Tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp tại Chi nhánh NHNT Hà Nội: ... Ebook Nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp tại Chi nhánh NHNT Hà Nội
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp tại Chi nhánh NHNT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện nay đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa, hội nhập trở thành xu hướng tất yếu của mọi nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường của nước ta phát triển và hội nhập chưa được bao lâu. Do đó vấn đề cấp bách đặt ra là phải nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể hội nhập sâu hơn rộng hơn, hiệu quả hơn với nền kinh tế thế giới. Một công việc quan trọng cần phải làm trước hết là lành mạnh hóa hệ thống tài chính Ngân hàng. Trong đó, hoạt động Ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng nếu được đảm bảo an toàn và hiệu quả thì sẽ có những tác động vô cùng to lớn cho nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, duy trì sự phát triển ổn định, tạo nền tảng vững mạnh cho quan hệ giao lưu kinh tế thế giới.
NHNT Hà Nội với những chính sách kinh doanh đúng đắn đã đạt được những thành công rất lớn trong những năm qua. Dư nợ cho vay qua các năm không ngừng tăng, tỷ lệ nợ quá hạn giảm, các dịch vụ Ngân hàng phát triển, Uy tín và thu nhập của Ngân hàng tăng lên hàng năm. Bên cạnh đó, do sự phát triển quả nhanh của nền kinh tế, Ngân hàng đang đứng trước những cơ hội và thách thức vô vùng lớn. Cơ hội kinh doanh nhiều hơn và rủi ro cũng lớn hơn. Đặc biệt là trong hoạt động cho vay, khi mà những thiếu sót và hạn chế của Ngân hàng là không thể tránh khỏi.
Chất lượng tín dụng không chỉ là mối qua tâm của riêng Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội. Vì đây là cơ sở cho sự phát triển của nền kinh tế. Chất lượng tín dụng vừa phản ánh sự lớn mạnh của Ngân hàng, vừa phản ánh những bất cập trong quản lý Ngân hàng. Vì vậy vấn để vô cùng quan trọng đặt ra cho Ngân hàng là làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng. Do đó, em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp tại Chi nhánh NHNT Hà Nội” làm nội dung tìm hiều và nghiên cứu của mình. Với mong muốn học tập và có thể góp phần nào đó giải quyết những vấn đề còn tồn tại của Ngân hàng và nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng tại NHNT Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Chất lượng tín dụng là một khái niệm mở chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Trong đó Quy trình tín dụng là yếu tố quan trọng hàng đầu và được Ngân hàng quan tâm nhất. Muốn xây dựng được một quy trình tín dụng phù hợp khoa học là điều không đơn giản đối với mỗi Ngân hàng.
Trong khi đó, thực tế ở một số Ngân hàng, Quy trình tín dụng chưa được đánh giá đúng vai trò của nó trong chính sách hoạt động kinh doanh của mình. Quy trình tín dụng hiện tại lại chứa đựng nhiều rủi ro và hạn chế gây ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng.
Chính vì vậy, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNT Hà Nội. Nội dung nghiên cứu của em sẽ xoay quanh vấn đề Quy trình tín dụng, góp phần: Cải tiến quy trình tín dụng để nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Hoạt động tín dụng rất rộng, bao gồm nhiều hoạt đông khác nhau như họat động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Song ở đây khi nói đến hoạt động tín dụng, em chỉ đề cập đến chất lượng tín dụng đối với hoạt động cho vay.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu là vẫn để lý luận thực tiễn liên quan đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại và vấn đề chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHNT Hà Nội.
IV: Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp biện chứng, logic, thu thâp hệ thống thông tin và tổng kết thực tiễn
V: Kết cấu đề tài
Ngoài Lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khao, để tài được chia làm ba phần chính:
Chương I: Khái quát về Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Hoạt động tín dụng của NHNT Hà Nội
Chương III: Giải pháp cải tiến quy trình tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp ở Chi nhánh NHNT Hà Nội
Lêi c¶m ¬n
Tµi liÖu tham kh¶o
Gi¸o tr×nh Ng©n hµng th¬ng m¹i
Gi¸o tr×nh tµi chÝnh doanh nghiÖp
TiÒn tÖ, ng©n hµng vµ thÞ trêng tµi chÝnh Frederic s. Mishkin
QD1627
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng. Đến lượt mình sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHTM là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.1. Khái niệm
Nghề Ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Qua hoạt động thực tiền và quá trình phát triển, họ trở thành những người làm nghề kinh doanh tiền tệ, hay còn gọi là nhà buôn tiền. Đầu tiên những nhà buôn tiền đã dùng vốn tự có để cho vay, nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiền, họ nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và thường xuyên có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên trong két của các nhà buôn tiền. Do tính chất vô danh của tiền, nhà buôn tiền có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi căn bản hoạt động của nhà buôn tiền - Kẻ cho vay nặng lãi - Thành nhà buôn tiền - Ngân hàng. Hoạt động cho vay dựa trên tiền gửi của khách hàng, tạo nên lợi nhuận lớn cho các Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của kinh tế, hoạt động Ngân hàng không ngừng phát triển, cung cấp khách hàng nhiều dịch vụ rất đa dạng trên lĩnh vực tiền tệ. Song hoạt động cho vay vẫn là hoạt động chính và là nghiệp vụ quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Nếu hoạt động cho vay phát triển, có hiệu quả sẽ thúc đẩy các hoạt động khác của Ngân hàng như: Thanh toán, ngân quỹ…phát triển. Nếu hoạt động cho vay không hiệu quả sẽ kéo theo sự suy giảm của các hoạt động này dẫn đến tình trạng xấu cho Ngân hàng.
Theo Quyết định 1627/2001/QĐ - NHHN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hàng quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoã thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.2. Đặc điểm và nguyên tắc tín dụng Ngân hàng
Đặc điểm tín dụng Ngân hàng
- Cho vay là hoạt động chính của các NHTM
Do quy mô của hoạt động cho vay, các Ngân hàng chủ yếu sử dụng nguồn tiền mà mình huy động được để thực hiện cho vay. Các khoản vay này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Ngân hàng. Đây cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất và nhiều thu nhập nhất cho Ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng được quyết định bởi hiệu quả hoạt động cho vay của Ngân hàng đó.
- Rủi ro trong hoạt động cho vay rất cao
Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến mà Ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng vay không trả nợ đúng hạn, không trả huặc không trả đầy đủ cả khoản vốn và lãi vay. Mỗi khoản tín dụng mà Ngân hàng cho khách hàng vay luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Những rủi ro này có thể là khách quan huặc chủ quan và CBTD không thể lường trước hết được. Khi rủi ro xảy thì tổn thất là khoản vay đó có thể không thu hồi được. Vì tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất của Ngân hàng nên chỉ cần một rủi ro nhỏ xảy ra cũng có thể gây tổn thất là rất lớn đối với Ngân hàng, ảnh hưởng đến thu nhập, uy tín và rất có thể là nguyên nhân của sự phá sản của Ngân hàng.
- Dựa trên cơ sở lòng tin khách hàng
Vì hoạt động cho vay chứa đựng rất nhiều loại rủi ro khác nhau, đặc biệt loại rủi chủ quan - Rủi ro do thông tin không cân xứng: (I)Lựa chọn đối nghịch là rủi ro xảy ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Do thông tin không cân xứng, các món vay có thể được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ. Trong khi có thể quyết định không cho vay đối với những trường hợp có thể trả được nợ. (II) Rủi ro đạo đức là rủi ro xảy ra sau cuộc giao dịch khi người vay có ý định dùng khoản tiền vay để thực hiện những hoạt động không tốt (Thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của Ngân hàng. Làm cho khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng là rất khó khăn. Chính vì những lý do trên, hoạt động tín dụng chỉ xảy ra trên cơ sở Ngân hàng đã có hiểu biết và lòng tin nhất định về khách hàng.
- Tiền vay được thoã thuận sử dụng theo nguyên tắc hoàn trả. Lãi suất là giá cả để được sử dụng khoản vay. Việc vay mượn phải nằm trong khoảng thời gian xác định, đến hết thời hạn trong hợp đồng, người vay phải hoàn trả khoản vay đó kèm một khoản lãi đã xác định.
- Quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Do tính chất vô danh của tiền, sau khi thực hiện cho vay, quyền sở hữu của giá trị được chuyển giao vẫn thuộc về Ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan. Đã khắc phục được những hạn chế của tín dụng thương mại về quy mô và giới hạn chiều vận động. Khi nền kinh tế phát triển thì khối lượng và chất lượng tín dụng ngày càng đòi hỏi ở mức độ cao hơn, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng khối lượng tín dụng của nền kinh tế.
Nguyên tắc tín dụng Ngân hàng
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời cho Ngân hàng. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước và các NHTM
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác định. Đây là điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Là cơ sở để Ngân hàng thiết lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình trong tương lai đồng thời có hướng điều chỉnh kịp thời các hoạt động không còn phù hợp và hiệu quả.
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với Ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi ngành nghề được phép theo Giấy chững nhận đăng ký kinh doanh, Giấy phép hành nghề (Nếu có) của khách hàng và phục vụ nhu cầu đời sống hợp pháp của khách hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (huặc dự án) có hiệu quả để đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư và lãi của Ngân hàng. Trong trường hợp xét thấy khoản vay kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. Nguyên tắc của hoạt động Ngân hàng là đảm bảo an toàn và khả năng sinhlợi trong mọi trường hợp. Vì vậy một dự án có hiệu quả mới có thể đảm bảo được khả năng thu hồi vốn và lãi cho Ngân hàng. Ngược lại một dự án kém hiệu quả, khả năng thua lỗ cao thì việc lãi và thậm chí vốn gốc là rất khó khăn cho Ngân hàng. Để đảm bảo an toàn, người vay phải có tài sản đảm bảo cho Ngân hàng.
1.1.3. Phân loại hoạt động tín dụng Ngân hàng
Dựa vào các tiêu thức khác nhau tín dụng Ngân hàng được phân loại theo nhiều hình thức rất đa dạng. Sau đây là một số cách phân loại tín dụng Ngân hàng theo các hình thức đặc trưng:
Phân loại theo thời hạn tín dụng
Việc phân loại thời hạn tín dụng có ý nghĩa quan trọng mật thiết đến tính an toàn và tính sinh lợi của món vay cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Mặt khác, thời hạn của khoản vay còn ảnh hưởng tới kế hoạch vốn của Ngân hàng, qua đó ảnh hưởng tới việc lập kế hoạch kinh doanh và khả năng thực hiện các khoản cho vay khác đến khách hàng. Theo thời hạn, các khoản tín dụng được chia làm 3 loại
Tín dụng ngắn hạn là loại hình cho vay trong khoảng thời gian dưới một năm. Mục đích vay chủ yếu là đầu tư vào tài sản lưu động có vòng quay trên một vòng trong một năm và các nhu cầu chi tiêu của cá nhân. Cho vay ngắn hạng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp huặc gián tiếp, cho vay theo món huặc hạn mức, có huặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi huặc luân chuyển.
Tín dụng trung hạn là những khoản cho vay từ một đến năm năm.Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng.
Nhà nước vay vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển vào những lĩnh vực khả năng tích luỹ của doanh nghiệp chưa cao.Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thoã mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển.
Tín dụng dài hạn là những khoản vay thời hạn cho vay trên năm năm, loại tín dụng này đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng công trình giao thông, nhà máy xí nghiệp, công trình xây dựng có quy mô lớn với thời hạn sử dụng lâu dài.
Phân loại theo hình thức tài trợ
Tín dụng Ngân hàng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
(5)
(3)
(4)
(2) Thương phiếu
(1) Hàng hoá, dịch vụ
Người bán
Người mua
Ngân hàng
Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá là việc Ngân hàng ứng trước một khoản tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn huặc đó là một giấy nợ.
Hình 1: Chiết khấu thương phiếu
(3): Trong thợi hạn còn hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang thương phiếu đến Ngân hàng để xin chiết khấu.
(4): Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, Ngân hàng có thể phát tiền cho người bán và nắm giữ thương phiếu.
(5): Đến hạn, Ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền.
Cho vay là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay với cam kết khách hàng sẽ trả cả gốc và lãi đúng hạn như cam kết trong hợp đồng. Cho vay có thể được chia làm nhiều hình thức: Cho vay thấu chi; Cho vay trực tiếp từng lần; Cho vay theo hạn mức; Cho vay luân chuyển; Cho vay trả góp; Cho vay gián tiếp.
Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Phân loại theo mục tiêu, có các loại bảo lãnh:Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước; Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay.
Hình 2: Quy trình bảo lãnh của Ngân hàng
(1)
(3)
(2)
(1)
(4)
(a)
Ngân hàng (Bên bảo lãnh)
Khách hàng của Ngân hàng
(bên được bảo lãnh)
Người thứ ba (Bên hưởng bảo lãnh)
Ngân hàng (Bên bảo lãnh)
(4)
(2)
(3)
Người thứ ba (Bên hưởng bảo lãnh)
Khách hàng của Ngân hàng
(bên được bảo lãnh)
(a)
(a): Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba vể thanh toán, vể xây dựng… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của Ngân hàng
(1): Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi Ngân hàng. Ngân hàng phân tích khách hàng. Nếu động ý, Ngân hàng và khách hàng ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh
(2): Ngân hàng (huặc khách hàng) thông báo thư bảo lãnh cho bên thứ ba
(3): Theo như thõa thuận với khách hàng và bên thứ ba, Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra
(4): Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, Ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng.
Cho thuê là hình thức Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho Ngân hàng phải thu hồi gần đủ huặc đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi.
Hình 3: Thuê - Mua
(3)
(2)
(1)
(4)
Ngân hàng (Người cho thuê)
Nhà cung cấp trang thiết bị
Khách hàng (Người thuê)
(1): Khách hàng làm đơn gửi Ngân hàng yêu cầu về tài sản cần thuê. Sau khi phân thích dự án và tình hình tài chính của khách hàng, Ngân hàng ký hợp động thuê - Mua với khách hàng.
(2): Ngân hàng tìm kiếm nhà cung cấp để ký hợp đồng mua (Huặc người thuê chỉ định nhà cung cấp)
(3): Khách hàng có thể gặp nhà cung cấp để nêu yêu cầu về quy cách, chất lượng tài sản thuê, nhận tài sản thuê, nhầ cung cấp có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê
(4): Ngân hàng kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê huặc thu hồi tài sản nếu thấy người thuê vi phạm.
Phân loại theo phương thức cấp tín dụng
Cho vay thấu chi là nghiệp vụ qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định.
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay đối với khách hàng không có nhu cầu vay vốn thương xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng, tức là vốn vay từ Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ theo đó Ngân hàng thoã thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kỳ huặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính
Hạn mức được duyệt trong kỳ
Dư nợ trong kỳ
Thời gian
Dư nợ
Hình 4: Cho vay theo hạn mức:
Cho vay luân chuyển được thực hiện trên cơ sở luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp và khả năng tiêu thụ hàng hoá.
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoã thuận. Cho vay trả góp có rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho vay của Ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Ngân hàng cho vay qua tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân…
(3)
(3)
(2)
(1)
Ngân hàng
Trung gian:
Tổ, Đội, Hội, Nhóm
Khách hàng: Nông dân, người buôn bán nhỏ
Hình 5: Cho vay gián tiếp
(1): Phân tích tín dụng trước khi cho vay
(2): Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng
(3): Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho Ngân hàng
Phân loại theo đối tượng vay
Cho vay doanh nghiệp: Khách hàng vay là những doanh nghiệp có nhu cầu về vốn để tích luỹ tư bản phục vụ cho hoạt động mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục và phát triển.
Cho vay cá nhân là hình thức vay vốn trong đó cá nhân là người trực tiếp vay vốn cho mình. Cá nhân có thể vay vốn để sản xuất kinh doanh huặc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của mình.
1.1.4. Vai trò của tín dụng NHTM
Đối với nền kinh tế
- Hoạt động tín dụng tạo ra thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng, tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Qua đó Nhà nước có thêm nguồn lực để thực hiện các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội cho đất nước.
- Thông qua việc cho vay các dự án, tín dụng gián tiếp góp phần tạo ra việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và sự nghiệp dân giàu nước mạnh ở nước ta (Đây là vấn đề mang tính thời sự ở nước ta hiện nay). Muốn giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo thì không thể dựa vào việc phát hành tiền huặc trông chờ vào các khoản tiền tài trợ từ nước ngoài. Vì thế vai trò của tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đầu tư cho các dự án phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm, tăng thu nhập cho mọi tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế.
- Trung gian tích tụ và tập trung vốn tạo bước nhảy vọt cho xã hội. Làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục. Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng để các doanh nghiệp, tổ chức, các nhân sử dụng vốn có hiệu quả nhất, thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo ra thêm nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng. Góp phần nâng cao đời sống vật chất cho xã hội.
- Nâng cao mức sống của xã hội thông qua tín dụng trả góp và các loại hình tín dụng khác. Thông qua tín dụng trả góp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá trước khi thanh toán hết tiền. Việc này vừa làm cho người tiêu dùng có điều kiện sử dụng thêm nhiều hàng hoá dịch vụ mà họ chưa có điều kiện thanh toán. Mặt khác lại tích cực thúc đẩy việc tiêu dùng hàng hoá, tăng sản lượng bán hàng cho doanh nghiệp, kích thích phát triển nền kinh tế.
- Là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ quốc tế. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đã và đang là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế thông dụng, qua đó thúc đẩy giao lưu văn hoá giữa các nước. Vốn đóng vai trò quyết định cho sự hợp tác này. Ngân hàng với khả năng đặc biệt của mình là nơi cung cấp vốn cho các hoạt động này và thông qua đó góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh tế văn hoá với các nước.
Qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng là chủ thể của cung tiền tệ, đó chính là chức năng tạo tiền của Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước có thể thay đổi lượng tiền trong lưu thông bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc huặc hạn mức tín dụng đối với các NHTM. Qua đó Nhà nước có thể thực hiện chính sách tiền tệ của mình, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, bằng việc thực hiện các chính sách về lãi suất, thời hạn cho vay, mức cho vay đối với từng ngành, từng vùng kinh tế… Tạo điều kiện thuận lợi nhất để Nhà nước đầu tư phát triển vào những vùng, ngành kinh tế, đảm bảo mục tiêu ổn định và phát triển của đất nước. Đồng thời tín dụng góp phần làm tăng cường chết độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Đối với Ngân hàng
- Tín dụng Ngân hàng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng, là hoạt động thường xuyên nhất và thu lợi nhuận nhiều nhất để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng.
- Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng có thể điều hoà vốn, hạn chế rủi ro về vốn, rủi ro thanh khoản…Hoạt động tín dụng cũng góp phần cũng cố mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng, hỗ trợ và cùng nhau phát triển. Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng có thể tìm thêm được những khách hàng mới, mở rộng thêm các loại hình dịch vụ khác cho khách hàng như bảo lãnh, dịch vụ thanh toán khách hàng, mua bán các giấy tờ có giá và các dịch vụ khác. Với mạng lưới Chi nhánh rộng lớn của mình còn tạo điều kiện cho các công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để sử dụng khối lượng vốn lớn của xã hội, đáp ứng các nhu cầu về vốn lớn cho công ty, trên cơ sở đó để mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Hoạt động tín dụng còn góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Ngân hàng, nâng cao trình độ quản lý, khả năng của cán bộ, nhân viên Ngân hàng, giải phóng năng lực sản xuất, tạo điều kiện phát triển kinh tế, công ăn việc làm…
Đối với khách hàng
Trong nền kinh tế, nhu cầu vốn đối với các doanh nghiệp và cá nhân là rất lớn. Khách hàng sử dụng vốn để sản xuất kinh doanh, để tiêu dùng phục vụ sinh hoạt để nâng cao chất lượng cuộc sống. Hầu hết doanh nghiệp và các cá nhân không có đủ vốn để thực hiện các hoạt động của mình.Tín dụng Ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn cho khách hàng, đảm bảo quy mô vốn vay và tính nhanh chóng trong khoản vay cho khách hàng. Để cạnh tranh tốt trong thương trường hiện nay, các doanh nghiệp cần có sự nhạy bén nắm bắt thị trường mục tiêu, sản xuất cái gì, cho ai, ai là đối tượng khách hàng của họ, muốn tiến hành kịp thời sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có kế hoạch nguồn vốn đủ lớn và ổn đinh kịp thời để mua các yếu tố đầu vào. Chính vì vậy mà tín dụng Ngân hàng trở thành lực đẩy vô cùng cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
1.2. CHO VAY DOANH NGHIỆP
1.2.1. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Quan niệm
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể được thực hiện bởi các doanh nghiệp chứ không phải là các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – Tức là thực hiện một, một số huặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm huặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu sinh lợi.
Các doanh nghiệp Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Phân loại doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh sau đây:
Kinh doanh cá thể: Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả mọi lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân. Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp.Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ người chủ.Khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ.
Kinh doanh góp vốn: Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Đối với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường hợp cần có giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu nhu một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay rút vốn. Khả năng về vốn hạn chế.Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
Công ty: Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông (Chủ sở hữu), của hội động quản trị và của các nhà quản lý. Hầu hết cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn.
Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới. Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông. Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào công ty (Trách nhiệm hữu hạn).
Mỗi loại hình doanh nghiệp trên có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp.
Đặc điểm của doanh nghiệp
Thứ nhất: Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế trong xã hội. Bất kỳ một tổ chức nào cũng thành lập đều dựa trên sự liên kết nhất định của các thành viên và hoạt động với mục đích nhất định. Đối với các doanh nghiệp, rõ ràng mục đích là tiến hành hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận.
Thứ hai: Doanh nghiệp có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định. Doanh nghiệp tham gia vào mối quan hệ kinh tế với tư cách là một chủ thể độc lập về pháp luật.
Thứ ba: Doanh nghiệp được thành lập với muc đích tiến hành các hoạt động kinh doanh. Với bản chất là một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh với mục tiêu thu lợi nhuận.
1.2.2. Cho vay doanh nghiệp
Quan niệm và đặc trưng về cho vay doanh nghiệp
Cho vay doanh nghiệp là hình thức cấp tín dụng trong đó chủ thể đi vay là các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân chứ không phải là các cá nhân.
Khách hàng doanh nghiệp đến xin vay vốn để phục vụ cho những nhu cầu khác nhau như mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư thêm máy móc thiết bị công nghệ mới, sản xuất sảm phẩm mới. Huặc có thể vay vốn vì mục đích đầu tư vào những ngành nghề kinh doanh mới. Còn cá nhân đến xin vay vốn chỉ đại diện cho cá nhân mình và vay vốn có thể để kinh doanh cũng có thể để tiêu dùng.
Doanh nghiệp thường vay những khoản vốn lớn, việc vay vốn được hoạch định rõ ràng và chi tiết kế hoach sử dụng vốn. Phải trình Ngân hàng dự án kinh doanh của mình, phải trải qua nhiều giai đoạn của quy trình cho vay. Còn cho vay cá nhân thì đơn gian hơn nhiều, những khỏan cho vay cá nhân thường nhỏ, ít được quan tâm hơn.
Mối quan hệ giữa Ngân hàng và doanh nghiệp thường là lâu dài, doanh nghiệp có thể xin vay vốn nhiều lần. Thông quan hệ tín dụng với Ngân hàng, doanh nghiệp đồng thời có thể sử dụng những dịch vụ khác của Ngân hàng như thanh toán hộ, chuyển phát sec…
Vai trò và sự cần thiết của hoạt động cho vay doanh nghiệp
Cho vay doanh nghiệp hầu như chiếm gần hết hoạt động cho vay của Ngân hàng. Do vậy hoạt đông cho vay với chủ thể này là vô cùng quan trọng, quyết định đến sự tồn tại của chính bản thân Ngân hàng.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường kinh doanh với số vốn tự có thấp, rất cầ có vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong khi đó các tổ chức tín dụng ngoài Ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa phát triển. Do vậy Ngân hàng luôn là điểm đến duy nhất của các doanh nghiệp, điều này phản ảnh vai trò vô cùng quan trọng của hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Thông qua hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp. Nhà nước có thể thực hiện những chính sách kinh tế của mình thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng để ổn định và phát triển đất nước.
1.3. CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP
1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản tạo ra thu nhập cho Ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro cho Ngân hàng. Chất lượng tín dụng Ngân hàng là vấn đề mà tất cả các Ngân hàng đều phải quan tâm, các rủi ro tín dụng nếu xảy ra thì sẽ tác động xấu tới uy tín của Ngân hàng, hiệu quả hoạt động của Ngân hàng sẽ bị giảm và thậm chí đe doạ đến sự tồn tại của NHTM và cả hệ thống Ngân hàng nếu rủi ro đó bản thân Ngân hàng không thể sử lý được.
Chất lượng tín dụng là tổng hoà những thành tựu của hoạt động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định và vững chắc của nền kinh tế, của Ngân hàng và của khách hàng, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo lợi nhuận tối đa cho Ngân hàng. Vì vậy để đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng thì ta cần xem xét trên các góc độ nền kinh tế, khách hàng và bản thân Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là khái niệm phản ánh sự đáp ứng yêu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng thể hiện sự đáp ứng nhu cầu vốn vay của khách hàng, đồng thời góp phần thúc đây tăng trưởng kinh tế, tạo ra lợi nhuận tối đa cho Ngân hàng. Để đánh ._.giá chất lượng tín dụng của NHTM thì cần xem xét trên các góc độ nền kinh tế, khách hàng và bản thân Ngân hàng.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
Đối với Ngân hàng
Chất lượng tín dụng đối với Ngân hàng là sự sống còn, cho vay là hoạt động kinh doanh cơ bản, là nghiệp vụ sinh lời chính trong danh mục các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng nên Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài thì Ngân hàng phải có các chính sách tín dụng hợp lý nhất để nâng cao chất lượng tín dụng.
Vì hoạt động tín dụng đóng vai trò quyết định trong việc tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng góp phần tăng quy mô tín dụng từ đó tăng thu nhập ròng từ hoạt động tín dụng cho Ngân hàng. An toàn tín dụng phải kết hợp với tăng trưởng quy mô tín dụng thì mới đảm bảo sự phát triển bền vững cho NHTM. Chất lượng tín dụng còn là sự đáp ứng tối đa nhu cầu vốn hợp lý của khách hàng một cách đầy đủ và kịp thời, phù hợp với khả năng thực tế của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng làm tăng khả năng sinh lợi của sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng, thu hồi được vốn vay giúp cho Ngân hàng xây dựng được cơ cấu tài sản có phù hợp với tài sản nợ. Có thể nói chất lượng tín dụng theo quan điểm của Ngân hàng là thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn tín dụng và khả năng sinh lời của Ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại nên có thể nói hoạt động tín dụng phải gắn với chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng để tăng thu nhập của Ngân hàng và đồng thời giảm thiểu các rủi ro tín dụng. Chỉ tiêu chất lượng tín dụng là một yếu tố quyết định nhất đối với lợi nhuận của Ngân hàng, chất lượng tín dụng làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm dịch vụ khác của Ngân hàng. Do đó giảm được sự chậm trễ không cần thiết, giảm chi phí nghiệp vụ, quản lý và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Vì chất lượng tín dụng cao và rủi ro tín dụng là hai mặt trái ngược nhau nên nâng cao chất lượng tín dụng là đảm bảo an toàn cho Ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng làm tăng quy mô tín dụng, mở rộng thị thường, làm tăng thị phần và uy tín của Ngân hàng. Uy tín trong hoạt động của Ngân hàng là rất quan trọng vì bản thân hoạt động của Ngân hàng là kinh doanh tiền, chất lượng tín dụng giúp cho Ngân hàng nâng cao vị thế của mình trên thương trường.
Đối với khách hàng
Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam đều hoạt động với quy mô vừa và nhỏ. Doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh chỉ với số vốn tự có của mình mà không đi vay bên ngoài. Vì vậy tín dụng Ngân hàng là công cụ mà các doanh nghiệp hay sử dụng nhất. Sử dụng kết hợp vốn tự có và vốn đi vay Ngân hàng ở một cách thức nào đó sẽ đem lại cho doanh nghiệp một chi phí vốn thấp nhất.
Để đạt được cơ cấu vốn tối ưu thì bản thân doanh nghiệp trước tiên phải sử dụng hợp lý giữa vốn vay và vốn tự có. Chất lượng tín dụng Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào doanh nghiệp, vì khách hàng là người tạo ra thu nhập cho Ngân hàng, thu nhập Ngân hàng nếu được đảm bảo mới tạo tiền đề nâng cao chất lượng tín dụng. Như vậy đối với các doanh nghiệp, chất lượng tín dụng Ngân hàng tốt sẽ làm cho nhu cầu của khách hàng được đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời với quy mô lớn. Chất lượng tín dụng Ngân hàng và doanh nghiệp luôn tồn tại song song, doanh nghiệp có hoạt động tốt thì chất lượng tín dụng mới đạt được và khi chất lượng tín dụng Ngân hàng tốt thì các doanh nghiệp mới có điều kiện vay vốn Ngân hàng với thủ tục đơn giản, chi phí hợp lý nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận.
Đối với nền kinh tế
Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái trái ngược nhau về vốn. Có những người tạm thời chưa sử dụng hết vốn do đặc thù hoạt động kinh doanh của họ hay do tiết kiệm, trong khi có người lại rất cần vốn để tiến hành hoạt động, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò trung gian với chức năng huy động vốn và cho vay sẽ điều hoà hai trạng thái này. Khi chất lượng cho vay được nâng cao thì khối lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông sẽ giảm, giải quyết mối quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Tạo điều kiện mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần ổn định và lưu thông tiền tệ.
Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần làm lành mạnh hoá quan hệ tín dụng vì hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hơn, thuận tiện hơn, đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng, góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết trong xã hội. Nâng cao chất lượng tín dụng làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo phát triển cân đỗi giữa các ngành, các vùng trong nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng tốt còn là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là vốn vay, hiệu quả của các khoản tín dụng gắn liền với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy để làm tốt chức năng đòn bẩy kinh tế, trước hết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
1.3.3. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng được tập hợp bởi rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Các yếu tố này ít hay nhiều tuỳ vào mỗi Ngân hàng sẽ tác động đến công tác tín dụng của Ngân hàng và tạo ra một đặc điểm riêng Chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Các Ngân hàng thường đánh giá Chất lượng tín dụng của Ngân hàng mình thông qua những chỉ tiêu đặc trưng nhất đó. Nhìn chung các chỉ tiêu thường được sử dụng nhu sau:
Chỉ tiêu định tính
Chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng tín dụng được coi là tốt khi đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Được phản ánh bởi hiệu quả kinh doanh, tốc độ tăng trưởng và phát triển của Ngân hàng, khách hàng và của nền kinh tế. Để chất lượng tín dụng cao thì khi cho vay CBTD phải xem xét khoản vay trên cơ sở những nguyên tắc chung: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích và dự án vay vốn phải có hiệu quả; Vốn vay phải được hoàn trả đủ các gốc và lãi khi đến hạn; Vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản có giá trị tương đương…
Việc tuân thủ các nguyên tắc tín dụng là yếu tố đầu tiên xây dựng nên Chất lượng tín dụng Ngân hàng. Việc tuân thủ các nguyên tắc này sẽ xuyên xuốt qua các hoạt động khác. Việc thẩm định, thanh tra, kiểm soát trước và sau khi cho vay nhằm đánh giá, phát hiện các vấn đề nảy sinh trước và sau khi cho vay. Thông qua thái độ, cách tổ chức thực hiện và kết quả cho vay trên cơ sở xem xét tính đảm bảo các nguyên tắc tín dụng, ta có thể có những đánh giá ban đầu về chất lượng tín dụng hiện tại của Ngân hàng.
Để đảm bảo chất lượng tín dụng, NHTM cần có hệ thống thông tin hiện đại, trình độ đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, đánh giá chính xác nhu cầu tín dụng thực tế của khách hàng. CBTD cần phải tuân thủ các nguyên tắc tín dụng để xem xét khách hàng một cách đầy đủ và khái quát nhất, từ đó có thể xác định nên cho khách hàng vay bao nhiêu, thời hạn tín dụng như thế nào, hình thức thu hồi nợ ra sao, tài sản đảm bảo là gì…
Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu đối với Ngân hàng
Chất lượng tín dụng Ngân hàng sẽ được phản ánh thông qua các con số, chỉ số cụ thể, Việc đánh giá các thông số sẽ cho ta biết thực tế chất lượng tín dụng Ngân hàng.
Chỉ tiêu về giá trị tuyệt đối
Chất lượng tín dụng được phản ánh thông qua các chỉ tiêu như: Tổng dư nợ cho vay, tổng doanh thu số thu nợ, hệ số sử dụng vốn, lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng, dư nợ quá hạn, nợ khó đòi…
Tổng dư nợ cho vay: Chỉ tiêu này phản ánh quy mô cho vay của Ngân hàng, phản ánh mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Cho vay là hoạt động chính của Ngân hàng nên chỉ tiêu này càng lớn phản ánh khả năng thu nhập của Ngân hàng càng cao. Tuy nhiên Tổng dư nợ cho vay chỉ phản ánh được chất lượng tín dụng khi các nguyên tắc tín dụng được thực hiện và rủi ro được đảm bảo.
Tổng doanh số thu nợ: Doanh số thu nợ phản ánh khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng. Doanh số cho vay lớn luôn phải đi kèm với doanh số thu nợ cao. Nếu doanh số thu nợ thấp tương đối cho thấy dư nợ quá hạn là qua cao, khả năng thu hồi gốc và lãi thấp, phản ánh chất lượng tín dụng không cao.
Dư nợ hiện tại: Chỉ tiêu này phản ánh số vốn của Ngân hàng đang đầu tư trên thị trường, dư nợ hiện tại cho biết khả năng thu nhập của Ngân hàng trong tương lai. Chỉ tiêu này luôn được Ngân hàng theo dõi để nắm bắt tình hính sử dụng vốn của khách hàng, nó sẽ quyết định chất lượng tín dụng của Ngân hàng trong tương lai.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng: Tất cả các NHTM đều hoạt động với mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận mà Ngân hàng thu được từ việc cho vay. Chỉ tiêu này thấp phản ánh hoạt động cho vay của Ngân hàng kém hiệu quả, khả năng thu hút khách hàng không cao. Mặt khác, lợi nhuận từ việc cho vay cao chưa thể nói chất lượng tín dụng cao. Vì vậy cần phải kết hợp lợi nhuận với các chỉ tiêu khác khi xem xét chất lượng tín dụng.
Dư nợ quá hạn, nợ khó đòi: Chỉ tiêu này phản ánh giá trị khoản nợ mà khách hàng chưa trả được cho Ngân hàng khi thời hạn tín dụng đã hết. Chỉ tiêu này càng lớn phản ánh khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng kém, hiệu quả hoạt động cho vay thấp, phản ánh sự yếu kém trong việc cho vay của Ngân hàng. Nếu tổng dư nợ quá hạn vượt qua mức theo quy định thì có thể nói Ngân hàng đang ở trong tình trạng không an toàn.
Các chỉ tiêu tương đối
- Chỉ tiêu sử dụng vốn
Tổng dư nợ cho vay
=
Hiệu suất sử dụng vốn
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sử dụng nguồn vốn huy động để cho vay của Ngân hàng. Hiệu suất sử dụng vốn luôn nằm trong khoảng 0 đến 1, cho biết Ngân hàng đã cho vay được bao nhiêu so với nguồn vốn huy động được. Hiệu suất sử vốn càng lớn thì khả năng tận dụng nguồn vốn vay của Ngân hàng càng cao. Nếu Ngân hàng cho vay quá ít so với lượng vốn huy động được, để vốn bị ứ đọng gây ra thua lỗ cho Ngân hàng do Ngân hàng phải trả chi phí cho các khoản vốn huy động được. Vì vậy Ngân hàng thương mại cần phải tận dụng sử dụng tối đa các khoản vốn huy động được, xây dựng các khoản tín dụng lành mạnh hiệu quả, Từ đó tăng quy mô và chất lượng tín dụng.
Dư nợ quá hạn
- Chỉ tiêu nợ quá hạn:
x 100
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ quá hạn (%) =
Tỷ lệ này phản ánh đúng chất lượng cho vay, chỉ số này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng tốt. Chỉ số này thể hiện một cách thực tế về chất lượng tín dụng do nó hạn chế được việc Ngân hàng có thể đảo nợ hay giãn nợ đối với các khoản cho vay đến hạn mà không có khả năng thu hồi. Tuy nhiên chỉ sử dụng chỉ tiêu này để phản ánh chất lượng tín dụng Ngân hàng là chưa đầy đủ. Vì mặc dù có những Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng ngược lại khả năng xử lý các khoản nợ này là không hiệu quả. Do vậy để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng có thể phối hợp với nhiều chỉ tiêu khác.
Doanh số trả nợ trong kỳ
- Tốc độ luân chuyển vốn:
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết trong một thời gian nhất định, vốn tín dụng quay được bao nhiêu vòng, số vòng quay vốn tín dụng càng cao phản ánh tốc độ luân chuyển vốn càng nhanh. Phản ánh hiệu quả trong sử dụng vốn. Tuy nhiên, cần phải xem xét sự gia tăng của số vòng quay có phải là do sự giảm dư nợ trong kỳ hay không. Vì giảm dư nợ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn.
Hệ số sinh lãi trên một đồng vốn =
Tổng thu lãi từ hoạt động cho vay
Tổng dư nợ
- Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lãi
Chỉ tiêu tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng Ngân hàng. Nó cho biết cứ một đồng vốn cho vay thì thu được bao nhiêu đồng lãi. Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất hiệu quả hoạt động cho vay của Ngân hàng. Nhưng để phản ánh đúng chất lượng tín dụng, chỉ tiêu này cần phải đi kèm với các tiêu chuẩn về đảm bảo an toàn trong cho vay, đảm bảo các khoản vốn vay phải được thu hồi đúng thời hạn và đầy đủ.
Ngoài các chỉ tiêu trên, chất lượng tín dụng còn thể hiện qua việc tuân thủ quy định của Ngân hàng thương mại đối với quy định của Ngân hàng Nhà nước và pháp luật:
Tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng, trừ trường hợp đối với các khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức cá nhân. Không được cho vay quá 5% vốn tự có của Ngân hàng đối với các khoản cho vay ưu đãi. Ngân hàn phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh như tỷ lệ dự trữ bắt buộc không thấp hơn 8% vốn tự có; Tỷ lệ nợ quá hạn nhỏ hơn huặc bằng 5% tổng dư nợ...
b. Chỉ tiêu về phía doanh nghiệp
Vì chất lượng tín dụng được đánh giá trên góc độ của cả Ngân hàng và doanh nghiệp nên kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng phản ánh một phần chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Kết quả đó có thể được phản ánh qua các chỉ số về khả năng sinh lãi trước và sau khi vay vốn Ngân hàng, Tổng doanh thu ròng, lợi nhuận ròng khi có sự tham gia của đồng vốn vay Ngân hàng. Ngoài ra chất lượng tín dụng Ngân hàng còn thể hiệu ở những thay đổi của doanh nghiệp khi có vốn tài trợ của Ngân hàng như thay đổi công nghệ, mô hình quản lý và kinh doanh, tăng quy mô nhờ đó tăng uy tín cho doanh nghiệp và còn nhiều giá trị vô hình khác không thể định lượng được mà tín dụng Ngân hàng đem lại cho doanh nghiệp.
Bản thân chất lượng tín dụng là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố khác nhau vê doanh nghiệp về Ngân hàng. Những yếu tố này theo một cách thức nào đó tạo nên đặc trưng về chất lượng tín dụng Ngân hàng. Vì vậy khi xem xét, đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng cần phải kết hợp rất nhiều yếu tố định tính và định lượng trên để từ đó thấy được một cách tổng quát nhất các yếu tố tạo nên chất lượng tín dụng và tiến tới xác định một các chính xác nhất chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
1.3.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng Ngân hàng bản thân nó là một khái niệm rộng. Vì vậy đứng trên các góc độ khác nhau, chất lượng tín dụng lại chịu ảnh hưởng của những yếu tố khác nhau. Những yếu tố này có thể là khách quan môi trường tác động bên ngoài hay là chủ quan ngay trong bản thân Ngân hàng. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng, các Ngân hàng phải xem xét những tác động đó là tích cực hay tiêu cực cho hoạt động tín dụng Ngân hàng. Những ảnh hưởng tích cực thì phải được gìn giữ và phát huy, còn những tác động tiêu cực ảnh hưởng xấu thì Ngân hàng phải điều chỉnh chính sách của mình nhằm loại bỏ hay hạn chế những rủi ro do ảnh hưởng đó tạo nên. Để làm được như vậy cẩn phải phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Nhân tố khách quan
Thứ nhất: Môi trường kinh tế chính trị
Đặc lớn nhất của nền kinh tế thị trường là các doanh nghiệp tồn tại và phát triển dựa trên mối quan hệ cung cầu về giá trị hàng hoá và dịch vụ. Thị trường càng phát triển thì mối quan hệ này càng khăng khít và phức tạp. Các doanh nghiệp hoạt động dưới sự tác động biến đối không ngừng của môi trường kinh tế. Ngân hàng cũng là một tổ chức kinh doanh vì lợi nhuận trong nền kinh tế, vì vậy nó cũng chịu sự kiểm soát vô hình của những quy luật trong nền kinh tế thị trường. Sự tác động này mang tính hệ thống ảnh đến mọi mối quan hệ của Ngân hàng với khách hàng, ảnh hưởng chính sách của Ngân hàng đối với khách hàng. Đơn giản khi nền kinh tế phát triển đi lên, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh làm ăn phát đạt, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của họ tăng cao, để đáp ứng được điều đó, các doanh nghiệp sẽ tìm nguồn tài trợ từ vốn vay Ngân hàng. Điều này tác động tích cực đến hoạt động tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng. Ngược lại trong nền kinh tế đang suy thoái, cung nhiều hơn cầu, các sản phẩm được sản xuất ra không tiêu thụ được, giá cả đầu vào tăng cao. Các doanh nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn phải giảm quy mô hoạt đông sản xuất kinh doanh của mình để tránh tình trạng phá sản. Trong điều kiện kinh tế như vậy, Ngân hàng sẽ gặp muôn vàn khó khăn, nguồn vốn huy động sẽ không cho vay được, các khoản nợ đến hạn khó và không thể thuy hồi do tình trạng làm ăn không hiệu quả của các doanh nghiệp. Chất lượng tín dụng lúc này là rất tồi và Ngân hàng khó có thể tránh được tình trạng thua lỗ đôi khi là phá sản của Ngân hàng.
Chính trị cũng là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Đặc biệt là nước ta vừa mở của nền kinh tế chưa lâu và mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Do đó Chính trị là một vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp, là một nền tảng để phát triển quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và Ngân hàng. Chính trị ổn định, các nhà đầu tư sẽ yên tâm tiến hành hoạt động sản suất kinh doanh của mình mà không sợ tài sản của mình bị “Quốc hữu hóa”...Ngược lại Chính trị bất ổn các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài coi đó là một trở ngại lớn không dám đầu tư hay mở rộng sản xuất kinh doanh, quan hệ tín dụng của Ngân hàng với doanh nghiệp qua đó cũng bi hạn chế. Làm hạn chế chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Chính sách của Nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế là một yếu tố điều chỉnh cơ sở hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Chính sách ưu tiên phát triển một vùng hay ngành kinh tế nào đó của Chính phủ tạo điều kiện rất lớn để khu vực hay ngành kinh tế đó tăng trưởng, thu hút các nhà đầu tư và các doanh nghiệp mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo động lực gia tăng quy mô tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng.
Thứ hai: Môi trường pháp lý
Hoạt động của Ngân hàng cũng như mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Vì vậy một hệ thống pháp luật thống nhất rộng rãi và ổn định là môi trường thuận lợi để Ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng sẽ điều chỉnh chiến lược và chính sách kinh doanh của mình phù hợp với pháp luật theo mục tiêu an toàn và tối đa hóa lợi nhuận. Những chính sách kinh tế thị trường như chính sách thương mại, chính sách tài khóa, tiền tệ của Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng. Ví dụ đơn giản khi Nhà nước ban hành chính sách ưu tiên hoạt động xuất khẩu, Các nhà đầu tư sẽ chuyển hướng sang hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu, nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh xuất khẩu tăng nhanh. Quá trình luân chuyển vốn gia tăng. Quy mô tín dụng được mở rộng, Ngân hàng tận dụng được tối đa nguồn vốn huy động. Chất lượng tín dụng do vậy được nâng cao.
Thứ ba: Nhân tố thuộc môi trường tự nhiên và xã hội
Môi trường tự nhiên là nhân tố tác động gián tiếp đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên xảy ra thiên tai lũ lụt. Do đó điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt với một số ngành như nông nghiệp, thuỷ hải sản. Việc đầu tư vào những ngành này thường xảy ra tổn thất do rủi ro môi môi trường tự nhiên gây ra. Gián tiếp ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng khi cho vay đối với lĩnh vực này.
Quan hệ tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nền tảng tin tưởng lẫn nhau. Sự tín nhiệm là nền tảng quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng có được sự tín nhiệm của khách hàng càng cao thì khả năng thu hút lượng khách hàng càng lớn. Bên cạnh đó khách hàng nếu có được sự tín nhiệm của Ngân hàng thì sẽ dễ giàng nhận được những khoản tín dụng với quy mô lớn và có thể với lãi suất ưu tiên.Vì vậy một xã hội mà cơ sở tin tưởng lẫn nhau được tôn trọng hàng đầu thì hoạt động tín dụng đơn giản hơn rất nhiều. Chất lượng tín dụng sẽ được đảm bảo.
Mặt khác, một xã hội kém văn minh có thể làm cho những khỏan vốn vay được đầu tư không hiệu quả, dân đến những khó khăng trong việc thu hồi vốn. Hay một xã hội trong đó đạo đức có vấn đề thì những rủi ro đạo đức do thông tín không đôi xứng, khách hàng có thể lợi dụng lòng tín của Ngân hàng để lừa đảo, tiến hành sai mục đích các khoản vốn được vay, gây ra rủi ro cao cho Ngân hàng trong việc thu hồi vốn và lãi. Rủi ro tín dụng cao do đạo đức khách hàng làm cho chất lượng Ngân hàng giảm mạnh.
Nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Về phía Ngân hàng
Thứ nhất: Chính sách tín dụng của Ngân hàng
Chính sách tín dụng là hệ thống các quy định vàbiện pháp nhằm khuyếch trương hay hạn chế tín dụng để đảm bảo mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng. Tủy thuộc vào từng thời kỳ và vào đặc điểm của mình, mỗi Ngân hàng mà có những chính sách tín dụng khác nhau. Chính sách tín dụng của mỗi Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của mỗi món vay, số lượng các khoản vay, hình thức vay vốn hay các điều kiện đảm bảo cho mỗi món vay và nhiều yếu tố khác...Chính sách tín dụng của Ngân hàng không những phụ thuộc vào mục tiêu của mỗi Ngân hàng mà còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như chính sách của Ngân hàng Nhà nước và sự quản lý của các cơ quan chức năng. Chính sách tín dụng của Ngân hàng hướng dẫn hoạt động cho vay hàng ngày của CBTD và rõ ràng có tác dụng làm gia tăng chất lượng tín dụng.
Thứ hai: Trình độ CBTD
Chính sách tín dụng là cơ sở cho hoạt động tín dụng diễn ra an toàn và phát triển. Nhưng CBTD mới là người quyết định đến việc chính sách tín dụng đó có được thực hiện đúng và kịp thời hay không. CBTD là người quyết định đến hiệu quả của các khỏan tín dụng cho dù bên cạnh đó có các phương tiện thiết bị thông tin hỗ trợ hiện đại. Vì vậy mỗi CBTD phải đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức. Phải đảm bảo những hiểu biết nhất định về khoa học công nghệ, về thị trường kinh tế, về pháp luật và về những vấn đề có liên quan. Ngược lại một CBTD hạn chế về trình độ và đạo đức có vấn đề thì rủi ro tiềm ẩn đối với mỗi Ngân hàng là vô cùng lớn, Khi rủi ro xảy ra sẽ đặt Ngân hàng trước những tổn thất không lường hết được. Do vậy việc quan tâm, nâng cao trình độ cũng như phảm chất đạo đức cho CBTD là có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần hạn chế rủi ro tiểm ẩn đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng.
Thứ ba: Công tác tổ chức Ngân hàng
Ngân hàng muốn hoạt động được ổn định và thường xuyên thì bản thân phải được tổ chức và sắp sếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng, thống nhất từ trên ban lãnh đạo đến từng cán bộ công nhân viên chức, giữa các phòng ban trong Ngân hàng, giữa các Ngân hàng trong hệ thống, cũng như giữa Ngân hàng với các cơ quan quản lý khác như Ngân hàng Nhà nước, cơ quan thuế, pháp luật... Việc tổ chức quản lý này sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời các khoản vốn cho khách hàng, theo dõi sát sao các khoản vốn huy động cũng như các khỏan vốn cho vay. Tổ chức Ngân hàng chặt chẽ là cơ sở để tiến hành các hoạt động tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn tín dụng. Tổ chức Ngân hàng theo nguyên tắc tập trung có sự phân cấp là một khâu trong quá trình quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ, cơ sở để đảm bảo chất lượng tín dụng.
Thứ tư: Yếu tố thông tin
Thông tin tín dụng có vai trò vô cung quan trọng trong viêc quyết định đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Nhờ có thông tín tín dụng, trên cơ sở đó Ngân hàng có thể đưa ra những quyết định cần thiết đối với hoạt động cho vay, theo dõi và quản lý các khoản vay. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ rất nhiều nguồn khác nhau như từ những thông tín sẵn có của Ngân hàng, thông tin của khách hàng và các nguồn thông tin khác. Tổng hợp những nguồn thông tin đó, CBTD có thể đánh giá tính an toàn và hiệu quả của các phương án cho vay, các yếu tố đảm bảo tiền vay. Trên cơ sở đó xây dựng phương án thu hồi nợ vay. Số lượng, chất lượng thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác trong việc phân tích khách hàng, thị trường và ảnh hưởng đến các quyết định kinh doanh của Ngân hàng. Thông tin càng tin cậy, cập nhật, chính xác và đầy đủ thì tính hiệu qủa của món vay sẽ cao, khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng càng lớn, chất lượng tín dụng càng cao, Ngược lại có những khoản cho vay mà thông tin liên quan thiếu chính xác, không đầy đủ sẽ tiềm ẩn rủi ro rất cao có thể gây tổn thất lớn cho Ngân hàng. Thông tin càng đặc biệt quan trọng đỗi với chất lượng tín dụng trong những khoản vay tiềm ẩn rủi ro về đạo đức, về lựa chọn đối ngịch do thông tin không đối xứng.
Thứ năm: Trang thiết bị, công nghệ thông tin
Để có được chất lượng tín dụng tốt, cùng với việc nâng cao chất lượng CBTD, công tác hoạch định chính sách, tổ chức quản lý Ngân hàng…Ngân hàng cần chú ý quan tâm đến trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Trang thiết bị hiện đại, tiện dụng, phù hợp với mức độ hoạt động của Ngân hàng sẽ giúp cho Ngân hàng: Phục vụ kịp thời các nhu cầu tín dụng của khách hàng với chi phí và thời gian ngắn nhất, đồng thời dễ dàng nắm bắt hoạt động và kiểm soát mục đích sử dụng vốn khách hàng sau khi cho vay. Trang thiết bị hiện đại tạo ra cho Ngân hàng uy tín trong cạnh tranh mở rộng thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường đồng thời dễ dàng thu thập thông tin về thị trường làm qua đó có hướng điều chình phù hợp với thị trường. Trang thiết bị thông tin đã là một phần không thể thiếu để đảm bảo chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Thứ sáu: Quy trình tín dụng của Ngân hàng
Quy trình tín dụng là một yếu tố chủ quan tác động rất lớn vào chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không phụ thuộc vào việc quy trình tín dụng đó của Ngân hàng là tốt nhất hay chưa và việc CBTD đã thực hiện đúng các bước trong quy trình tín dụng hay không. Quy trình tín dụng là tập hợp các nguyên tắc quy định của Ngân hàng trong việc cấp tín dụng trong đó đã xây các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định kể từ khi CBTD chất nhận hồ sơ khách hàng cho đến khi kế toán viên tất toán và thanh lý hợp đồng tín dụng.
Trình tự Quy trình tín dụng nếu là khoa học, hợp lý, thuận tiện cho cả Ngân hàng và khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng thu hút được đông đảo khách hàng, giảm thời gian giao dịch và khả năng xảy ra rủi ro gây thất thoát vốn cho Ngân hàng. Ngược lại nếu Quy trình cho vay không khoa học sẽ gây mất thời gian và công sức cho cả Ngân hàng và khách hàng hơn trong mỗi hợp đồng vay vốn. Hiệu quả hoạt động tín dụng không cao có thể làm mất đi uy tín và lượng lớn khách hàng của Ngân hàng. Làm tổn thất về thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy việc xây dựng một quy trình tín dụng khoa học hợp lý, phù hợp với điều kiện phát triển của Ngân hàng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng.
Về phía doanh nghiệp
Hiệu quả kinh doanh của doanh ngiệp cũng là một yếu tố tạo nên chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Vì vậy những yếu tố nào ảnh hưởng đến kết quả họat động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất: Trình độ khách hàng
Đó là trình độ sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý của doanh nghiệp đôi với hoạt động kinh doanh của mình. Nếu trình độ quản lý tốt, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì Ngân hàng sẽ không có khó khăn gì trong việc thu hồi nợ. Ngược lại trình độ sản xuất kinh doanh yếu kém, khả năng quản lý còn thiếu thì việc làm ăn thua lỗ là điều khó tránh khỏi. Khi rủi ro xảy ra, doanh nghiệp mất khả năng về tài chính, lúc này việc thu hồi vốn vay là vô cùng khó khăn đối với Ngân hàng. Ngân hàng đã đứng trước tốt thất tín dụng do khách hàng gây ra.
Thứ hai: Đạo đức khách hàng
Ngân hàng rất khó có thể nhận biết được tính trung thực của khách hàng trước và sau khi món vay được giải quyết. Khách hàng có thể sử dụng vốn sai so với mục đích trong hợp đồng. Đem vốn vay đầu tư vào những hoạt động kinh doanh có rủi co cao với mong muốn thu lợi nhuận lớn hơn. Khi rủi ro xảy ra thì toàn bộ tổn thất Ngân hàng phải gánh chịu. Chất lượng tín dụng do đó bị ảnh hưởng.
Để nâng cao chất lượng tín dụng, mỗi Ngân hàng phải xem xét vị trí và đặc điểm của mình, xem xét những nhân tố tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Từ đó có những giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện của Ngân hàng để một mặt hạn chế những tác động tiêu cực đồng thời có hướng phát huy những mặt tích cực nhằm thúc đẩy hoạt động tín dụng, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
1.4. QUY TRÌNH TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHỆIP
1.4.1. Quan niệm về quy trình tín dụng Ngân hàng
Quy trình tín dụng là bản hướng dẫn về trình tự tổ chức thực hiện các nội dung cơ bản của kỹ thuật nhiêp vụ cho vay của Ngân hàng, từ khi phát sinh cho đến khi kết thúc mà CBTD và cán bộ lãnh đạo Ngân hàng có liên quan phải thực hiện.
Quy trình tín dụng được sọan thảo với mục đích giúp cho quá trình vay diễn ra thống nhất, khoa học, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của khách hàng.
Quy trình tín dụng được sọan thảo với tính chất định hướng cơ bản và tổng quát nhất. CBTD cần căn cứ vào từng đặc điểm, tính chất của từng món vay, từng điều kiện thực tế và khách hàng để khai thác, sử dụng nội dung quy trình theo mức độ hợp lý và hiệu quả nhất cho Ngân hàng.
1.4.2. Vai trò của quy trình tín dụng đối với chất lượng tín dụng Ngân hàng
Quy trình tín dụng bắt đầu từ khi CBTD tiếp nhận hồ sơ cho đến khi Ngân hàng thu hồi khoản nợ vay đó. Quy trình tín dụng bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau theo một trình tự thống nhất. Trình tự những giai đoạn này nếu là khoa học, hợp lý thì hoạt động tín dụng sẽ được diễn ra trôi chảy, hiệu quả tín dụng tăng cao làm tăng uy tín, lợi nhuận cho Ngân hàng đồng thời thu hút được nhiều khách hàng hơn nữa. Khách hàng cũng sẽ nhận được những dịch vụ tốt nhất từ phía Ngân hàng, làm cơ sở để tiến hành hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất.
Ngược lại nếu quy trình tín dụng không hợp lý sẽ làm cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng bị gián đoạn, hiệu quả của hoạt động cho vay không cao, gây mất thời gian cho khách hàng ảnh hưởng đến hoạt động sử dụng vốn vay của khách hàng. Vì vậy việc định ra một quy trình tín dụng hợp lý là vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng Ngân hàng.
Tổng kết chương I
Chương I đã cho biêt tổng quan về Ngân hàng thương mại và họat động tín dụng Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong đó nhấn mạnh vai trò hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng của Ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển của bản thân Ngân hàng, của doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy chất lượng tín dụng luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu của Ngân hàng. Là kim chỉ nam để Ngân hàng định hướng cho hoạt động cho vay của mình. Quy trình t._.cán bộ kiểm tra, tạo điều kiện cử đi học các lớp cao học, đại học, các lớp bỗi dưỡng nghiệp vụ do Trung tâm đào tạo tổ chức, đào tạo trình độ ngoại ngữ tín học cho cán bộ.
Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ bằng hiều hình thức, với nội dung kiểm tra cụ thể và chặt chẽ nhằm nâng cao ý thức chấp hành các thể lệ, chế độ quy định, đặc biệt khâu kiểm tra công tác tín dụng tại Chi nhánh.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CẢI TIẾN QUY TRÌNH CHO VAY ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Ở NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
3.2.1. Giải pháp cụ thể cải tiến quy trình cho vay
Việc thực hiện cho vay theo quy trình tín dụng chung do NHNT Việt Nam xây dựng ở Chi nhánh NHNT Hà nội đã tạo ra không ít khó khăn bất cập cho Chi nhánh, làm cho hoạt động cho vay của Chi nhánh trở nên cứng nhắc hơn, bỏ qua nhiều cơ hội cho vay. Đặc biệt Quy trình cho vay chung này mới được xây dựng và áp dụng thí điểm tại ngân hàng. Quy trình mới này đã buộc lộ những nhược điểm và hạn chế mà bản chất khi áp dụng một quy trình mới tất yếu phải có. Vấ đề đặt ra cho NHNT Hà nội trong những năm tới là phải khắc phục, sữa chữa những hạn chế đó, Tổ chức lại hệ thống, xây dựng chính sách cho vay phù hợp hơn với quy trình mới. Cụ thể:
Phân tích, đánh giá chính xác khách hàng vay vốn
Tìm hiểu thông tín nhiều phía khác nhau về khách hàng để nhận biết khách hàng có phải là đối tượng đủ điều kiện vay vốn hay không. Phân tích đánh giá khách hàng về những tiêu chí: Năng lực pháp lý của khách hàng, điều này nhằm ràng buộc trách nhiệm pháp lý của khách hàng trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng. Về năng lực tài chính của khách hàng, về khả năng quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình hoạt động kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp và dự báo xu hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động. Những yếu tố này quyết định đến hiệu quả của việc sử dụng vốn vay của khách hàng, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng.
Nâng cao công tác thẩm định
Thẩm định là khâu quan trọng nhất trong quy trình cho vay, quyết định đến hiệu qủa của món vay. Nâng cao hiệu quả thẩm định sẽ giúp cho ngân hàng thuận lợi hơn trong việc tham gia tư vấn, nhận biết rõ tình hình thực tế khách hàng, từ chối ngay dự án không khả thi, giảm thiểu rủi ro cho khách hàng. Nâng cao hiệu quả kiểm soát hoạt động sử dụng vốn vay của khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần làm tốt những công việc sau:
* Nâng cao chất lượng thu thập thông tin khách hàng: Để thẩm định và phân tích tín dụng, CBTD có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, từ nguồn thông tin chính thức, từ việc kiểm tra đặc điểm mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn đến các báo cáo tài chính của họ.
Thu thập thông tin từ hồ sơ sổ sách của ngân hàng về quan hệ tín dụng trước đây của khách hàng với ngân hàng như việc xin vay và thu tình hình thu nợ của khoản vay trước đây, doanh số hoạt động, số dư tài khoản tiền gửi thanh toán.
Thông tin từ bên ngoài: Hầu hết các ngân hàng đều không chú ý đến nguồn thông tin này, song nó giúp ích vô cùng nhiều cho CBTD khi đưa ra quyết định cho vay khách hàng mới. Trung tâm thông tin của Ngân hàng Nhà nước có thể cung cấp những thông tin rất cần thiết như Doanh nghiệp đã vay vốn ở ngân hàng nào rồi, hiệu quả của món vay như thế nào, tình hình trả nợ.
Điều tra thông tin qua các cơ quan tài chính, thuế, quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, thông tin từ người cung cấp và khách hàng tiêu thụ sản phẩm của khách hàng, có thể phối điều tra trực tiếp từ những ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với khách hàng. Thông tin về ngành kinh doanh, ngành nghề doanh nghiệp hoạt động có thế mạnh gì, xu hướng phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên những thông tin này thường không cập nhật do quá trình thu thập mất thời gian vì vậy ngân hàng phải chú ý trong xử lý nguồn thông tin này.
Thu thập từ nguồn thông tin trực tiếp nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. CBTD có thể trực tiếp thị sát nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó hiểu được mức hộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trình độ quản lý của họ. Đặc biệt CBTD cần lưu ý về hệ thống tổ chức, tính hữu hiệu trong hoạt động và lao động của đội ngũ cán bộ làm công. Vẻ gọn gàng, trang thiết bị máy móc đầy đủ, tác phong nhanh nhẹn, phong cách làm việc công nghiệp, lịch sự là dấu hiệu lành mạnh của doanh nghiệp. Sự bận rộn hay rảnh rỗi của đội ngũ công nhân, sản xuất đình trệ hay phát triển, tình hình hàng tồn kho và chất lượng hàng hóa là những thông tin rất cần thiết.
Thông tin từ báo cáo tài chính: Khách hàng muốn vay vốn phải cung cấp thông tin báo cáo tài chính thường xuyên cho ngân hàng. Báo cáo tài chính phản ánh khả năng sinh lời, nhu cầu vốn xin vay và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên chất lượng của các báo cáo tài chính thường không đảm bảo vì vậy CBTD cần cân nhắc kỹ các nguồn thông tin mà mình thu thập được.
Ngoài ra, bằng kinh nghiệm của bản thân CBTD và điều kiện thực tế, NHNT hà nội cần xây dựng cho mình một hệ thống thông tin cần thiết về giá cả, sản phẩm thị trường trong nước và quốc tế, các tiêu chuẩn về chỉ tiêu hiệu qủa tài chính, an toàn tài chính để CBTD có cơ sở so sánh khi tiến hành thẩm định.
* Nâng cao chất lượng xử lý thông tin Sau khi thu thập được thông tin đầy về khách hàng, CBTD phải tiến hàng xử lý những thông tin hỗn hợp đó. Nếu chủ quan, không có phương pháp xử lý, CBTD có thể đưa ra những kết luận sai lầm dẫn đến huặc bỏ lỡ những món cho vay có hiệu quả huặc tiến hành cho vay những khoản vay không hiệu quả, tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho ngân hàng. Vì vậy đối với những đơn vị lớn như NHNT hà nội, cần xây dựng những phương pháp xử lý thông tin, nâng cao chất lượng đánh giá khách hàng qua thông tin có được.
Ra quyết định cho vay trên cơ sơ hiểu rõ khách hàng vay
Tìm hiểu ra đánh giá khách hàng vay cần được xem xét trên nhiều mặt. Trước hết, phải đảm bảo nguyên tắc tín nhiệm trong quan hệ vay trả. Thứ hai, đảm bảo nguyên tắc người vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý, năng lực tài chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ cam kết đối với các khoản vay. Thứ ba, phải đảm bảo được nguyên tắc xây dựng các phương án dự phòng trả nợ vay của khách hàng.
Thông trường để tránh rủi ro không trả được nợ của khách hàng. Việc cho vay còn phải dựa trên cơ sơ đảm bảo tiền vay với tính khả thi cao của khách hàng. Đảm bảo tiền vay có nhiều loại: Đảm bảo bằng cầm cố, thế chấp tài sản; Đảm bảo bằng tài sản huặc bảo lãnh của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay và bằng chính sự tín nhiệm lẫn nhau trong quan hệ tín dụng. Với hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi đi vay đều phải có tài sản đam bảo, son để đối phó với điều kiện đó, một số doanh nghiệpn đã lừa đảo ngân hàng trong việc kê khai sai tài sản, kê khai tài sản bất hợp pháp, gây khó khăn cho ngân hàng khi phát mại tài sản. Đây cũng là một thiếu sót lớn của CBTD khi không thẩm định kỹ khách hàng.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát khoản vay
Sau khi giải ngân cho khách hàng, CBTD phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện dự án, tình hình sử dụng vốn vay có đúng mục đích đã cam kết không. Đây là giai đoạn vô cùng quan trọng vì nó giúp cho cán bộ sớm phát hiện những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra những biện pháp xử lý thích hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh rủi ro sau này. Tuy nhiên, một vấn đề hiện nay là các ngân hàng không được cung cấp đầy đủ thường xuyên thông tin chính xác từ phía khách hàng nhất là thông tin tài chính kế toán, thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, CBTD cần phải tận dụng triệt để những lần tiếp xúc trực tiếp với khách hàng khi đến thăm trực tiếp cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay khi khách hàng đến ngân hàng giao dịch và qua thông tin của những người biết đến doanh nghiệp để xác định mức độ khác biệt giữa phương án xin vay với thực tế, chiều hướng tốt hay xấu, đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng như thế nào, giá trị thực tế tài sản đảm bảo ra sao, trách nhiệm của người chủ doanh nghiệp như thế nào. Để đạt kết quả tốt trong công tác kiểm tra, kiếm soát khách hàng, CBTD cần tiến hành những hoạt động sau:
Kiểm tra định kỳ khách hàng dựa trên báo cáo tài chính khách hàng
Kiểm tra thường xuyên đột xuất tại cơ sơ hoạt động của khách hàng
Theo dõi tình hình, xu hướng vận động và phát triển của các ngành nghề có liên quan để có biện pháp điều chỉnh việc cho vay khách hàng ở những ngành này cho kịp thời khi có những biến động đột xuất. Kiểm tra thu thập thông tin thu được từ những nguồn khác.
Tất cả những hoạt động đó sẽ giúp CBTD có được hiểu biết chính xác nhất tình hình tài chính của khách hàng, những khó khăn của khách hàng để có kế hoạch giúp đỡ khách hàng trong quả trình vay vốn, thu nợ và lãi kịp thời, chủ động đưa ra biện pháp kiểm soát kịp thời nhằm tăng chất lượng cho vay doanh nghiệp.
Tăng cường công tác thu hồi nợ và chủ động giải quyết nợ có vấn đề
Khi cấp tín dụng, các ngân hàng đều muốn khách hàng hoàn trả đúng hạn món nợ theo hợp đồng, Nhưng trên thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như ta đã biết làm cho khỏan vay phát sinh vấn đề. Do vậy trong công tác thu hội nợ, cần chú ý tới những món vay có vấn đề và cần có những giải pháp ngăn chặn kịp thời. Món vay có vấn đề ở đây được hiểu là mon vay đã quá hạn huặc món vay chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ do mất khả năng thanh toán, do thua nợ huặc do doanh nghiệ có biểu hiện vi phạm pháp luật. Xử lý món vay có vấn đề chính là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Trước hết CBTD phải nắm bắt được các dấu hiệu của món vay có vấn đề:
Doanh nghiệp trì hoàn nộp báo cáo tài chính, huặc nhìn vào các báo cáo tài chính thấy có những dấu hiệu bất thường của các chỉ tiêu.
Số dư tiền gửi giảm, xuất hiện việc rút tiền quá số dư.
Gia tăng hàng tồn kho. Gia tăng về tài sản cố định, gây giảm khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
Sự chậm trễ trong việc trả lãi và gốc theo định kỳ. Nợ trong thanh toán cao. Công tác tổ chức của doanh nghiệp có sự biến đổi như thay đổi ban lãnh đạo.
Khi thấy dấu hiệu của nợ có vân đề, ngân hàng cần tiến hành ngay các biện pháp thiết thực như:
Tư vấn cho khách hàng về việc bán sản phẩm, thu hồi công nợ huặc có thể gia tăng thêm vốn vay cho doanh nghiệp khi thấy triển vọng trong phương án sản xuất kinh doanh để duy trì hoạt động và có lãi trả cho ngân hàng.
Để nghị doanh nghiệp cắt giảm bớt kế hoạch đầu tư trung và dài hạn, mua sắm tài sản chỉ thật cần thiết và cắt giảm một số hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thậm chí phí kiếm soát thu nhập và chi phí của khách hàng để tập trung vốn thu hồi nợ.
Khuyến khích doanh nghiệp hợp nhất với doanh nghiệp khác nếu cần thiết. Huặc yêu cầu doanh nghiệp đưa thêm tài sảm đảm bảo.
Cùng với những biện pháp trên, ngân hàng cần phải động viên thuyết phục khách hàng có ý thức trách nhiệm và cố gắng trong việc thanh toán số nợ đã quá hạn cho ngân hàng. Có thể chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng như gia hạn nợm giãn nợ huặc có thể cho vay thêm đối với những khách hàng đang có nợ quá hạng dưới sáu tháng do nguyên nhân bất khả kháng nhưng dự án kinh doanh tiếp theo có hiệu quả nhằm tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng và phải giám sát chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay cho đến khi số nợ vay mới và nợ quá hạn cũ được trả hết.
Nếu doanh nghiệp trong tình trạng lỗ lớn không thể tiếp tục duy trì hoạt động và ngân hàng đã áp dụng hết các biện pháp khai thác, thương lượng nhưng khách hàng vẫn chây ỳ không có thiện chí trả nợ. Ngân hàng cần có biện pháp xử lý tài sản đảm bảo huặc đưa ra cơ quan pháp luật giải quyết. Đây là biện pháp ngân hàng không hể muốn áp dụng vì mất khách hàng và giảm uy tín của ngân hàng. Ngân hàng có thể gặp phải những thủ tục pháp lý rắc rối do hệ thống pháp luật Việt Nam chưa hoàn chỉnh và thống nhất. Việc xử lý bằng tòa án phải qua nhiều khâu nhiều công đoạn mất thời gian và chi phí. Vì vậy tốt nhất, khi nhận thấy dấu hiệu nợ có vấn đề, ngân hàng cần phải áp dụng tốt, linh hoạt, kịp thời và triệt để các biện pháp khai thác thương lượng để vừa tránh khó khăn cho khách hàng vừa tăng uy tín cho ngân hàng và ngân hàng vẫn thu được nợ. Tuy nhiên trước khi áp dụng các biện pháp thanh lý, ngân hàng cần ra soát, phân tích đánh giá đúng thực trạng của khoản nợ quá hạn, xác định món nợ nào còn tài sản đảm bảo, khả năng thanh lý tài sản đó để thu hồi nợ.
Ngoài ra để tăng tính hiệu quả trong giải quyết nợ quá hạn. Ngân hàng nên tăng cường mối quan hệ với chính quyền sở tại nơi doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình và các cơ quan chức năng thông qua hình thức như hội nghị khách hàng, tổng kết hoạt động kinh doanh…Đồng thời phải thành lập một bộ phận xử lý nợ có vấn đề bao gồm những người có chuyên môn nghiệp vụ cao, vừa am hiểu pháp luật vừa nhạy bén trong kinh doanh và QHKH để giúp cho công tác thu hồi nợ tốt hơn.
Đơn giản hóa thủ tục cho vay
Thực hiện cho vay theo quy trình mới, mỗi món vay phải trải qua tám bước. Đặc biệt là giai đoạn trước khi cho vay, có quá nhiều thủ tục, ý kiến của các cán bộ lãnh đạo khác nhau về món vay. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng là bên cạnh việc tuân thủ quy trình cho vay mơi của NHNT Việt Nam, Chi nhánh ngân hàng cần sư dụng các biện pháp để đơn giản hóa đến mức thấp nhất có thể chấp nhận được các thủ tục cho vay. Nhằm giảm bớt khối lượng công việc thẩm định trước cho vay và tạo điều kiện cho món vay của khách hàng được thực hiện nhanh.
Để giảm thiểu rủi ro do sự phức tạp của thủ tục vay vốn mang lại. Các giấy tờ không cần thiết nên loại bỏ. Một hồ sơ vay vốn không nhất thiết phải trải qua đúng trình tự ba phòng (Phòng QHKH; Phòng Quản lý rủi ro tín dụng; Phòng QLN). Nhất là khi các khách hàng đã có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Các hồ sơ tín dụng phải được xây dựng theo khuôn mẫu để một mặt ngân hàng dễ dàng trong quản lý khách hàng, mặt khách tạo sự thuận tiện cho khách hàng trong khai báo thông tin. Đối với các hợp đồng cầm cố thể chấp, bảo lãnh. Nội dung cần phải súc tích ngắn gọn, phương thức xử lý tài sản đảm bảo phải được ghi cụ thể trong hợp đồng tránh những phát sinh không đáng có sau này. Các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và quyền sử dụng hợp pháp của tài sản cũng nên ghi rõ trong hợp đồng và lưu kèm với hợp đồng tín dụng để tiện quản lý và xử lý khi cần thiết.
Cách thức tiếp nhận hồ sơ khách hàng cũng nên thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng khi muốn liên lạc với CBTD. Ngân hàng nên phân công mỗi CBTD phụ trách từng lĩnh vực huặc từng địa bàn hay từng loại doanh nghiệp cụ thể. Sự phân công này phải công khai để khách hàng chủ động trong mối quan hệ. Khi cần khách hàng có thể liên hệ thực tiếp để tiến hành công việc với CBTD liên quan. Tạo cách thức làm việc khoa học và hiệu quả.
Đa dạng hóa hoạt động cho vay
Hiện nay theo quy định của ngân hàng Nhà nước, có bảy phương thức cho vay và khuyến khích các ngân hàng đa dạng hóa các hình thức cho vay. Nhưng trên thực tế tại NHNT hà nội, hoạt động cho vay còn đơn điệu, chưa sử dụng hết các hình thức cho vay được phép. Chủ yếu là cho vay trong lĩnh vữc xuất khẩu. Việc cho vay đơn điệu đôi khi gây ra sự bất lợi cho khách hàng khi sử dụng vốn vay theo phương thức không phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Làm cho ngân hàng khó kiểm soát món vay.
Trong hoạt động tín dụng, đa dạng hóa hình thức tín dụng luôn là tín hiệu tốt chất lượng tín dụng của ngân hàng. Với lý thuyết “không nên để quá nhiều trứng vào một giỏ”. Ngân hàng cần thực hiện những công việc như đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa lĩnh vực ngành nghề cho vay, đa dạng hóa hình thức tín dụng, hình thức đảm bảo món vay, tham gia đồng tài trợ.
Đa dạng hóa hình thức tín dụng: NHNT hà nội hiện nay cho vay theo rất ít phương thức, một phần lớn vốn huy động được, ngân hàng dùng vào việc điều chuyển vốn nội bộ. phần còn lại được cho vay theo các hình thức như cho vay theo hạn mức, cho vay từng lần, cho vay trả góp (Hình thức cho vay này có quy mô rất nhỏ). Vì vậy ngân hàng nên có những biện pháp tích cực hơn theo hướng hấp dẫn khách hàng vào các sản phẩm dịch vụ khác như cho vay luân chuyển, cho vay gián tiếp thông qua tổ đội , nhóm. Tiếp tục phát triển các dịch vụ bảo lãnh, thực hiện các dịch vụ bảo lãnh mới như bảo lãnh đối ứng, bảo lãnh chất lượng sản phẩm. Bên cạnh quá trình thực hiện đa dạng hóa hình thức tín dụng, ngân hàng cần chú ý tới chất lượng các loại hình tín dụng, tránh việc đan dạng hóa các loại hình tín dụng nhưng vô tình lại đa dạng hóa các loại rủi ro gây tổn thất cho ngân hàng.
Tránh tập trung vốn quá lớn vào một lĩnh vực đầu tư: Ngoài việc thu thập thông tín phân tích và xử lý thông tin khách hàng một cách toàn diện. Việc nghiên cứu thông tin kinh tế thị trường có liên quan đến công tác tín dụng là một yếu tố vô cùng cần thiết. Lãnh đạo ngân hàng, CBTD cần tập trung nghiên cứu về những lĩnh vực ngành nghề kinh doanh mang tính thiết yếu, đang phát triển có hiệu quả, được Nhà nước và địa phương khuyến khích. Từ đó đa dạng hóa, lựa chọn ra những dự án có hiệu quả để tiến hành cho vay. Thực hiện phân tán rủi ro tín dụng.
Phát triển cho vay đồng tài trợ: Hợp tác với các ngân hàng khác trên địa bàn hà nội cùng cho vay những dự án lớn để cùng san sẽ rủi ro và nâng cao hiệu quả món vay do có sự kiểm soát của nhiều ngân hàng. Đồng thời có thể học hỏi được kinh nghiệm cho vay của Ngân hàng khác.
Thực hiện bảo đảm tiền vay
Hiện nay, ngân hang ngoại thương hà nội chủ yếu áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp. Trong khi đó đặc điểm doanh nghiệp Việt Nam nguồn vốn thấp, giá trị tài sản đảm bảo không đáng kể thậm chí không có. Để đảm bảo cho cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng đồng thời đảm bảo tính an toàn của khoản vốn vay. Ngân hàng cần phối hợp nhiều hình thức đảm bảo khác nhau để giải quyết được nhiều nhất nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp. Có thể phân loại một số hình thức đảm bảo sau:
Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần vốn vay còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đảm bảo đủ nợ theo hơp đồng.
Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần vốn vay còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp dùng tài sản hình thành từ vốn vay để tiếp tục đảm bảo cho phần vốn vay còn lại.
Đối với doanh nghiệp không đủ điểu kiện thực hiện cả hai biện pháp bảo đảm trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn thông qua để xem xét mức độ hiệu quả của món vay. Từ đó quyết dịnh có cho vay hay không và cho vay ở mức bao nhiêu.
Bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro như tính hợp pháp của quyền sở hữu của tài sản đem thế chấp, sự biến động giá của tài sản đem thể chất theo thị trường và những tác động khác gây hư hại cho tài sản. Vì vậy không những đa dạng hóa các hình thức đảm bảo mà phải có phương pháp quản lý tài sản cụ thể, có kế hoạch xây dựng kho bãi để cất trữ và bảo quản những tài sản này nhằm tránh những mất mát, giảm giá trị của tài sản thế chấp.
Bên cạnh các hình thức bảo đảm bằng thế chấp, ngân hàng có thể linh động áp dụng thêm các hình thức như: Đảm bảo bằng các giấy tờ có giá. Trong điều kiện thị trường chứng khoán như hiện nay thì Trái phiếu Chính phủ là loại chứng khoán có tính ổn định cao nhất, chứa đựng ít rủi ro nhất. Vì vậy ngân hàng nên mở rộng thêm hình thức đảm bảo này. Ngoài ra còn có các hình thức như đảm bảo bằng các khoản phải thu, hàng tồn kho, các hợp đồng. Tuy nhiên những hình thức này đòi hỏi nhiểu thủ tục và ngân hàng cần chú ý kiểm tra theo dõi.
Đề cao công tác tổ chức, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào của ngân hàng, yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định. Vì vậy công tác tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ đặc biệt là CBTD phải thường xuyên, là hoạt động không thể thiếu đối với kế hoạch cho vay và kinh doanh dài hạn của ngân hàng. Nhằm mục tiêu tối thiểu hóa rủi ro do nguyên nhân chủ quan của CBTD gây ra.
NHNT là ngân hàng có đội ngũ cán bộ với bằng cấp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, được đào tạo qua các trường lớp cả chính quy và và tại chức về ngành ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Tuy nhiên do tính chất phức tạp và biến động hàng ngày của nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay ngày càng đa dạng và phức tạp, biến đổi nhanh hơn so với sự thích nghi của CBTD. Do vậy để đội ngũ CBTD có thể đáp ứng được một cách tốt nhất công việc được giao. Trước hết ngân hàng phải có cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ, đồng bộ, hợp lý, luôn bám sát tình hình thực tế, xây dựng tập thể cán bộ đoàn kết, nhiệt tình có trình độ nghiệp chuyên môn sâu. Muốn như vậy, ngân hàng phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, các phương pháp kỹ thuật thẩm định dự án, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế, bổ sung các kiến thức về pháp luật, cập nhật chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Tuyển chọn nguồn nhân lực mới thực sự có chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ ngoại ngữ, tin học và các kiến thức xã hội khác, có phẩm chất đạo đức, lập trường tư tưởng vững vàng.
Xây dựng chính sách nguồn nhân lực về lâu dài, bố trí xắp xếp lại đội ngũ cán bộ để phát huy điểm mạnh và hạn chế những nhược điểm của từng cán bộ. Có chính sách hỗ trợ và khuyến khích cả về vật chất và tinh thần nhằm nâng cao trách nhiệm và khả năng làm việc của từng người, tạo lập bộ máy hoạt động thống nhất và hiệu quả.
Tổ chức việc phân công công việc cụ thể đến từng người, từng vị trí theo hướng công việc chuyên môn như:
Tiếp nhận hồ sơ khách hàng: CBTD có nhiêm vụ tìm kiếm khách hàng, tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, đi sâu tìm hiểu ban thân khách hàng, lĩnh vực hoạt động kinh doanh, tình hình tổ chức quản lý…
Thẩm định hồ sơ: CBTD có trách nhiệm xem xét lại hồ sơ khách hàng, các thông tin liên quan đến tính khả thi của phương án dự án vay, về tài sản đảm bảo… Và chịu trách nhiệm trong việc đưa ra những thông tín kết quả với cấp trên.
Giải ngân: CBQLN có nhiệm vụ quản lý dư nợ cho vay của khách hàng, xác định lãi xuất kỳ hạn vay, thu thập thông tin về tình hình kinh doanh hiện tại và kế hoạch trả nợ.
Như vậy với việc phân tách, chuyên môn hóa quyền hạn và trách nhiệm của CBTD sẽ góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho họ đồng thời tăng thêm tinh thần trách nhiệm của họ với phần việc được giao, giúp hoàn thành công việc tốt hơn và tránh những rủi ro do nguyên nhân chủ quan trong việc cấp tín dụng.
3.2.2. Một số kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước và NHNT Việt Nam
Trên đây là những giải pháp cải tiến quy trình cho vay nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp ở NHNT hà nội. Những giải pháp đó muốn có hiệu quả phải đạt đựợc sự nhất trí phối hợp của ngân hàng cùng với các cơ quan chức năng.
Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng. Nhà nước cần sớm có những biện pháp sau:
Kiến nghị đối với Chính phủ
Thứ nhất: Tạo môi trường kinh tế thuận lợi nhất. Môi trường kinh tế có vai trò quan trọng đối với chất lượng tín dụng của ngân hàng. Theo đó Chính phủ với chức năng điều tiết toàn bộ hoạt động của nền kinh tế bằng những công cụ như chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và những điều chỉnh trong hệ thống pháp luật. Trong thời gian tới, Chính phủ cần có những biện pháp cụ thể tạo môi trường kinh tế lành mạnh như: Chính phủ chỉ đạo các ban ngành có liên quan trong việc điều hành chính sách quản lý ngoại hối, nhằm thu hút một lượng lớn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường, bổ sung quỹ dữ trữ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán với nước ngoài về nhập khẩu hàng hóa dịch vụ. Chủ động kiểm soát được tỷ giá ngoại tệ trên thị trường tự do và trên thị trường liên ngân hàng. Đồng thời khuyến khích cơ quan phòng chống buôn lậu, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa sản phẩm hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất ở nước ngoài, thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hóa và lưu thông phát triển. Gián tiếp cải thiện tích cực mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Thứ hai: Tạo hành lang pháp lý đồng bộ, đầy đủ cho hoạt động của các đơn vị kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Một trong những khó khăn của hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp hiện nay là vấn đề tài sản thế chấp. hầu hết các doanh nghiệp có tài sản thế chất giá trị thấp và tính pháp lý không rõ ràng. Để giải quyết vấn đề này cùng với các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ cần có những chỉ đạo hướng dẫn sự phối hợp giữa các ban ngành có liên quan để việc xác định giá trị tài sản thế chấp cũng như việc phát mại tài sản khi món vay có vấn đề được diễn ra hợp lý, theo đúng trình tự pháp luật. Đề nghị Nhà nước cần sớm ban hành luật phát mại tài sản để đưa vào sử dụng rộng rãi vì hiện nay việc xử lý các tài sản thế chấp của ngân hàng gặp nhiều khó. Khi muốn phát mại các tài sản thế chấp, ngân hàng phải trải qua các cơ quan trung gian gây mất thời gian và chi phí không cần thiết, có khi làm giảm uy tín của ngân hàng. Tạo điều kiện để ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng.
Ràng buộc quan hệ kinh tế dựa trên những văn bản pháp lý quy định về các giao dịch kinh tế, về hợp đông tín dụng, có các biện pháp phát triển các hình thức thanh toán sao cho mọi quan hệ tín dụng đểu được điều chỉnh bởi pháp luật một cách rõ ràng công bằng và nghiêm chỉnh. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau của các doanh nghiệp. Có các khung xử lý với những quan hệ trái pháp luật và đưa thông tin sai lệch cho ngân hàng và đối tác.
Thứ ba: Nhà nước cần giao cho một số cơ quan tiến hành thống kê tổng hợp các tỷ lệ tài chính của ngành, rút ra tỷ lệ trung bình hàng năm để làm căn cứ phân tích kinh tế và so sánh đánh giá doanh nghiệp đang ở tình trạng nào, tạo điều kiện để ngân hàng có thông tin, xác định hướng hoạt động có hiệu quả.
Thứ tư: Bộ tài chính cần tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, buộc các doanh nghiệp phải hạch toán theo phương pháp hạch toán thống kê đảm bảo các số liệu tài chính được kiểm tra chính xác và bắt buộc. Giúp cho ngân hàng có được những thông tin tài chính trung thực giúp cho việc thẩm định được chính xác hơn.
Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước
Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước là một tổ chức quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Một trong những chức năng của ngân hàng Nhà nước là đảm bảo an toàn hoạt động cho toàn hệ thống ngân hàng. Để đảm bảo chức năng này, ngân hàng phải tập trung phòng ngừa phân tán rủi ro. Trước hết phải chấn chính lại trung tâm thông tin tín dụng, từ khâu cập nhật số liệu, cung ứng số liệu đảm bảo kịp thời chính xác. Giúp cho ngân hàng thương mại luôn có những thông tin cần thiết về tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để ngân hàng tự ra quyết định cho vay chắc chắn, đảm bảo khả năng thu hồi cả gốc và lãi, hạn chế rủi ro tín dụng.
Thứ hai: Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xây dựng hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về quy mô và chất lượng, đảm bảo có hiệu quả cao nhất về hoạt động kiểm soát độ an toàn của hệ thống ngân hàng.
Việc thanh tra ngân hàng phải được tiến hàng thườn xuyên tránh làm theo đợt, thành cao trào vừa không phát hiện kịp thời sai phạm, không hiệu quả vừa gây sáo trộn ảnh hưởng uy tín của các NHTM. NHNN nên có chương trình quản lý việc thực hiện nghiệp vụ cho vay trên máy tính để có thể thường xuyên kiểm tra giám sát xử lý nghiệp các cá nhân tổ chức vi phạm quy chế tín dụng, bắt buộc các ngân hàng phải thực hiện đầy đủ quy chế tín dụng, các quy định của pháp luật trong hoạt động tín dụng. Giải quyết các tồn tại và nâng cao năng lực, tính ổn định của các ngân hàng.
Kiến nghị đối với NHNT Việt Nam
NHNT Việt Nam cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể Quy trình cho vay mới đối với doanh nghiệp. Đồng thời có những điều chỉnh để các chi nháng có thể linh hoạt, tùy vào điều kiện thực tế ở mỗi Chi nhánh khách nhau. Một mặt Chi nhánh tuân thủ những nguyên tắc cơ ban trong Quy trình cho vay, mặt khác có thể linh hoạt tùy vào những lợi thế của mình và dựa trên quy trình cho vay mới để có thể tiếp tục phát huy hết khả năng kinh doanh của mỗi Chi nhánh. NHNT việ nam cần tăng cường kiểm tra kiểm soát việc thực hiện quy trình cho vay đối với các doanh nghiệp để có những chỉ đạo, điều chình kịp thời.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh doanh ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn. Để các doanh nghiệp Việt Nam tồn tại và phát triển được trước xu thế toàn cầu hóa như hiện nay đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước cũng như các ngân hàng qua việc cung cấp nguồn vốn vay tạo động lực phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Để làm được điều đó, NHNT hà nội phải cải tiến tốt nhất quy trình cho vay trên cơ sở quy trình chung của NHNT Việt Nam. Một mặt tạo điều kiện phục vụ tốt nhất cho nhu cầu sử dụng vốn vay của khách hàng. Mặt khác Cải tiến quy trình để nâng câo hiệu quả cho vay, đảm bảo chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Cải tiến quy trình tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp là một vấn đề rất lớn, đòi hỏi rất nhiều nguồn nhân lực và vật lực đồng thời cũng không thể thực hiện chỉ một sớm một chiều. Những nghiên cứu trên đây của em chỉ là một phần nhỏ với mong muốn có thể góp phần nào đó hoàn thiện hơn quy trình tín dụng hiện tại của NHNT hà nội, qua đó đảm bảo và nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trong khoảng thời gian có hạn. Bên cạnh đó trình độ lý luận và kiến thức thực tế của em còn chưa đầy đủ. Đề tài của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vây, em mong nhân được sự quan tâm góp ý chân thành của các thầy cô giáo để đề tài này có thể được tiếp tục hoàn thiện hơn và nâng cao hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn!.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2294.doc