Nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tài sản của các ngân hàng thương mại thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất và là khoản mục mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Thu nhập từ tiền cho vay thể hiện dưới dạng lãi tiền vay và phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn của khoản vay. Thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất càng cao và do đó thu nhập của ngân hàng càng lớn. Chính vì vậy nếu các ngân hàng có thể mở rộng cho vay nhất là cho vay trung và dài hạn đối với các dự án đầ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư thì sẽ có điều kiện kiếm lời nhiều hơn. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng các khoản cho vay có thời hạn càng dài thì càng tiềm ẩn một tỷ lệ rủi ro cao và đó là lý do vì sao khi mở rộng quy mô các ngân hàng thường chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả tín dụng cũng như hiệu quả dự án. Không chỉ có vậy, việc đáp ứng tốt nhu cầu của các khách hàng cũng là một thứ vũ khí cạnh tranh lợi hại của các ngân hàng. Khả năng mở rộng các khoản vay dài hạn còn thể hiện tiềm lực về vốn của ngân hàng, hiệu quả tín dụng cao phần nào thể hiện năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của cán bộ và nhân viên ngân hàng. Đồng thời việc mở rộng tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt là với các dự án đầu tư xin vay của các doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh tín dụng ngắn hạn cũng như các dịch vụ ngân hàng khác bởi khi được vay vốn các doanh nghiệp sẽ có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, tăng năng lực sản xuất điều đó khiến cho nhu cầu vốn lưu động lại tăng cao và các dịch vụ ngân hàng như dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn... cũng sẽ tăng lên, chắc chắn địa chỉ đầu tiên mà khách hàng tìm đến chính là ngân hàng và ngân hàng đã cho họ vay vẵn là sự lựa chọn được ưu tiên nhất. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài "Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam" làm đề tài của luận văn Thạc sỹ kinh tế. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về dự án đầu tư và cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn - Phân tích, đánh giá thực trạng cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. - Đưa ra hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu về dự án đầu tư trung dài hạn và hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung dài hạn thông qua quy trình, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả dưới góc độ ngân hàng, các nhân tố ảnh hưởng.... - Những vấn đề trên được nghiên cứu trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007. 4. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ lý luận chung, luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, điều tra thống kê, phân tích và so sánh... làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Dự án đầu tư và hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chương 1 dự án đầu tư và hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại 1.1. Tổng quan về dự án đầu tư trung và dài hạn 1.1.1. Khái niệm Quá trình phát triển kinh tế- xã hội của các quốc gia trong những thập kỉ qua đã khẳng định vai trò quan trọng của đầu tư. Đầu tư là nhân tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mặt khác, thực tiễn cho thấy để tiến hành công cuộc đầu tư có hiệu quả cần phải chuẩn bị một cách khoa học, kĩ lưỡng trên cơ sở lập dự án đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về DAĐT nhưng tựu chung lại, nhiều người cho rằng: DAĐT là một hệ thống các thuyết minh, được trình bày một cách chi tiết, có luận cứ về các giải pháp sử dụng nguồn lực, để đạt được mục tiêu cao nhất trong chủ trương đầu tư. Từ khái niệm trên cho thấy, nội dung DAĐT bao gồm bốn phần chính, đó là: Mục tiêu của dự án; Các kết quả; Các hoạt động; Các nguồn lực. Trong bốn thành phần trên thì kết quả chính là thành phần đánh dấu tiến độ của dự án. Kết quả có thể được biểu hiện dưới dạng kết quả tài chính, kết quả kinh tế và kết quả xã hội. Kết quả tài chính là các lợi ích về tài chính thu được từ dự án biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá thị trường. Kết quả kinh tế là các lợi ích về kinh tế biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá kinh tế. Giá kinh tế là giá trị chi phí các nguồn lực hoặc các khoản thu nhập từ dự án xét trên góc độ chung của quốc gia. Kết quả xã hội là kết quả được biểu hiện dưới dạng các lợi ích xã hội (trình độ dân trí, khả năng phòng chống bệnh tật, bảo đảm môi trường...) kết quả này biểu hiện rất phong phú và thường không thể đo lường một cách chính xác. 1.1.2. Vai trò của dự án đầu tư Quá trình phát triển của các quốc gia trong những thập kỉ gần đây đã khẳng định vai trò của đầu tư theo dự án. Dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng doanh nghiệp, chủ đầu tư cũng như các nhà tài trợ vốn nói riêng. Sự thành công hay thất bại của dự án tác động ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực có liên quan của nền kinh tế. Do vậy, khi nghiên cứu luận văn cho rằng cần làm rõ vai trò dự án để từ đó thấy rõ tầm quan trọng của hiệu quả đầu tư theo dự án. Vai trò dự án đầu tư được thể hiện thông qua các khía cạnh cụ thể sau: Một là, đối với nhà đầu tư. Dự án đầu tư là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có nên tiến hành đầu tư hay không, vì sau khi soạn thảo nhà đầu tư sẽ thấy rõ những mặt thuận lợi, khó khăn mà dự án chịu tác động. Xác định được tiềm năng và triển vọng do dự án mang lại, hoạch định được chiến lược và cơ hội đầu tư của mình. Đối với nhà đầu tư, doanh nghiệp, DAĐT còn khẳng định vị thế, vai trò của họ trên thương trường, tạo lập hình ảnh và thương hiệu của nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế. Dự án đầu tư thành công sẽ mang lại hiệu quả về mặt kinh tế cho nhà đầu tư thông qua lợi nhuận thu được từ dự án, làm tăng năng lực về khả năng tài chính cho doanh nhiệp, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động cũng như đóng góp cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, dự án đầu tư còn là cơ sở cho các nhà đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện dự án và đồng thời là công cụ, cơ sở để các đối tác liên doanh, góp vốn quyết định đầu tư vào dự án, là căn cứ soạn thảo các hợp đồng cũng như giải quyết tranh chấp giữa các bên liên quan. Hai là, đối với Nhà nước. Căn cứ vào tiềm năng kinh tế xã hội của đất nước, của từng ngành và địa phương, trên cơ sở đúc kết những thành công cũng như thất bại của dự án đầu tư đã được triển khai và các dự án xây dựng hiện tại cũng như trong trương lai, nhà nước xác định quy hoạch phát triển phát triển ngành nghề có liên quan, hoạch định chính sách đầu tư, tạo hành lang pháp lý cho các dự án đầu tư, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong đầu tư. Dự án đầu tư tạo đà cho việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, góp phần cơ bản cho việc tăng trưởng GDP, tăng thu cho ngân sách nhà nước, nâng cao vị thế của từng địa phương, từng ngành trên cả nước và trên trường quốc tế, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Dự án đầu tư còn có vai trò khơi dậy và đánh thức các tiềm năng kinh tế của đất nước, biến các của cải vật chất của nước nhà nằm trong lòng đất, biển cả, rừng núi và những tri thức, sức lao động cần cù của con người trở thành sản phẩm hàng hoá DAĐT còn là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xét xét thẩm định để cho phép đầu tư hay không đầu tư (Đối với các dự án đầu tư theo quy định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đầu tư) và làm cơ sở cho chủ đầu tư phê duyệt dự án, quyết định đầu tư đúng hướng. Ba là, đối với các tổ chức tài trợ vốn. Các nhà tài trợ vốn, cụ thể như các tổ chức tài chính, tín dụng, DAĐT là căn cứ để các tổ chức này xem xét thẩm định, từ đó quyết định có nên tài trợ hay không và tài trợ đến mức độ nào, thời gian bao lâu cho DA, nhằm đảm bảo thu hồi được vốn, hạn chế tối đa rủi ro. Để đạt được mục tiêu đó, trên cơ sở các DAĐT, các nhà tài trợ, các tổ chức tín dụng sẽ xem xét thẩm định một cách kỹ lưỡng trên nhiều phương diện DA đặc biệt là về phương diện hiệu quả về mặt tài chính, khả năng trả nợ vốn vay. Bốn là, đối với xã hội. Dự án đầu tư có vai trò thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho bộ mặt xã hội phát triển, nâng cao dân trí, khai thác nhân tài, diện mạo nông thôn, vùng sâu, vùng xa nơi có dự án đầu tư được cải thiện, rút bớt sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, tận dựng tiềm năng lao động tại các địa phương, biến một bộ phận lao động trong nông nghiệp, nông thôn thành lao động công nghiệp, cải thiện môi sinh, môi trường, thay đổi văn hoá xã hội theo hướng tích cực, phát triển cơ sở hạ tầng như: Điện, đường, trường, trạm… 1.1.3. Cơ cấu nội dung của dự án đầu tư Như đã phân tích trên đây, dự án đầu tư là cơ sở để tiến hành công cuộc đầu tư nhằm đem lại những kết quả như mong đợi. Để đạt được điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến hành trình đầu tư. Do đó, nếu xem xét chi tiết các vấn đề có liên quan đến từng công cuộc đầu tư cụ thể sẽ rất khác nhau, song nhìn nhận một cách khái quát, cơ cấu nội dung của dự án đầu tư bao gồm các nội dung như sau: Một là, sự cần thiết phải đầu tư. Cơ sở chủ yếu để phân tích và khẳng định sự cần thiết phải đầu tư bao gồm: Cơ sở pháp lý; Tình hình kinh tế- xã hội- tự nhiên của địa phương nơi thực hiện dự án; Tình hình kinh tế- chính trị trong nước và quốc tế có liên quan đến lĩnh vực đầu tư; Khả năng, điều kiện của chủ đầu tư. Hai là, nghiên cứu về thị trường, bao gồm: Lựa chọn sản phẩm, xác định địa chỉ tiêu thụ trong nước theo vùng, địa phương và khách hàng; Xác định nhu cầu hiện tại và dự báo nhu cầu tương lai. Nếu sản phẩm xuất khẩu phải xác định rõ quốc gia và điều kiện xâm nhập thị trường của quốc gia đó. Ngoài ra, cần xem xét các yếu tố giá cả, khối lượng sản phẩm tiêu thụ và tổ chức màng lưới tiêu thụ... Ba là, nghiên cứu phương diện kĩ thuật- công nghệ. Trong nội dung này cần tập trung vào các vấn đề cơ bản như: Tính kinh tế của công nghệ lựa chọn, qui mô công suất, khả năng nhập thiết bị, và nguyên vật liệu cho từng laọi thiết bị đó... Bốn là, nghiên cứu về quản trị nhân lực. Cần xây dựng bộ máy tổ chức phù hợp với qui mô dự án, đảm bảo gọn, nhẹ có hiệu quả trên cơ sở xác định rõ số lượng và cơ cấu lao động, trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và quyền lợi của từng vị trí công tác. Năm là, nghiên cứu về phương diện tài chính. Có thể khẳng định rằng đây là nội dung quan trọng nhất của dự án, bởi xét đến cùng các quyết định về đầu tư của các doanh nghiệp đều xuất phát từ vấn đề tài chính. Vì vậy, trong nội dung này cần làm rõ các vấn đề: Xác định tổng vốn đầu tư và nguồn vốn; xác định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trên cơ sở dòng tiền của dự án. Sáu là, nghiên cứu lợi ích xã hội của dự án. Mặc dù mục tiêu chủ yếu của các doanh nghiệp khi thực hiện đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận, nhưng không thể không xem xét đến lợi ích xã hội, bởi điều này thường gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Những vấn đề cần tập trung khi xem xét về lợi ích xã hội bao gồm: Đóng góp của dự án cho Ngân sách, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tiết kiệm, tăng thu ngoại tệ... 1.2. Hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại 1.2.1. Quan niệm về hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển, tất yếu phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động để có hiệu quả. Hiểu một cách chung nhất, hiệu quả là mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu được với chi phí cần thiết nhằm đạt được kết quả đó. Vì vậy, khi xem xét hiệu quả cần phải gắn với đặc điểm, điều kiện và mục đích của từng hoạt động. Cho vay theo dự án là hoạt động tín dụng trung- dài hạn của NHTM với những đặc điểm cơ bản là cần một lượng vốn lớn, thời gian kéo dài (trên một năm), lãi suất cao và thường gặp nhiều rủi ro. Mặt khác, thông qua hoạt động cho vay theo dự án sẽ giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn được hiểu một cách cụ thể là vốn cho vay dự án trung và dài hạn của ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ… để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi vừa trang trải chi phí khác và có lợi nhuận. Mặt khác, do hoạt động cho vay DAĐT trung và dài hạn của NHTM là một hoạt động quan trọng, có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nên hiệu quả cần được nhìn nhận một cách toàn diện theo hai quan điểm có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, không thể tách rời: - Hiệu quả cho vay cao hay thấp thể hiện ở chỗ nó đã làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. - Hiệu quả cho vay còn thể hiện trực tiếp ở lợi nhuận của dự án đem lại cho doanh nghiệp và ngân hàng. Phân tích và đánh giá đúng hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn, xác định được nguyên nhân của những tồn tại trong lĩnh vực này sẽ giúp ngân hàng tìm được những biện pháp quản lý thích hợp. 1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn Từ quan niệm về hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung- dài hạn nêu trên cho thấy, hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả rất đa dạng, phong phú, bao gồm 3 giác độ: Hiệu quả đối với nền kinh tế; Hiệu quả đối với ngân hàng; Hiệu quả đối với khách hàng. Xuất phát từ mục đích nghiện cứu, luận văn tập trung đề cập đến đánh giá hiệu quả cho vay dự án trung- dài hạn đối với ngân hàng trên hai khía cạnh: Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng. 1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính DAĐT trung và dài hạn được đánh giá là hiệu quả khi nó mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải cho các chi phí liên quan và có lãi, hạn chế thấp nhất yếu tố rủi ro. Điều này không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà còn phụ thuộc vào khách hàng (những người vay vốn để đầu tư). Khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng cần phải xem xét và họ chính là một phần trong quan hệ tín dụng, góp phần vào sự thành công của ngân hàng. Một yêu cầu đối với hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng là phải đảm bảo bù đắp phí huy động vốn và phí cho vay, góp phần giảm phí tín dụng. Lợi ích của dự án cho vay là đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của vùng của ngành, địa phương và của cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả nhà đầu tư và ngân hàng cùng đạt được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình. Nó được biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính tiền tệ quốc gia, giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ của khách hàng, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư. Tuy nhiên khi đánh giá tiêu thức này cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể trong từng thời kỳ chứ không có một tiêu chuẩn đánh giá cụ thể cho từng trường hợp. Chẳng hạn các dự án cải tạo nâng cấp trang thiết bị, đổi mới công nghệ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng đồng thời lại thu hẹp công ăn việc làm của người lao động; hoặc những dự án hiệu quả hiện tại và tương lai không cao nhưng lại có ý nghĩa về mặt xã hội thì để đánh giá chính xác hiệu quả cho vay của dự án cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều mặt liên quan. Tóm lại, chỉ tiêu định tính về hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn rất khó xác định, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng và người quản lý cũng như các mối quan hệ với khách hàng. Các chỉ tiêu định tính là những căn cứ để đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT một cách khái quát. để có những kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến doanh nghiệp. Còn về vấn đề liên quan đến nền kinh tế thì rất khó có thể đo lường tác động cụ thể của từng chủ thể riêng biệt đến sự phát triển chung nên trong thực tế chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu định tính như trên để xem xét. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng Các chỉ tiêu định lượng khác với chỉ tiêu định tính ở chỗ các chỉ tiêu định lượng xác định được kết quả cụ thể, có thật sự hiệu quả hay không. Có nhiều loại chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn. Xuất phát từ đặc điểm của đầu tư và mục đích hoạt động đầu tư của ngân hàng, việc phân tích, đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn được thực hiện thông qua các chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu phân tích, đánh giá khả năng thanh toán Giá trị tài sản có lưu động Tỷ lệ lưu hoạt = ------------------------------------------- Giá trị tài sản nợ ngắn hạn và nợ đến hạn. Giá trị tài sản có lưu động - Giá trị tồn kho Tỷ lệ cấp thời = --------------------------------------------------- Giá trị tài sản nợ ngắn hạn Dự án được đánh giá là có khả năng thanh toán tốt nếu: Tỷ lệ lưu hoạt khoảng từ 2 - 4, tỷ lệ cấp thời vào khoảng 1 - Chỉ tiêu phản ánh khả năng trả nợ của dự án Được xác định bằng tỷ lệ giữa khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án và nghĩa vụ hoàn trái (Bao gồm nợ gốc và lãi phải trả hàng năm ). Dự án được đánh giá là có khả năng trả nợ tốt nếu tỷ lệ này bằng hoặc lớn hơn 2. - Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn vay Tổng dư nợ cho vay DAĐT trung dài hạn H = -------------------------------------------------------- x 100% Tổng nguồn vốn huy động trung dài hạn Trong đó: H là hiệu suất sử dụng vốn. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay DAĐT trung dài hạn của các NHTM, nó cho ta biết một đồng vốn huy động trung dài hạn thì được bao nhiêu đồng sử dụng để cho vay DAĐT trung dài hạn, phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay DAĐT trung dài hạn là bao nhiêu để từ đó có các giải pháp nhằm đưa ra cơ cấu nguồn vốn cho vay trung và dài hạn hợp lý đảm bảo về vốn. Dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn - Chỉ tiêu dư nợ: ----------------------------------------------------- x100% Tổng dư nợ Phản ánh dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn chiếm bao nhiêu % so với tổng dư nợ ngân hàng trong thời kỳ. Tỉ lệ này càng cao thể hiện sự chú ý phát triển cho vay DAĐT trung và dài hạn của ngân hàng, khả năng cho vay phát triển DAĐT của ngân hàng đối với nền kinh tế. Chỉ tiêu này tăng liên tục qua nhiều thời kỳ có thể nói dư nợ cho vay DAĐT trung dài hạn đang có xu hướng tăng, tuy nhiên khi đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn qua chỉ tiêu này cần phải xem xét cả số tương đối và số tuyệt đối. Thu nợ DAĐT trung và dài hạn - Chỉ tiêu quay vòng vốn: ----------------------------------------- Tổng dư nợ trung và dài hạn Phản ánh sự quay vòng vốn nhanh hay chậm của loại tín dụng này. Thông thường vòng quay càng lớn thể hiện việc thu hồi nợ càng tốt và ngược lại .Do đó cần xem xét trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác: Nợ quá hạn của DAĐT trung và dài hạn - Chỉ tiêu nợ quá hạn: ------------------------------------------------- Tổng dư nợ DAĐT trung và dài hạn Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn. Chỉ tiêu này cho biết tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn. Tỉ lệ này càng thấp chứng tỏ sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Chỉ tiêu này được đánh giá cả về số tuyệt đối và tương đối thì mới có thể kết luận chính xác về hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn. Tuy nhiên để xác định chính xác cần xem xét các nguyên nhân của nó. - Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn khó đòi của DAĐT trung và dài hạn -------------------------------------------------------------- x 100% Tổng dư nợ DAĐT trung và dài hạn Phản ánh tỉ lệ % nợ quá hạn khó đòi của toàn bộ hoạt động về cho vay DAĐT trung và dài hạn. Chỉ tiêu này cao thì việc thu hồi vốn của ngân hàng khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay, ngược lại, tỷ lệ này thấp thì hiệu quả cho vay mang lại sẽ cao. Có thể xem thêm chỉ tiêu: Nợ quá hạn khó đòi của DAĐT trung và dài hạn ----------------------------------------------------------- x 100% Tổng dư nợ quá hạn khó đòi Phản ánh hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn trong toàn bộ hoạt động tín dụng. - Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận do hoạt động cho vay DAĐT trung và dài hạn mang lại là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn mang lại. Không thể đánh giá hiệu quả cho vay cao nếu lợi nhuận mà nó mang lại thấp hoặc thậm chí không có và âm. Đánh giá lợi nhuận cho vay DAĐT trung dài hạn qua các chỉ tiêu: Lợi nhuận DAĐT trung và dài hạn mang lại Tỷ trọng về lợi nhuận = ----------------------------------------------------- x 100% Tổng lợi nhuận của ngân hàng Tỷ trọng này cho biết trong 1 đồng của ngân hàng làm ra có bao nhiêu là của DAĐT trung dài hạn, nó cho thấy vị trí của cho vay DAĐT trung dài hạn trong hoạt động ngân hàng. Chỉ tiêu: Lợi nhuận do cho vay DAĐT trung và dài hạn -------------------------------------------------------- x 100% Tổng dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn Phản ánh khả năng sinh lời của cho vay DAĐT trung và dài hạn. Tỉ lệ này càng lớn chứng tỏ hiệu quả cao. Chỉ tiêu: Lợi nhuận do cho vay DAĐT trung và dài hạn -------------------------------------------------------- x100% Tổng dư nợ tín dụng Phản ánh hiệu quả của cho vay DAĐT trung và dài hạn và vai trò của chúng trong toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu: Lợi nhuận cho vay DAĐT trung dài hạn Mức sinh lời trên tài sản = ------------------------------------------- x 100% Tổng tài sản Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời tổng tài sản của Ngân hàng đối với cho vay DAĐT trung và dài hạn. 1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn của ngân hàng thương mại Hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn là một khái niệm tổng hợp có liên quan đến nhiều chủ thể, nhiều lĩnh vực khác nhau và được đánh giá theo quan điểm của cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Hiệu quả cho vay dự án cao hay thấp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu người ta chia các nhân tố này thành ba nhóm: Nhóm nhân tố thuộc phía ngân hàng, nhóm nhân tố thuộc phía khách hàng và nhóm nhân tố thuộc môi trường. 1.2.3.1.Nhóm nhân tố thuộc ngân hàng Một là, quy mô và cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn trung và dài hạn của các NHTM. Bất kỳ ngân hàng nào muốn cho vay cũng phải có vốn đây là điều kiện trước tiên cần có nhưng chưa đủ, do yêu cầu phải bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay dành cho đầu tư dự án của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn trung và dài hạn( bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các nguồn vốn có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong thời gian dài). Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng lại chủ yếu là vốn ngắn hạn, thì không thể và cũng không nên tìm cách mở rộng cho vay dự án đầu tư. Các nguồn vốn mà ngân hàng có thể sử dụng để cho vay DAĐT bao gồm : Vốn tự có của ngân hàng ; vốn vay trung, dài hạn trong và ngoài nước; vốn uỷ thác và một bộ phận nhất định vốn vay ngắn hạn. Quy mô các nguồn vốn này là khác nhau nhưng chúng là một trong những nhân tố quyết định tới chất lượng cho vay dự án của ngân hàng. Hai là, năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định DAĐT trung và dài hạn, thẩm định khách hàng. Một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT của một ngân hàng là vốn và lãi vay được thanh toán đầy đủ và đúng hạn. Điều này sẽ không thể có được nếu như việc thực hiện dự án không đạt hiệu quả mong muốn, hoặc doanh nghiệp không có thiện chí, cố tình lừa đảo ngân hàng. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần phải thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông thường công tác thẩm định khách hàng được tiến hành trước và chủ yếu tập trung xem xét các mặt : khả năng quản lý, khả năng điều hành, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín nhiệm. Những khách hàng đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu do ngân hàng đề ra thì DAĐT sẽ được xem xết để ra quyết định có cho vay hay không. Vấn đề đặt ra ở đây là thủ tục và các điều kiện, tiêu chuẩn được sử dụng làm căn cứ để đánh giá khách hàng và DAĐT có hợp lý hay không. Nếu thủ tục quá rườm rà, các điều kiện tiêu chuẩn đặt ra quá khắt khe, không phù hợp với thức tế sẽ làm nản lòng khách hàng hoặc có rất ít khách hàng thoả mãn được yêu cầu của ngân hàng. Điều đó gây cản trở cho ngân hàng trong việc thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Ngược lại, nếu quy trình, điều kiện đặt ra không chặt chẽ có thể khiến ngân hàng mắc những sai lầm đáng tiếc trong việc ra quyết định cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động các ngân hàng phải không ngừng cải tiến nâng cao trình độ thẩm định của mình. Làm được như vậy sẽ giúp ngân hàng lựa chọn được chính xác những khách hàng thực sự đáng tin cậy, những dự án thực sự khả thi và đó là tiền đề để nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng. Ba là, năng lực giám sát và xử lý các tình huống cho vay DAĐT trung và dài hạn của ngân hàng. Cho dù công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng được thực hiện tốt, giúp cho ngân hàng lựa chọn được những khách hàng đáng tin cậy, những dự án khả thi có khả năng sinh lời cao thì đó cũng không phải là những điều kiện chắc chắn để hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn của ngân hàng đạt mức cao, do hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh trong thời gian dài luôn ẩn chứa trong nó những rủi ro không thể lường trước. Bản thân dự án trong quá trình thực hiện cũng sẽ nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. Chính vì vậy mà công tác giám sát và xử lý các tình hống tín dụng sau khi cho vay trở nên thực sự cần thiết. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào một số vấn đề như: sự tuân thủ việc sử dụng vốn đúng mục đích của khách hàng; tình hình hoạt động thực tế của dự án; tiến độ trả nợ; Quá trình sử dụng, bảo quản và biến động tài sản của doanh nghiệp; những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án. làm tốt công tác này sẽ giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực như sử dụng vốn sai mục đích, lừa đảo ngân hàng. Đồng thời qua việc luôn bám sát hoạt động của khách hàng thì ngân hàng có thể có biện pháp giúp đỡ khách hàng thông qua việc cung cấp những lời khuyên, những thông tin bổ ích, kịp thời, hoặc trực tiếp giúp đỡ khách hàng khi họ gặp khó khăn bằng cách gia hạn nợ, cho vay thêm nhằm giúp cho việc thực hiện dự án của khách hàng đạt hiệu quả cao nhất. Bốn là, chính sách tín dụng ngân hàng về cho vay trung và dài hạn. Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuếch trương hoặc hạn chế tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ cụ thể. Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn đến hiệu quả cho vay của ngân hàng nói chung và hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn nói riêng. Trước hết là về mặt quy mô tín dụng, nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong một thời kỳ nào đó hạn chế tín dụng trung và dài hạn cũng có nghĩa là quy mô cho vay DAĐT của ngân hàng đó sẽ có nguy cơ bị thu hẹp. Từ đó, việc cho vay DAĐT trung dài hạn của ngân hàng đang gặp vấn đề hay xét về quy mô, cho vay dự án đầu tư trung dài hạn của ngân hàng trong giai đoạn đó là chưa hiệu quả. Ngoài ra, chính sách tín dụng của ngân hàng còn bao gồm hàng loạt các vấn đề như: những quy định về điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng; lĩnh vực tài trợ; biện pháp bảo đảm tiền vay; quy trình quản lý tín dụng; lãi suất có tác dụng trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn của ngân hàng. Nếu các vấn đề đó được xây dựng một cách khoa học và chặt chẽ, kết hợp hài hoà lợi ích của ngân hàng, khách hàng và của toàn xã hội thì chắc chắn hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn được nâng lên và ngược lại. Năm là, thông tin tín dụng. Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, hoạt động ngân hàng cũng không loại trừ điều đó. Để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng đó; để làm tốt công tác giám sát khách hàng cần phải có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác, kịp thời và đầy đủ còn giúp ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều trên góp phần nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn của mỗi ngân hàng. Sáu là, công nghệ ngân hàng. Công nghệ ngân hàng và trang thiết bị kỹ thuật là một trong những nhân tố tác động đến hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn của các ngân hàng nhất là trong thời đại khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng hoạt động tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch và xây dựng chính sách tín dụng cũng đạt hiệu quả cao hơn. 1.2.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng Thứ nhất, nhu cầu đầu tư vào DAĐT trung và dài hạn. Bất kỳ một loại hàng hoá, dịch vụ nào muốn tiêu thụ được cần phải có người mua và có nhu cầu sử dụng chúng, tín dụng ngân hàng cũng vậy, ngân hàng không thể cho vay nếu khách hàng không có nhu cầu vay vốn. Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển luôn luôn cần thiết nhưng với từng NHTM thì không phải lúc nào nhu cầu ấy cũng hiện hữu. Số lượng khách hàng thường xuyên quan hệ với ngân hàng có hạn, khách hàng có thể vay trực tiếp bằng cách phát hành chứng khoán trên thị trường vốn và không phải lúc nào tình hình sản xuất kinh doanh của họ cũng tiến triển một cách khả quan. Chính vì vậy việc xác định khách hàng và nhu cầu mục tiêu của họ là rất cần thiết đối với hoạt động của từng ngân hàng trong lĩnh vực cho vay đầu tư phát triển. Thứ hai, khả năng của khách hàng trong việc đáp ứng yêu cầu, điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng DAĐT trung và dài hạn của ngân hàng. Để đảm bảo an toàn, tránh ._.rủi ro khi cho vay các NHTM thường đặt ra những điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng nhằm phân loại và lựa chọn những đối tượng khách hàng cụ thể. Chỉ những khách hàng đáp ứng đầy đủ các điều kiện của ngân hàng thì mới được xem xét cho vay. Những điều kiện, tiêu chuẩn này có thể rất khác nhau tuỳ theo đặc thù của từng ngân hàng cụ thể, xong nhìn chung các ngân hàng đều quan tâm đến những vấn đề sau: - Về mục đích sử dụng vốn: Phải hợp lý, hợp pháp và có hiệu quả. Nghĩa là vốn vay phải được sử dụng không trái pháp luật, phục vụ tốt nhất cho kế hoạch thực hiện dự án, đồng thời phải phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế chung của ngành, của địa phương và của cả nước. - Về năng lực tài chính: Điều này thể hiện ở tỷ trọng và quy mô vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án. Quy mô và tỷ trọng này càng cao càng cho thấy tiềm lực tài chính lớn mạnh của doanh nghiệp đó. Tỷ trọng vốn của doanh nghiệp tham gia vào dự án cao còn có tác dụng kích thích doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện dự án nhằm tránh những rủi ro cho chính họ cũng như cho ngân hàng. Thông thường, điều kiện tín dụng của ngân hàng sẽ quy định tỷ lệ vốn tự có tối thiểu của doanh nghiệp tham gia vào dự án tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. - Về năng lực sản xuất kinh doanh: Điều này thể hiện ở quy mô, năng suất, khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, giá cả và khả năng mở rộng sản xuất. Ngoài ra các ngân hàng cũng yêu cầu các doanh nghiệp phải hoạt động ổn định và có lãi trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc nếu có lỗ thì phải có phương án khắc phục khả thi. - Về tính khả thi của dự án: Dự án khả thi là dự án mà việc thực hiện nó là cần thiết, đáp ứng nhu cầu thị trường, nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế của ngành, của vùng, của Nhà nước. Đồng thời doanh nghiệp với các nguồn tài lực, vật lực hiện có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu trong việc thực hiện dự án. Yêu cầu có dự án khả thi là yêu cầu mang tính bắt buộc đối với mọi khách hàng vay vốn phục vụ đầu tư. - Về các biện pháp bảo đảm: Do đặc điểm các khoản vay phục vụ mục đích đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi ro nên thông thường các ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng của mình thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay nhằm bảo đảm cho ngân hàng có thể thu được nợ nếu rủi ro bất ngờ xảy ra. Hình thức bảo đảm thường là cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Tuy nhiên đây không phải là điều kiện bắt buộc có tính nguyên tắc. Trong trường hợp một số khách hàng có uy tín, có tiềm lực tài chính mạnh, có phương án khả thi theo đánh giá của ngân hàng thì ngân hàng có thể cho vay mà không cần tài sản bảo đảm. Rõ ràng khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng đặc biệt là hoạt động cho vay DAĐT trung dài hạn của ngân hàng. Bởi nếu đa số các khách hàng không đáp ứng được điều kiện của khách hàng thì có thể những yêu cầu của khách hàng là quá khắt khe, không thực tế hoặc do khả năng của khách hàng quá thấp thì ngân hàng không thể mở rộng cho vay trong khi vẫn muốn bảo đảm an toàn tín dụng. Thứ ba, khả năng của khách hàng trong việc quản lý, sử dụng vốn vay DAĐT trung và dài hạn. Khi cho vay chắc chắn các ngân hàng sẽ trông đợi khoản trả nợ sẽ thu được từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp cầm cố, điều này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của khách hàng. Nhiều yếu tố bảo đảm cho việc sử dụng vốn vay của khách hàng đạt hiệu quả cao trong đó có một số nhân tố giữ vai trò quyết định : - Vị thế, năng lực của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện ở uy tín, chất lượng sản phẩm, khả năng thích nghi của doanh nghiệp với nhu cầu thị trường, ở khối lượng sản phẩm và doanh thu mang lại. Vị thế, năng lực thị trường của doang nghiệp lớn có nghĩa là doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường và chiến thắng trong cạnh tranh. - Năng lực công nghệ của doanh nghiệp: Được tạo nên bởi trình độ trang thiết bị; trình độ tay nghệ, kiến thức của người lao động trong doanh nghiệp. Năng lực công nghệ cho phép doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả các dự án đòi hỏi trình độ kỹ thuật, công nghệ cao đồng thời dễ dàng hơn trong việc tiếp thu những công nghệ tiên tiến từ bên ngoài đưa vào. - Chất lượng nhân sự : Cũng giống như ngân hàng, chất lượng nhân sự luôn là nhân tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp với đội ngũ công nhân lành nghề, lại am hiểu khoa học kỹ thuật cộng với đội ngũ nhân sự có trình độ, có kinh nghiệm sẽ rất thuận lợi cho quá trình kinh doanh của mình. - Năng lực quản lý của doanh nghiệp: Bao gồm chất lượng nhân sự quản lý, sự phối kết hợp giữa các thành viên trong ban quản lý nhằm xây dựng một cơ cấu tổ chức hợp lý trong doanh nghiệp, cho phép tận dụng tối đa nguồn tài lực, vật lực của doanh nghiệp để đạt mục tiêu kinh doanh cao nhất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy biến động thì vai trò của công tác quản lý trong doanh nghiệp ngày càng quan trọng, bởi trong điều kiện đó đòi hỏi hoạt động của doanh nghiệp phải thường xuyên được điều chỉnh để thích ứng với những biến động của môi trường kinh doanh, của chính bản thân doanh nghiệp. - Đạo đức, thiện chí của khách hàng: Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khách hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng như cố tình sử dụng vốn sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng, hoặc cũng có thể là các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng như kinh doanh trái pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tất cả các hành vi đó đều mang lại rủi ro cho ngân hàng. 1.2.3.3. Nhóm nhân tố thuộc môi trường Một là, môi trường tự nhiên. Trên thực tế, môi trường tự nhiên không ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động đầu tư của khách hàng, đặc biệt các là các hoạt động phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các công trình xây dựng, cầu cống, cảng biển, những hoạt động đầu tư có liên quan đến nông nghiệp, ngư nghiệp…Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưỏng đến hiệu quả hoạt dộng đầu tư của khách hàng qua đó trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng. Hai là, môi trường kinh tế. Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo chiều hướng tương tự. Đặc biệt trong điều kiện quốc tế hoá mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng cũng như doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng( ví dụ: những rủi ro thay đổi tỷ giá, lãi suất, lạm phát làm thiệt hại cho thu nhập của ngân hàng) hoặc ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay DAĐT trung dài hạn. Ba là, môi trường chính trị xã hội. Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một tiêu chí quan trọng để ra quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các doanh nghiệp sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng sẽ tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn cho vay dự án cũng giảm sút theo. Bốn là, môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ, không ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh do đó hạn chế nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng. Năm là, sự quản lý vĩ mô của nhà nước và các cơ quan chức năng. Sự ổn định và hợp lý của các đường lối, chính sách, các quy định, thể lệ của nhà nước và các cơ quan chức năng sẽ tạo hành lang thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng cũng như doanh nghiệp, đó là tiền đề rất quan trọng để ngân hàng nâng cao hiệu quả cho vay của mình. Tóm lại với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng của các ngân hàng có liên quan đến nhiều đối tượng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó hiệu quả cho vay của ngân hàng nói chung và hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn nói riêng sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Có những nhân tố thuộc bản thân ngân hàng, có những nhân tố thuộc khách hàng, cũng có những nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của cả hai. Việc nghiên cứu nắm rõ vai trò và cơ chế tác động của từng nhân tố sẽ giúp các ngân hàng có biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn, phát huy tối đa vai trò đòn bẩy kinh tế của mình. 1.3. Kinh nghiệm về hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung, dài hạn của ngân hàng một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của Pháp Để đảm bảo an toàn tín dụng, Luật ngân hàng quy định các tổ chức tín dụng phải chấp hành các chỉ tiêu về quản lý, nhằm đảm bảo khả năng sẵn sàng chi trả và khả năng sẵn sàng thanh toán cũng như sự cân bằng về cơ cấu tài chính của họ. Đặc biệt là các tổ chức này phải luôn tuân thủ các hệ số bù đắp và phân tán rủi ro. Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên chấp hành các hệ số sau đây: Hệ số vốn tự có/toàn bộ tài sản có rủi ro nội bảng và ngoại bảng của tổ chức quy định là 8%. Hạn mức cho vay một khách hàng hay một tập đoàn tối đa không vượt quá 40% vốn tự có. Có hệ thống quản lý nội bộ NHTM, vừa để kiểm tra sự phù hợp của các nhiệm vụ và các quy tắc nội bộ với các điều kiện pháp quy hiện hành và tập quán nghề nghiệp, vừa giám sát chất lượng thông tin tài chính được phổ biến cho các bộ phận thừa hành và kế hoạch, cũng như cho các cấp giám sát hay cho những người thứ ba. Trong cho vay theo dự án, các NHTM tại Pháp đã chú trọng thẩm định phân tích đánh giá toàn diện dự án đầu tư, đặc biệt là mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả xã hội, nhờ đó hầu hết các dự án đều được triển khai suôn sẻ, ít rủi ro. 1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Tại Hàn Quốc, luật nước này quy định về các loại quỹ bảo đảm tín dụng khi đầu tư tín dụng nói chung và đầu tư dự án nói riêng. Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập năm 1976, nhằm cấp bảo đảm cho các khoản nợ đầu tư trung và dài hạn cho các công ty kinh doanh có vấn đề. Quỹ bảo đảm tín dụng công nghệ được thành lập năm 1987, nhằm mục đích cấp bảo đảm tín dụng cho các khoản nợ phát sinh do sử dụng vốn vay áp dụng công nghệ mới. Quỹ bảo lãnh tín dụng nhà ở được thành lập năm 1988, nhằm cấp bảo đảm tín dụng đối với các khoản nợ phát sinh từ việc đầu tư vốn xây dựng nhà ở. Về phương diện cho vay theo dự án, các NHTM tại Hàn Quốc đã coi trọng công tác thẩm định chủ đầu tư trên 5 phương diện: (1) Đặc điểm (Character): Sự trung thực của công ty/người vay và ban lãnh đạo; (2) Năng lực (Capacity): Khả năng tài chính để đáp ứng được các nghĩa vụ; (3) Vốn (Capital): Các nguồn lực tài chính của ty; (4) Điều kiện (Conditions): Sự nhậy cảm của công ty/ người vay để đối phó với các tình huống kinh tế bên ngoài; (5) Tài sản đảm bảo (Collateral). 1.3.3. Kinh nghiệm của Malaysia Tại Malaysia, việc đầu tư trung dài hạn để đầu tư dự án có bảo đảm nên là yêu cầu bắt buộc và Ngân hàng nên thực hiện nếu có thể, mặc dù việc bảo đảm chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Có rất nhiều loại bảo đảm và thế chấp mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Nguyên tắc chung là các tài sản càng dễ bán và có giá trị càng ổn định thì càng tốt. Mặt khác, trong thẩm định dự án, các NHTM đã quan tâm tập trung vào các vấn đề: (1) Thẩm định về khía cạnh kỹ thuật/phi tài chính; (2) Thẩm định thị trường đầu vào và đầu ra, bao gồm: Phân tích hàng hoá/ dịch vụ bán ra (sự phụ thuộc của sản phẩm, cân bằng hay phân tán); Thị phần; Cạnh tranh (sản phẩm dẫn đầu, theo sau, vị trí phụ); Tỷ lệ tăng trưởng thị trường; Phân phối; (3) Qui trình công nghệ, thiết kế và tối ưu hoá thiết kế về mặt qui mô; Đòi hỏi về trình độ công nghệ, tuổi thiết bị, chính sách duy tu và bảo dưỡng; Yêu cầu về thiết kế, qui mô để đảm bảo sản phẩm/dịch vụ có tính cạnh tranh cao trên thị trường; (4) Thẩm định ảnh hưởng đến môi trường, xã hội; (5) Các dự báo/giả định có liên quan. Việc thẩm định về mặt kỹ thuật phải rút ra được kết luận về tính khả thi về mặt kỹ thuật cũng như vòng đời kinh tế của dự án/chu kỳ kinh doanh/vòng đời sản phẩm. Việc thẩm định khía cạnh tài chính của dự án, thực chất là so sánh chi phí và thu nhập và người ta dùng kỹ thuật chiết khấu dòng tiền để tính các chỉ tiêu cơ bản như: + Giá trị hiện tại ròng (NPV). Đây là chỉ tiêu cho biết tổng qui mô hiện giá tiền lời của cả đời dự án. Khi xác định chỉ tiêu này phải xét đến yếu tố thời gian của tiền tệ. + Suất thu hồi nội bộ (IRR). Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng chịu đựng lớn nhất về mặt lãi suất của dự án. + Phân tích độ nhậy: Vì khi phân tích dự án phải dự vào các giả định cố dịnh về giá. Tuy nhiên, cần phân tích sau với các giả định trong các trường hợp có biến động về giá để tính khả năng sinh lời của dự án. 1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Qua nghiên cứu một số nét về tình hình quản lý tín dụng và đầu tư theo dự án tại NHTM những nước nói trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Một là, quản lý tín dụng tập trung quản lý tài sản có. Thông qua việc xếp loại các tài sản có và trích lập quỹ dự phòng, NHTM vừa giám sát được hiệu quả tín dụng, vừa có biện pháp kịp thời để bù đắp rủi ro mất vốn, đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Hai là, nâng cao trách nhiệm và bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả của các cơ quan chức năng trong việc thực thi các quy định về an toàn tiền gửi, an toàn trong đầu tư dự án của NHTM. Ba là, giao quyền tự chủ cho NHTM trong việc quy định biện pháp bảo đảm an toàn cho vay. Nhưng nguyên tắc cao nhất là dựa trên năng lực tài chính uy tín của khách hàng, nắm chắc tình hình kinh doanh của Công ty mẹ. Tài sản bảo đảm tiền vay phải dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết; coi trọng việc bảo lãnh của bên thứ ba có uy tín. Bốn là, phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng, góp phần hạn chế rủi ro đầu tư dự án. Năm là, hiệu quả cho vay phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của công tác thẩm định. Vì vậy, cần tách bạch giữa việc thẩm định công ty (chủ đầu tư) và thẩm định dự án, để có cách nhìn và đánh giá tổng thể dự án và việc triển khai thực hiện dự án, đảm bảo việc cho vay đạt hiệu quả. Tóm tắt chương 1 Chương 1 khái quát lý luận chung về DAĐT và cho vay DAĐT trung và dài hạn. Nội dung chương này đã hệ thống hoá một số lý luận cơ bản về DAĐT và cho vay DAĐT trung và dài hạn, tập trung đi sâu vào nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn. Trong đó, các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay DAĐT như: nhóm nhân tố thuộc ngân hàng, nhân tố thuộc về khách hàng, nhân tố môi trường được làm rõ. Ngoài ra, trong chương 1 cũng khát quát kinh nghiệm của các ngân hàng trên thế giới về hoạt động cho vay DAĐT trung và dài hạn và rút ra một số bài học kinh nghiệm đối với các NHTM Việt Nam trong lĩnh vực này. Chương 2 Thực trạng hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam 2.1. Khái quát về NHNo&PTNT Việt Nam 2.1.1. Lịch sử hình thành và mô hình tổ chức Ngày 26/03/1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 53/HĐBT thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam; đến 15/10/1996 đổi tên là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam, là một ngân hàng thương mại quốc doanh, kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, lĩnh vực phục vụ chủ yếu là nông nghiệp, nông thôn trên phạm vi toàn quốc. Thời gian đầu mới thành lập, NHNo&PTNT Việt Nam rất khó khăn, cơ sở vật chất và phương tiện kinh doanh thiếu và lạc hậu. Đội ngũ cán bộ công nhân viên được tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước cấp Huyện, Thị, Phòng Tín dụng nông nghiệp và Quỹ Tiết kiệm ở cấp tỉnh và Vụ Tín dụng Nông nghiệp Ngân hàng Trung ương và một số cán bộ ở nơi khác. Về cơ cấu tổ chức, NHNo&PTNT Việt Nam cũng như các ngân hàng thương mại quốc doanh khác, chủ yếu được tổ chức: Ngân hàng cấp Trung ương; Ngân hàng khu vực, Tỉnh, Thành phố; Ngân hàng Huyện, Thị xã. Quá trình hình thành và phát triển, mô hình tổ chức của NHNo&PTNT Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Việc đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức phù hợp với lộ trình cơ cấu lại hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Chính phủ; hệ thống thể lệ, chế độ qui trình nghiệp vụ, quy tắc điều hành đảm bảo tính kỷ cương kỷ luật, đảm bảo tính tập trung thống nhất, vừa phát huy được tính năng động sáng tạo của mỗi chi nhánh cơ sở, quá trình điều hành luôn lấy hiệu quả kinh tế và mục tiêu sinh lời làm thước đo chính trong kinh doanh. Về màng lưới tổ chức của NHNo & PTNT Việt Nam có hai văn phòng đại diện (Văn phòng đại diện Miền nam tại thành phố Hồ Chí Minh; Văn phòng đại diện Miền trung tại thành phố Đà Nẵng) và 107 đơn vị hạch toán phụ thuộc (Sở Giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam, các chi nhánh cấp 1), 09 công ty hạch toán độc lập (công ty Cho thuê tài chính 1; 2, công ty trách nhiệm hữu hạn Chứng khoán, công ty In thương mại và dịch vụ ngân hàng, công ty Du lịch thương mại Ngân hàng Nông nghiệp, công ty Vàng bạc đá quý thành phố Hồ Chí Minh, công ty Kinh doanh mỹ nghệ vàng bạc đá quý, công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản, công ty Kinh doanh lương thực và đầu tư phát triển), 3 đơn vị sự nghiệp (Trung tâm Công nghệ thông tin, Trung tâm Đào tạo, Trung tâm Thẻ) và có trên 1.000 chi nhánh khu vực, liên xã, ngân hàng lưu động, phòng giao dịch; với gần 30.000 cán bộ công nhân viên; có quan hệ đại lý với 650 ngân hàng trên toàn thế giới. NhNo & PTNT Việt Nam Phòng giao dịch Phòng giao dịch Phòng giao dịch Chi nhánh Cấp 1 Phòng giao dịch Sở giao dịch Văn phòng đại diện Chi nhánh (Theo quy chế) chế) Đơn vị sự nghiệp Công ty trực thuộc (Theo điều lệ) công ty) Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức của NHNo&PTNT Việt Nam 2.1.2. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHNo&PTNT Việt Nam Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận văn trình bày hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam là những hoạt động có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cho vay dự án trung - dài hạn. 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Ngay từ khi bước vào cơ chế thị trường, NHNo&PTNT Việt Nam đã chú trọng việc ổn định và tăng trưởng nguồn vốn, coi đó là nguồn động lực tạo đà cho các mục tiêu chiến lược của ngân hàng. NHNo&PTNT Việt Nam nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, áp dụng một chính sách khách hàng thực sự hấp dẫn cùng với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó lãi suất và điều kiện trả lãi được áp dụng một cách linh hoạt và đóng vai trò quan trọng trong chính sách huy động vốn: - Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm: Không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng nội tệ và ngoại tệ. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Nhà nước và của NHNo&PTNT Việt Nam. - Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn ủy thác của Chính phủ và các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. - Vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước theo quy định của Nhà nước và của NHNo&PTNT Việt Nam. Đồng thời với các hình thức huy động vốn nói trên, NHNo&PTNT Việt Nam cũng tăng cường mở rộng mạng lưới trong nước để mở rộng quy mô huy động vốn, kết quả là trong 7 năm gần đây, tổng nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam đã tăng trưởng không ngừng. Tính đến cuối năm 2007, tổng nguồn vốn của NHNo&PTNT Việt Nam đạt 295.047 tỷ đồng, tăng 136634 tỷ VND (86,25%) so với năm 2004. Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng nguồn vốn huy động qua các năm Đơn vị tính: Tỷ VND Nguồn: Báo cáo tăng trưởng nguồn vốn NHNo & PTNT Việt Nam Nguồn vốn dân cư tăng đáng kể, năm 2006, nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 107,991 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 46,2% tổng nguồn vốn. Năm 2007, trong tổng số nguồn vốn 295.047,8 tỷ VNĐ, tiền gửi dân cư đạt: 139.557,9 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 47,3%. Toàn hệ thống đã coi trọng công tác huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; đẩy mạnh công tác tiếp thị, thực hiện tốt hơn chính sách khách hàng; kiên trì với chủ trương khơi tăng nguồn vốn từ dân cư. Ngân hàng đã áp dụng một chính sách khách hàng thực sự hấp dẫn cùng với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó lãi suất và điều kiện trả lãi được áp dụng một cách linh hoạt và đóng vai trò quan trọng trong chính sách huy động vốn. Trên cơ sở tình hình huy động vốn nói chung, luận văn đi sâu xem xét tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Việt Nam huy động để cho vay DAĐT trung và dài hạn. Để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư trung và dài hạn, NHNo&PTNT Việt Nam đã tập trung và huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Trong các nguồn này thì vốn tự có là một trong những nguồn hình thành để các NHTM cho vay trung, dài hạn. Đây là nguồn vốn ổn định, an toàn nhất nhưng lại quá nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của toàn bộ nền kinh tế. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam cũng vậy, bước đầu thành lập NHNo&PTNT Việt Nam được cấp vốn điều lệ ban đầu 2.200 tỷ đồng, đến nay NHNo & PTNT Việt Nam có số tự có 19.647 tỷ (năm 2007). Đây là con số khá lớn nhưng không phải vốn tự có đó có thể tập trung toàn bộ để cho vay trung, dài hạn mà còn phải đảm bảo các chức năng hoạt động khác của ngân hàng, trong đó chỉ riêng việc mua sắm tài sản cố định đã có thể chiếm khá nhiều vốn tự có của ngân hàng. Vấn đề đặt ra là, hiện nay có những doanh nghiệp, công ty mà vốn hoạt động đã hàng nghìn tỷ đồng. Khi cho vay các doanh nghiệp này, khách hàng và ngân hàng vẫn phải chấp hành điều 79 của luật các TCTD là tổng dư nợ đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của NHTM. Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn theo thời gian Đơn vị tính: tỷ VND Chỉ tiêu Năm 2005 Tỷ trọng so với tổng nguồn Năm 2006 Tỷ trọng so với tổng nguồn Năm 2007 Tỷ trọng so với tổng nguồn Tổng nguồn 190.657,2 233.900,5 295.047,8 - Không kỳ hạn và dưới 12 tháng 116.221,5 61% 131.133 56% 152.971,2 51,8% Từ 12 tháng trở lên 74.435,7 39% 102.767,5 44% 142.076,6 48,2% Nguồn: Báo cáo tăng trưởng nguồn vốn NHNo & PTNT Việt Nam Ba năm gần đây NHNo&PTNT Việt Nam luôn có tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức trên 39% và tăng đều qua các năm: từ 39% (năm 2005) lên 44% (năm 2006), 48,2% (năm 2007). Điều này cho thấy khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Việt Nam và sự tin tưởng của khách hàng gửi tiền. Tiền gửi không kỳ hạn và dưới 12 tháng giảm dần, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng làm cho cơ cấu nguồn vốn và lãi suất ổn định giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro về lãi suất, đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc cơ cấu vốn sử dụng để cho vay DAĐT trung và dài hạn. 2.1.2.2. Hoạt động cho vay Phát huy vai trò chủ đạo của NHNo&PTNT Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, Ngân hàng đã thực hiện các hình thức sau: - Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đối với khách hàng, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, dịch vụ, đầu tư, phát triển đời sống. - Tài trợ vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. - Thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp cho vay các dự án theo chức năng nhiệm vụ và của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Cùng với việc tập trung toàn lực vào việc khắc phục những tồn tại trong công tác tín dụng, hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam đã bắt đầu có sự tăng trưởng theo một định hướng đầu tư mới, đó là đầu tư trọng điểm cho các dự án lớn, các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được NHNo&PTNT Việt Nam, thực hiện phương châm đầu tư thận trọng, có hiệu quả về mặt kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đã được định hướng trong chính sách tín dụng của chính sách tài chính quốc gia trong từng thời kỳ. Vốn tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, các ngành sản xuất, chế biến, kinh doanh hàng hoá nhập khẩu. Luận văn sẽ đi phân tích tính hình dư nợ nói chung, theo thành phần kinh tế, theo ngành nghề và vùng kinh tế. Về tổng dư nợ. Hoạt động cho vay nói chung của NHNo&PTNT Việt Nam trong những năm qua không ngừng tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có thể xem xét vấn đề này qua bảng số liệu sau: Bảng 2.2: Dư nợ tín dụng Đơn vị: tỷ VND Năm 2004 2005 2006 2007 Dư nợ tín dụng 142.251 161.106 181.679,5 242.180 Mức tăng - 18.855 20.573 60.501 Tốc độ tăng (%) - 13,25 12,77 33,3 Nguồn: Báo cáo tài chính NHNo&PTNT Việt Nam Năm 2007, dư nợ tín dụng tăng lên đáng kể so với tổng dư nợ tín dụng năm 2004 (99.929 tỷ VND, tương đương 70,25%). Nguồn vốn tăng, dư nợ tín dụng tăng theo tỷ lệ hợp lý: Năm 2007, nguồn vốn huy động được 295.047 tỷ đồng thì dư nợ tín dụng là 242.180 tỷ đồng, chiếm 82% nguồn vốn huy động. Cơ cấu khách hàng vay theo thành phần kinh tế của NHNo&PTNT Việt Nam như sau: Bảng 2.3: Cơ cấu khách hàng theo thành phần kinh tế Đơn vị tính: %. Chỉ tiêu Năm 2005 % tăng, giảm (+,-) so với năm 2004 Năm 2006 % tăng, giảm (+,-) so với năm 2005 Năm 2007 %tăng, giảm (+,-) so với năm 2006 DNNN 11,1 -24,4% 11,1 0% 8 - 27,9% DNNQD 29,2 +56,6% 31,7 +8,6% 36,3 +14,5% Hộ sản xuất 59,4 +8,8% 56,9 - 4,2% 55,4 - 2,5% Hợp tác xã 0,3 -19,2% 0,3 0% 0,3 0% Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo&PTNT Việt Nam Biểu đồ 2.2: Cơ cấu khách hàng theo thành phần kinh tế Đơn vị tính: % Nền khách hàng của NHNo&PTNT Việt Nam hiện nay có thể nói là không thực sự đa dạng, chủ yếu tập trung vào các hộ sản xuất hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ. NHNo&PTNT Việt Nam đã và đang khẳng định nông nghiệp nông thôn là thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng cho vay khu vực kinh tế tư nhân. Trong tổng dư nợ, toàn bộ khu vực nông thôn chiếm trung bình hơn 70% dư nợ cho vay, hộ sản xuất chiếm 55,5% tổng dư nợ. Đến cuối năm 2006, ngân hàng đã đầu tư cho hơn 9 triệu hộ với số vốn xấp xỉ 105 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57% tổng dư nợ. Tuy nhiên, sang năm 2007, tỷ trọng này giảm xuống còn 55,5% tổng dư nợ. Cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh từ 31,7% năm 2006 lên 36,3% năm 2007. Khách hàng doanh nghiệp ngoài quốc doanh của NHNo&PTNT Việt Nam chủ yếu thuộc những ngành kinh tế mũi nhọn. Những khách hàng này thường sử dụng những dịch vụ khép kín cho ngân hàng và thời gian vay vốn của họ thường đa dạng bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Năm 2007, tỷ trọng cho vay DNNN giảm mạnh từ 11,1% năm 2006 xuống còn 0,8% năm 2007. Nguyên nhân do các chi nhánh trong hệ thống thấy tiềm ẩn rủi ro trong cho vay đối với DNNN khi các doanh nghiệp này thuộc diện cổ phần hoá, giao, bán, khoán. Bảng 2.4: Cơ cấu khách hàng tổ chức theo ngành nghề Ngành nghề Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tỷ lệ % trên tổng dư nợ % tăng, giảm (+,-) so năm 2004 Tỷ lệ % trên tổng dư nợ % tăng, giảm (+,-) so năm 2005 Tỷ lệ % trên tổng dư nợ % tăng, giảm (+,-) so năm 2006 Nông lâm nghiệp và thuỷ sản 50,6 +12,7% 30 -40,7% 23 - 23,3% Sản xuất và chế biến 12,7 +11,6% 10 -21,2% 10 0% Thương mại và dịch vụ 20,6 +53,3% 24 +16,5% 30 +25% Xây dựng 12,6 +64,7% 15 +19% 16 +6,6% Ngành khác 3,5 -67,5% 21 +500% 21 0% Tổng cộng 100 100 100 Nguồn: Báo cáo tài chính các năm NHNo&PTNT Việt Nam. Biểu đồ 2.3: Cơ cấu khách hàng tổ chức theo ngành nghề Phân theo các lĩnh vực của nền kinh tế có năm nhóm chính: Nông lâm nghiệp và thủy sản; Sản xuất và chế biến; Thương mại và dịch vụ; Xây dựng; Các ngành khác. NHNo&PTNT Việt Nam cho vay các ngành dịch vụ trung dài hạn chủ yếu tập trung vào cho vay kinh doanh bất động sản, khách sạn, nhà hàng... Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ nước ta còn có điều kiện phát triển, những năm qua thì tỷ lệ cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam đối với lĩnh vực này cao: năm 2005 tăng 53,3% so với năm 2004, tỷ lệ này hợp lý do NHNo&PTNT Việt Nam là một trong các ngân hàng Thương mại quốc doanh hoạt động hiệu quả và có mạng lưới các chi nhánh lớn nhất ở Việt Nam nên việc nhạy cảm với tình hình kinh tế nói chung là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, có thể thấy rằng cùng với sự tăng lên tỷ trọng của ngành thương mại và dịch vụ trong cơ cấu khách hàng tổ chức theo ngành nghề thì tỷ lệ cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam đối với nhóm ngành Nông lâm nghiệp và thuỷ sản cũng đã giảm từ 30% (năm 2006) xuống còn 23% (năm 2007). Ngành sản xuất và chế biến cũng giảm dần tỷ trọng trong tổng dư nợ. Đối với khu vực ngành xây dựng, tỷ trọng cho vay trong tổng dư nợ tăng đều qua các năm nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ là do sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các ngân hàng khác và một phần do định hướng trong chính sách của Nhà nước ta đối với các ngân hàng thương mại. Cơ cấu khách hàng theo vùng kinh tế được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.5: Cơ cấu khách hàng theo vùng kinh tế năm 2007 Đơn vị: tỷ đồng Khu vực Số dư Tăng so đầu năm Tốc độ tăng trưởng Khu vực miền núi cao – Biên giới 8.140 1.572 23,9% Khu vực Trung du Bắc bộ 17.036 3.595 26,7% Khu vực thành phố Hà Nội 29.176 8.610 41,8% Khu vực đồng bằng sông Hồng 31.155 7.563 32,1% Khu vực Khu 4 cũ 16.558 3.107 23,1% Khu vực Duyên hải Miền trung 17.037 2.957 21,0% Khu vực Tây Nguyên 17.104 4.707 38,0% Khu vực thành phố Hồ Chí Minh 46.676 17.821 61,8% Khu vực Đông Nam Bộ 23.104 4.795 26,2% Khu vực Tây Nam Bộ 36.196 5.775 19,0._. nghiệp, các doanh nghiệp thường muốn sử dụng vốn tự có ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất vì nếu doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu. Trong khi đó doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt vì chỉ bỏ ra một số vốn ít nhưng lại được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt, khi hoạt động của doanh nghiệp đang phát triển lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, thì doanh nghiệp càng vay càng hiệu quả và khi đó rủi ro đến với người cho vay càng lớn. Ngân hàng luôn muốn mở rộng cho vay nhất là với các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, song, nếu cho vay quá nhiều ngân hàng sẽ trở thành người đỡ đòn rủi ro cho doanh nghiệp. Do đó khi phân tích ngân hàng cần quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Ngân hàng cần xem xét đến các tỷ số sau: Tỷ số nợ (Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của DN) hoặc Tỷ số tự tài trợ (Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn của DN): Tỷ số này cho biết tổng số vốn của doanh nghiệp chiếm bao nhiêu trong tổng số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng lớn càng tốt, càng có sự bảo đảm cao cho các khoản nợ, nhất là khi doanh nghiệp bị đặt vào tình trạng thanh lý tài sản thì vốn tự có này để bù đắp phần thiếu hụt phát sinh khi chuyển nhượng tài sản. Tỷ số nợ dài hạn (Số nợ dài hạn/Nguồn vốn chủ sở hữu): Tỷ số này cao phản ánh doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì an toàn trong đầu tư càng giảm. Theo kinh nghiệm ở một số nước, người cho vay chỉ chấp nhận tỷ số này < 1. Nghĩa là tỷ số này càng gần 1 doanh nghiệp càng ít khả năng được vay vốn dài hạn. Tỷ số tài trợ TSCĐ ( Nguồn vốn dài hạn/Giá trị TSCĐ): Tỷ số này luôn phải lớn hơn 1 mới mang lại cho doanh nghiệp sự ổn định và an toàn tài chính. Tỷ số này nhỏ hơn 1 có nghĩa doanh nghiệp đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp không bình thường, việc cho DN vay vốn đầu tư lúc này là quá mạo hiểm. Hai là, xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Khả năng sinh lời là yếu tố chính đo độ bền kinh tế và tài chính của doanh nghiệp, là điều kiện cho sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Không có sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển, đồng thời khả năng sinh lời là một trong các nguồn trả nợ chính cho các khoản vay dài hạn. Vì vậy ngân hàng luôn quan tâm đến chỉ tiêu này. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu. Có thể xem 3 chỉ tiêu chính sau: Tỷ suất lợi nhuận = Lợi tức sau thuế Doanh thu Doanh thu thuần Tỷ suất lợi nhuận = Lợi tức sau thuế + Lãi phải trả về tiền vay Tổng tài sản Tổng tài sản Tỷ lệ sinh lời của tổng tài sản: = Lợi tức sau thuế + Trả lãi tiền vay Tổng tài sản Nếu như tỷ suất lợi nhuận doanh thu đo lường hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp thì tỷ suát lợi nhuận tổng tài sản đo lường thành tựu của doanh nghiệp trong sử dụng tài sản để sáng tạo ra thu nhập một cách độc lập với những hoạt động tài trợ cho những tài sản đó, còn tỷ lệ sinh lời của vốn thường xuyên cho thấy khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thì rủi ro mất khả năng chi trả càng thấp. Để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn có thể được xem xét qua các tỷ số sau: Khả năng hoàn trả nợ vay = Vay dài hạn. Khả năng tự tài trợ. Vì nguồn vốn vốn trả nợ dài hạn là khả năng tự tài trợ (Lợi nhuận + khấu hao). Tỷ số này nêu lên thời hạn lý thuyết tối thiểu cần thiết để hoàn trả toàn bộ vốn vay. Tỷ số này càng nhỏ càng tốt. Khả năng thanh toán lãi = Lãi tức trước thuế + Lãi phải trả của khoản nợ dài hạn Lãi phải trả của khoản nợ dài hạn. Tỷ số này thường được tính để đánh giá độ an toàn của việc hoàn trả nợ. Số tiền thu được trước khi trả lãi lợi tức và các khoản tiền lãi cố định là số tiền để sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay dài hạn. Thông thường, khả năng thanh toán lãi được xem là an toàn, hợp lý nếu doanh nghiệp tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm. Ngân hàng sử dụng các báo cáo tài chính và ngân quỹ để ước lượng nhu cầu vốn của người xin vay, đánh giá khả năng trả nợ, ước lượng thiệt hại có thể có nếu người vay không hoàn trả và quyết định các điều khoản tài trợ nếu cho vay. Các nhân viên tín dụng phải tránh lệ thuộc quá nặng vào các thông tin trong bảng quyết toán lịch sử vì tình hình tài chính của một doanh nghiệp có thể thay đổi. Thông tin từ các bản báo cáo lợi tức trước đó cũng phải được sử dụng thận trọng vì số liệu lợi nhuận quá khứ chưa hẳn là cơ sở đáng tin cậy cho dự báo tương lai. Đây không phải là sự phủ nhận tầm quan trọng của việc đánh giá tình hình tài chính hiện nay của người vay và tầm quan trọng cuả việc kiểm tra mức độ và chiều hướng của các lợi tức trong quá khứ, nhưng nhân viên tín dụng cần thiết phải biết tình hình tài chính, khả năng sinh lợi và các nhu cầu ngân quỹ của người vay sẽ như thế nào trong tương lai. Giá trị chủ yếu của các báo cáo tài chính lịch sử là giúp đánh gía tính hợp lý của các dự báo về ngân quỹ và lợi nhuận của người vay. Tất cả những gì ở trên mà cán bộ có thể nắm bắt được sẽ quyết định một phần một phần rất quan trọng để có thể quyết định có cho khách hàng vay hay không. Nhưng việc đánh giá trên chỉ có ý nghĩa khi các báo cáo tài chính là trung thực, điều này đòi hỏi NHNo & PTNT Việt Nam phải yêu cầu ở họ một sự trung thực khi đi vay nhưng phải đồng thời kết hợp thêm các báo cáo tài chính họ đưa ra là các báo cáo tài chính phải được cơ quan kiểm toán xác nhận là trung thực. Ngoài ra đối với những báo cáo tài chính có thể không được kiểm toán ví dụ các báo cáo tài chính của nhiều công ty nhỏ, thì chúng phải được đánh giá cẩn thận với một mức độ nghi ngờ. Thông thường, cần xem xét các báo cáo tài chính của các tháng trước, kết hợp với các báo cáo tài chính tài chính tạm thời chưa được kiểm toán. Trong trường hợp đó nhân viên tín dụng nên xem xét cẩn thận chất lượng của các báo cáo tài chính tạm thời, ngay cả những báo cáo kiểm toán cũng phải được sử dụng một cách thận trọng. Cần nhiều cách đánh giá khác nhau trong việc quyết định lại giá trị kế toán của các tích sản của một doanh nghiệp và khối lượng lợi nhuận của nó. Người cho vay quan tâm đến mức độ bảo toàn của các chỉ tiêu này. Việc một doanh nghiệp đang tuân theo các nguyên tắc kế toán thông thường được chấp nhận cũng không được xem là đầy đủ, do các nguyên tắc đó thường đem lại nhiều quyền hạn trong việc công nhận lợi tức và chi phí. Nếu phải dựa trên các dự báo về ngân quỹ và các báo cáo tài chính tạm thời của người vay, nhân viên tín dụng phải xem xét thận trọng các giả thuyết quan trọng về lợi nhuận, chẳng hạn như khối lượng hàng bán, giá bán, mức lương, các chi phí bán hàng và quản trị. Ngoài ra, khi không đủ căn cứ để có thể nhận xét hoàn hảo về khách hàng vay vốn, hoặc nhu cầu vốn lớn đối với dự án khả thi, mà nếu cho vay đủ nhu cầu vốn thì sẽ vi phạm quy chế. Trong trường hợp này, nên áp dụng giải pháp hạn mức tín dụng hoặc phương án cho vay đồng tài trợ. Mức cho vay thấp sẽ giảm mức rủi ro, tuy nhiên trong trường hợp nhiều TCTD cùng tài trợ thì rủi ro giảm thấp, nhưng theo đó lợi nhuận thu được bị hạn chế đối với những dự án chất lượng cao. Mặt khác nếu hạ thấp mức cho vay thì việc đầu tư của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng hoặc bị phá vỡ, khi đó rủi ro có thể ở mức cao hơn nhiều. Đây là một lĩnh vực mang tính nghệ thuật trong hoạt động kinh doanh của TCTD, mà các nhà đầu tư cần có sự lựa chọn chuẩn xác. Trên đây là một số chỉ tiêu tính toán nhưng cũng như khi ta thẩm định tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là tính chính xác của số liệu. Cái khó ở đây là cơ sở của số liệu lấy từ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhưng báo cáo chỉ phản ánh các sự kiện tài chính trong quá khứ trong khi ta lại quan tâm nhiều hơn đến tình hình tài chính tương lai của doanh nghiệp. Đó là chưa nói đến một số doanh nghiệp còn vì lợi ích riêng của mình mà đưa những thông tin sai vào báo cáo. Do vậy để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi trình độ của cán bộ tín dụng phải được nâng cao rất nhiều. 3.2.4. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng Con người luôn là nhân tố quyết định trong mọi lĩnh vực, đặc biệt đối với lĩnh vực tín dụng, cán bộ tín dụng là người phải chịu trách nhiệm trong việc đưa ra những quyết định cho vay, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khoản vay. Do điều kiện nền kinh tế nước ta mới chuyển hướng từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chưa có điều kiện như các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển, họ đã dày dạn kinh nghiệm trong cho vay trung, dài hạn. Vì vậy, các cán bộ tín dụng nước ta thực hiện cho vay trung, dài hạn vẫn phải phấn đấu mọi mặt để có thể quyết định cho vay các dự án một cách hiệu quả nhất. NHNo & PTNT Việt Nam cần có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ tín dụng qua các đợt học tập trung ngắn hạn về từng chuyên đề cụ thể như biết cách thu thập và xử lý thông tin, thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, các văn bản luật liên quan đến ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Muốn hiểu được khách hàng thì không thể chỉ thông qua cách báo cáo hay trình bày của doanh nghiệp mà cán bộ tín dụng phải nắm bắt được khả năng, nhu cầu thực tại và trong tương lai của khách hàng một cách khách quan Cán bộ tín dụng phải sẵn sàng và có đủ khả năng tách khỏi môi trường ngân hàng quen thuộc của mình để đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay và năng lực quản lý của người vay. Đặc biệt, tăng cường đào tạo, đào tạo lại các cán bộ quản lý, viên chức trong cho các chi nhánh của ngân hàng ở các tỉnh miền núi. Đây là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần nắm vững chủ trương, chính sách phát triển của ngành, địa phương có liên quan đến dự án, tình hình kinh tế xã hội của đất nước và thế giới có liên quan, tình hình thị trường sản phẩm của doanh nghiệp, am hiểu sâu sắc tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bám sát các định hướng của nhà nước về chiến lược phát triển của nền kinh tế, tiếp cận với các dự án, các trương trình kinh tế khả thi, chủ động tìm đến với các khách hàng đang có nhu cầu về vốn; có khả năng dự báo xu hướng phát triển, hoặc phát hiện những rủi ro tiềm ẩn từ khoản vay, từ chính doanh nghiệp, từ đó tham mưu kịp thời cho lãnh đạo hướng xử lý cụ thể. Về đạo đức, cán bộ tín dụng cần phải có đức tính trung thực, bản lĩnh, có tinh thần tập thể và lợi ích của Ngân hàng là yếu tố quyết định đến sự thành công của mỗi Ngân hàng. Ngân hàng nên tiến hành đào tạo và đào tạo lại, để tránh tình trạng lạc hậu về nghiệp vụ, Ngân hàng thường xuyên cử cán bộ dự các lớp học, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ ngắn ngày do NHNo & PTNT Việt Nam mở. Trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công việc có thể mời và thuê chuyên gia, cán bộ kỹ thuật về giảng cho cán bộ Ngân hàng; Đào tạo cho các cán bộ tín dụng về ngoại ngữ, tin học, pháp luật... để có trình độ nhất định phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, việc cập nhật thông tin mới là vô cùng quan trọng, nó là cơ sở ban đầu cho mọi phán quyết tín dụng; Cán bộ tín dụng cũng cần có những hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, pháp luật để tránh tình trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ doanh nghiệp chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ Ngân hàng: Nền kinh tế rất đa dạng và phức tạp, số lượng cán bộ Ngân hàng thì hạn chế không thể dàn trải trên mọi lĩnh vực. Vì vậy, Ngân hàng nên nên tổ chức từng nhóm cán bộ chuyên phụ trách về từng lĩnh vực. Việc chuyên môn hoá sẽ giúp cho cán bộ tín dụng tránh khỏi tình trạng quá tải do phải ôm nhiều lĩnh vực, có thời gian đi sâu vào từng loại hình cụ thể. Nhờ đó mà khi thẩm định dự án sẽ có sự đánh giá chính xác hơn. Ngoài ra, ngân hàng cần có chính sách, chế độ cho các cán bộ làm công tác tín dụng. Do tính chất phức tạp của công tác cho vay, nên cần sớm nghiên cứu ban hành cơ chế về chính sách, chế độ, thể lệ làm việc, nghĩa vụ quyền lợi của đội ngũ cán bộ tín dụng, có chính sách ưu đãi với cán bộ tín dụng về thu nhập, phương tiện đi lại đảm bảo an toàn. Ngân hàng đảm bảo thu nhập phải tương xứng với trách nhiệm công việc, phân phối thu nhập căn cứ vào chất lượng công việc, hạn chế tình trạng lạm dụng quyền hạn để cấp những khoản tín dụng rủi ro. Thường xuyên quan tâm tới việc động viên, khen thưởng với những cán bộ tín dụng giỏi để có cơ sở đề nghị xét chọn, khen thưởng hàng năm. Có chính sách khuyến khích thoả đáng mới đảm bảo được hiệu quả tín dụng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đạt hiệu quả cao. 3.2.5. Phát triển hệ thống thu thập thông tin Trong thời đại ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - tin học, con người có thể khai thác được lượng thông tin vô tận trong thời gian gần như tức thời để phục vụ, hỗ trợ cho mục tiêu hoạt động của mình. Hiệu quả cho vay DAĐT trung dài hạn chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi thông tin và chất lượng thu thập, xử lý thông tin. Nếu Ngân hàng không có đầy đủ và chính xác thông tin để thẩm định trước khi cho vay thì rủi ro không thu hồi được vốn đúng hạn hoặc mất vốn sẽ rất lớn. Nếu không có sự đầu tư quan tâm thích đáng đến công nghệ đầu tư thông tin - tin học thì ngân hàng sẽ rất bất lợi trong cạnh tranh khi môi trường kinh doanh ngày càng được mở rộng và trở nên thống nhất. Những thông tin cần phải thu thập phục vụ cho việc thẩm định cho vay DAĐT trung dài hạn bao gồm: Thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, chủ đầu tư; Quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng, chất lượng tín dụng, nợ vay phải cơ cấu lại, nợ quá hạn, nợ vay theo nhóm khách hàng, ngành hàng; Thông tin về tính năng, đặc điểm hoạt động của máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất để đánh giá công suất, sản lượng bảo đảm cho doanh thu dự án cũng như góp phần thẩm định chi phí sản xuất kinh doanh; Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, đối thủ cạnh tranh, thị trường nguyên vật liệu... để thẩm định giá bán ra của sản phẩm và chi phí sản xuất kinh doanh; Thông tin có tính bao quát như chính sách đầu tư, chính sách thuế nhập khẩu... Những năm gần đây, ban lãnh đạo NHNo & PTNT Việt Nam đã giành sự quan tâm đặc biệt cho đầu tư, ứng dụng tin học phục vụ hoạt động của ngành và coi đây là một trong những biện pháp đột phá để tăng khả năng cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và ngày càng khẳng định vị thế của ngân hàng. Tuy nhiên ứng dụng tin học mới chủ yếu để phục vụ công tác thanh toán, kế toán, lưu trữ số liệu hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà chưa quan tâm đúng mức đến những thông tin phục vụ tín dụng. Như trên đã nêu tầm quan trọng của thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp mà trong đó thông tin chính xác là nền tảng của mọi phân tích, đánh giá. Trong tình hình trên việc ngân hàng tự xây dựng cho mình một hệ thống thông tin quản lý, lưu trữ và dự báo riêng là rất cần thiết. Điều đó cho phép ngân hàng có được nguồn thông tin tin cậy, nhanh chóng, do tự mình xây dựng, kết hợp các thông tin nhiều chiều khác để trợ giúp, phục vụ kịp thời yêu cầu công việc. Đây thực chất là hoạt động tổng kết trên diện rộng quá trình thực hiện đầu tư. Tăng cường năng lực công nghệ cả về trang thiết bị và các chương trình tiện ích, các chương trình phần mềm ứng dụng, nhất là các chương trình cung cấp thông tin phục vụ cho công tác tín dụng ở những chi nhánh lớn trên những địa bàn mà có cạnh tranh gay gắt. NHNo & PTNT Việt Nam cần củng cố và nâng cao hơn nữa vai trò hoạt động của Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro, phát hành đều đặn hàng tháng những thông tin cảnh báo cho các chi nhánh biết để phòng ngừa do hiện nay có nhiều TCTD cùng đầu tư cho một khách hàng nhưng lại thiếu thông tin về khách hàng đó tạo nên rủi ro tiềm ẩn rất lớn. 3.2.6. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra kiểm soát Thanh tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng giúp NHNo & PTNT Việt Nam ngăn chặn, phát hiện và xử lý tồn tại, yếu kém trong hoạt động tín dụng, từ đó nâng cao hiệu quả tín dụng. Giải pháp nâng cao vai trò của công tác thanh tra kiểm soát cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: Xây dựng và thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch kiểm tra theo định kỳ và đột xuất đối với hoạt động tín dụng. Cần xác định mục tiêu chính phải đạt được qua việc triển khai kế hoạch thanh tra kiểm soát Xây dựng nội dung kiểm tra toàn diện, có cơ sở khoa học để nội dung kiểm tra toàn diện, tập trung vào những vấn đề chính như: chế độ chính sách tín dụng, chấp hành quy trình đầu tư, các quy định về bảo đảm tiền vay, các biện pháp xử lý nợ xấu như gia hạn nợ, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, chấp hành chế độ thông tin báo cáo tín dụng… Kiểm tra việc chấp hành và triển khai thực hiện sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên, triển khai các chính sách và định hướng hoạt động tín dụng. Phát hiện các sai phạm, tồn tại, yếu kém và có biện pháp xử lý phù hợp, có hiệu quả. Kiên quyết sửa chữa, khắc phục các sai sót đã được phát hiện, rút kinh nghiệm, ngăn ngừa, hạn chế các sai sót phát sinh, đặc biệt không để tái diễn các sai sót đã được phát hiện. Trường hợp cá nhân, đơn vị có những vi phạm, tiêu cực cần nghiêm túc xử lý. Ngoài những nội dung trên, công tác thanh tra kiểm soát còn rất quan trọng trong việc kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Đối với Nhà nước Một là, Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động đầu tư tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp. ở nước ta Luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng mới ra đời là sự cần thiết khách quan, nhưng việc đưa luật vào cuộc sống đòi hỏi phải có sự linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Các văn bản dưới luật cần phải được ban hành đầy đủ kịp thời và đồng bộ từng bước phù hợp với thực tế nền kinh tế trong từng thời kỳ, không thể áp dụng một cách máy móc - nó không những không thúc đẩy sự phát triển mà còn gây cản trở cho sự phát triển. Trước hết, Nhà nước cần ban hành luật kiểm toán để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đánh giá tài chính doanh nghiệp một cách chính xác; luật về thế chấp tài sản... Chính phủ cần sớm ban hành một Nghị định chung về thế chấp, cầm cố tài sản để các ban ngành cùng phối hợp thực hiện. Trong nghị định này, Chính phủ cần điều chỉnh hợp lý hành vi thế chấp, hành vi phát mãi, đấu giá tài sản thế chấp. Có như thế mới có thể tháo gỡ ách tắc trong khâu xử lý tài sản thế chấp để ngân hàng mau chóng thu được nợ. Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động ổn định, mặt khác đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Hai là, Nhà nước cần ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Các cơ quan quản lý vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng, tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một ngành hay lĩnh vực nào đó gây nên lãng phí do quá tải giữa cung và cầu. Nghĩa là, Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư một cách ổn định, lâu dài, ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội là cần thiết nhưng không nên quá nhiều lần trong năm ảnh hưởng đến tâm lý người gửi tiền, khó huy động được vốn dài hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay. Đây là điều kiện để ổn định giá trị tiền tệ, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản xuất. Trên cơ sở đó đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Ba là, Chính phủ cần có chính sách đẩy mạnh phát huy nội lực để chủ động hội nhập. Đây là yếu tố có tính quyết định, cần phải làm để các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế và mọi người dân Việt Nam nhận thức đúng về hội nhập để chủ động tham gia hội nhập. Từ đó không thờ ơ hoặc không thấy rõ tính bức xúc của hội nhập, ỷ lại và trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải khai thác có hiệu quả và phát huy nội lực, đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Bốn là, tăng cường các biện pháp Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp, đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động theo đúng chức năng; quy mô hoạt động phù hợp với vốn điều lệ, năng lực trình độ quản lý. Thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập đối với các trường hợp vi phạm: buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo,... Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng Pháp lệnh kế toán thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp nhằm xác lập sự lành mạnh của các chủ thể kinh tế trong cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp Nhà nước cần được Bộ Tài chính cấp đủ vốn hoạt động để vốn vay ngân hàng chỉ là bộ phận hỗ trợ cho doanh nghiệp. Nhờ đó sẽ giải quyết được tình trạng vốn vay ngân hàng chiếm đến 80-90% nguồn vốn hoạt động của một số doanh nghiệp như hiện nay. Giải quyết được những vấn đề trên chính là một trong những nhân tố tiên quyết tạo nên năng lực cạnh tranh dài hạn, tăng sức mạnh của các doanh nghiệp và cũng chính là sức mạnh của nền kinh tế, là nền tảng vững chắc cho hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có biện pháp bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các ngân hàng thương mại. Thông tin được nói ở đây không chỉ là những thông tin về doanh nghiệp mà còn là những thông tin có tính chất định hướng cho hoạt động của các NHTM. Những thông tin về doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC). Nó bao gồm thông tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các NHTM sử dụng trong quá trình thẩm định khách hàng. Thứ hai, cùng với thông tin về các doanh nghiệp, NHNN còn phải nắm vững để cung cấp cho các ngân hàng thương mại những thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ; tư vấn cho các ngân hàng thương mại về những lĩnh vực, những nhóm ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm góp phần thực hiện những chủ trương đường lối phát triển chung, đồng thời phát huy hiệu quả đồng vốn, bảo đảm an toàn tín dụng cho các NHTM. Thứ ba, NHNN thực hiện rà soát sửa đổi lại các văn bản hướng dẫn, quy định; tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế nghiệp vụ trong hoạt động tín dụng, cơ chế huy động vốn, đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế nói chung và trong dân cư nói riêng. Cơ chế chính sách mới ban hành cần tiến sát với các chuẩn mực và thông lệ Quốc tế tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động của các TCTD trong tiến trình hội nhập. Thứ tư, Ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng thương mại. Sự quản lý của NHNN chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất mang tính định hướng chứ không nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt động của các NHTM không giống nhau nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với môi trường kinh doanh cụ thể của mình. Thứ năm, nâng cao hiệu quả thanh tra giám sát của NHNN đối với NHNo & PTNT Việt Nam do: Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công tác thanh tra cần được tăng cường và cải tiến cả về nội dung và hình thức. Từ đó, NHNN có thể phát hiện kịp thời chính xác những nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Đào tạo đội ngũ thanh tra viên có trình độ cao, xây dựng cơ cấu tổ chức có hiệu quả. Tóm tắt chương 3 Từ những cơ sở lý luận của chương 1 và thực trạng cho vay DAĐT trung và dài hạn, những tồn tại, nguyên nhân ở chương 2, luận văn khẳng định sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp trong thời gian tới. Trong chương 3, luận văn đã đưa ra các định hướng của NHNo & PTNT Việt Nam. Từ đó đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam. kết luận Nâng cao hiệu quả cho vay nói chung và cho vay DAĐT trung dài hạn nói riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho vay DAĐT là một vần đề đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc. Qua việc nghiên cứu và khảo sát thực tế hoạt động tín dụng trung và dài hạn của NHNo & PTNT Việt Nam, luận văn đã thực hiện được những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, Hệ thống hoá được các vấn đề lý luận cơ bản về dự án đầu tư, cho vay DAĐT trung dài hạn, các nhân tố ảnh hưởng, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn. Thứ hai, Phân tích, đánh giá thực trạng cho vay DAĐT trung và dài hạn trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam từ đó thấy được những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn tại NHNo & PTNT Việt Nam. Thứ ba, Trên cơ sở định hướng cho vay DAĐT trung và dài hạn, luận văn đã đưa ra một hệ thống các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT trung và dài hạn. Do thời gian nghiên cưú có hạn, luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Hội đồng thẩm định luận văn, các nhà khoa học quan tâm đến lĩnh vực này để luận văn được hoàn thiện hơn. Xin cảm ơn các thầy cô giáo, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy Trần Mạnh Dũng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này. Cảm ơn cơ quan, bạn bè đồng nghiệp đã tạo điều kiện cho tôi được học hỏi, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm và số liệu trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu để hoàn thành đề tài. Danh mục tài liệu tham khảo TS. Nguyễn Minh Kiều, Tín dụng và Thẩm định tín dụng Ngân hàng, NXB Tài chính, 2006. Harold Bierman, Jr.& Saymour Smidt, Quyết định dự toán vốn đầu tư, NXB Thống kê, 1995. Hồ Diệu, Quản trị ngân hàng, NXB Thống kê, 2002. Học viện Ngân hàng, Giáo trình tài trợ dự án, NXB Thống kê, 2003. Học viện Ngân hàng, Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê,2001. David Begg, Kinh tế học, NXB Giáo dục, 1995. Đại học Kinh tế quốc dân thành phố Hồ Chí Minh, Đánh giá kinh tế và những phương pháp quyết định đầu tư, NXB Mũi Cà Mau, 1994. Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước, NXB Khoa học kỹ thuật, 1998. Michael P.Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba, NXB Giáo dục, 1998. Nguyễn Tấn Bình, Phân tích quản trị tài chính, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2002. Vũ Công Tuấn, Thẩm định dự án đầu tư, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1998. Vũ Chí Lộc, Giáo trình đầu tư nước ngoài, NXB Giáo dục,1997 Luật các tổ chức tín dụng, NXB Chính trị quốc gia, 1998 NHNo & PTNT Việt Nam, Báo cáo tốc độ tăng trưởng nguồn vốn tháng 12/2006, 12/2007 NHNo & PTNT Việt Nam, Báo cáo tài chính các năm 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007. NHNo & PTNT Việt Nam, Báo cáo tổng kết chuyên đề tín dụng năm 2007 NHNo & PTNT Việt Nam, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 2005, 2006, 2007. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: "Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam" là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2008 Tác giả luận văn Vũ Việt Thu Danh mục các từ viết tắt DA: Dự án DAĐT : Dự án đầu tư DNN&V: Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước DNNQD: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh EUR: Đồng tiền chung Châu Âu GDP: Thu nhập quốc dân NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NHTM: Ngân hàng Thương mại NHTW: Ngân hàng Trung ương ODA: Viện trợ phát triển chính thức TCTD: Tổ chức tín dụng TSĐB: Tài sản đảm bảo USD: Dollar Mỹ VND: Đồng Việt Nam Mục lục Danh mục bảng, sơ đồ Số TT Số bảng, sơ đồ Mục lục Nội dung bảng, sơ đồ Trang 1 Sơ đồ 2.1 2.1.1 Mô hình tổ chức của NHNo&PTNT Việt Nam 28 2 Biểu đồ 2.1 2.1.2 Tăng trưởng nguồn vốn qua các năm 30 3 Biểu đồ 2.2 2.1.2 Cơ cấu khách hàng theo thành phần kinh tế 34 4 Biểu đồ 2.3 2.1.2 Cơ cấu khách hàng theo ngành nghề 36 5 Biểu đồ 2.4 2.2.1 Dư nợ tín dụng phân theo thời gian 42 6 Biểu đồ 2.5 2.2.1 Dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn 44 7 Biểu đồ 2.6 2.2.2 Dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn theo thành phần kinh tế 46 8 Biểu đồ 2.7 2.2.3 Nợ xấu cho vay DAĐT trung và dài hạn qua các năm 50 9 Biểu đồ 2.8 2.2.3 Tỷ lệ Nợ xấu cho vay DAĐT trung và dài hạn qua các năm 50 10 Bảng 2.1 2.1.2 Cơ cấu nguồn vốn theo thời gian 31 11 Bảng 2.2 2.1.2 Dư nợ tín dụng 33 12 Bảng 2.3 2.1.2 Cơ cấu khách hàng theo thành phần kinh tế 34 13 Bảng 2.4 2.1.2 Cơ cấu khách hàng tổ chức theo ngành nghề 35 14 Bảng 2.5 2.1.2 Cơ cấu khách hàng theo vùng kinh tế năm 2007 37 15 Bảng 2.6 2.2.1 Dư nợ tín dụng phân theo thời gian 42 16 Bảng 2.7 2.2.2 Dư nợ cho vay DAĐT trung và dài hạn một số thành phần kinh tế 46 17 Bảng 2.8 2.2.3 Phân loại nợ năm 2007 theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN 49 18 Bảng 2.9 2.2.4 Các chỉ tiêu về lợi nhuận 52 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2685.doc
Tài liệu liên quan