Nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH chi nhánh Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Việc làm là vấn đề có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến đời sống của mỗi người dân nói riêng và cả xã hội nói chung bởi vì việc làm tạo thu nhập, nâng cao sức mua của nền kinh tế, tạo niềm vui trong lao động từ đó, con người sống có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: ở Việt Nam , cung lao động lớn hơn cầu lao động rất nhiều, khoảng cách chênh lệch đó được phản ánh qua tỷ lệ thất nghiệp khá cao đặc biệt là ở khu vực thành thị. Song song với các nỗ lực thúc đẩy sự nghiệp công ng

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2181 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta cũng luôn chú ý đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô sao cho có được một sự phát triển đồng đều giữa kinh tế và xã hội. Do đó, sự ra đời của Ngân hàng Chính Sách Xã Hội (NHCSXH) là một việc làm chiến lược, đáp ứng yêu cầu kết hợp đồng đều giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội thông qua các hình thức tín dụng chính sách nhưng vẫn đảm bảo cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế thị trường. Tìm hiểu về hoạt động của Chi nhánh NHCSXH Thành phố Hà Nội, có thể thấy rằng, hoạt động cho vay giải quyết việc làm (GQVL) nhận được sự quan tâm đặc biệt vì tầm quan trọng bậc nhất của nó trong việc giải quyết những vấn đề của Thủ đô. Với vai trò là một trung tâm kinh tế- văn hóa- chính trị - xã hội, là bộ mặt của đất nước, TP xác định: “đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,khuyến khích thực hiện phúc lợi xã hội” – mục tiêu hoạt động 5 năm 2006-2010 của thành phố Hà Nội- là mục tiêu chiến lược lâu dài. Trong khi đó, một khó khăn lớn nhất gây cản trở con đường phát triển toàn diện của Thủ đô chính là tỉ lệ thất nghiệp cao. Vì thế, công tác cho vay GQVL trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, hướng đến mục tiêu chiến lược TP đã đề ra. Là một sinh viên chuyên ngành ngân hàng, em sớm nhận thức được nhiệm vụ của bản thân, đó là phải phấn đấu trong việc học tập để sau này góp phần công sức của mình vào hoạt động ngân hàng nói riêng cũng như xây dựng đất nước nói chung. Tuy nhiên, những kiến thức được học trong nhà trường mới chỉ là trên lý thuyết, việc tìm hiểu thực tế cũng rất quan trọng, điều đó giúp cho sinh viên khi ra trường không bị bỡ ngỡ và sẽ hòa nhập nhanh với công việc. Dưới sự hướng dẫn và khuyến khích của nhà trường và của khoa ngân hàng – tài chính, sinh viên chuyên ngành ngân hàng chúng em đã có điều kiện được đi thực tập thực tế tại các ngân hàng khác nhau, qua một thời gian tìm hiểu thực tế tại NHCSXH - chi nhánh Hà Nội, em đã bước đầu tìm hiểu được tính chất cũng như sơ bộ về hoạt động của ngân hàng. Bằng những kiến thức đã học cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, TS Lê Thanh Tâm cũng như nhân viên hướng thực tập tại NHCSXH- chi nhánh Hà Nội, em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài là “Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH chi nhánh Hà Nội". Chuyên đề tập trung vào các quan điểm về hiệu quả cho vay giải quyết việc làm và kinh nghiệm làm công tác đó tại NHCSXH Chi nhánh Hà Nội. Trên cơ sở kết hợp lí luận với thực tiễn, em đã đưa ra những giải pháp của bản thân cùng với sự tham khảo những kiến nghị của Chi nhánh NHCSXH Hà Nội trình lên NHCSXH VN và các Ban, ngành hội đoàn thể hữu quan để nâng cao hiệu quả cho vay GQVL trên địa bàn Thủ đô. Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, chuyên đề được kết cấu theo 3 chương: Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của Ngân hàng Chính sách xã hội. Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH - chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH - Chi nhánh Hà Nội. Với sự hiểu biết còn hạn chế của mình, em mong rằng mình có thể đóng góp một phần nào đó qua bài Chuyên đề tốt nghiệp này để hiệu quả của hoạt động cho vay GQVL tại NHCSXH - Chi nhánh Hà Nội được nâng cao hơn nữa, góp phần vào công cuộc thực hiện mục tiêu của TP Hà Nội là “giảm tỷ lệ thất nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân Thủ đô, chuyển dịch cơ cấu kinh tế” – chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thành phố Hà Nội giai đoạn 2005-2010 _ thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước mà Đảng và Chính phủ đã đề ra. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 1.1. Cho vay của NHCSXH đối với vấn đề giải quyết việc làm. 1.1.1.Giới thiệu về NHCSXH. NHCSXH mà tiền thân là ngân hàng phục vụ Người nghèo là tổ chức tài chính đặc biệt hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng khó khăn trong xã hội một cách trực tiếp và có hiệu quả. Với mục tiêu thành lập như ban đầu, NHCSXH thực hiện những chức năng cụ thể sau: *Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước có trả lãi của mọi tổ chức và tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; Tổ chức huy động tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo. *Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác; vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; Vay tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt Nam; Vay Ngân hàng Nhà nước. *Được nhận các nguồn vốn đóng góp tự nguyện không có lãi hoặc không hoàn trả gốc của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ trong nước và nước ngoài. *Mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho tất cả các khách hàng trong và ngoài nước. *Ngân hàng Chính sách xã hội có hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống liên ngân hàng trong nước. *Ngân hàng Chính sách xã hội được thực hiện các dịch vụ ngân hàng về thanh toán và ngân quỹ: Cung ứng các phương tiện thanh toán. Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước. Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ bằng tiền mặt và không bằng tiền mặt. Các dịch vụ khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. *Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội. *Nhận làm dịch vụ uỷ thác cho vay từ các tổ chức quốc tế, quốc gia, cá nhân trong nước, ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác. Với những chức năng trên, NHCSXH thực hiện đầy đủ vai trò của một NHCS – ngân hàng đảm bảo đưa các chính sách xã hội của Nhà nước trực tiếp đến đối tượng chính sách của xã hội. Vai trò của NHCSXH được thể hiện cụ thể qua các chương trình cho vay mà ngân hàng đang thực hiện như sau: * Cho vay hộ nghèo, các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng vùng sâu vùng xa, đống bào dân tộc thiểu số góp phần giúp các đối tượng trên tiếp cận được nguồn vốn, sản xuất kinh doanh, đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. * Cho vay GQVL cho các đối tượng thất nghiệp, không có việc làm, cho các cơ sở sản xuất kinh doanh mới nhằm tạo thêm việc làm cho người lao động, thực hiện mục tiêu vĩ mô về việc làm của Nhà nước. * Cho vay học sinh – sinh viên đối với những thí sinh đã trúng tuyển trong các kỳ thi đại học, cao đẳng trong cả nước có điều kiện khó khăn có đủ kinh phí trang trải trong thời gian đi học. * Cho vay thực hiên chương trình nước sạch vệ sinh môi trường, cung cấp vốn cho các công trình xây dựng và bảo đảm nguồn nước sạch phục vụ người dân, đặc biệt đồng bào dân tộc, người dân ở vùng sâu vùng xa, vốn ít được tiếp cận với nguồn nước sạch và đang phải gánh chịu hậu quả từ việc thiếu nguồn nước đảm bảo. * Cho vay doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Cho vay hỗ trợ xuất khẩu lao động, hỗ trợ những người đi lao động nước ngoài nhưng thiếu vốn ban đầu 1.1.2. Cho vay của NHCSXH. NHCSXH thực hiện cho ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ cho sản xuất kinh doanh ,tạo việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Hiện nay NHCSXH đang thực hiện theo hai phương thức cho vay,cụ thể là: 1. Uỷ thác từng phần: qua 4 tổ chức chính trị - xã hội là Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn NHCSXH hiện nay đang thực hiện việc cho vay theo 2 phương thức: -Thanh niên với các chương trình cho vay . - Hộ gia đình là thành viên Tổ TK&VV đủ điều kiện để vay vốn. * Quy trình cho vay các chương trình này được chia thành 9 công đoạn, gồm: (1) Hướng dẫn việc thành lập tổ và tổ chức họp để thành lập Tổ TK&VV theo quy chế quy định, giám sát và duy trì các hoạt động của Tổ TK&VV. (2) Tổ chức họp tổ để bình xét cho vay, lập danh sách hộ gia đình xin vay vốn NHCSXH (mẫu số 03) trình Ban xóa đói giảm nghèo xã và UBND xã xét duyệt để gửi NHCSXH cấp trên. (3) Thông báo kết quả phê duyệt danh sách 03/CVHN đến từng hộ gia đình. (4) Thực hiện việc giải ngân vốn vay đến trực tiếp từng hộ gia đình trong Tổ TK&VV. (5) Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và đôn đốc người vay trả nợ gốc và lãi tiền vay theo kỳ hạn thỏa thuận. (6) Hướng dẫn người vay lập hồ sơ nợ đề nghị xử lý rủi ro (nếu có). (7) Thực hiện việc thu lãi, thu tiền gửi tiết kiệm (nếu có) của các thành viên theo định kỳ đã thỏa thuận khi được NHCSXH uỷ nhiệm. (8) Tổ chức thu nợ gốc và trực tiếp thu lãi của từng hộ thuộc các Tổ TK&VV không được uỷ nhiệm thu lãi. (9) Tổ chức hạch toán kế toán và lưu trữ hồ sơ cho vay, thực hiện chế độ báo cáo thống kê theo chế độ hiện hành. Trong 9 công đoạn của qui trình cho vay, NHCSXH uỷ thác cho các tổ chức chính trị - xã hội 6 công đoạn (gồm: 1, 2, 3, 5, 6 và 7). NHCSXH trực tiếp quản lý các công đoạn còn lại (gồm: 4, 8 và 9), gọi tắt là “uỷ thác cho vay từng phần” 2. Cho vay trực tiếp: Người vay trực tiếp làm thủ tục, thanh toán nhận tiền vay, trả nợ gốc lãi với NHCSXH. - Đối tượng vay vốn theo phương thức này: là những hộ gia đình đủ điều kiện vay vốn nhưng phải thực hiện thế chấp tài sản, cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bảng 1.1. CÁC CHƯƠNG TRÌNH TÍN DỤNG CHỦ YẾU NHCSXH ĐANG THỰC HIỆN TT Chương trình Đối tượng thụ hưởng Phương thức cho vay/đảm bảo tiền vay Mức cho vay tối đa Lãi suất cho vay Từ ngày 1/1/2007 1 Cho vay hộ nghèo theo NĐ 78 cho các mục đích: - Sản xuất kinh doanh. - Nước sạch vệ sinh môi trường. - Sửa chữa nhà ở. - Điện sinh hoạt. - Chi phí học tập cho con em hộ nghèo. Hộ gia đình nghèo Uỷ thác - không phải thế chấp - 30 triệu đồng/1 hộ - 30 triệu đồng/1 hộ. - 4 triệu đồng/1 công trình. - 3 triệu đồng/1 hộ. - 1,5 triệu đồng/1 hộ. - Do Giám đốc tỉnh quyết định. 0,65%/tháng Lãi suất nợ QH: 130% lãi suất khi cho vay 2 Cho vay chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn theo Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg ngày 16/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ Hộ gia đình Uỷ thác - không phải thế chấp 4 triệu đồng /1 công trình 0,65%/tháng (NQH 130% LS khi cho vay) 3 Học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn thông qua hộ gia đình Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ HSSV thông qua hộ gia đình Uỷ thác - không phải thế chấp 800.000 đồng/1 tháng 0,5%/ tháng (từ ngày 1/10/2007) (NQH 130% LS khi cho vay) 4 Cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn theo QĐ 31/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ Hộ gia đình vay đến 30 triệu đồng Uỷ thác - không phải thế chấp 30 triệu đồng/1 hộ 0,9%/ tháng (NQH 130% LS khi cho vay) Hộ gia đình trên 30 triệu Trực tiếp - đảm bảo tiền vay bằng TS hình thành từ vốn vay 100 triệu đồng/1 hộ 0,9%/ tháng (NQH 130% LS khi cho vay) 5 Cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ Hộ gia đình dân tộc thiểu số ĐBKK Uỷ thác - không phải thế chấp 5 triệu đồng/1 hộ 0% 6 Các đối tượng vay vốn giải quyết việc làm theo Quyết định số 71/2005/QĐ-TTg ngày 05/4/2005, Quyết định số 15/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Cơ sở sản xuất kinh doanh Trực tiếp - đảm bảo tiền vay đối với khoản vay trên 30 triệu đồng Cơ sở sản xuất kinh doanh 500 triệu đồng/1 dự án; tối đa 20 triệu đồng/ 1 lao động thu hút 0,65%/tháng (đối với cơ sở SXKD của người tàn tật 0,5%/ tháng) hộ gia đình, nhóm hộ gia đình Trực tiếp không phải thế chấp Hộ gia đình 20 triệu đồng/1 hộ 0,65%/tháng 7 Cho vay theo Dự án phát triển ngành lâm nghiệp tại 4 tỉnh miền Trung (Hiệp định tín dụng phát triển ký ngày 04/4/2005 giữa Chính phủ Việt Nam và IDA - WB) Hộ gia đình Uỷ thác hoặc trực tiếp Đảm bảo tiền vay với mức trên 20 triệu đồng và cho vay trực tiếp 10 triệu đồng/1 ha Tối đa 30 ha 0,5%/ tháng, từ 1/4/2008 là 0,65%/tháng (NQH 150% LS khi cho vay) 8 Cho vay đối với cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng người lao động là người sau cai nghiện ma túy, theo Quyết định 212/2006/QĐ-TTg ngày 20/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ Cơ sở sản xuất kinh doanh, Doanh nghiệp Trực tiếp, không phải thế chấp 500 triệu đồng /1 dự án 0,65%/tháng (NQH 130% LS khi cho vay) Hộ gia đình. Uỷ thác - không phải thế chấp 20 triệu đồng/1 hộ. 0,65%/tháng 9 Cho vay hộ dân tộc thiểu số di dân thực hiện định canh định cư giai đoạn 2007 - 2010, theo Quyết định 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 Hộ gia đình. Uỷ thác hoặc trực tiếp Theo từng chương trình Theo từng chương trình 10 Cho vay các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài theo Nghị định 78/2002/CP của Chính phủ Hộ gia đình Trực tiếp, không phải thế chấp 20 triệu đồng/1 lao động 0,65%/tháng (NQH 130% LS khi cho vay) 11 Cho vay chương trình nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long Quyết định 105/QĐ/TTg ngày 02/8/2002, Quyết định 78/2004/QĐ-TTg ngày 07/5/2004, Quyết định 204/QĐ- TTg ngày 15/8/2005 của Thủ tướng Chính phủ Doanh nghiệp Trực tiếp, không phải thế chấp 7 triệu đồng/1 căn 9 triệu/1 căn (x với số căn nhà) 0,65%/tháng (NQH 200% LS khi cho vay) Hộ gia đình Trực tiếp, không phải thế chấp 7 triệu đồng/1 hộ 9 triệu/1 hộ 0,25%/tháng (NQH 130% LS khi cho vay) 12 Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ dự án “Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” ký ngày 8/4/2005 giữa Chính phủ Việt nam và Ngân hàng tái thiết Đức (KFW) Doanh nghiệp Trực tiếp - Bảo đảm tiền vay 500 triệu đồng/1 doanh nghiệp 0,8%/ tháng (NQH 130% LS khi cho vay) 13 Dự án toàn dân tham gia quản lý nguồn lực tỉnh Tuyên Quang (IFAD) Hộ gia đình Uỷ thác - không phải thế chấp Như cho vay hộ nghèo Lãi suất NHNo khu vực I trên địa bàn 14 Quỹ cho vay người nghèo nông thôn (dự án vay vốn Quỹ phát triển quốc tế OPEC) Hộ gia đình Uỷ thác - không phải thế chấp Như cho vay hộ nghèo Như cho vay hộ nghèo (Nguồn: Báo cáo tổng kết 5 năm 2004 – 2008 của NHCSXH chi nhánh Hà Nội) 1.1.3. Vai trò từ hoạt động cho vay của NHCSXH đối với giải quyết việc làm. Hoạt động cho vay của Ngân hàng hay tín dụng Ngân hàng nói chung chính là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng trong đó ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian thỏa thuận. Với nội dung như trên, cho vay Ngân hàng tạo ra một kênh cung cấp vốn cho nền kinh tế nói chung và các khách hàng cụ thể nói riêng. Hoạt động cho vay của ngân hàng chính là việc đưa vốn đến với nhũng người cần vốn trong nền kinh tế, giúp hoạt động sản xuất hinh doanh diễn ra trôi chảy, thuận lợi. Vai trò cụ thể của ngân hàng được thể hiện như sau : Cho vay của Ngân hàng khuyến khích người lao động làm việc có kế hoạch và nâng cao ý thức sản xuất kinh doanh. Cho vay của Ngân hàng giúp người lao động tiếp cận được với khoa học công nghệ và phương pháp làm ăn có hiệu quả. Cho vay của Ngân hàng giúp cho người lao động tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cho vay của Ngân hàng tạo môi trường kinh tế cho người lao động tự tin tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với từng hoạt động cho vay cụ thể của từng ngân hàng cụ thể sẽ thể hiện vai trò đúng như tên gọi mà các nhà ngân hàng đưa ra. Trong đó Cho vay GQVL được coi là một giải pháp quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước vì nó liên quan mật thiết đến mục tiêu của mọi quốc gia đó là tỉ lệ thất nghiệp thấp. Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đã và đang đe doạ cuộc sống của nhiều gia đình từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền núi. Công cuộc giải quyết việc làm cho người lao động từ trước đến nay luôn được đặt ra nhưng trên thực tế năng lực và quyết tâm thực hiện chưa cao nên đồng nghĩa với nó là kết quả đạt được còn thấp. Trong đại hội lần thứ 10 năm 2006, Đảng ta đã xác định mục tiêu cụ thể: giải quyết việc làm cho 10-12,5 triệu người lao động, bình quân 3,3-4,3 triệu lao động/năm nhưng mục tiêu trên sau 3 năm đi vào thực hiện mới chỉ giải quyết được việc làm cho khoảng 7,5-8 triệu người tức là đạt thấp hơn 75% kế hoạch. Tình hình trên cho thấy con đường phía trước của công cuộc hỗ trợ, giải quyết việc làm sẽ còn rất gian nan. Vậy chúng ta cần làm gì để tạo việc làm cho khoảng 3,3-4,3 triệu người lao động/năm là một câu hỏi rất lớn đang được đặt ra. Hơn nữa trong giai đoạn suy thoái kinh tế như hiện nay xã hội còn phải gánh thêm một lượng lớn lao động mới mất việc làm và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh ngiệp hầu như đều bị thu hẹp. Bên cạnh những suy tính về mặt kinh tế thì một vấn đề ta không thể không nhắc đến đó là ảnh hưởng qua lại hai chiều giữa tình hình xã hội và vấn đề việc làm. Những đối tượng cần được hỗ trợ chủ yếu là người lao động thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm việc và trình độ dân trí thấp. Thất nghiệp, thiếu việc chẳng những làm cho thu nhập thấp thậm chí phải phụ thuộc hoàn toàn vào gia đình, sức mua và khả năng thanh toán hạn chế ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế mà nó còn là một nguyên nhân quan trọng nhất gây nên những tệ nạn xã hội như trộm cắp, cướp của giết người, nghiện hút….ảnh hưởng xấu một cách sâu sắc đến lối sống của thế hệ thanh niên thời nay và làm phong hoại các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Tầm quan trọng của công tác GQVL đối với người lao động là: “giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng sức mua của nền kinh tế, cải thiện đời sống cho người lao động, tạo ra sự tăng trưởng của ngành kinh tế, góp phần vào tiến trình chuyển dịch cơ cấu lao động” – báo cáo tổng kết 5năm 2004 – 2006 của NHCSXH TP Hà Nội - khiến cho vay GQVL trở thành một giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia và được sự bảo trợ trực tiếp của Nhà nước vì chỉ có Nhà nước mới có thể giải quyết được những khó khăn, phức tạp của vấn đề GQVL. Cho đến nay, việc ra đời của NHCSXH trong năm 2003 là một minh chứng thuyết phục nhất cho sự nỗ lực của Nhà nước nhằm thực hiện thành công mục tiêu giảm thiểu tỉ lệ thấp nghiệp, theo kịp chỉ tiêu việc làm nói riêng và chỉ tiêu kinh tế - xó hội nói chung mà đại hội Đảng 10 đã đề ra trong giai đoạn 2006 – 2010. Vai trò của cho vay từ NHCSXH đối với vấn đề giải quyết việc làm được biểu hiện cụ thể như sau: 1.1.3.1. Cho vay của NHCSXH khuyến khích người lao động làm việc có kế hoạch và nâng cao ý thức sản xuất kinh doanh. TDNH dù được thực hiện với đối tượng nào đi nữa thì bản chất vẫn là hình thức trợ vốn phục vụ một mục đích kinh tế hay tiêu dùng để sau một thời gian theo cam kết tiến hành đòi lại phần vốn ban đầu với mức lãi đó thỏa thuận. Việc buộc mình vào trách nhiệm trả nợ khiến cho người vay vốn làm việc có mục đích cụ thể và dự tính được lợi ích do dự án hay công việc mình đang tiến hành đem lại. Hợp đồng vay vốn là sự thỏa thuận giữa ngân hàng và người vay vốn, có tính pháp lý và được Nhà nước bảo hộ. Do đó, sau khi vay vốn để giúp cho vốn được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả đại diện của ngân hàng sẽ thực hiện việc thẩm định trước, trong và sau quá trình cho vay để người lao động luôn ý thức được tầm quan trọng của vốn vay và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện cam kết khi vay. Đồng thời tự người lao động cũng sẽ có ý thức trách nghiệm hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, do chính sách khuyến khich của Nhà nước, các điều khoản trong tín dụng của NHCSXH luôn thực hiện theo hướng giảm nhẹ áp lực vay nợ cho khách hàng. Trong thực tế, dù bắt buộc phải trả nợ nhưng lãi xuất của NHCSXH luôn thấp hơn các ngân hàng khác, thời gian trả nợ và các khoản phí có liên quan cũng thấp hơn, phù hợp với các đối tượng chính sách. 1.1.3.2. Cho vay của NHCSXH giúp cho người lao động tiếp cận được với khoa học công nghệ và phương pháp làm ăn hiệu quả. Vốn vay của NH giúp cho người lao động có tiền để mua trang thiết bị phục vụ sản xuất. Với trình độ khoa học kĩ thuật phát triển như ngày nay, con người dường như thoát khỏi tình trạng lao động thủ công để chuyển sang lao động điều khiển máy móc thay vì sử dụng lao động giản đơn như trước kia. Để công việc đạt năng suất và chất lượng sản phẩm cao, các cơ sở SXKD phải đầu tư, mua sắm trang thiết bị, máy móc và các dây chuyền hiện đại. Trong tình hình nguồn tài chính không đủ để đáp ứng nhu cầu trên thì vay vốn NH là một giải pháp tình thế và cần thiết, đặc biệt là đối với các đối tượng chính sách- hầu như không có hoặc rất ít được tiếp cận với khoa học công nghệ thì việc được tiếp cận với nguồn vốn của NHCSXH thực sự mang đến sự thay đối trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. 1.1.3.3 Cho vay của Ngân hàng giúp cho người lao động tự chủ hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi ích lớn nhất TDNH mà ở đây chủ yếu là NHCSXH đối với xã hội chính là tham gia vào công tác giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp, giảm gánh nặng cho xã hội và nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thông qua việc cho vay vốn giúp người lao động - đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, khả năng tiếp cận nguồn vốn và trả nợ theo quy định của các Ngân hàng thương mại là rất khó khăn - tự chủ tiến hành hoạt động SXKD, tăng gia sản xuất, nuôi sống mình và gia đình bằng chính những sản phẩm của cơ sở mình sản xuất ra được hay có tiền để trao đổi mua bán các hàng hóa, dịch vụ trong lưu thông. Với vai trò này, TDNH không chỉ đem lại lợi ích cho người tiến hành SXKD mà còn đem lại cơ hội có việc làm cho người lao động phổ thông trong các cơ sở sản xuất kinh doanh đó. Đứng trên giác độ xã hội, TDNH đã góp phần vào việc thu hút lực lượng lao động, tăng cường năng lực cạnh tranh của các cơ sở SXKD và trình độ tay nghề của người lao động. 1.1.3.4. Cho vay của Ngân hàng tạo môi trường kinh tế cho người lao động tự tin tham gia các hoạt động sản xuất kinh doanh. Có vốn người lao động sẽ làm chủ được công việc của mình mà không bị động trước những tình huống như: thiếu nguyên liệu sản xuất, thiếu nhân công làm thuê, mất cơ hội mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh khi có thời cơ. TDNH là một kênh dẫn vốn có hiệu quả trên nhiều góc độ trong đó đối với NHCSXH thì đó là kênh dẫn vốn đến những đối tượng chính sách trên góc độ thực hiện chính sách hỗ trợ của nhà nước. Quan hệ với ngân hàng, người lao động sẽ nhận được những lời khuyên, lời tư vấn của các chuyên gia kinh tế - những nhà ngân hàng, những người luôn sát sao công việc cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay vốn nhằm đảm bảo món vay được thực hiện đúng theo hợp đồng và có hiệu quả về kinh tế. Nhờ đó, kế hoạch SXKD của người lao động sẽ được thực hiện khoa học, đảm bảo tiết kiệm chi phí nhằm tối đa hóa lợi nhuận. 1.2. Hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH. 1.2.1 Khái niệm hiệu quả cho vay giải quyết việc làm. Hiệu quả được hiểu là những tác động tích cực có được sau mỗi hoạt động, việc làm cụ thể. Đối với ngân hàng, hiệu quả hoạt động cho vay được xem xét trên các khía cạnh: Đối với Ngân hàng : khả năng sinh lời của món vay, khả năng thu hồi vốn đúng thời hạn, vòng quay vốn. Đối với khách hàng : kết quả thu được sau khi sử dụng nguồn vốn vay. Như vậy, xem xét hiệu quả cho vay GQVL là xem xét những tác động thu được sau khi thực hiện món vay.Hiện nay, khái niệm hiệu quả cho vay giải quyết việc làm ở NHCSXH được hiểu một cách khái quát là: - Việc cho vay giải quyết việc làm có thể thực hiện tốt mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ mà Đảng và Chính phủ đã quyết định liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm. - Là khả năng thu hồi và phát triển được vốn cho vay ưu đãi với mức lãi suất khuyến khích. - Là giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng quy mô cho vay giải quyết việc làm tương xứng với hiệu quả kinh tế mà nó tạo ra. - Là tạo thu nhập ổn định và thường xuyên cho người lao động nguồn vốn vay ưu đãi. Tóm lại, cho vay GQVL là hình thức tín dụng nhằm hỗ trợ cho cơ sở sản xuất thiếu vốn, người lao động muốn tạo việc làm cho bản thân và cho những người lao động khác. Vì thế, món vay GQVL có hiệu quả là món vay đem lại lợi ích trước tiên cho người lao động một cách minh bạch và chân chính thông qua dự án SXKD được chấp nhận vay vốn đó. Như vậy, đứng trên quan điểm của người vay vốn thì hiệu quả cho vay GQVL được đánh giá : - Là gia tăng thu nhập của người vay vốn và thu nhập ổn định cho lao động đang làm và thuê thêm. - Là có việc làm thường xuyên và ổn định cho bản thân và người lao động. Trên quan điểm của Người cho vay mà cụ thể ở đây là NHCSXH, hiệu quả cho vay được đánh giá : - Khả năng sinh lời, khả năng khách hàng có thể hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi của món vay. - Khả năng thu hồi món vay đúng thời hạn, đúng kế hoạch của Ngân hàng. Hiệu quả cho vay GQVL trên quan điểm xã hội: - Phúc lợi xã hội được tạo ra đối với người lao động, tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. - Cải thiện mức sống với người lao động, giảm thiểu các vấn đề xã hội gây ra bởi thất nghiệp. Hiệu quả cho vay GQVL là một chỉ tiêu vừa mang tính cụ thể, thể hiện qua doanh số cho vay; dư nợ cho vay; số lượng lao động thu hút được của các cơ sở sản xuất kinh doanh vay vốn ưu đãi của Ngân hàng; thu nhập của người vay vốn;…. đồng thời, nó là một chỉ tiêu trìu tượng vì không thể đo lường được giá trị phúc lợi xã hội mà hoạt động cho vay GQVL tạo ra: làm tăng xác suất ra đời của các doanh nghiệp lớn và sự tăng trưởng của các ngành kinh tế, đồng thời làm tăng tính tự chủ, độc lập của người lao động, người tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỡnh. 1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH. 1.2.2.1 Các chỉ tiêu định lượng. -Doanh số cho vay giải quyết việc làm. Doanh số cho vay là một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH bởi vì quy mô cho vay trong một thời kỳ mà càng lớn thì chứng tỏ mối quan tâm thiết thực của Nhà nước đối với các đối tượng chính sách thông qua hình thức tín dụng ưu đãi càng tăng. Doanh số cho vay được xác định bằng tổng số vốn ưu đãi đã cho các đối tượng cần giải quyết việc làm vay trong một thời kỳ nhất định. Thông qua các con số đó người ta có thể đánh giá được sức tăng trưởng hay suy giảm của quy mô vốn giải quyết việc làm giữa các thời kỳ. - Dư nợ cho vay giải quyết việc làm. Dư nợ cho vay là một chỉ tiêu phản ánh quy mô cho vay theo thời điểm vì thế nó cập nhật một cách chính xác quy mô cho vay của Ngân hàng tại thời điểm hiện tại, trong đó, nó cũng thể hiện số nợ khoanh, nợ xấu trong cơ cấu cho vay của ngõn hàng. Dư nợ cho vay GQVL không những phản ánh quy mô cho vay ưu đãi thời điểm mà còn thể hiện năng lực cho vay của Ngân hàng và tình trạng chiếm dụng vốn ưu đãi của các đối tượng chính sách đã vay vốn. -Số lượng việc làm được tạo ra sau khi sử dụng vốn vay. Số lượng việc làm được tạo ra từ nguồn vốn vay của ngân hàng có thể xem là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh hiệu quả của hoạt động cho vay giải quyết việc làm. Hoạt động này có đem lại hiệu quả hay không được nhận thấy rõ ràng qua số lượng việc làm tạo ra nhiều hay ít, có đạt được mục tiêu đề ra hay không và một vấn đề quan trong nữa là có thực sự đã tương xứng với nguồn vốn bỏ ra hay chưa. - Thu nhập tăng thêm của người lao động khi sử dụng nguồn vốn hỗ trợ. Thu nhập tăng thêm hay thu nhập mới được tạo ra sau khi sử dụng nguồn vốn hỗ trợ là một chỉ tiêu định tính dễ dàng đo lường được thể hiện hiệu quả của nguồn vốn. Mức thu nhập càng cao chứng tỏ nguồn vốn đã được sử dụng có hiệu quả, hơn nữa mục tiêu đề ra đối với mỗi dự án cho vay là khác nhau tùy từng lĩnh vực SXKD và định mức cho vay trên mỗi lao động nhưng tối thiểu là phải đảm bảo mức sống của người lao động. - Vòng quay vốn tín dụng : Vòng quay vốn tín dụng = Vòng quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ Ngân hàng đã quản lý vốn tốt và hợp lý, tạo được vòng quay nhiều lần thì số vốn của Ngân hàng càng đến được với nhiều người có nhu cầu. 1.2.2.2 Các chỉ tiêu định tính. -Điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Phát triển ngành nghề phù hợp với cơ cấu kinh tế mà địa phương khuyến khích là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH trong giai đoạn 2006-2010 nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2010 tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nông, lâm-thủy sản giảm còn 30-33%, khu vực công nghiệp xây dựng tăng lên đạt 35-37%, ở khu vực dịch vụ tăng lên đạt 35-40% - báo cáo tổng hợp hoạt động 5năm của NHCSXH TP Hà Nội. - Khả năng nâng cao chất lượng lao động từ việc sử dụng nguồn vốn. Tăng thêm số lượng lao động có việc làm được coi là một chỉ tiêu quan trọng việc đánh giá hiệu quả cho vay giải quyết việc làm của NHCSXH. Nó phản ánh quy mô và lợi ích kinh tế - xã hội mà dự án tạo ra cho người lao động. Lợi ích này không chỉ được đánh giá trên cơ sở số lượng nhân công mà còn được xem xét trên khía cạnh thu nhập, khối lượng công việc đảm nhận và thời gian họ được gắn bó với công việc này là bao lâu, đây chính là tính chất định tính của chỉ tiêu này. - Khả năng tạo ra thu nhập ổn định cho người lao động của dự án vay vốn. Mặc dù là một tổ chức tín dụng phi lợi nhuận nhưng trong nguyên tắc cho vay của mình NHCSXH vẫn yêu cầu về khả năng tạo lợi nhuận của dự án vay vốn ưu đãi vì nó chính là động lực thúc đẩy cũng như là yêu cầu bắt buộc đặt ra đối với khách hàng là phải sử dụng vốn vay có hiệu quả. Trên thực tế, yếu tố có tính chất quyết định nhất để các nhà thẩm định NHCSXH, các hội, ban ngành đoàn thể hoặc Phòng LĐTB&XH quyết định cho vay chính là khả năng tạo ra thu nhập ổn định cho người lao động thuê thêm của dự án vay vốn đó. Trên một ý nghĩa nào đó thì điều này giống với việc dự án vay vốn phải có lãi vì chỉ khi có lãi thì chủ lao động mới có khả năng thuê thêm lao động, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và một dự án có lãi thì mới tạo ra việc làm thường xuyên với thu nhập ổn định cho lao động. - Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay là một chỉ tiêu ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay GQVL vì nó phản ánh mối quan hệ giữa thời điểm trả nợ gốc và lãi vay cho NH với thời điểm dự án vay vốn sản xuất kinh doanh đem lại kết quả tài chính cho chủ dự án. NHCSXH có thời hạn cụ thể cho vay như sau: - Cho vay ngắn hạn không quá 12 tháng. - Cho._. vay trung hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Thời hạn cho vay sẽ được thỏa thuận giữa khách hàng và NHCSXH dựa trên cơ sở xác định chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của người vay. - Quy trình, thủ tục vay vốn GQVL: Quy trình và thủ tục cho vay vốn càng nhanh gọn thì khách hàng càng tận dụng được cơ hội kinh doanh. Hiệu quả cho vay không chỉ phản ánh thông qua thu nhập của dự án, khả năng bảo toàn và phát triển vốn vay của NH mà còn thể hiện qua khả năng tiếp cận với vốn vay ưu đãi của các đối tượng chính sách. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay hỗ giải quyết việc làm. 1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan. a) Năng lực của cán bộ tín dụng của NHCSXH. Hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đề cao năng lực làm việc về quản lý và chuyên môn của con người. Xét riêng trong hoạt động cho vay GQVL thì quyết định của cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng và làm cơ sở để xét duyệt cho vay. Nếu chỉ xét đơn thuần về mặt bản chất, quyết định có đúng đắn và hợp lý hay không là phụ thuộc vào trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng. Một trong những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay GQVL là bảo toàn và phát triển vốn nghĩa là vốn cho vay GQVL phải khả thi để đảm bảo khả năng trả gốc và lãi vay dù là nhỏ. Cán bộ tín dụng thay mặt NHCSXH đánh giá hiệu quả của dự án trên nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa các cơ quan trong khâu thẩm định về mục tiêu, đối tượng cho vay, điều kiện cho vay và mục đích sử dụng tiền vay. Vì thế, hiệu quả cho vay đứng trên giác độ của NHCSXH phụ thuộc rất lớn vào khả năng phân tích, đánh giá các chỉ tiêu cả định tính lẫn định lượng của dự án của họ. b)Trình độ công nghệ của NHCSXH. Cho đến ngày nay, công nghệ tồn tại một cách tất yếu và cần thiết trong đời sống xã hội, xâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế và các hoạt động của NH nói chung và hình thức tín dụng cho vay GQVL nói riêng cũng không phải là ngoại lệ. Thậm chí có thể nói nói ngày nay các hoạt động của ngân hàng hầu như phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ. Công nghệ đảm bảo cho quá trình giao dịch qua NHCSXH được thực hiện an toàn, nhanh chóng không để xảy ra tình trạng mất cơ hội kinh doanh của dự án vay vốn chỉ trong khoảng 10 giây một khối lượng vốn giao dịch trị giá hàng tỷ đồng được chuyển đến đối tượng có nhu cầu. Do đối tượng phục vụ có số lượng lớn và phức tạp, địa bàn hoạt động rộng lớn nên công nghệ NHCSXH đóng một vai trò tích cực trong việc nâng cao khả năng tiếp cận với khách hàng. Cho vay GQVL là một vấn đề quan trọng mang tầm cỡ quốc gia vì xét một cách vĩ mô nó ảnh hưởng to lớn đến tốc độ phát triển của đất nước, tỷ lệ thất nghiệp, còn trên góc độ vi mô thì vốn đến chậm tay chủ dự án thì làm lỡ cơ hội kinh doanh, mất hợp đồng.....Chính vì thế, người ta cần đến sự có mặt của công nghệ để đạt được những tiện ích trong khi giao dịch, vay vốn và trả nợ cho NHCSXH. Hơn nữa khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các nhu cầu và hoạt động có liên quan ngày càng phức tạp thì càng đòi hỏi công nghệ cao hơn nữa. c) Cơ sở vật chất của NHCSXH. Cơ sở vật chất là nhân tố tác động tích cực đến hiệu quả cho vay GQVL khi tạo được sự dễ dàng tiếp cận ngân hàng đối với đối tượng khách. Cơ sở vật chất của Ngân hàng được xem xét với những đặc trưng riêng, đó là địa điểm giao dịch có thuận tiện không, có nằm trong khu vực có đông dân cư không, mật độ có đầy đủ và hợp lý không; thời gian giao dịch có hợp lý không ;phong cách giao dịch có lịch sự, chuyên nghiệp không. d) Khả năng huy động vốn. NHCSXH chịu sức ép cạnh tranh huy động mạnh mẽ từ phía các NHTM không chỉ là vấn đề lãi suất huy động và công nghệ NH mà còn liên quan chặt chẽ đến chiến lược huy động vốn của NH. Một chiến lược huy động vốn hiệu quả là một chiến lược linh hoạt và đa dạng hoá các phương thức tạo lập nguồn vốn trên cơ sở phát huy những lợi thế của NH mình. Hiện nay, mức lãi suất huy động của NHCSXH tối đa không quá 95% mức lãi suất huy động cao nhất cùng kỳ hạn của các NHTM trên cùng địa bàn. Còn vấn đề công nghệ thì NHCSXH đang gặp khó khăn thật sự và điều này đó hạn chế hiệu quả hoạt động của NH. Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh huy động của NHCSXH không phải là không có. Bằng cách tiếp cận với những nguồn vốn mà không phải NHTM nào cũng có được đó là huy động vốn từ thị trường vốn với sự bảo lãnh của Chính phủ; huy động từ các nguồn tài trợ đầu tư của các tổ chức quốc tế tài trợ cho sự phát triển kinh tế- xã hội quốc gia; huy động từ chính những khách hàng vay vốn trong quá khứ hay những khách hàng vay vốn tiềm năng đi kèm với những ràng buộc về vấn đề ưu đãi,…Trên thực tế, cơ cấu nguồn huy động vốn của NHCSXH về cơ bản cũng có nhiều điểm tương đồng với các NHTM, sự khác nhau chính là tỷ trọng mỗi nguồn trong cơ cấu nguồn vốn. Các nguồn vốn huy động chủ yếu của NHCSXH là: - Nguồn tiền gửi. - Nguồn đi vay. - Nguồn vốn góp tự nguyện không hoàn trả. - Nguồn uỷ thác. - Vốn khác. Khả năng huy động vốn của NHCSXH ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả cho vay GQVL, hay có thể nói chính nguồn vốn huy động được sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn mà ngân hàng có thể quyết định cho khách hàng vay. Do đó, nếu có một chiến lược huy động tốt, tận dụng lợi thế là một TCTD do Chính phủ thành lập và xây dựng một chiến lược cho vay GQVL hiệu quả trên cơ sở củng cố các dịch vụ tiện ích thì NHCSXH hoàn toàn có khả năng cạnh tranh huy động trên thị trường tài chính. Từ đó dẫn tới sự mở rộng khả năng cho vay nói chung và cho vay GQVL nói riêng của NHCSXH. e) Mối quan hệ với Chính quyền và các Hội, ban ngành đoàn thể địa phương. Cho vay chính sách nói chung và cho vay GQVL nói riêng không thể đảm bảo được tính hiệu quả nếu như không xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp và sự hỗ trợ từ phía các cấp Chính quyền và Hội, ban ngành đoàn thể địa phương. NHCSXH hoạt động theo cơ chế nắm bắt thông tin của các dự án xin vay thông qua các cấp chính quyền và hội đoàn thể trực tiếp quản lý các dự án đó. Vì thế, mặc dù là đơn vị chịu trách nhiệm cho vay và quản lý món vay nhưng hiệu quả cho vay GQVL của Ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào các tổ chức nói trên. Có sự giúp đỡ của họ, vốn ưu đãi mới dễ dàng đến được tay người vay vốn bởi vì không ai nắm bắt được tình hình đời sống kinh tế của người dân trong một khu vực rõ hơn là các cấp chính quyền và các hội đoàn thể mà người dân đang tham gia sinh hoạt cộng đồng. Bên cạnh đó, các chi nhánh NHCSXH thường xuyên có sự phối kết hợp với các sở ban ngành liên quan, đặc biệt là Sở LĐTB&XH trong công tác cho vay từ khâu lập dự án, đến khâu thẩm định, ra quyết định duyệt cho vay... 1.2.3.2. Các nhân tố khách quan. a) Tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả cho vay GQVL. Một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả cho vay GQVL là tăng quy mô cho vay, làm tương xứng giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội mà vốn vay ưu đãi tạo ra. Tuy nhiên quy mô cho vay không thể gia tăng trong khi tình hình nền kinh tế đang gặp những bất ổn như: lạm phát, tinh giảm lao động do chính sách phát triển của công ty. Nó dẫn đến sự thiếu vắng mối quan tâm và đầu tư của nền kinh tế vào các hoạt động đảm bảo phúc lợi xã hội. Bên cạnh đó, giảm hiệu quả cho vay GQVL lại tác động tiêu cực ngược trở lại nền kinh tế vì lãng phí tiền của thực hiện các chương trình mục tiêu của quốc gia mà kết quả không đạt được như mong muốn. Một đất nước đang phải đối mặt với nạn lạm phát sẽ khiến người dân muốn nắm giữ tiền mặt hơn là đem vào gửi Ngân hàng; nguồn Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt khiến cho nguồn vốn cho vay ưu đãi nói chung và cho vay giải quyết việc làm nói riêng cũng bị thuyên giảm và nó cũng đồng nghĩa với việc khả năng cho vay ưu đãi bị hạn chế. Có thể lấy một ví dụ về tác động của tình hình trong nước đến công tác cho vay giải quyết việc làm trong thời gian gần đây là: sự lan tràn của căn bệnh cúm gà khiến cho các hộ dân vay vốn mở rộng cơ sở chăn nuôi gia cầm bị thiệt hại năng nề. Mặc dù Chính phủ đã quyết định đảm bảo một mức đền bù cho họ song nó chỉ mang tính chất động viên, hỗ trợ phần nào còn mức độ thiệt hại là rất lớn đối với cả bên cho vay lẫn bên vay và tình hình này khiến cho hiệu quả cho vay giải quyết việc làm bị giảm sút nghiêm trọng. Từ đây, ta có thể thấy rằng: hoạt động cho vay giải quyết việc làm chịu sự tác động lớn lao của tình hình kinh tế - xã hội trong nước. b) Hành lang pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, mọi hoạt động của các tổ chức tài chính nói chung và hệ thống NH nói riêng đều chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các chế tài luật pháp cũng như ảnh hưởng của một loạt các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Những sự ràng buộc này khiến NH mở rộng hay thu hẹp quy mô hoạt động của mình. Sự ra đời của NHCSXH là một minh chứng rõ rệt cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nhằm giải quyết một trong những vấn đề cấp bách nhất hiện nay là tạo việc làm và giải quyết thêm việc làm. Nếu như trước kia, NH phục vụ người nghèo chỉ cho vay ưu đãi người nghèo thì nay đối tượng phục vụ của NHCSXH mở rộng thêm: giải quyết việc làm, người đi lao động xuất khẩu, một số đối tượng chính sách xã hội khác…. Nhu cầu có việc làm luôn chính đáng, thậm chí, nó còn rất cấp thiết trong tình hình hiện nay khi mà quy mô lao động dôi dư ngày càng gia tăng nhanh chóng đặc biệt ở khu vực nông thôn - khu vực có tỉ lệ sinh cao. Do đó, hiệu quả cho vay GQVL sẽ bị suy giảm nếu như cơ cấu cho vay trong chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước không tính đến một loạt các vấn đề liên quan đến cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động. c) Môi trường cạnh tranh. Cho vay GQVL không phải là một hình thức tín dụng mới mẻ nhưng chỉ mới nhận được sự quan tâm đặc biệt trong thời gian gần đây nhất là khi NHCSXH chính thức ra đời và khẳng định phương châm làm việc là một tổ chức tín dụng phi lợi nhuận, hoạt động vì mục đích hỗ trợ phát triển cho các đối tượng chính sách thông qua cho vay ưu đãi. Bên cạnh NHCSXH, một số các tổ chức tín dụng khác cũng bắt đầu quan tâm đến công tác giải quyết việc làm và coi nó như là một hoạt động NH có triển vọng cần đầu tư trong tương lai. Ưu thế của cho vay GQVL của NHCSXH là cho vay bằng hai nguồn vốn tập trung là: nguồn NSTW và nguồn NSĐP. Trong khi đó, các NHTM khác hoàn toàn sử dụng nguồn “đi vay” để “cho vay”. Sự cạnh tranh cho vay giải quyết việc làm xuất hiện khi các NH nhận ra rằng cho vay GQVL cho khối khách hàng là các DNVVN mang tính rủi ro cao nhưng thu nhập dự tính đem lại là rất lớn bởi vì loại hình DN này gánh vác tất cả các nhu cầu đa dạng của nền kinh tế. Mặc dù, NHCSXH cho vay với mức lãi suất ưu đãi song, quy mô vốn vay ưu đãi còn hạn hẹp và bị giới hạn bởi các quy định, quy chế do Chính phủ trực tiếp ban hành. Do đó, nhiều cơ sở SXKD vay vốn để mở rộng quy mô hoạt động, vẫn thích tìm đến các NHTM hơn là tìm đến NHCSXH. Hiệu quả cho vay GQVL chỉ được thực hiện một cách đầy đủ khi người lao động và NHCSXH tìm được tiếng nói chung khi giải quyết được vấn đề quy mô cho vay phù hợp với năng lực SXKD của dự án vay vốn. - Năng lực của cán bộ thuộc Sở, Phòng LĐTB&XH. NHCSXH hoạt động theo trên nguyên tắc hạch toán độc lập và tự chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các quyết định cho vay của mình, không cho vay đối với các dự án nếu không được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoặc cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án trái với quy định. Vậy là trên thực tế, cho vay GQVL có hiệu quả hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào công tác phối kết hợp thẩm định dự án vay vốn giữa NHCSXH với các tổ chức xã hội. Trách nhiệm của cán bộ Sở LĐTB&XH trong việc xét duyệt dự án xin vay nằm ở khía cạnh hiệu quả xã hội mà dự án tạo ra đó là khả năng thu hút lao động của dự án, khả năng tạo việc làm thường xuyên với thu nhập ổn định cho người lao động. Hiệu quả cho vay GQVL sẽ không được đảm bảo nếu hiệu quả xã hội của dự án vay vốn không được các cán bộ của Sở, Phòng LĐTB&XH đánh giá đầy đủ và chính xác. d)Nhân tố thuộc về bản thân người vay Đối tượng vay vốn ưu đãi chủ yếu là các cá nhân và cơ sở sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ nên khả năng tiếp cận vốn vay từ NHTM bị hạn chế. Bởi vậy, nguồn vốn từ NHCSXH chính là sự hỗ trợ tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Đổi lại nhân tố này cũng tác động rất lớn đến hoạt động cho vay GQVL của NHCS, quyết định chất lượng của món vay chính sách vì không bao giờ các hồ sơ dự án cũng phản ánh đúng thông số, chỉ tiêu của nó. Một món vay sai từ ngân hàng hoàn toàn có thể bắt nguồn từ thông tin được cung cấp sai của người đi vay như mục đích sản xuất, số liệu sổ sách, tài sản thế chấp. Tóm lại, trên đây là những nhân tố có thể tác động đến hiệu quả cho vay GQVL của NHCSXH, tuy nhiên cũng cần phải hiểu rằng các nhân tố trên tồn tại trong bất kỳ môi trường tài chính nào và tác động tới bất kì ngân hàng nào. Vì vậy hầu như không thể loại bỏ được tất cả những nhân tố tác động xấu mà chỉ có thể hạn chế những tác động không mong muốn đó và phát huy những điểm thuận lợi. Muốn thực hiện được điều đó cần phải xác định được rằng các nhân tố đố trong các điều kiện khác nhau và đối với mỗi ngân hàng khác nhau sẽ có những tác động khác nhau. Phần tiếp theo của bài viết sẽ đề cập đến những nhân tố trên trong hoạt động cụ thể của NHCSXH – chi nhánh Hà Nội. 1.3. Kinh nghiệm quốc tế đối với hoạt động cho vay GQVL. 1.3.1. Kinh nghiệm của nước Mỹ trong cho vay GQVL. Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới, nơi mà trình độ của nguời lao động cũng như thu nhập của họ ở mức rất cao, nhưng cũng là nước có những hoạt động mạnh mẽ trong việc hỗ trợ người lao động. Cho vay GQVL cũng là một hoạt động trong số đó. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi nước Mỹ cũng như hầu hết các nước trên thế giới đang rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Tác động của cuộc suy thoái lần này đã đẩy nước Mỹ vào thời kỳ khó khăn và bất ổn. Ngay khi vừa mới nhận chức Tổng thống Mỹ, B.Obama đã có một kế hoạch “ giúp mọi người trở lại với công việc và có tiền trong túi”. Quốc hội Mỹ đã thông qua Luật Tái đầu tư và phục hồi nước Mỹ. Cụ thể trong hai năm tới kế hoạch này sẽ cứu và tạo ra 3,5 triệu việc làm, trong đó hơn 90% công việc này sẽ được tạo ra ở khu vực kinh tế tư nhân – công việc tái tạo xây dựng đường và cầu, xây dựng các tuabin gió và pin mặt trời. Hơn nữa, 95% gia đình làm công ăn lương ở Mỹ sẽ được giảm thuế; các gia đình đang có người theo học sẽ được nhận khoản tín dụng thuế trị giá 2500$/4năm; những người Mỹ bị mất việc sẽ nhận được thêm trợ cấp thất nghiệp và được bảo hiểm y tế. Ở Mỹ, tín dụng được coi là huyết mạch của nền kinh tế, trong thời gian vừa qua nợ xấu từ cuộc khủng hoảng nhà đất đã ảnh hưởng nặng nế đến nền kinh tế dẫn tới tình trạng mất việc làm hàng loạt của người lao động, đặc biệt là hàng trăm nghìn người lao động trình độ cao trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Do đó, Mỹ đã tạo ra một quỹ cho vay mới, cung cấp các khoản cho vay cho nền công nghiệp ôtô, các trường đại học, các doanh nghiệp nhỏ, người tiêu dùng và các thương nhân – những người vận hành nền kinh tế. Hiện nay, kích cầu là từ mà mọi người dùng để ngăn chặn khủng hoảng. Để kích cầu có hiệu quả thì gói kích cầu phải nhắm vào đối tượng sao cho một đồng chi ra có hiệu ứng kích thích tiêu dùng và đầu tư cao nhất. Ở Mỹ, gói kích cầu được dành cho nhóm người thất nghiệp. Chính phủ Mỹ đã sử dụng gói kích cầu trị giá 15 tỷ USD trong việc nâng cao tính thanh khoản cho ngân hàng, từ đố thúc đẩy cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ - khu vực tạo việc làm chính cho nền kinh tế( theo thống kê 70% số việc làm mỗi năm cho nền kinh tế được tạo ra từ doanh nghiệp nhỏ). Ở Mỹ, trong 4 tháng ( 11/2008 đến 2/2009 ) đã có 2,5 triệu người mất việc làm do các nền sản xuất công nghiệp suy giảm. Trong nỗ lực tháo gỡ khó khăn của nền kinh tế, B.Obama đã cung cấp gói giải pháp gồm 750 triệu USD để hạ chi phí cho doanh nghiệp nhỏ và bảo đảm các khoản vay từ SBA ( cơ quan quản lý các doanh nghiệp nhỏ) lên tới 90%. Hàng năm SBA bảo đảm khoảng 20 tỷ USD cho các khoản vay.( Nguồn trích dẫn – internet) 1.3.2.Kinh nghiệm của Trung Quốc. Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế phát triển nóng nhất với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm luôn đạt mức hai con số trong nhiều năm qua. Trung Quốc cũng là nước đông dân nhất thế giới với hơn 1,2 tỷ người. Mỗi năm thị trường lao động của Trung Quốc tăng hơn 10 triệu lao động ( đa số những người này từ khu vực nông thôn lên thành phố kiếm việc làm) tức là mỗi năm Trung Quốc phải tăng trưởng hơn 10% mới có thể hấp thụ hết lực lượng lao động này. Nhưng thực tế trong giai đoạn khủng hoảng đang ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu như hiện nay, GDP của Trung Quốc đã giảm từ 11% còn 7%. Bên cạnh đó tỷ ngạch xuất khẩu – ngàng thu hút chủ yếu lao động của Trung Quốc đang đi xuống cùng với xu thế chung của toàn cầu. Điều này đã dẫn tới việc hàng chục triệu người bị mất việc, sinh viên ra trường không có việc làm. Trước tình trạng đó, Trung Quốc ra sức bảo vệ hệ thống ngân hàng không bị ảnh hưởng. Tổng kết tài chính vẫn đủ lớn để chi dùng cho gói kích cầu trị giá 580 tỷ ( do quỹ dự trữ ngoại hối khổng lồ đến 1,9 nghìn tỷ USD đã tạo ra một khoản bảo hiểm an toàn). Trên thực tế Trung Quốc là một trong số ít các quốc gia mà hệ thống ngân hàng bị ảnh huởng ít trong cuộc khủng hoảng vừa cho, điều này cũng giúp ích rất nhiều đối với hoạt động tín dụng hỗ trợ số lượng người bị mất việc rất lớn trong thời gian qua. Bài học rút ra từ Trung Quốc chính là sự chuẩn bị chu đáo về dự trữ ngoại tệ, sự bảo vệ hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính trước khủng hoảng kinh tế. 1.3.3. Kinh nghiệm của bản thân Việt Nam. Việc làm vốn từ trước đến nay vẫn luôn là vấn đề được quan tâm ở tất cả tỉnh thành trog cả nước. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế, sự thành lập ngày càng nhiều các công ty, doanh nghiệp là vấn đề nhân sự và việc làm cho người lao động. Với đặc điểm của Việt Nam là một nước đông dân, nhất là tỷ lệ cao dân số đang trong độ tuổi lao động, tuy nhiên trình độ dân trí chưa cao cộng với tác phong làm việc còn thiếu chuyên nghiệp nên việc tìm được một công việc thích hợp với người lao động là một vấn đề hết sức khó khăn. Nhận biiết được tình trạng đó, Nhà nước và các cấp chính quyền đã quan tâm sát sao và tìm cách tháo gỡ vấn đề, không chỉ tạo ra việc làm mà còn nâng cao trình độ người lao động. Vấn đề này đã được xem xét từ lâu nhưng trong vòng vài năm trở lại đây, nó đã thục sự trở thành vvấn đề nóng bỏng với sự quan tâm của toàn thể xã hội. Cho đế năm 2003 khi NHCSXH được thành lập với mục tiêu thực hiện các chính sách xã hội trong đó có vấn đề giải quyết việc làm thì hầu hết các tỉnh thành đều triển khai hoạt động này một cách có hiệu quả. Ta có thể xem xét một số thành tựu điển hình như sau: - Thành phố Hồ Chí Minh: Mặc dù là một thành phố công nghiệp lớn nhất nước, nhưng thành phố Hồ Chí Minh vẫn có diện tích đất nông nghiệp là 123.517,07ha, lực lượng nông dân là 238.127 người, tổng số dân sinh sống trên địa bàn nông thôn là 1.010.924 người (tương đương với dân số của một tỉnh). Kết quả đáng chú ý của Tp HCM là giải quyết việc làm cho người nông dân. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hỗ trợ nông dân về vốn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, giải quyết việc làm để nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần của người nông dân thành phố, Trung tâm hỗ trợ nông dân thành phố (TTHTND/TP) luôn xác định mục tiêu hỗ trợ về vốn, giải quyết việc làm, chuyển giao khoa học kỹ thuật và các vấn đề an sinh xã hội cho nông thôn ngoại thành. Trong 5 năm từ năm 2003 dến năm 2008, TTHTND/TP đã thực hiện các chương trình hỗ trợ vốn cho hộ nông dân mở rộng sản xuất, phối hợp với hoạt động của dự án Quỹ Quốc gia GQVL đã thực hiện được 1.116 dự án với tổng số tiền vay là 150.416 triệu đồng, hỗ trợ vốn cho 11.269 lượt hộ hội viên nông dân, thu hút được 15.879 lao động. Trong đó số dự án do Thành Hội bảo lãnh tín chấp là 347 dự án với số tiền là 57.539 triệu đồng, hỗ trợ vốn vay cho 4.671 lượt hộ, thu hút được 8.759 lao động. Liên tịch 235 giữa Hội Nông dân Việt Nam với Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam về ủy thác cho vay hộ nghèo và các hộ chính sách khác. Thành lập được 3.442 tổ vay vốn, đã vay vốn quay vòng là 468.381 triệu đồng, hỗ trợ vốn giúp 78.606 lượt hộ phát triển sản xuất. Liên tịch 2308 giữa Hội Nông dân Việt Nam với Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam: đã thành lập được 1.524 tổ với 40.735 lượt hộ đã vay số vốn là 712.401 triệu đồng. Quỹ Hỗ trợ Nông dân: các cấp Hội đã xây dựng được nguồn Quỹ là…đồng và đã phát vay quay vòng vốn là 92.744 triệu đồng, hỗ trợ vốn cho 12.624 lượt hộ hội viên nông dân. Từ nguồn vốn Hoa mùa xuân, Trung tâm Hỗ trợ Nông dân phát vốn mượn không thu lãi 2 đợt với tổng số vốn là 3.888 triệu đồng cho 2.770 hộ hội viên nông dân nghèo phát triển sản xuất. Chương trình Heifer nhằm cải thiện thu nhập hộ nông dân thông qua sản xuất nông nghiệp tổng hợp được thực hiện đợt I từ 2008 – 2010. Đến nay đã có 117 hộ nông dân nghèo ở 3 xã – phường, P. Phước Long (Quận 9), xã Bình Lợi (H.Bình Chánh), xã Phước Hiệp (H.Củ Chi) tham gia chương trình đã được giao 122 con bò và các hộ tham gia dự án được tập huấn khoa học kỹ thuật chăn nuôi bò. Hướng dẫn Hội Nông dân huyện – quận phối hợp phòng kinh tế, Trạm Khuyến nông tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới hội nhập kinh tế thế giới (WTO) về giống cây, con; kỹ thuật chăm sóc phòng và chống bệnh cho cây trồng và vật nuôi được 7.392 lớp với số 403.870 lượt hội viên nông dân tham dự. Riêng Trung tâm tổ chức 191 lớp với tổng số 17.155 lượt hội viên nông dân tham dự. - Hải Phòng : Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bình quân hằng năm TP Hải Phòng giải quyết việc làm mới cho hơn 40 nghìn lao động. Đây là kết quả của việc triển khai đồng bộ hàng loạt giải pháp như huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, sử dụng có hiệu quả vốn dự án giải quyết việc làm, tăng cường dạy nghề, xuất khẩu lao động... Kinh tế Hải Phòng hiện đang có sự tăng trưởng khá cao, nhiều doanh nghiệp mới thành lập và mở rộng sản xuất đã tạo nhiều việc làm cho người lao động không chỉ trong thành phố mà còn cả ở các địa phương khác. Các đơn vị sản xuất cần nhiều thợ lành nghề trình độ cao, đáp ứng quá trình đổi mới cơ cấu sản xuất và hiện đại của công nghệ, nhưng hầu hết các trường dạy nghề không đáp ứng kịp. Một số mô hình mới về đào tạo nhân lực chất lượng cao đang được triển khai tại các doanh nghiệp đóng tàu, xi-măng tỏ ra có hiệu quả, người học nghề có điều kiện tiếp xúc với thực tế thiết bị, công nghệ tại nơi sản xuất, tay nghề được nâng lên rõ rệt. Phó chủ tịch UBND thành phố Hoàng Văn Kể cho biết: Năm 2007, nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm của Hải Phòng được cấp bổ sung vốn mới tám tỷ đồng; trong đó, vốn ngân sách thành phố chiếm 50%, nâng tổng số nguồn quỹ cho vay giải quyết việc làm lên hơn 65 tỷ đồng. Với quy định mới về cơ chế quản lý cho vay vốn quỹ giải quyết việc làm của thành phố, đã tạo ra sự thông thoáng, hiệu quả đối với chương trình này. Các dự án vay vốn quỹ giải quyết việc làm hầu hết đạt hiệu quả kinh tế cao, tạo cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Hải Phòng hiện có gần 8.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; trong đó, hơn 7.500 doanh nghiệp ngoài quốc doanh thu hút 140 nghìn lao động. Bên cạnh đó TP Hải Phòng vừa có Đề án phát triển nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập, CNH, HĐH, xác định nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định của sự thành công, tập trung vào ba nhóm đối tượng: cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ khoa học – công nghệ và lao động kỹ thuật. Đây sẽ là điểm nhấn tiếp theo những chính sách, cơ chế phát triển nhân lực trước đây đã có thành công bước đầu. - Đà Nẵng : Năm 2005, TP. Đà Nẵng đã giải quyết việc làm cho gần 30.000 lao động, tăng 24,3% so với 2004. Lao động trong công nghiệp- xây dựng đạt 41,7%, thương mại - dịch vụ đạt 45% và thủy sản - nông lâm giảm còn 13,3%, số thất nghiệp giảm còn 5% ( năm 2004 là 5,2%). Tổng kinh phí cho vay giải quyết việc làm của thành phố năm 2005 đạt 29,2 tỷ đồng. Trung tâm dịch vụ việc làm của thành phố đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 18.000 lượt người, trong đó 9.000 người đã được giải quyết việc làm. Năm 2006, Đà Nẵng phấn đấu giải quyết việc làm cho 32.000 lao động, giảm thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống 4,6%. Thành phố cũng xúc tiến xuất khẩu lao động, giải quyết kịp thời những vụ việc tranh chấp lao động, tạo môi trường làm việc thuận lợi cho người lao động và sử dụng lao động. Trong đó, đào tạo nghề cho 18.000 lao động, đưa lao động qua đào tạo nghề lên 28%, tăng 3% so với 2005. Tóm lại, bài học kinh nghiệm rút ra đối với hoạt động cho vay GQVL có thể trình bày qua một số ý kiến dưới đây: Đối với chính sách cho vay, phải có sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền, để hoạt động cho vay GQVL là một hoạt động quan trọng đúng với tầm của nó và đạt được hiệu quả nhất định. Lãi suất cho vay : đối với NHCSXH lãi suất cho vay luôn thấp hơn so với các Ngân hàng thương mại để khuyến khích các đối tượng chính sách theo chế độ của Nhà nước, tuy nhiên cũng cần phải có những quy định chặt chẽ về pháp lý để tạo cho người vay động lực sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Bên cạnh đó, lãi suất của NHCSXH tuy được quy định riêng nhưng cũng cần điều chỉnh linh hoạt theo mức biến động của lãi suất thị trường, tránh một mức lãi suất cố định cứng nhắc. Về cơ chế quản lý cho vay : NHCSXH cần nhận thấy thực trạng rằng cơ chế quản lý cho vay của Ngân hàng cón khá lỏng lẻo và chưa thực sự mang lại hiệu quả cao như mong đợi. Do vậy, NHCSXH cần điều chỉnh cơ chế quản lý vừa tạo ra sự chặt chẽ vừa có sự linh hoạt nhất định. Một cơ chế chặt chẽ có nghĩa là NHCSXH có thể quản lý tốt món vay, nắm bắt được khách hàng sử dụng món vay có đúng mục đích và có hiệu quả không, đảm bảo được khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần linh động, đánh giá đúng khả năng thực sự của khách hàng, không nên quá cứng nhắc vào những quy định chung, ví dụ với những khách hàng có dự án kinh doanh khả thi, đảm bảo hiệu quả, ngân hàng có thể linh động để khách hàng tiếp cận được với món vay. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA NHCSXH – CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1. Khái quát về NHCSXH – Chi nhánh Hà Nội. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHCSXH – chi nhánh Hà Nội. Sự ra đời của NH phục vụ Người nghèo được coi là một giải pháp nhằm hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo của quốc gia, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân cả nước, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Qua 7 năm hoạt đông NH Người nghèo đã huy động được 6500 tỷ đồng cho gần 6 triệu lượt hộ nghèo vay vốn từ đó tạo điều kiện cho phần đông trong số họ thoát khỏi ngưỡng nghèo, có cuộc sống khấm khá hơn so với trước kia. Tuy nhiên do chưa hoàn toàn tách ra khỏi NHNo&PTNT Việt Nam cho nên NH Người nghèo vẫn chưa thể trở thành một NHCSXH thực thụ, chưa chủ động đáp ứng nhu cầu vốn cho tất cả các đối tượng chính sách, thậm chí còn gây cản trở không nhỏ đến hoạt động tín dụng thương mại của NHNo&PTNT Việt Nam. Một nguyên nhân nữa hướng đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo của quốc gia, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc a cũng hết sức quan trọng khiến cho việc ra đời của một NHCSXH thực thụ trở nên tất yếu đó là: hiện tượng tín dụng chính sách, vốn tín dụng chính sách được thực hiện và quản lý chồng chéo theo nhiều kênh khác nhau bởi một số tổ chức tín dụng thương mại được Nhà nước chỉ định mà không có sự phân định rõ ràng thế nào là tín dụng chính sách, thế nào là tín dụng thương mại. Điều này khiến cho nguồn NSNN dành cho cho vay ưu đãi bị sử dụng lãng phí, phân tán. Trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo, một bộ phận lớn dân cư còn sống trong khó khăn, thiếu thốn thì hiện tượng lãng phí vốn ưu đãi cho người nghèo là hết sức vô lý. Chính phủ cần tạo lập một tổ chức tín dụng thống nhất và chuyên trách sao cho có thể hoàn thành được các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Chính phủ đã đề ra. Dựa trên những lí luận và thực tiễn được đúc rút trong 7 năm hoạt động của NH Người nghèo, ta có thể khẳng định rằng: Sự ra đời của NHCSXH là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Thực hiện Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về Tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; cùng ngày Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 131/2002/QĐ-TTg về việc thành lập NHCSXH và ngày 22/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 16/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCSXH. Theo đó NHCSXH có Hội sở chính đặt tại thủ đô Hà nội. Có cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị và điều hành tại Hội sở chính gồm: - Hội đồng quản trị và bộ máy giúp việc. - Ban kiểm soát. - Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. - Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ. NHCSXH có vốn điều lệ 5 tỷ đồng, có con dấu, có tài khoản mở tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, các Ngân hàng trong nước và ngoài nước. Có bảng cân đối tài chính, các quỹ theo quy định của pháp luật. Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời của NHCSXH và đến ngày 11/03/2003 Ngân hàng Chính sách xã hội Việt nam đã chính thức khai trương đi vào hoạt động tại Thủ đô Hà Nội. Ngày 14/01/2003 Hội đồng quản trị NHCSXH ra Quyết định số 18/QĐ-HĐQT về việc thành lập chi nhánh NHCSXH Thành phố Hà nội. Chi nhánh NHCSXH TP Hà nội là đại diện pháp nhân, có con dấu riêng, hoạt động theo điều lệ, quy chế về tổ chức và hoạt động của NHCSXH . Lúc có quyết định thành lập, Chi nhánh NHCSXH Thành phố Hà nội thực chất mới chỉ có một vài cán bộ từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thành phố Hà Nội chuyển sang. Sau một thời gian chuẩn bị về trụ sở, công cụ phương tiện làm việc, bộ máy nhân sự, cán bộ. Được sự quan tâm, giúp đỡ của Thành uỷ, UBND TP Hà nội, ngày 11/4/2003 Chi nhánh NHCSXH Thành phố Hà Nội đã khai trương đi vào hoạt động. Trụ sở của Chi nhánh tại 31.Ngô Thì Nhậm-Quận Hai Bà Trưng-Hà Nội. Sau 6 năm hoạt động, đến nay toàn Chi nhánh Hà Nội đã có 134 cán bộ nhân viên công tác tại Trụ sở chính và 13 phòng giao dịch quận, huyện. Cơ sở vật chất dần được củng ._.006, dư nợ cho vay từ nguồn NSTW là 64,5 tỷ đồng, cho vay từ nguồn NSTP là 24,6 tỷ đồng. Quy mô cho vay chỉ đạt trung bình 8,5 triệu đồng/ món vay trong khi đó, số lượng người dân cần hỗ trợ vốn ưu đãi còn rất nhiều. Vì vậy, tăng quy mô nguồn vốn cho vay GQVL là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả cho vay GQVL của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. - Thủ tục xét duyệt cho vay còn nhiều phức tạp, rườm rà. Thủ tục xét duyệt dự án cho vay GQVL phản ánh sự phối hợp chặt chẽ của NHCSXH với các tổ chức xã hội. Song, nó cũng bộc lộ nhiều phức tạp, rườm rà trong quá trình thực hiện. Thời gian từ khi chủ dự án nộp đơn xin vay vốn GQVL cho đến khi nhận được vốn vay kéo dài gần một tháng. Nguyên nhân là do: Một là, hồ sơ xin vay phải trải qua nhiều cấp trung gian xét duyệt, rồi sau đó mới kết hợp thẩm định. Hai là, quy định về các loại giấy tờ trong hồ sơ còn phức tạp và chưa phù hợp với thực tế. Dẫu biết rằng: vốn vay ưu đãi có tính rủi ro cao nhưng với mục đích của tín dụng chính sách GQVL là giúp cho người lao động có việc làm ổn định và thu nhập thường xuyên thì NHCSXH VN cần kết hợp với Bộ LĐTB&XH xây dựng một quy trình cho vay GQVL đơn giản và nhanh gọn hơn trong khi vẫn phải đảm bảo hiệu quả của tín dụng GQVL. - Sự thiếu thốn về cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự đặc biệt ở các Phòng giao dịch quận, huyện. Toàn Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đã và đang vấp phải những khó khăn về trụ sở làm việc, trang thiết bị và công cụ làm việc, quan trọng hơn là khó khăn trong công tác tổ chức, bố trí đội ngũ cán bộ. đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nghiệp vụ của NH. Trong năm 2008, Chi nhánh tổ chức được 13 Phòng giao dịch quận, huyện. Tuy nhiên, sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân sự đặc biệt ở các Phòng giao dịch đã phần nào hạn chế hiệu quả của công tác cho vay GQVL trong việc giải ngân, thu nợ vốn vay và quá trình theo dõi các món nợ đó. - Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội mới đi vào hoạt động nên những khó khăn về cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự là điều không thể tránh khỏi. Mặc dù, NHCSXH có tiền thân là NH phục vụ Người nghèo nhưng trước kia, nó lại phụ thuộc quá nhiều vào NHNo&PTNT về vấn đề tổ chức nhân sự và cơ sở vật chất. Sau khi tách hoàn toàn ra khỏi NHTM quốc doanh này, NHCSXH bắt đầu chính thức đi vào hoạt động xây dựng một màng lưới các Chi nhánh của mình. Trên thực tế, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội vẫn phải đi thuê trụ sở làm việc, nhiều trang thiết bị văn phòng cũng như các máy móc phục vụ cho nhu cầu làm việc của cán bộ NH như máy vi tính, máy fax, máy in,Ban lãnh đạo thì được điều động từ một số nơi chuyển sang như NHNo&PTNT, KBNN Hà Nội.nhưng đối với hầu hết đội ngũ nhân viên còn lại thì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội phải đào tạo từ đầu. 2.4.2.2.2. Nguyên nhân khách quan. - Hoạt động của cho vay GQVL trên địa bàn Thủ đô trong những ngay đầu đi vào thực hiện đã phải đối mặt với những khó khăn của việc nhận bàn giao Nguồn vốn - Dư nợ cho vay GQVL từ KBNN Hà Nội và một số các TCTD khác . Nét đặc biệt này khiến cho công tác quản lý, sử dụng nguồn vốn - dư nợ cho vay GQVL trở nên phức tạp hơn bình thường vì phải quản lý và theo dõi dư nợ nhận bàn giao và tìm biện pháp xử lý các khoản nợ xấu trong đó. - Các chế độ chính sách hướng dẫn nghiệp vụ của cho vay vốn ưu đãi GQVL chưa thật sự phù hợp với các đối tượng chính sách vay vốn khác nhau. Văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cho vay vốn GQVL đã ghi rõ: Các đối tượng được vay 15 triệu đồng trở xuống không phải thế chấp tài sản nhưng phải có bảo lãnh bằng tín chấp của Chủ tịch UBND xã (đối với dự án cấp xã), Chủ tịch UBND cấp huyện (đối với dự án cấp huyện), hoặc người đứng đầu tổ chức đoàn thể, hội quần chúng đối với dự án do tổ chức đoàn thể, hội quần chúng quản lý. Các đối tượng vay trên 15 triệu đồng phải thế chấp, cầm cố tài sản theo chế độ quy định. Quy định trên làm nảy sinh 2 câu hỏi: Thứ nhất, đâu là tiêu chuẩn thực sự xác định hiệu quả của những món vay không cần thế chấp? Thứ hai, mức cho vay tối đa 200 triệu theo quy định hiện nay áp dụng cho các cơ sở SXKD có phù hợp không? vì ngành nghề khác nhau thì khả năng thu hút lao động và quy mô vay vốn GQVL sẽ khác nhau. Điều này cho thấy, quy định mức tối đa cho vay đối hộ gia đình và các cơ sở SXKD đặc biệt là các DNVVN chưa chặt chẽ và hiệu quả. Nói tóm lại, thực trạng hiệu quả cho vay GQVL của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đã phản ánh đúng tình hình việc làm, chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô trước và sau khi có sự giúp đỡ của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. Bên cạnh, những kết quả rất đáng khích lệ đối với một Ngân hàng non trẻ, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội cũng vấp phải một số khó khăn xuất phát từ cả những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nhưng điều đáng nói ở đây là: hạn chế còn tồn tại không phải là thất bại mà là bài học kinh nghiệm làm hành trang trong sự nghiệp phát triển của Chi nhánh. Nhận thức được hạn chế và nguyên nhân của nó là điều kiện cần cho quá trình đi tìm những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay GQVL của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA NHCSXH – CHI NHÁNH HÀ NỘI 3.1 Định hướng đối với công tác cho vay GQVL. Định hướng đối với công tác cho vay GQVL của NHCSXH chi nhánh Hà Nội: Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tín dụng và các hoạt động nghiệp vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch được NHCSXH Việt Nam và UBND TP giao, tỷ lệ tăng trưởng bình quân đạt 28 – 30 % /năm. ( Nguồn : Báo cáo tổng kết 3năm 2006-2009 và mục tiêu hoạt động 2010-2012 của NHCSXH TP Hà Nội). * Về công tác tổ chức cán bộ và mạng lưới: Chi nhánh sẽ thành lập và khai trương đi vào hoạt động 2 Phòng giao dịch tại 2 quận mới là Hai bà Trưng và Đống Đa. NHCSXH TP Hà Nội tiếp tục ổn định nhân sự, cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, nơi giao dịch và các phương tiện làm việc tại TP và các phòng giao dịch để hoàn thành tốt hơn nữa mọi nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, NH cũng hết sức chăm lo đến công tác bồi dưỡng cho cán bộ nhân viên của mình thông qua các lớp tập huấn về chuyên đề tin học, kế toán, tín dụng...cũng như có kế hoạch cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo do cấp trên tổ chức. * Công tác tín dụng: Đơn vị tính: triệu đồng Stt chØ tiªu Cho vay Thu nî D­ nî % t¨ng d­ nî so víi n¨m 2008 1 Cho vay hộ nghèo Cho vay hộ nghèo 76.440 475.000 22.5% 2 Cho vay giải quyết việc làm Cho vay giải quyết việc làm 75.100 194.855 22,8% - Nguồn trung ương - Nguồn trung ương 54.200 136.298 8,1% - Nguồn địa phương - Nguồn địa phương 20.900 5.556 33,3% 3 Cho vay Học sinh – sinh viên Cho vay Học sinh – sinh viên 12.500 30.370 15,3% 4 Cho vay xuất khẩu lao động Cho vay xuất khẩu lao động 85 1020 5.5% Tổng cộng Tổng cộng Tổng cộng 701.245 25,9% * Nguồn vốn. - Tổng nguồn vốn đạt 1.400 – 1.450 tỷ đồng. Trong đó: + Nguồn vốn tự huy động: đạt 100% kế hoạch NHCSXH giao, phấn đấu ổn dịnh và tăng trưởng 10 – 15% so với năm 2009. + Nguồn vốn nhận uỷ thác tại địa phương: 40 tỷ đồng (tăng 10 tỷ đồng, tăng 33% so với năm 2009) * Tăng cường công tác kiểm tra- kiểm toán nội bộ các hoạt động của Chi nhánh TP và các Phòng giao dịch quận, huyện trực thuộc trong công tác giải ngân, thu nợ và huy động vốn. * Tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ của Đảng ủy, HĐND, UBND và Ban đại diện hội đồng quản trị TP và các quận, huyện trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. * Phối hợp tốt hơn nữa với các Hội, ban ngành đoàn thể và Chính quyền các cấp trong việc triển khai cho vay vốn đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách bằng cách tổ chức các lớp đào tạo cho cán bộ quận, huyện, phường, xã làm công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và nhận thức được vai trò quan trọng của nhiệm vụ phối hợp để thực hiện tín dụng chính sách với chương trình mục tiêu “Xóa đói giảm nghèo” của quốc gia. 3.2. Giải pháp Những giải pháp sau đây được đưa ra nhằm khắc phục dần dần những thiếu sót từ phía bản thân ngân hàng. 3.2.1. Tiếp tục, củng cố hoàn thiện công tác xây dựng, tổ chức các Phòng giao dịch, cơ sở vật chất và đội ngũ nhân sự của toàn Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. Điều kiện tiên quyết đảm bảo hiệu quả cho vay GQVL chính là khả năng tiếp cận của vốn vay ưu đãi đối với người lao động những người cần vốn để có thể tạo việc làm cho mình và cho người khác. Trong năm 2005, Chi nhánh Hà Nội sẽ cho đi vào hoạt động 2 Phòng giao dịch tại 2 quận mới, nâng số lượng Phòng giao dịch trên địa bàn thủ đô lên 13 phòng giao dịch quận, huyện trực thuộc. Để tạo điều kiện cho nhân dân tiếp xúc với NHCSXH TP Hà Nội thì NH một mặt yêu cầu sự giúp đỡ của Chính quyền các cấp, hội đoàn thể tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trụ sở làm việc cho các Phòng giao dịch trực thuộc và các Quỹ tiết kiệm. Mặt khác, đội ngũ cán bộ các Phòng giao dịch thường xuyên kiểm tra và đánh giá về các dự án vay vốn GQVL để tổng hợp báo cáo lên Chi nhánh, giúp Chi nhánh nắm bắt được tình hình của các dự án và đột xuất kiểm tra tiến độ thực hiện. Các cuộc kiểm tra, thanh tra này cũng nhằm mục đích kiểm tra năng lực và đạo đức của nhân viên các Phòng giao dịch và Quỹ tiết kiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. NHCSXH TP Hà Nội nên bố trí các điểm giao dịch dựa trên nguyên tắc: các Phòng giao dịch nên được đặt tại trung tâm của những khu vực có mật độ các đối tượng chính sách. Trong điều kiện địa bàn hoạt động quá rộng và dân cư dàn trải thì nhất thiết phải tổ chức cho được các điểm giao dịch chịu sự quản lý của Phòng giao dịch trung tâm làm công tác nắm bắt tình hình của địa phương trên cơ sở phối kết hợp với Chính quyền địa phương nơi đó. Về vấn đề nhân sự trong các phòng giao dịch thì NHCSXH TP Hà Nội nên tranh thủ đội ngũ nhân viên trẻ có trình độ về nghiệp vụ NH từ cao đẳng trở lên được làm việc dưới hình thức thử việc và đội ngũ cán bộ đã lớn tuổi nhưng có kinh nghiệm và còn khả năng làm việc, những người này nên được làm việc theo hợp đồng và có vai trò kèm cặp đội ngũ nhân viên mới nói trên và coi như là một hình thức học nghề. Sau khi đội ngũ nhân sự đã ổn định thì sẽ quyết định lựa chọn những nhân viên có năng lực nhất để làm việc lâu dài cho các Phòng giao dịch. 3.2.2. Tăng cường công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ tín dụng và mở lớp hướng dẫn chủ dự án lập kế hoạch sản xuất kinh doanh hiệu quả. Hầu hết các cán bộ tín dụng của NHCSXH TP Hà Nội đều trẻ tuổi nên kinh nghiệm làm việc còn thiếu. Hơn nữa, công tác cho vay GQVL là một hoạt động có tính chất đặc thù của tín dụng chính sách với đối tượng phục vụ là những cá nhân, tổ chức kinh doanh nhỏ và các DNNVV có nguồn tài chính không dồi dào. Vì thế, quá trình thẩm định sẽ gặp những khó khăn xuất phát từ phía chủ dự án như không có khả năng lập một dự án với các chỉ tiêu tài chính cơ bản, giấy tờ sổ sách kế toán không đầy đủ, lý do vay vốn thiếu thuyết phục. Để giảm thiểu khó khăn cho các bên trong quá trình thẩm định trước khi lập hồ sơ xin vay vốn, chủ dự án và cán bộ thẩm định của NH nên có những buổi tập huấn về các vấn đề liên quan đến việc lập một dự án hiệu quả. Trong lớp tập huấn ấy, cán bộ tập huấn cũng nên làm công tác tư tưởng, hướng ý tưởng của chủ dự án đến việc lập dự án phát triển các ngành nghề được khuyến khích, các làng nghề truyền thống, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi. Trên thực tế, các dự án vay vốn GQVL được lập rất đơn giản và sơ sài cho nên NH nên cần có sự phối kết hợp với các ban ngành, hội đoàn thể các cấp làm công tác tư vấn lập dự án và phát triển ý tưởng kinh doanh cho chủ dự án. Các lớp bồi dưỡng cho cán bộ tín dụng nên được tổ chức định kỳ để trao đổi thông tin về những khó khăn, thuận lợi của công việc tín dụng GQVL và học cách giải quyết những khó khăn đó. 3.2.3. Đa dạng hoá các phương thức tạo lập nguồn vốn 3.2.3.1 Tranh thủ sự đầu tư, tài trợ của các tổ chức quốc tế. Hiện nay, nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác huy động vốn từ bên ngoài hạn chế tối đa phụ thuộc vào NSNN vì nó cũng quyết định quy mô vốn giải quyết việc làm. Hoạt động cho vay GQVL là một hình thức tín dụng vừa có tác dụng tạo ra sự phát triển lành mạnh của ngành kinh tế, vừa có tác dụng cải tạo xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Tính hiệu quả cả về mặt lợi ích kinh tế lẫn lợi ích xã hội của cho vay GQVL cần được tuyên truyền, quảng bá sâu rộng cho đông đảo các tổ chức trong và ngoài nước biết đến. 3.2.3.2 Huy động trên thị trường vốn. Lí do cho việc đưa ra giải pháp phát triển thị trường vốn của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội: một là, NH do Chính phủ thành lập; hai là, thông qua thị trường vốn, NH mới có thể thu hút được một khối lượng vốn đủ lớn để đáp ứng nhu cầu giải quyết việc làm của thị trường lao động Thủ đô; ba là, tốc độ phát triển kinh tế của Thủ đô đang ở mức khá cao, quy mô của các ngành kinh tế ngày càng mở rộng và tăng trưởng. Tất cả đang tạo điều kiện cho Chi nhánh thu hút vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ dài hạn và có sự bảo lãnh của Chính phủ. Nếu trái phiếu của NHCSXH có được những đặc tính như trên giống như trái phiếu Chính phủ thì khả năng huy động được nguồn vốn có giá trị lớn trên thị trường vốn là hoàn toàn nằm trong tầm tay. 3.2.4. Tập trung cho vay có trọng điểm , khuyến khích các dự án có nhu cầu vay lớn và thu hút nhiều lao động xã hội. Trong số 1.595 dự án được duyệt cho vay GQVL thì số dự án có các hộ gia đình vay các món vay nhỏ, lẻ chiếm một tỷ trọng lớn. Mặc dù, nhiều món vay nhỏ lẻ 2-3 triệu đó cũng đem lại thu nhập nhất định cho người vay nhưng xét trên góc độ lợi ích của nền kinh tế thì việc cho vay các món vay nhỏ lẻ như vậy nên hạn chế. Nên chăng, các Hội đoàn thể quản lý trực tiếp các món vay nên phân loại các món vay và đối tượng vay vốn, ưu tiên cho vay các món vay nhỏ lẻ dành cho các đối tượng kinh doanh nhỏ đặc biệt là người có tuổi, sức khoẻ yếu, thương bệnh binh, người tàn tật. Ngoài ra, việc xét duyệt vay vốn cần xem xét, kiểm tra tính đúng đắn và hiệu quả của dự án. Đối với các dự án không nhận được sự tín chấp của Cấp chính quyền cơ sở hoặc Hội đoàn thể quản lý thì kết quả thẩm định dự án trước đó sẽ được trình lên Sở LĐTB&XH hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh để có đánh giá chung và ra quyết định. Ngoài ra, NHCSXH TP Hà Nội nên thiết lập một ban chuyên môn, thẩm định riêng cho các dự án của cơ sở SXKD. Hồ sơ của các dự án này sẽ được ban thẩm định nghiên cứu và ưu tiên phối kết hợp thẩm định với các tổ chức xã hội. Ngoài ra, một quy trình thẩm định mới sẽ được kiến nghị lên NHCSXH xem xét để thông qua. 3.2.5. Thông qua các văn bản liên tịch ủy thác cho vay GQVL xây dựng mối quan hệ mật thiết hơn nữa với các cấp Chính quyền địa phương, các Hội, Ban ngành đoàn thể đặc biệt ở những khu vực có tỷ lệ đối tượng chính sách cao Mối quan hệ giữa các cấp Chính quyền địa phương và các Hội, ban ngành đoàn thể có tốt đẹp thì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội mới được tạo điều kiện tốt nhất về trụ sở làm việc, phương tiện làm việc và khả năng thu nhận các thông tin về người lao động cư trú trên địa bàn Hà Nội cho đến việc phối kết hợp làm công tác thẩm định dự án vay vốn và ủy thác cho vay GQVL. Hơn nữa, Hà Nội là một TP đông dân cư, nhiều địa bàn phức tạp và khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đang ngày càng gia tăng nhanh chóng so với các TP khác. Do đó, để nắm bắt được tình hình tài chính và chất lượng cuộc sống của dân cư, NHCSXH TP Hà Nội cần xây dựng được một quan hệ đoàn kết và hợp tác với các cấp Chính quyền, các hội đoàn thể địa phương đặc biệt ở những khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao thông qua việc ký kết các văn bản liên tịch ràng buộc trách nhiệm 3.2.6. Nâng cao sự hiểu biết của người dân và các tổ chức kinh tế về Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. Tiếp tục quảng bá hình ảnh của NHCSXH TP Hà Nội để nhân dân thủ đô ủng hộ hoạt động của NH nói riêng và hoạt động cho vay GQVL nói riêng thông với mục đích thu hút họ trở thành khách hàng của mình trên cả phương diện huy động vốn và sử dụng vốn. NH nên làm những phóng sự ngắn về hoạt động của NH và giới thiệu các ví dụ điển hình về các dự án làm ăn có lãi nhờ vay vốn NHCSXH bằng những phóng sự người thật việc thật trình chiếu trên báo đài, báo viết và đặc biệt trên phương tiện truyền hình. 3.3 Một số kiến nghị. 3.3.1 Kiến nghị đối với NHCSXH VN. 3.3.1.1. Kiến nghị đối với NHCSXH chi nhánh TP Hà Nội. a) Tăng quy mô cho vay đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh kết hợp với một chính sách lãi suất linh hoạt. Trên thực tế, nhu cầu về vốn của các cơ sở SXKD với mục đích kinh doanh khác nhau là khác nhau. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được đánh giá là khu vực năng động nhất trong nền kinh tế không chỉ bởi sự đa dạng của mặt hàng, mẫu mã sản phẩm cung ứng mà nó còn dễ dàng thay đổi cấu trúc hoạt động để cho phù hợp với thị trường. Quy mô cho vay tối đa 200 triệu đối với một cơ sở SXKD đã hạn chế năng lực hoạt động của các cơ sở này. Đối với các dự án có nhu cầu vay lớn hơn mức cho vay tối đa nói trên thì phần vượt mức nên cho vay theo lãi suất cho vay thương mại còn phần trong giới hạn cho vay theo lãi suất ưu đãi để giảm cấp bù NSNN và tăng tính cạnh tranh lành mạnh trên thị trường đối với sản phẩm của dự án vay vốn ưu đãi. Sự linh hoạt trong những tình huống trên sẽ giúp cho NHCSXH TP Hà Nội có thể tăng thu đáng kể, giảm gánh nặng cho NSNN. b) Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án cho vay giải quyết việc làm. Để vốn vay ưu đãi đươc tiếp cận với người dân dễ dàng hơn thì NHCSXH VN nên có những điều chỉnh đối với quy trình thẩm định vay vốn GQVL. Sự điều chỉnh này nên khác nhau đối với các dự án vay vốn có quy mô khác nhau và cần tăng quyền chủ động của Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội. Đối với hộ gia đình vay vốn: Một là, nên đặt ra quy mô vốn vay tối thiểu để hạn chế các món vay nhỏ lẻ không hiệu quả theo hai tiêu chuẩn: ngành nghề gia nhập thị trường và số lượng lao động tham gia. Hai là, giá trị của món vay sẽ phụ thuộc vào chi phí bình quân của hoạt động SXKD được trình bày trong đơn xin vay vốn. Quy trình thẩm định các dự án vay vốn hộ gia đình cũng nên tiết giảm thời gian chờ đợi của chủ dự án bằng cách tiếp nhận dự án vay vốn đồng thời ở hai nơi: Phòng LĐTB&XH hoặc hội đoàn thể TP và Chi nhánh NHCSXH. Sau khi nghiên cứu sơ bộ hồ sơ dự án, tiến hành phối kết hợp thẩm định dự án. Tránh tình trạng hồ sơ bị đọng lại cấp trung gian quá lâu mới được chuyển sang Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội để nghiên cứu trên góc độ tài chính của dự án. Đối với các dự án vay của cơ sở SXKD thì nên thiết lập một quy trình thẩm định mới đơn giản hơn nhưng vẫn phải chặt chẽ để đảm bảo không bị mất cơ hội kinh doanh của chủ dự án và lường trước được rủi ro xảy ra cho NH. Cụ thể là: Dự án vay vốn sẽ được chủ dự án chuyển trực tiếp đến 2 cơ quan là: NHCSXH TP Hà Nội và Phòng LĐTB&XH để tránh tình trạng hồ sơ đọng lại ở cấp cơ sở. Sau khi nhận được hồ sơ, tiến hành thẩm định dự án. Kết luận cho vay sẽ dựa trên các điều kiện sau: - Ngành nghề phù hợp với cơ cấu ngành nghề khuyến khích của Thủ đô. - Giá trị tài sản thế chấp ít nhất bằng 50% số tiền xin vay. - Dự án vay vốn có khả năng thu hút số lao động tăng thêm càng lớn càng tốt. - Lấy thu nhập thường xuyên của số lao động cũ làm cơ sở ban đầu đánh giá cho khả năng tạo ra thu nhập của dự án. Thời gian kể từ khi nhận hồ sơ dự án cho đến khi nhận được quyết định cho vay ưu đãi GQVL nên tối đa trong vòng 15 ngày. Trong trường hợp kết luận cho vay của Chi nhánh NHCSXH khác với kết luận cho vay của cán bộ Sở LĐTB&XH thì giành quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của NH trước quyết định cho vay của mình trên cơ sở: Cơ sở sản xuất kinh doanh vay vốn phải làm ăn có lãi trong năm gần nhất và dự án vay vốn có khả năng thu hút số lao động tăng thêm càng lớn càng tốt. c) Hoàn thiện chính sách lãi suất. Nếu cho vay GQVL với mức lãi suất ưu đãi quá thấp thì gắng nặng tài chính sẽ đè lên vai NSNN ngày càng tăng vì giá trị dư nợ cho vay cũng gia tăng theo quy mô hoạt động của NH. Hơn nữa, nó còn làm nảy sinh tâm lý ỷ lại, không cố gắng lao động của người vay vốn. Theo lẽ thường, khi sức ép của việc trả nợ quá nhỏ thì nỗ lực lao động của người vay vốn ưu đãi cũng bị giảm đi không nhiều thì ít cũng tương tự như trên thị trường, kết quả kinh doanh không thể cao nếu nó không bị đặt dưới sức ép của cạnh tranh. Mặt khác, vốn để GQVL thì việc làm được tạo ra phải đem lại thu nhập chính đáng và ổn định cho người lao động. Do tính hiệu quả lâu dài của vốn cho vay HGQVL đối với các dự án được duyệt vay mà nên coi hình thức cho vay này vẫn phải đảm bảo tính hiệu quả của thị trường tức là không nên cho vay với mức ưu đãi quá mức. Tuy nhiên, lãi suất ưu đãi cho người lao động bắt đầu khởi nghiệp cũng không thể lớn như mức lãi suất cho vay trên thị trường vì nó làm cho các đối tượng chính sách đó sẽ vấp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh nếu không muốn nói là sẽ bị chìm trong một thị trường mà mình là lính mới, bên cạnh đó là còn các vấn đề về kích thích đầu tư, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, tránh tình trạng “cá lớn nuốt cá bé. Nên chăng lãi suất cho vay nên có sự linh hoạt đối với các đối tượng khác nhau. Hiện nay, NHCSXH đang chủ yếu áp dụng mức lãi suất 0,5%/tháng, thấp hơn nhiều so với mức lãi suất cho vay phổ biến trên thị trường. NH nên cân nhắc quy định mức lãi suất cho vay ưu đãi theo một trong hai cách sau: Một là, đề nghị NHCSXH VN áp dụng mức lãi suất mới cao hơn trên nguyên tắc bằng hoặc cao hơn so với lãi suất huy động nhưng nhất thiết phải thấp hơn mức cho vay trên thị trường. Hai là, tùy theo sự biến động của thị trường mà quy định lãi suất cho vay ưu đãi bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với lãi suất cho vay thương mại bình quân cùng thời điểm. 3.3.1.2. . Kiến nghị đối với NHCSXH trung ương. Tăng nguồn vốn cho vay việc giải quyếtlàm từ nguồn Ngân sách Trung ương. Vốn hoạt động của các Chi nhánh NHCSXH phần lớn vẫn được điều động từ NHCSXH VN và doanh số cho vay kế hoạch là do NHCSXH VN hoạch định dưới sự đề nghị của Chi nhánh NHCSXH. Do quy mô vốn cho vay là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động cho vay GQVL cho nên, trong năm 2008 vừa qua mặc dù Chi nhánh Hà Nội đạt hơn 100% kế hoạch cho vay GQVL đặt ra nhưng vẫn còn rất nhiều người có nhu cầu vay vốn SXKD, tỷ lệ thất nghiệp của TP chưa thuyên giảm được nhiều. Do đó, đề nghị NHCSXH VN tăng chỉ tiêu nguồn vốn cho vay GQVL để đáp ứng nhu cầu vay vốn GQVL trên địa bàn Thủ đô, góp phần thực hiện tốt kế hoạch đặt ra trong năm 2009 về số người lao động được giải quyết việc làm tăng thêm là 75.000 người. Nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế như hiện nay khi má số lượng người mất việc làm đang gia tăng rất nhanh và trở thành vấn đề bức thiết. Cụ thể là, đề nghị NHCSXH VN tăng nguốn vốn từ NSTW cấp cho Chi nhánh vì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội phụ trách một khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao thứ 2 trong cả nước và sau khi sát nhập chi nhánh phải đảm nhiệm khu vực rộng lớn bao gồm cả Hà Nội và Hà Tây cũ. Hơn nữa, trong năm 2008, NH đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao không để xảy ra một tình trạng nợ xấu nào và thực hiện tốt kế hoạch tự huy động vốn mà NHCSXH VN giao cho. 3.3.2 Kiến nghị đối với UBND TP Hà Nội. 3.3.2.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô Một chiến lược cho vay GQVL hiệu quả trước hết phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và nhất thiết phải dựa vào nội lực là chủ yếu. Chiến lược cho vay GQVL nên tập trung vào các vấn đề sau: - Xác định phân đoạn thị trường mục tiêu tức là đối tượng khách hàng mục tiêu từ đó mới có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý. Đối tượng khách hàng mục tiêu của NHCSXH TP Hà Nội là khối các DNVVN. Trên cơ sở đó nghiên cứu một chiến lược cho vay GQVL tập trung cho đối tượng này. - Xác định nguồn huy động lớn mà chi phí giao dịch thấp trong đó tập trung vào các thị trường vốn, tiền gửi thanh toán của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế, nguồn vốn ủy thác và thu hút được các nguồn vốn tài trợ của các tổ chức hố trợ phát triển kinh tế quốc gia. Để làm được điều này NH nên tăng cường hoạt động đối ngoại và đào tạo đội ngũ nhân viên làm công tác đối ngoại. - Sử dụng vốn vay GQVL đúng mực trên cơ sở chỉ tiêu cấp trên giao cho, tránh tình trạng đến cuối năm tài chính vẫn còn tình trạng lạm vốn sang nhau giữa các Quỹ cho vay. - Làm tốt công tác chăm sóc khách hàng cả trên lĩnh vực huy động lẫn hoạt động tín dụng thông qua mạng lưới các điểm giao dịch và các công tác viên là cán bộ các Hội đoàn thể; Chính quyền địa phương. 3.3.2.2 Tăng nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm từ nguồn ngân sách Thành phố Hà Nội. Nguồn vốn cho vay GQVL xuất phát từ: nguồn vốn NSTW và nguồn vốn NSTP cấp. Trong khi đó, nguồn vốn TW lại hạn hẹp vì phải chi tiêu cho rất nhiều chương trình, hoạt động khác của quốc gia cho nên để tăng hiệu quả cho vay GQVL thì UBND TP Hà Nội nhất thiết phải tăng chỉ tiêu nguồn vốn NSTP. Theo đó, UBND TP Hà Nội phải trích NSTP từ việc tăng thu giảm chi để bổ sung vào nguồn vốn cho vay GQVL. Do đó, tăng cường nguồn vốn ủy thác cho NHCSXH Hà Nội cho vay GQVL từ nguồn NSTP là một giải pháp hiệu quả của UBND TP trong việc thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ thất ngiệp, cải thiện đời sống cho nhân dân Thủ đô. 3.3.2.3 Tạo điều kiện cho Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội hoạt động tốt hơn nữa. Đề nghị UBND TP Hà Nội và các quận, huyện quan tâm giúp đỡ Chi nhánh NHCSXH Hà Nội về trụ sở làm việc, phương tiện và công cụ lao động cụ thể là tài trợ kinh phí xây dựng trụ sở làm việc, xây dựng hệ thống các điểm giao dịch trên cơ sở xác định được mật độ dân cư và tỷ lệ thất nghiệp của mỗi quận huyện; giúp Chi nhánh trang bị các phương tiện làm việc đặc biệt là các phương tiện như máy tính nối mạng, máy fax, máy in, đòi hỏi mức chí phí cao. 3.3.3 Kiến nghị đối với các Hội đoàn thể, Chính quyền các phường xã. Đề nghị các Hội đoàn thể, Chính quyền các xã phường tăng cường kiểm tra, giám sát các chủ dự án chấp hành đúng quy định của Nhà nước và của ngành NH trong xét duyệt cho vay, phát tiền vay và thu lãi cho vay, không để tình trạng thu thêm phí của người vay, phát tiền vay không đúng đối tượng được vay hoặc thu nợ gốc, lãi không nộp vào NH hoặc sử dụng vốn vay sai mục đích, chây ỳ không trả nợ vay NH. KẾT LUẬN Cho vay GQVL là một hình thức tín dụng được thực hiện với sự phối hợp của nhiều ban ngành, đoàn thể. Vì thế, hiệu quả mong muốn đạt được của hoạt động này không chỉ đơn thuần là hiệu quả của tín dụng mà hiệu quả của nó là khả năng thu hút lao động, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho lao động tham gia dự án, góp phần ổn định kinh tế - xã hội. Hơn nữa, Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội đảm trách nhiệm vụ ở một khu vực tương đối phức tạp, tốc độ phát triển kinh tế khá cao nhưng tỷ lệ thất nghiệp cũng không hề nhỏ. Yêu cầu để thực hiện tốt công tác cho vay GQVL thì có nhiều song trong điều kiện còn khó khăn chung của cả hệ thống NHCSXH thì Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội cần phát huy không ngừng truyền thống của một NH phục vụ Người nghèo tận tâm, tận sức vì các đối tượng khách hàng chính sách. Đây là trách nhiệm không chỉ riêng của Chính phủ, riêng bản thân NHCSXH VN và các Chi nhánh NHCSXH mà là của tất cả những ai luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô nói riêng và của đất nước nói chung. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả cho vay GQVL đối với Chi nhánh NHCSXH TP Hà Nội, em đã hoàn thành bài viết này không nằm ngoài mong muốn được góp một phần nào đó, dù nhỏ bé, chung sức cùng NHCSXH TP Hà Nội hoàn thành xuất sắc công tác cho vay GQVL để hiệu quả của nó không chỉ gói gọn trong vấn đề tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho lực lượng lao động Thủ đô mà còn góp phần thực hiện quyết tâm đưa Thủ đô đi lên trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội phát triển nhất đất nước. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS.Lê Thanh Tâm vì sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô; cảm ơn ban lãnh đạo NHCSXH – Chi nhánh Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để em được tiếp xúc thực tế và hoàn thành bài viết này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Frederic S.Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính PGS.TS Phan.T.Thu Hà, TS Nguyễn.T.Thu Thảo - NHTM - Quản trị và nghiệp vụ NXB Thống kê 2003. PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng Thương Mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội (2007). Peter S.Rose - Quản trị Ngân hàng thương mại. 5. Một số tài liệu khác do Phòng Kế hoạch- Nghiệp vụ NHCSXH TP Hà Nội cung cấp: - Báo cáo tổng kết 3 năm 2006 – 2008. - Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2008, triển khai kế hoạch, nhiệm vụ năm 2009. - Bảng biểu phụ lục các chương trình cho vay, dư nợ, tổng hợp nguồn vốn 3 năm 2006- 2008. 6. Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 12 năm 2007. 7. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. 8. Một số Website: - www.vbsp.org.vn : trang chủ - giới thiệu về NHCSXH . - www.vbsp.org.vn/viewbaibantin.php?id_bai=169&nam=2007 - www.vietbao.vn : Việc làm – giải quyết việc làm cho gần 30000 lao động. - vneconomy.vn/20090107064732911P0C11/giai-quyet-viec-lam-va-do-tin-cay-cua-nhung-con-so.htm MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DN : Doanh nghiệp DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ KBNN : Kho bạc Nhà nước GQVL : Giải quyết việc làm HS - SV : Học sinh – Sinh viên NH : Ngân hàng NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại NSTW : Ngân sách Trung ương NSTP : Ngân sách Thành Phố SXKD : Sản xuất kinh doanh TCTD : Tổ chức tín dụng TDNH : Tín dụng ngân hàng LĐTB&XH : Lao động thương binh và xã hội UBND : Uỷ ban nhân dân TW : Trung ương DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Biểu đồ 2.1. Dư nợ tín dụng cho vay hộ nghèo qua 3 năm 2006-2008. 42 Biểu đồ 2.2. Dư nợ tín dụng cho vay GQVL qua 3 năm 2006-2008. 43 Biểu đồ 2.3. Dư nợ cho vay HSSV qua 3 năm 2006-2008. 44 Bảng 1.1. Các chương trình tín dụng chủ yếu NHCSXH đang thực hiện 6 Bảng 2.2: Kết quả huy động vốn. 39 Bảng 2.3: Kết quả cho vay, dư nợ tín dụng theo các chương trình. 41 Bảng 2.4. Dư nợ cho vay giải quyết việc làm từ 2006-2008. 50 Bảng 2.5. Doanh số cho vay GQVL qua 3 năm 2006-2008. 51 Bảng 2.7. Số lượng lao động thu hút thêm qua 3 năm 2006-2008. 52 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2691.doc
Tài liệu liên quan