước khi khoản nợ được thanh toán. Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân 1.1.3.3.Căn cứ vào nguồn gốc khoản vay - Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là hình thức mà Ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Ở hình thức cho vay này bên cạnh những ưu điểm như: thứ nhất Ngân hàng có thể sử dụng tối đa nguồn nhân lực của mình, những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định trực tiếp của Ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi các công ty bán lẻ .Thứ hai cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp.Thứ ba khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với Ngân hàng ,có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh ,có khả năng làm thoã mãn quyền lợi cho cả hai phía ,ví dụ :khách hàng có thể gửi tiền tại ngân hàng ,sử dụng các sản phẩm ,dịch vụ khác của ngân hàng … Nó cũng còn có những nhược điểm: mở rộng và tăng doanh số cho vay không thực sự thuận lợi, chi phí cho vay thường khá lớn. - Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hóa hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng, nhưng vẫn còn trong hạn thanh toán. Với hình thức này, Ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Đối lập với cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp giúp các Ngân hàng dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay, tiết kiệm và giảm được chi phí, có cơ hội phát triển các quan hệ với khách hàng cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng và giảm thiểu được rủi ro nếu như Ngân hàng quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ. Nhưng hạn chế của hình thức này cũng không phải ít. Đó chính là: Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với người vay vốn vì vậy khó xác định chính xác tư cách của người vay. Ngân hàng thiếu sự kiểm soát khi các doanh nghiệp bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng . Thêm vào đó, kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này là hết sức phức tạp, không phải Ngân hàng nào cũng thực hiện được. 1.2. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG M ẠI 1.2.1. Nhân tố khách quan - Môi trường Luật pháp: Luật pháp là công cụ quản lý đắc lực của Nhà nước. Mọi cá nhân, tổ chức tại mỗi nước đều chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật do quốc gia đó quy định với những hoạt động của mình. Các Ngân hàng thương mại cũng không phải ngoại lệ. Hơn thế hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm - kinh doanh tiền tệ - thì sự giám sát kiểm tra của Nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết,họ phải tuân theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước ,luật các tổ chức tín dụng ,luật dân sự và các quy định khác. Nếu các quy định của pháp luật không rõ ràng ,không đồng bộ, không ổn định và có nhiều khẽ hở thì rất khó cho ngân hàng trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng , đồng thời cũng tạo ra khó khăn cho các doanh nghiệp ,họ sẽ không yên tâm hoạt động trong môi trường như vậy ,cắt giảm đầu tư làm cho nền kinh tế kém phát triển và thu nhập của người dân giảm sút ,nhu cầu tiêu dùng giảm,khả năng mở rộng cho vay giảm . Ngược lại ,môi trường pháp lý ổn định ,hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ đồng bộ sẽ khuyến khích các nhà đầu tư ,thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và tăng nhu cầu tiêu dùng của dân cư.Bên cạnh đó quyền lợi và trách nhiệm của các Ngân hàng thương mại và các bên liên quan cũng được bảo vệ ,giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.Chính điều đó giúp cho quy mô cho vay của ngân hàng tăng lên. - Môi trường kinh tế - chính trị: Đây là một nhân tố không kém phần quan trọng so với môi trường Luật pháp. Những chỉ tiêu như thu nhập quốc dân (GDP), tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ thất nghiệp… phản ánh trung thực thực trạng nền kinh tế của một quốc gia. Nếu một nước có nền kinh tế ổn định thì đời sống của người dân cũng có xu hướng phát triển theo, nhu cầu tiêu dùng trong xã hội tăng mạnh. Vì vậy, cho vay tiêu dùng sẽ được phát triển với nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm...Tình hình chính trị tác động mạnh đến nền kinh tế nên cũng tác động tới cho vay tiêu dùng. Như chúng ta đã biết với một quốc gia có nền kinh tế chậm phát triển hoặc không ổn định ,lạm phát cao…nhu cầu tiêu dùng của người dân sẽ giảm ,do đó khả năng mở rộng cho vay tiêu dùng của ngân hàng gặp phải khó khăn. - Môi trường văn hóa - xã hội.: Các yếu tố thuộc môi trường văn hóa - xã hội bao gồm: tập quán xã hội, thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, thị hiếu người dân, an ninh trật tự, an toàn xã hội… có tác động không nhỏ tới cho vay tiêu dùng. Bên cạnh việc quyết định tới nhu cầu chi tiêu của các cá nhân, hộ gia đình. Chúng còn ảnh hưởng tới cả phương thức thỏa mãn cũng như thói quen tài trợ của họ. Nếu cộng đồng có thói quen hưởng thụ, luôn muốn thỏa mãn các nhu cầu của mình một cách nhanh chóng, và không ngừng mong muốn cải thiện và nâng cao cuộc sống hiện tại thì cho vay tiêu dùng sẽ có cơ hội phát triển. Còn ngược lại, với một cộng đồng mà các cá nhân trong đó chủ yếu không thích mua sắm, không có thói quen tiêu dùng quá mức những gì mà họ kiếm được tại thời điểm hiện tại thì xu hướng chung của họ là sẽ tiết kiệm chứ không phải là đến Ngân hàng vay vốn để chi tiêu. Do đó, cho vay tiêu dùng sẽ hoạt động hết sức khó khăn trong một môi trường như thế. Ngoài ra tình hình an ninh, trật tự xã hội cũng góp phần đáng kể trong việc đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng. Với một xã hội an toàn, an ninh đảm bảo thì càng có nhiều nhu cầu trong việc chi tiêu, hưởng thụ. Vậy nên càng có nhiều cá nhân tìm đến Ngân hàng để được tài trợ nhằm thỏa mãn nhu cầu mà khả năng thanh toán hiện tại chưa đáp ứng được. 1.2.2. Nhân tố chủ quan - Nhân tố xuất phát từ phía khách hàng -Đạo đức của khách hàng: Đây là yếu tố tiên quyết vì nó thể hiện thiện chí trả nợ đối với ngân hàng của người đi vay .Vì rằng ngay cả khi người đi vay có nguốn thu nhập cao để trả nợ thậm chí đưa ra những tài sản đảm bảo tốt nhưng đạo đức không tốt (không có thiện chí trả nợ) thì cũng không hứa hẹn một thiện chí tốt khi người đó thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng .Chính vì vậy tư cách đạo đức của người vay là yêu tố quyết định đến khoản cho vay của ngân hàng -Khả năng tài chính:sau khi xem xét tư cách đạo đức của người đi vay thì việc đánh giá khả năng tài chính cũng rất quan trọng vì rằng nó quyết định khả năng trả nợ.Khách hàng có thu nhập cao ,việc thanh toán nợ ngân hàng ít ảnh hưởng đến các nhu cầu chi tiêu khác (đặc biệt là nhu cầu chi tiết thiết yếu ),do đó khoản cho vay ít rủi ro hơn. -Tài sản đảm bảo: Cơ sở để phòng ngừa rủi ro tín dụng chính là tài sản đảm bảo. Nếu khoản vay tiêu dùng nào mà khách hàng có tài sản đảm bảo thì càng an toàn cho Ngân hàng. Vì nếu khách hàng không có khả năng thanh toán thì Ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi một phần hay toàn bộ nợ của chính khách hàng đó. Vậy nên ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các Ngân hàng khi tiến hành cấp tín dụng tiêu dùng cho các khách hàng đều yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo. - Nhân tố xuất phát từ phía Ngân hàng -Nguồn nhân lực: Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng ,cán bộ tín dụng sẽ phải tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng .Do đó ,họ không phải những giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải hiểu biết về tâm lí,thói quen,sở thích của từng nhóm khách hàng ,có hiểu biết về thị trường hàng hoá và dịch vụ .Sự thành công hay thất bại của một tổ chức kinh doanh ,ngoài yếu tố cơ sở vật chất ,yếu tố vốn thì nhân tố con người cũng đóng vai trò rất quan trọng . Để đẩy mạnh hoạt động của mình ,các ngân hàng cần có một chiến lược đào tạo con người lâu dài ,cập nhật cùng với chế độ đãi ngộ thích hợp để thu hút và giữ chân những người giỏi. Đây là nền tảng cho sự phát triển của bất cứ hoạt động nào không chỉ là hoạt động của bất cứ một ngân hàng nào. -Công tác thẩm định: Như đã trình bày ở đặc điểm của cho vay tiêu dùng, quá trình thẩm định khách hàng vay tiêu dùng diễn ra có rất nhiều khó khăn. Đây chính là nguyên nhân gây ra thời gian thẩm định khá dài. Vì vậy, khách hàng không mặn mà lắm với cho vay tiêu dùng. Cho nên, các Ngân hàng nếu tiến hành khâu này một cách nhanh chóng, nhưng vẫn đảm bảo chính xác, không gây phiền hà cho khách hàng sẽ tạo ra một ấn tượng tốt với khách hàng. Đặc biệt, điều này sẽ giúp cho các Ngân hàng dễ dàng lôi kéo được đối tượng khách hàng cá nhân như trong cho vay tiêu dùng. - Công nghệ ngân hàng : Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng, đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng, và đang là vấn đề mà các ngân hàng quan tâm.Các ngân hàng đã ứng dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin vào hoạt động của mình nhằm hỗ trợ cho việc phát triển kinh doanh .Vì vậy ,ngân hàng nào có hệ thống công nghệ thông tin hiện đại sẽ có điều kiện mở rộng kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. -Chính sách tín dụng :Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh hoạt động của một ngân hàng ,là định hướng chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng ,tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng ,tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng cạnh tranh . Định hướng phát triển tổng thể của ngân hàng dựa trên các nội dung chính của chính sách: Nếu ngân hàng có chính sách tín dụng mở rộng ,các hoạt động của ngân hàng tập trung vào việc tăng trưởng dư nợ cho vay.Tuy nhiên cũng cần phải chú ý đến chất lượng của hoạt động tín dụng. Nếu ngân hàng có chính sách tín dụng trọng tâm ,trọng điểm :các ngân hàng sẽ tập trung vào các đối tượng khách hàng mà mình đã lựa chọn. -Nguồn vốn của Ngân hàng: Một điều kiện vô cùng quan trọng trong việc mở rộng, đi sâu vào các hoạt động cho vay tiêu dùng đấy chính là nguồn vốn. Nếu một Ngân hàng có vốn lớn thì càng có cơ hội đầu tư nhiều vào trang thiết bị, vào nguồn nhân lực… cho hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông qua đó, cho vay tiêu dùng ngày càng được mở rộng. CHƯƠNG II HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2.1.KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của NHTMCPQĐ Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội thường được gọi là Ngân hàng Quân đội (tên tiếng Anh: Military Bank) được thành lập theo Quyết định số 00374/ GP – UB ngày 30 tháng 12 năm 1993 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội và hoạt động theo Giấy phép số 0054/ NH – GP ngày 14 tháng 9 năm 1994 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với thời gian hoạt động là 50 năm. Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động vào ngày 4 tháng 11 năm 1994. Khi mới thành lập, mục đích ban đầu của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội là nhằm hỗ trợ cho các đơn vị quân đội làm kinh tế. Cùng với sự phát triển lớn mạnh của đất nước, Ngân hàng Quân đội không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động của mình. Vì thế trong thời điểm hiện tại khách hàng của Ngân hàng Quân đội là mọi đối tượng trong nền kinh tế như: các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, các hiệp hội, các công ty tài chính… Với phương châm hoạt động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của Ngân hàng, những năm qua Ngân hàng Quân đội luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của Ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển. Trong thời gian gần đây, Ngân hàng Quân đội được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu của Việt Nam. 2..1.2.Cơ cấu bộ máy tổ chức của NHTMCPQĐ Đại Hội Đồng Cổ Đông Hội Đồng Quản Trị Ban Kiểm Soát Phòng Kiểm Tra, Kiểm Soát Nội Bộ Tổng Giám Đốc Các Uỷ Ban Cao Cấp Công ty Chứng khoán Thăng Long Công ty AMC Khối Tresury Khối mạng lưới bán hàng Công ty quản lý quỹ Phòng Đầu tư & Dự án Khối quản lý tín dụng Phòng KHTH & Pháp chế Khối khách hàng doanh nghiệp Khối Khách hàng cá nhân Phòng KHTH & Pháp chế Trung tâm công nghệ thông tin Phòng nghiên cứu phát triển & Xây dựng chính sách Khối Tổ chức - Nhân sự - Hành chính Sở giao dịch và chi nhánh 2.1.3.Chức năng ,nhiệm vụ của các phòng ban * Đại hội đồng cổ đông, là cơ quan quyết định cao nhất của NHTMCP Quân đội.Mỗi cổ đông đại diện cho mộ lá phiếu khi bầu cử và quyết định tại đại hội, các quyết định được thực hiện theo sự nhất trí của đa số. Đại hội cổ đông bầu ra chủ tịch hội đồng cổ đông, ban kiểm soát. * Hội đồng quản trị, là cơ qua quản trị cao nhất của Ngân hàng giữa hai kỳ đại hội. Hội đồng quản trị đại hội đồng bầu ra gồm từ 5 đến 12 thành viên, được bầu hoặc bãi miễn với đa số phiếu tại đại hội đồng bằng thể thức bỏ phiếu kín * Tổng giám đốc: có nhiệm vụ điều hành và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật, điều lệ của Ngân hàng; trình Hội đồng quản trị các báo cáo theo đúng quy định hiện hành về tình hình hoạt động tài chính và kết quả kinh doanh. * Phòng kế hoạch tổng hợp: Phòng này có chức năng quản lý, thu thập, xử lý các thông tin tổng hợp cho ban lãnh đạo Ngân hàng, xây dựng kế hoạch kinh doanh, các chính sách, chiến lược phát triển nhân sự, các kế hoạch đào tạo cán bộ trình hội đồng quản trị phê duyệt, quan hệ công chúng, marketing và quảng cáo, công tác pháp chế. * Phòng công nghệ thông tin: có chức năng quản lý và đảm bảo sự an toàn, hiệu quả, chính xác, nhanh chóng trong hoạt động của hệ thống thông tin của Ngân hàng. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ thông tin trình hội đồng quản trị phê duyệt, phối hợp với bộ phận nghiên cứu phát triển và các phòng nghiệp vụ nhằm triển khai các giải pháp, các ứng dụng mới trong công tác phát triển sản phẩm của Ngân hàng. * Phòng kế toán: + Bộ phận kế toán tài chính: chức năng của bộ phận này là xây dựng kế hoạch tài chính cho các bộ phận nghiệp vụ và chi nhánh, kiểm soát việc thực hiện kế hoạch tài chính và xây dựng các báo cáo tài chính phục vụ ban lãnh đạo và các đơn vị có liên quan. + Bộ phận thanh toán bù trừ, kế toán cho vay, kế toán kinh doanh ngoại tệ: bộ phận này có chức năng kiểm soát sau các giao dịch kinh doanh (tính đúng đăn, đầy đủ, hợp lý…) xử lý các giao dịch (hạch toán, thanh toán…) * Phòng tín dụng: Là phòng có chức năng tham mưu cho hội đồng tín dụng và đầu tư, xây dựng định hướng, chính sách và các hạn mức tín dụng trình hội đồng tín dụng và đầu tư xem xét, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ chính sách và các hạn mức tín dụng; quản lý các khỏan nợ xấu, thẩm định, tía thẩm định các dự án. * Phòng thanh toán và quan hệ quốc té: Phòng có chức năng Quản lý và bảo đảm sự hoạt động an toàn, hiệu quả trong việc cung ứng các dịch vụ thanh toán quốc tế trong toàn hệ thống. Kiểm tra, kiểm soát tính hợp lệ, chính xác và đầy đủ của chứng từ và các lệnh thanh toán xuất nhập khẩu của khách hàng. Xử lý các lệnh thanh toán (hạch toán, thực hiện lệnh…) Đảm nhiệm dịch vụ ngânhàng đại lý và quan hệ quốc tế. * Phòng ngân quỹ: Có nhiệm vụ quản lý kho quỹ và duy trì hợp lý lượng tiền mặt và giấy tờ có giá đảm bảo khả năng thanh toán cho các quầy giao dịch, thực hiện chi trả hoặc thu nhận các giao dịch tiền mặt có giá trị lớn. * Phòng Marketing: Nhiệm vụ của phòng Marketing là tạo ra mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng; Duy trì khách hàng hiện tại và thu hút khách hàng mới, xây dựng phong cách chăm sóc khách hàng. * Phòng giao dịch: Phòng làm nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý các lệnh thanh toán của khách hàng đến giao dịch, trực tiếp chi trả các giao dịch tiền mặt có giá trị nhỏ (dưới 300 triệu), giải đáp, hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. 2.1.4. Hoạt động kinh doanh của NHTMCPQĐ trong thời gian qua 2.1.4.1. Kết quả một số lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội Trong những năm hoạt động vừa qua, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội đã đạt được những kết quả khả quan về mọi mặt. Đặc biệt trong những năm gần đây, với những thành tựu mà Ngân hàng đã và đang có càng chứng tỏ NHTMCPQĐ là một trong những Ngân hàng Thương mại cổ phần có uy tín cao và vị trí vững chắc trên thị trường. Về vốn điều lệ Ban đầu khi mới thành lập, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội chỉ có số vốn điều lệ 20 tỷ đồng chủ yếu dựa vào vốn góp của các doanh nghiệp quân đội. Nhưng sau một thời gian hoạt động, Ngân hàng đã không ngừng tăng dần số vốn điều lệ. Ta có thể nhìn thấy tốc độ tăng trưởng nhanh chóng về qui mô vốn điều lệ của Ngân hàng Quân đội qua một số năm gần đây như sau: Bảng 2.1: Quy mô vốn điều lệ của NHTMCPQĐ qua các năm (Đơn vị: tỷ đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Vốn điều lệ 209,051 229,051 280,000 350,000 450,000 1.045,200 1.149,70 (Nguồn báo cáo thường niên NHTMCPQĐ hàng năm) Đặc biệt, vốn cổ phần huy động từ dân cư và các doanh nghiệp ngoài quân đội tăng một cách nhanh chóng. Nói chung, vốn điều lệ gia tăng đã góp phần tăng khả năng tài chính của Ngân hàng Quân đội ngày một mạnh hơn, là điều kiện cơ sở cho Ngân hàng mở rộng hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay cũng như các sản phẩm dịch vụ khác. Dự kiến trong thời gian tới, Ngân hàng tiếp tục tăng vốn điều lệ vừa nhằm tăng khả năng cạnh tranh vừa đảm bảo độ an toàn vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, phấn đấu trở thành một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam. Về hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Quân đội không ngừng tăng lên về quy mô và có sự thay đổi tích cực trong cơ cấu huy động. Trong đó, lượng vốn huy động từ dân cư tăng trưởng mạnh trong các năm. Năm 2005 tổng vốn huy động của Ngân hàng đạt 7.046,6._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7558.doc
Tài liệu liên quan