Nâng cao hiệu quả cho vay hộ SX tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Trì

Lời cam đoan Tôi xin cam đoan chuyên đề “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo & PTNT Huyện Thanh Trì" là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong chuyên đề là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập, Nếu có dấu hiệu sai lệch tôI xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 05/11/2005 Người trình bày. Đặng thị thanh hoài. Mục lục Lời cam đoan 1 Mục lục 2 Lời nói đầu 3 Chương I: tín dụng hộ sả

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay hộ SX tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n xuất – thực trạng cho vay hộ sản xuất trong thời gian qua tại nnno & ptnt huyện thanh trì 6 1.1: Tình hình kinh tế xã hội huyện Thanh Trì 6 1.1.1: Tình hình kinh tế – xã hội huyện Thanh Trì 6 1.1.2:Sự cần thiếy của tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế 8 1.2: Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Thanh trì 10 1.3: Đánh giá chất lượng tín dụng, hiệu quả tín dụng 21 1.3.1: Kết quả đầu tư vốn 22 1.3.2: Tồn tại và nguyên nhân 24 Chương II: Các giải pháp hoàn thiện và mở rộng cho vay hộ sản xuất trong thời gian trước mắt tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện thanh trì 27 2.1: Định hướng hoạt động kinh doanh của ngân hàng Thanh trì trong thời gian tới 27 2.2: Giải pháp hoàn thiện và mở rộng vốn tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Thanh trì 31 2.3: Những đề xuất và kiến nghị 35 2.3.1: Về chính sách của nhà nước 35 2.3.2: Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước 38 2.3.3: Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Việt Nam 39 2.3.4: Kiến nghị đối với NHNo & PTNT Huyện Thanh trì 39 Kết luận 42 Danh mục tài liệu tham khảo 44 Nhận xét của đơn vị thực tập 45 Nhận xét của giáo viên hướng dẫn 46 Lời nói đầu Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế quốc dân bao gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều ngành nghề với quy mô và trình độ khác nhau, công nghệ khác nhau. Phát triển nông - lâm -ngư - nghiệp gắn liền công nghệ chế biến và xây dựng nông thôn mới. Để đưa nền kinh tế nông thôn phát triển ngang tầm nền kinh tế thành thị, từng bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong nông nghiệp. Vì thế việc phát triển và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu, nó có tầm quan trọng trong việc nâng cao và ổn định đời sống của hộ sản xuất nông nghiệp, không ngừng tăng cường và phát triển đời sống mới ở nông thôn. Muốn đạt được mục đích trên trước hết phải chú ý đến nền sản xuất nông nghiệp hiện nay bằng cách trong sản xuất nông nghiệp phải thay đổi cơ cấu và tính chất trong quan hệ sản xuất nông nghiệp, lấy sản xuất hộ nông dân là mặt trận hàng đầu, thông qua việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh việc phát triển trong chăn nuôi gia súc, gắn liền với việc sản xuất hàng hoá tiêu dùng phải đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại phát triển kinh tế dịch vụ, đẩy mạnh việc mở rộng và phát triển ngành nghề truyền thống. Từng bước xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp. Trước hết là các ngành dịch vụ cho việc phát triển trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện chuyên môn hoá, tự động hoá trong sản xuất chúng ta thấy nước ta sản xuất nông nghiệp là chủ yếu chiếm 70% trong nền sản xuất hàng hoá. Thu nhập chính trong nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta qua các giai đoạn đều tập trung quan tâm chú trọng tới nông nghiệp. Luôn có những chính sách mới về nông nghiệp để phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế. Ban thư ký Trung ương Đảng và Bộ chính trị đã ra chỉ thị 100 và quyết định đưa việc khoán 10 trong sản xuất nông nghiệp. Đây là chính sách lớn làm thay đổi nền sản xuất nông nghiệp. Đổi mới về mô hình cũng như tổ chức sản xuất trong nông nghiệp. Ngày 02 tháng 03 năm 1993 Thủ tướng Chính phủ ra nghị định số 14 ban hành quy định về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Kèm theo nghị định này có những quy định cụ thể về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn. Mục đích khai thác hết tiềm năng thế mạnh của từng vùng, sức lao động, năng lực trình độ tổ chức sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống của các hộ sản xuất hết đói nghèo. Tạo điều kiện cho các hộ sản xuất có điều kiện vươn lên làm giầu chính đáng. Để thực hiện thắng lợi đường lối phát triển kinh tế của Đảng, thực hiện nghiêm túc chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ... chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông ngư diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn dưới sự chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước đã tổ chức triển khai tới toàn ngành, việc đầu tư vốn cho các hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn để sản xuất - kinh doanh không phân biệt các thành phần kinh tế. Đã tìm ra giải pháp thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình mở rộng mạng lưới trên khắp mọi miền đất nước phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Có các quy định cụ thể về việc cho vay vốn hộ sản xuất như văn bản 499A quy định về nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chấp nhận khó khăn vì lợi ích kinh tế của đất nước và của ngành đã vượt qua những bước thăng trầm đứng vững lên trong cơ chế thị trường chuyển hướng đầu tư tín dụng về với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Người nông dân mấy năm qua đã gắn bó, gắn gũi với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thực sự đã là người bạn đồng hành với ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Họ đã tiếp nhận vốn vay và sử dụng có hiệu quả nên thực sự đã hết được nghèo đói một số hộ đã vượt lên làm giầu chính đáng vì vậy đầu tư vốn cho hộ sản xuất là rất cần thiết, thực sự là ý Đảng lòng dân luôn được các cấp các ngành quan tâm giúp đỡ. Chính vì vậy, em mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì”. Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và lý luận kinh tế, quản lý trên lĩnh vực tài chính ngân hàng để thống kê, phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn, nhằm đưa ra các giải pháp cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Chuyên đề được chia thành 2 chương: Chương I: Tín dụng hộ sản suất – thực trạng cho vay Hộ sản xuất trong thời gian qua tại NHNN & PTNT Huyện Thanh Trì. Chương II: Các giải pháp hoàn thiện và mở rộng cho vay hộ sản xuất trong thời gian tới tại NHNN&PTNT huyện Thanh Trì. Chương I Tín dụng Hộ Sản xuất - Thực trạng cho vay Hộ sản xuất tại NHNn&PTNT Thanh trì 1.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội huyện Thanh Trì . 1.1.1, tình hình kinh tế – xã hội huyện thanh trì: Huyện Thanh Trì là huyện nằm ở vùng trũng phía Nam Hà Nội, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây, thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XX kinh tế Huyện đã có bước phát triển khá. Hiện nay Huyện đang tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn, có chính sách ưu tiên hỗ trợ nông thôn chuyển đổi cơ cấu sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chỉ đạo thực hiện các dự án phát triển làng nghề, quy hoạch khu sinh thái, các dự án phát triển rau, hoa cao cấp có giá trị kinh tế cao... Tuy nhiên hiện nay diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp hiện đang bị thu hẹp do Nhà nước triển khai nhiều dự án vào địa bàn Huyện, làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và thương mại dịch vụ. Tốc độ đô thị hoá diễn ra rất nhanh. Năm 2004 UBND thành phố Hà Nội thành lập 2 quận mới và đã chia tách 09 xã của Huyện Thanh Trì về quận Hoàng Mai. Điều kiện kinh tế - xã hội của Huyện như trên đã tạo ra một số thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì cụ thể: - NHNo & PTNT Thanh Trì có hướng đầu tư mới trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ - xây dựng. Là một ngân hàng lớn và có uy tín trên địa bàn Huyện, với mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch được bố trí rất thuận tiện cho dân cư trong Huyện, đặc biệt ở gần các làng nghề, các khu dân cư có tốc độ đô thị hoá cao như Đông Mỹ, Cầu Bươu, PGD Ngũ Hiệp... sẽ giúp ngân hàng thu hút được khách hàng. - Việc Quận mới Hoàng Mai được thành lập, nhờ mối quan hệ uy tín lâu dài với Khoa bạc Nhà nước và BHXH quận Hoàng Mai, Ngân hàng Thanh Trì đã thu hút được KBNN quận Hoàng Mai và BHXH Hoàng Mai mở tài khoản và giao dịch tại NHNo Thanh Trì, đặc biệt là các đơn vị này luôn có nguồn tiền gửi với lãi suất thấp, chi phí trả lãi rẻ. Đồng thời nhờ việc nhanh chóng khai trương PGD Vạn Xuân để tranh thủ thu hút khách hàng là các cán bộ công chức trên địa bàn quận Hoàng Mai nên việc cho vay được tăng trưởng. - Như đã nói, Nhà nước triển khai nhiều dự án trọng điểm trên địa bàn Huyện năm 2004 như dự án cầu Thanh Trì, đường vành đai 3, khu công nghiệp Ngọc Hồi..., việc đền bù giải phóng mặt bằng được triển khai mạnh mẽ, tạo điều kiện cho Ngân hàng thu nợ tồn đọng khó đòi và thu tiền gửi tiết kiệm khá lớn từ dân cư tập trung ở một số địa bàn có dự án. - Với tốc độ đô thị hoá nhanh, nhiều doanh nghiệp (chủ yếu là vừa và nhỏ) và các Công ty ra đời trên địa bàn Huyện tạo điều kiện để NHNo & PTNT Thanh Trì thu hút khách hàng là doanh nghiệp, điều mà trước đây còn rất hạn chế. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội như trên tạo ra khó khăn cho hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì, đó là: - Do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp dẫn tới thị phần đầu tư hộ sản xuất nông nghiệp của ngân hàng bị thu hẹp. - Phòng giao dịch của ngân hàng chính sách xã hội, phòng giao dịch của ngân hàng Đầu tư Hà Nội ra đời, thêm vào đó, NHNo Hoàng Mai được khai trương vào đầu năm 2005 tạo ra sự cạnh tranh về huy động vốn, cho vay và chia sẻ thị phần của NHNo Thanh Trì tại khu vực. - Do đối tượng vay của NHNo & PTNT Thanh Trì chủ yếu là bà con nông dân với đối tượng đầu tư là cây trồng, con giống, gia súc, thả cá, sản xuất nông nghiệp với số món tuy nhiều nhưng lượng nhỏ lẻ, manh mún, nên dư nợ cho vay hộ sản xuất còn ít. Hơn nữa, trình độ dân trí nhìn chung còn thấp, hiểu biết hạn chế, vì vậy rủi ro lớn. Trước những thuận lợi và khó khăn đó, chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Trì đã, đang và sẽ nỗ lực hết mình để có thể vừa vượt qua được những khó khăn thử thách để đứng vững trong cạnh tranh, phát huy hơn nữa thế mạnh cũng như khai thác những điều kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh doanh của mình. 1.1.2. Sự cần thiết của tín dụng hộ sản xuất trong nền kinh tế Tình hình kinh tế – xã hội huyện Thanh trì cho chúng ta thấy việc phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn hiện nay giữ một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp, kinh doanh hàng hoá, phát triển và mở rộng các ngành nghề truyền thống, khi đồng tiền này sẵn có trong nông nghiệp. Hộ sản xuất là một trong những nhân tố quyết định tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm phong phú và đã dạng hoá trong nông nghiệp. Từ việc sản xuất hàng hoá mang tính chất tự cung tự cấp, đến việc trao đổi hàng hoá trên thị trường. Hộ sản xuất là đơn vị sản xuất hàng hoá tự chủ tiến hành sản xuất trong điều kiện tự nhiên, phải tham gia cạnh tranh của nhiều thành phần kinh tế, trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Ngày nay kinh tế hộ đã và đang phát triển nhờ có cơ chế chính sách mới của Đảng cho hộ tự chủ trong sản xuất kinh doanh đã phát huy được thế mạnh tính năng động sáng tạo, tính nhanh nhạy trong việc: Thay đổi cơ cấu sản xuất, Thay đổi cơ cấu đầu tư. Mạnh dạn đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao, hàng hoá sản xuất ra ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân được cải thiện. Như vậy từ việc phát triển kinh tế hộ đã hình thành nên các thị trường tiêu thụ hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển đã làm cho nền kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới. Trong thời gian qua hoạt động của ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể vào thành công của sự nghiệp đổi mới nền kinh tế đất nước, điều hành chính sách tiền tệ tích cực, cơ bản ổn định được giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia. Huy động được một khối lượng đáng kể vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tăng cường đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường công nhận sự ra đời và tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng. Muốn sản xuất kinh doanh dịch vụ đòi hỏi tư liệu sản xuất, vật tư tiền vốn phải luôn đổi mới và mở rộng, thay đổi hình thức đầu tư vốn, luôn cải thiện trang thiết bị mẫu mã. Đổi mới cơ cấu đầu tư cây giống, con giống... mặt hàng mới sản xuất luôn phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Muốn đổi mới sản xuất kinh doanh cần phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn này bản thân người sản xuất không thể có đủ được mà cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức tín dụng của ngân hàng. Trước nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ ngành ngân hàng cũng nhanh chóng đổi mới phương thức đầu tư thích hợp để hoà nhập với cơ chế thị trường. Là đầu tư vốn mở rộng tới các thành phần kinh tế về với thị trường nông thôn, nông nghiệp và nông dân. Đổi mới công tác kế hoạch hoá tín dụng gắn liền với quan hệ cung cầu trên thị trường vốn. Đầu tư vốn tới các hộ sản xuất ở nông thôn nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Nguồn vốn cho vay của ngân hàng là nguồn vốn bổ sung vốn thiếu cho hộ sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Vốn tín dụng tạo điều kiện cho các hộ sản xuất phát triển các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi cải tạo cây con giống cho năng suất cao giá trị lớn vốn tín dụng đầu tư mở rộng sản xuất các ngành nghề truyền thống giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống dân sinh. Vốn tín dụng đã đến với tất cả các loại hộ sản xuất. - Hộ giầu có điều kiện mở rộng sản xuất cải tiến kỹ thuật thu hút lao động tổ chức sản xuất lớn tạo ra nhiều sản phẩm có năng suất chất lượng tốt giá trị cao đáp ứng thị hiếu tiêu dùng. Bù đắp đủ chi phí còn có tích luỹ ngày càng nhiều hộ giầu ngày càng giầu thêm. - Hộ trung bình vay thêm vốn tín dụng ngân hàng có điều kiện mở rộng sản xuất. Từng bước đầu tư thiết bị tăng năng suất lao động sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn đủ chi dùng cho gia đình còn dôi thừa, dần dần có tích luỹ để tái tạo sản xuất để trở thành hộ sản xuất khá dẫn đến giầu. - Hộ nghèo đói có vốn tín dụng dần từng bước tiếp thu khoa học kỹ thuật tự tổ chức sản xuất làm ra sản phẩm dần cải thiện đời sống đủ bù đắp chi phí sinh hoạt cho gia đình từ hộ nghèo đói phấn đấu trở thành hộ trung bình. Việc thực hiện chủ trương chính sách cho vay đối với kinh tế hộ ở ngân hàng nông nghiệp thực hiện theo văn bản 499A. Đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng hộ sản xuất sử dụng vốn tín dụng ngân hàng phải sử dụng đúng mục đích bảo toàn vốn sử dụng có hiệu quả, hoàn trả vốn ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi, ngân hàng sẽ tiếp tục đầu tư vốn để thực hiện chu kỳ sản xuất tiếp theo. Như vậy việc đầu tư vốn tín dụng cho các hộ là rất cần thiết đây cũng là một chính sách mới của Đảng đối với kinh tế hộ đã làm cho quá trình phân hoá giàu nghèo ở nông thôn được rút ngắn, kinh tế nông thôn ngày càng đổi mới. Tóm lại: Tín dụng ngân hàng đối với việc mở rộng và phát triển kinh tế hộ ở nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng. Thông qua việc cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, thông qua việc đầu tư vốn đã khuyến khích tạo điều kiện cho hộ thiếu vốn có vốn sản xuất, phát triển các ngành nghề truyền thống. Tín dụng ngân hàng đã làm thay đổi về cơ cấu sản xuất ở nông thôn thông qua việc đầu tư vốn đã xoá hẳn nạn cho vay nặng lãi, bước đầu đã làm cho nền kinh tế nông thôn phát triển nâng cao đời sống của nông dân nông thôn. 1.2 thực trạng cho vay hộ sản xuất tại ngân hàng thanh trì trong thời gian qua. 1.2.1. Hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Thanh Trì thời gian qua. a). Hoạt động huy động vốn. Đối với một NHTM thì nguồn vốn là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nó trong tương lai. Bởi vai trò của ngân hàng là "đi vay" để "cho vay". Nguồn vốn còn ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh của các NHTM. Hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay đều huy động cho mình nguồn vốn bằng nhiều biện pháp và tiêu chí là tìm nguồn vốn sao cho chi phí rẻ nhất và ổn định. Theo tiêu chí đó, ngân hàng có thể sử dụng biện pháp làm tăng sự "hấp dẫn" của lãi suất, làm phong phú về mặt kỳ hạn gửi, rút... Có thể nói thời gian vừa qua công tác huy động vốn của chi nhánh NHNo Thanh Trì tương đối tốt. Nắm bắt được các điều kiện kinh tế - xã hội của huyện và xuất phát từ kế hoạch nguồn vốn của mình, chi nhánh đã chủ trương khơi tăng nguồn vốn từ dân cư, đặc biệt trú trọng đến công tác huy động vốn không kỳ hạn với mức lãI suất thấp. NHNo Thanh Trì đã trú trọng tới việc nâng cấp mạng lưới phòng giao dịch để thu hút nguồn vốn ổn định, vững chắc. Chi nhánh đã tăng cường các hoạt động tiếp thị, tuyên truyền, để thu hút các nguồn vốn mang tính ổn định, lãi suất thấp như của kho bạc Hoàng Mai, BQLDA Thăng Long. Chi nhánh cũng tăng cường thiết lập các mối quan hệ thu - chi tiền mặt tại chỗ với các tổ chức, đơn vị kinh tế có khả năng tài chính lớn như BQL dự án khu công nghiệp Ngọc Hồi, dự án khu công nghiệp Cầu Bươu..., tiếp thị với các doanh nghiệp để họ mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh... Thời gian vừa qua, chi nhánh đã và đang tập trung huy động vốn từ dân cư do đền bù giải phóng mặt bằng của các dự án trên địa bàn Hoàng Mai và Thanh Trì. Bên cạnh đó, NHNo Thanh Trì còn thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp dân cư bằng các chương trình khuyến mại cho khách hàng,... (chương trình huy động vốn có thưởng bằng vàng ba chữ A của NHNo Việt Nam, áp dụng mức lãi suất huy động hấp dẫn khi mở phòng giao dịch Vạn Xuân, Khương Đình...) Với rất nhiều biện pháp khác nhau, chi nhánh đã huy động được một nguồn vốn tăng cường liên tục, kết quả thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn theo tính chất huy động Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 % 2004 % 2003/2004 C.lệch tuyệt đối % + - TG của dân cư 452.000 76,22 501.000 77,5 18.000 10,8 TG của TCKT 11.000 19 112.600 17,4 35.700 2,35 TG của TCTD 31.000 4,78 33.100 5,1 2.100 6,7 Tổng nguồn vốn 593.000 100 646.700 100 53.700 9 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì) Qua bảng số liệu ta thấy tổng nguồn vốn của chi nhánh có xu hướng tăng lên. Năm 2004 tổng nguồn tăng 53.700 triệu đồng so với năm2003 (tương đương 9%). Trong đó nguồn tiền gửi của dân cư có xu hướng tăng nhanh hơn so với nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi của tổ chức tín dụng. Năm 2004, tiền gửi của dân cư tăng 18.000 triệu đồng so với 2003 (tương đương với 10,8%). Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế cũng đã tăng lên (năm 2004 gấp 2,35% so với năm 2003). Xét về cơ cấu tỉ trọng thì nguồn tiền gửi của dân cư là cao nhất ở cả 2 năm, sau đó đến tỉ trọng tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng. Bảng 2.2: Cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 2003 % 2004 % 2003/2004 C.lệch tuyệt đối % + - Không kỳ hạn 123.000 21 145.700 23,3 22.700 18,45 Kỳ hạn < 12 tháng 326.000 55 302.000 46,7 24.000 7,36 Kỳ hạn > 12 tháng 144.000 24 199.000 30 55.000 38,19 Tổng nguồn vốn 593.000 100 646.700 100 53.700 9 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì) Theo thời hạn huy động ta thấy tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi kỳ hạn trên 12 tháng có xu hướng tăng lên, tiền gửi kỳ hạn < 12 tháng có xu hướng giảm qua 2 năm. Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn tăng 22.700 triệu đồng (tương đương với 18,45%), nguồn vốn này tăng chủ yếu là do tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăngvà tập trung chủ yếu ở hai đơn vị lớn là kho bạc Hoàng Mai và ban quản lý dự án Thăng Long thường xuyên có trên dưới 70 tỷ năm 2004. Nguồn tiền gửi này tuy tăng không nhiều nhưng mang lại lợi nhuận cao cho chi nhánh. Tính riêng năm 2004, với lãi suất 0,2% và lấy chênh lệch lãi suất và phí điều vốn là 0,4%, ngân hàng đã thu được lợi nhuận gần 3 tỷ từ tiền gửi của 2 đơn vị này. Nguồn tiền gửi từ dân cư tuy ổn định nhưng lãi suất huy động cao và xu hướng tăng lãi suất trong chi phí điều vốn không tăng nhưng chi nhánh vẫn tiếp tục huy động vì lợi ích chung của toàn ngành. Đây cũng là một nguyên nhân làm chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào thấp. Để đạt được kết quả huy động vốn như trên,chi nhánh NHNo Thanh Trì đã không ngừng huy động vốn dưới nhiều hình thức, coi việc huy động vốn là việc của mọi cán bộ công nhân viên cơ quan, đồng thời chi nhánh cũng cung cấp các sản phẩm dịch vụ khác nhau đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng : các loại tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, đa dạng hoá các phương thức trả lãi: trả lãi trước, lãi sau, lãi bậc thang. Đồng thời chi nhánh đã mở rộng mạng lưới tới nhiều khu vực khác nhau trong huyện nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động kinh doanh cũng như huy động vốn, thu hút thêm khách hàng. b). Hoạt động cho vay: Hoạt động cho vay là hoạt động chủ đạo và đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Mặt khác, hoạt động này còn thể hiện một phần sức cạnh tranh, thị phần của ngân hàng so với các ngân hàng khác cùng địa bàn. Chi nhánh NHNo Thanh Trì đã cố gắng không ngừng để việc sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất, an toàn. Trước hết, chi nhánh luôn duy trì mối quan hệ tốt với các đơn vị sản xuất kinh doanh như các DNNN, các Công ty đã có tín nhiệm với ngân hàng. Chi nhánh luôn tìm biện pháp để mở rộng và giữ vững thị trường cho vay, tăng cường công tác tiếp thị, đẩy mạnh cho vay tiêu dùng, đưa ra các mức lãi suất linh hoạt, phù hợp với địa bàn hoạt động. Chi nhánh luôn bám sát định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Huyện để đầu tư, đặc biệt là đầu tư vốn cho các làng có nghề truyền thống như Tân Triều, Vạn Phúc, khu du lịch sinh thái Đông Mỹ, khu nuôi trồng thuỷ sản ở Tả Thanh Oai, Vĩnh Quỳnh, Đại áng, khu công nghiệp Ngọc Hồi, Cầu Bươu. Chi nhánh đã thực hiện việc giao chỉ tiêu kế hoạch cụ thể tới từng cán bộ; quyết toán theo quý, có chế độ đãi ngộ thoả đáng với cán bộ tín dụng, thưởng phạt rõ ràng nhằm hạn chế sai phạm xảy ra, thực hiện khoán lương tới từng người để nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng. Việc mở rộng cho vay vẫn được tiến hành với mọi đối tượng khách hàng như cho vay phục vụ nhu cầu đời sống với cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp Nhà nước có thu nhập từ lương ổn định, trú trọng mở rộng cho vay các đơn vị nhỏ. Được sự quan tâm của cấp trên, chi nhánh NHNo Thanh Trì đã tham gia đầu tư dài hạn các dự án lớn như dự án xi măng Bút Sơn, các dự án xây dựng cơ bản. Chi nhánh luôn phối hợp cùng các ban ngành của huyện và quận Hoàng Mai để xây dựng các dự án tiểu vùng, đề án mang tính chiến lược lâu dài và mang tính chính trị của huyện, quận. Chi nhánh đã có định hướng đúng trong hoạt động đầu tư, chỉ đạo uyển chuyển linh hoạt về mức lãi suất cho vay xác định đối tượng được ưu tiên, ưu đãi về lãi suất. Dư nợ của mỗi CBTD được nâng cao, chất lượng hoạt động tín dụng tăng (thể hiện ở tỷ lệ NQH thấp) là nhờ có chính sách đối với cán bộ công nhân viên của ngân hàng. Bên cạnh đó, hiện nay các phòng nghiệp vụ đều lên kế hoạch tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ vào ngày thứ 7, chủ nhật. Chi nhánh tập trung cán bộ học các quy chế nghiệp vụ cho vay, bảo đảm tiền vay và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay để chấn chỉnh kịp thời sai sót. Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn cho vay. Đơnvị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 % 2004 % 2003/2004 C.lệch tuyệt đối % + - Ngắn hạn 166.600 85 252.500 81,5 85.900 51,56 Trung, dài hạn 29.400 15 57.500 18,5 28.100 95,58 Tổng dư nợ 196.000 100 310.000 100 114.000 58 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì) Bảng 2.3 cho ta thấy dư nợ cho vay năm 2004 đã tăng lên rất cao sovới năm 2003: Năm 2004 tăng 114.000 triệu đồng so với 2003 (tương đương 50%). Chi nhánh thực hiện cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Năm 2003, dư nợ ngắn hạn là 85%, và năm 2004 là 81,3% so với tổng dư nợ. Về xu hướng ta thấy dư nợ ngắn hạn có xu hướng giảm dần, dư nợ trung, dài hàn có xu hướng tăng dần. Cụ thể: Năm 2003, cho vay trung, dài hạn chiếm 15% tổng dư nợ, năm 2004 chiếm 18,5% tổng dư nợ. Năm 2004 tăng 95,58% so với năm 2003 (tương đương 28100 triệu đồng). Dư nợ trung dài hạn tăng nhanh như vậy là do chi nhánh đã tăng dư nợ cho vay các doanh nghiệp Nhà nước để đầu tư dài hạn như: Công ty tổng Bách hoá, Công ty cổ phần Vật tư nông nghiệp nông sản, Công ty Xuất nhập khẩu rau quả Tam Hiệp... Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2003 % 2004 % 2003/2004 C.lệch tuyệt đối % + - DNNN 87.200 43,7 66.300 21,39 20.900 23,97 DNNQD 47.000 28,5 153.700 49,6 106.700 227 Hộ SX K.doanh 61.800 27,8 88.000 29,01 26.200 42,4 Tổng dư nợ 196.000 100 310.000 100 114.000 58 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo & PTNT Thanh Trì) Qua bảng ta thấy, tổng dự nợ cho vay khối DNNQD và hộ sản xuất kinh doanh năm 2004 tăng so với 2003. Riêng dư nợ cho vay khối DNNN giảm nguyên nhân là do chi nhánh đã giảm dần dư nợ và từ chối cho vay với một số DNNN có khó khăn về tài chính, vay nhiều tổ chức tín dụng cùng lúc như: CoMa 7, Xí nghiệp TM & DV Cầu Tiên thuộc Công ty xây dựng phương Bắc là các đơn vị có dư nợ cao từ trước. Dư nợ cho vay các DNNQD và hộ sản xuất tăng lên là do chi nhánh đã và đang trú trọng đến cho vay bám sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn hộ kinh doanh ở các làng có ngành nghề truyền thống. Nhìn chung kết quả hoạt động cho vay năm 2004 là tốt. Đạt được kết quả trên là nhờ chi nhánh đã có cơ chế tín dụng khá đầy đủ, rõ ràng, phương pháp làm việc của cán bộ ngân hàng đã có tiến bộ rõ rệt trong vấn đề giải quyết cho vay. Mặt khác qua cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế ta thấy được đường lối chiến lược trong cho vay bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Về vấn đề nợ quá hạn và việc thu hồi nợ tồn đọng. Có thể nói rằng năm 2004 chi nhánh đã có thành công trong việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Năm 2003 nợ quá hạn là 798 triệu đồng chiếm 0,4% tổng dư nợ. Đến 31/12/2004 nợ quá hạn là 702 triệu, chiếm 0,22% tổng dư nợ và chỉ tập trung vào hộ sản xuất, không có doanh nghiệp nào nợ quá hạn. Trong số 702 triệu nợ quá hạn thì nợ quá hạn của dự án 2561 (WB) cho vay từ những năm 1994 - 1997 chiếm 552 triệu. Như vậy thực chất nợ quá hạn mới phát sinh là 150 triệu đồng (150 triệu đồng/88000 triệu đồng dư nợ hộ sản xuất và tư nhân, khoảng 0,17%). Để đạt được thành công này trước hết phải nói đến vai trò của cán bộ tín dụng, nhờ thực hiện tốt quy trình nghiệp vụ cho vay, thẩm định kỹ lưỡng trước khi cho vay nên nợ quá hạn rất thấp. Cũng trong năm 2004, nhờ sự tích cực và thái độ kiên quyết thu hồi nợ, đồng thời nhờ có việc các dự án trên địa bàn Hoàng Mai, Thanh Trì đền bù giải phóng mặt bằng cho dân cư, chi nhánh đã thu hồi được 1390 triệu đồng đã xử lý rủi ro trong đó 785 triệu đồng nợ gốc. Đây là thành công mà chi nhánh nên phát huy hơn nữa. c) Các hoạt động khác: - Hoạt động kế toán - ngân quỹ: Cùng với sự đổi mới công nghệ ngân hàng đáp ứng yêu cầu của chương trình thanh toán mới, NHNo Thanh Trì đã tổ chức mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ kế toán - ngân quỹ, cử cán bộ kế toán - ngân quỹ tham gia học các lớp do Trung tâm điều hành tổ chức, các cán bộ này sẽ hướng dẫn các kế toán viên cho chi nhánh. Năm 2004 vừa qua, các cán bộ phòng kế toán - ngân quỹ đã có những thành tích rất đáng khen ngợi, đó là việc cải tiến chiếc máy đếm tiền cũ trước kia để đếm tiền giấy thành máy đếm tiền có thể sử dụng đếm tiền Polime, tiết kiệm cho chi nhánh chi phí mua sắm thiết bị ngân hàng. Hoạt động kế toán ngân quỹ của chi nhánh luôn thực hiện đúng các quy định, các văn bản hướng dẫn do NHNo & PTNT ban hành. Với phương châm phục vụ khách hàng tốt nhất, đáp ứng mọi nhu cầu cho khách hàng nên ngân hàng luôn có đủ khả năng thanh toán tức thời cho khách hàng khi họ có nhu cầu về tiền mặt cả nội tệ và ngoại tệ, thực hiện điều chỉnh kịp thời, nhanh chóng, an toàn, chính xác giữa các phòng giao dịch, các ngân hàng với nhau. - Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ: Đây là mảng hoạt động còn mới mẻ đối với ngân hàng, phòng thanh toán quốc tế và nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới được hình thành năm 2004. Mặc dù mới thành lập nhưng mảng hoạt động này cũng đã đạt được một số kết quả ban đầu: Cho vay bằng ngoại tệ đã có xu hướng tăng ở hai quý cuối năm 2004, có thời điểm dư nợ ngoại tệ đạt trên 6 triệu USD. Số tiền này đối với nhiều chi nhánh cấp 1 khác chỉ là dư nợ của 1 - 2 món vay nhưng đối với NHNo Thanh Trì thì đây là bước tiến bộ đáng kể. Đặc biệt là về thời gian cuối năm 2004 (quý IV) mức dư nợ cho vay nội tệ bị Trung ương khống chế thì cho vay ngoại tệ là hướng tăng dư nợ. Tuy nhiên vì mảng nghiệp vụ này đối với chi nhánh còn khá mới mẻ nên còn nhiều vấn đề phải rút kinh nghiệm như: Việc áp dụng lãi suất cho vay còn thấp không tìm hiểu phí mua ngoại tệ do Trung ương quy định từ 2003, lãi suất cho vay ngoại tệ đã góp phần làm giảm chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động của chi nhánh. Hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh chỉ với số món rất ít và số lượng khách hàng còn rất khiêm tốn, chủ yếu có Công ty cổ phần XNK rau quả Tam Hiệp, Công ty XNK Vật tư nông nghiệp - nông sản và một số đơn vị khác. Nguyên nhân một phần là do hoạt động này của chi nhánh còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm hoạt động, một phần do điều kiện kinh tế - xã hội của huyện chưa phát triển các hoạt động kinh doanh với nước ngoài. 1.2.2 : thực trạng cho vay Hộ sản xuất của ngân hàng thanh trì: Chủ trương của Đảng và Nhà nước về cho vay hộ sản xuất và hộ nghèo với lãi suất ưu đãi là hợp với ý Đảng lòng dân. Thực trạng vốn cho vay hộ sản xuất và hộ nghèo ở huyện Thanh Trì đã góp phần rất đáng kể vào việc xoá đói giảm nghèo nhất, tăng trưởng kinh tế trong huyện. Số vốn cho vay thì số đông các hộ sử dụng vốn làm kinh tế tốt có hiệu quả, đã góp phần tích cực vào việc xoá đói giảm nghèo. Có những hộ trước đây đói, nghèo nay đã và đang thoát khói đói nghèo. Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn huyện Thanh Trì tiến hành cho vay trực tiếp đến hộ vay vốn sản xuất kinh doanh theo hướng dẫn nghiệp vụ qua văn bản 499A của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6858.doc
Tài liệu liên quan