LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển vô cùng ấn tượng trong hai thập niên gần đây, chính sự chuyển dịch từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung truyền thống sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ năm 1986 đã mang lại những cải thiện sâu sắc về hiệu quả kinh tế và đời sống nhân dân. Hiện nay, nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ với sự đồng hành của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt trong sự phát triển đó các doanh
64 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vpbank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp vừa và nhỏ đang giữ một vị trí rất quan trọng .Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân và đồng thời để hội nhập với xu hướng thời đại, các thành phần kinh tế cần phải khai thác toàn diện và hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng, vì thế vấn đề đặt ra cho ngành ngân hàng là phải giải quyết hàng loạt khó khăn mà các doanh nghiệp đang gặp phải.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những tổ chức kinh tế làm ăn khá hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển và phù hợp với khả năng nguồn vốn của ngân hàng chính vì thế rất nhiều ngân hàng hiện nay đã chủ trương ưu tiên cấp tín dụng cho đối tượng này. Tuy nhiên sự tiếp cận của các doanh nghiệp này đối với ngân hàng vẫn còn rất khó khăn và thực tế cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Nguyên nhân có thể là do mục tiêu của các NHTM chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp lớn,tuy nhiên lý do chính là vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì những bức xúc đó mà việc đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề đặc biệt chú trọng của các ngân hàng thương mại.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 04/9/1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04/09/1993. Chiến lược của VPBank được Hội đồng quản trị đưa ra là “Phấn đấu đến năm 2010 trở thành ngân hàng đứng đầu khu vực phía Bắc, là một trong những ngân hàng đứng đầu cả nước, một ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực Đông Nam Á về chất lượng, hiệu quả, độ tin cậy ”, thị trường mục tiêu mà VPBank hướng đến đó là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô vừa và nhỏ.Khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được VPBank lấy làm trọng tâm đầu tư và khai thác, chính vì thế vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là hiệu quả cho vay các doanh nghiệp này. Xuất phát từ thực tế đó của VPBank em đã chọn đề tài nghiên cứu : “ Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu hoạt động cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng này
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong chuyên đề này, nội dung chính được chọn nghiên cứu là hoạt động cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM nói chung và VPBank nói riêng.Tuy nhiên, vì những hạn chế nhất định, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại xem xét ở các khía cạnh chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp này ở VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
4. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 chương chính:
CHƯƠNG I : Cơ sở lí thuyết về vấn đề hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ
CHƯƠNG II : Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank hiện nay
CHƯƠNG III : Những giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ths Đoàn Phương Thảo đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em hoàn thiện đề tài, cùng toàn thể các anh chị, cô, chú tại phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp VPBank Đông Đô và các phòng ban khác có liên quan đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ HIỆU QUẢ CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ, mỗi quan niệm đều phản ánh những cách nhìn rất khác nhau về loại hình doanh nghiệp này. Để đưa ra quan niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách rõ ràng và chính xác nhất, đòi hỏi các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách cần đặt mình vào những điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng thời điểm. Mỗi một quốc gia có những đặc trưng và điều kiện kinh tế khác nhau, vì vậy sự phân loại các doanh nghiệp là không thể thống nhất ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ví dụ, một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước này được xem là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng nếu đặt trong môi trường kinh tế kém phát triển hơn thì lại trở thành doanh nghiệp lớn thậm chí là rất lớn. Tương tự, nếu như trong quá khứ một doanh nghiệp được coi là lớn thì đến nay nó chỉ là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì thế, khi đề cập đến doanh nghiệp vừa và nhỏ thì ta phải biết rằng, các doanh nghiệp đó đang nằm tại quốc gia nào, trong một môi trường kinh tế như thế nào và tại thời điểm nào. Nói cách khác, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia, tại một thời điểm nhất định.
Tại Việt Nam, căn cứ nghị định của chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm :
Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/ 02/ 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước
Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã.
Mặc dù có rất nhiều quan niệm, quan điểm xoay quanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng có thể nói khái niệm mà luật doanh nghiệp đưa ra là khái niệm được coi là tổng quát nhất. Theo luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kỳ kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những đặc điểm chung nhất của một doanh nghiệp và bên cạnh đó nó cũng có những đặc trưng riêng biệt vốn có của nó, cụ thể như sau :
Thứ nhất, Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một loại hình doanh nghiệp hết sức linh hoạt, nhạy bén, có thể nhanh chóng thích nghi với biến động của thị trường. Có thể nói đây là một lợi thế vượt bậc so với các doanh nghiệp lớn bởi các doanh nghiệp lớn thường có phương án sản xuất lâu dài, quy mô vốn khó có thể nhanh chóng chuyển đổi vì sẽ gây những tổn thất lớn. Trái lại, với một bộ máy quản lý gọn nhẹ, quy mô vốn nhỏ, cơ sở vật chất không lớn các DNV&N có khả năng phản ứng nhanh trước những biến động của thị trường, có thể chuyển đổi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất cho phù hợp với nhu cầu trên thị trường.
Thứ hai, việc thành lập các DNVVN cũng không quá khó khăn bởi quy mô là không lớn, chi phí cố định thấp, mặt bằng sản xuất nhỏ. Chính từ đăc điểm này dẫn đến nguồn vốn huy động cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng khá đa dạng. Nguồn vốn huy động có thể từ vay gia đình, bạn bè, người quen dẫn đến một số doanh nghiệp được hình thành mang tính chất gia đình nên khi gặp khó khăn trở ngại chủ doanh nghiệp và công nhân có thể dễ dàng có được sự điều chỉnh phù hợp để vượt qua khó khăn.
Thứ ba, Hoạt động của các DNVVN chủ yếu là phục vụ cho các doanh nghiệp lớn như làm nhà cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán hàng, phân phối, hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có quy mô nhỏ và chiều sâu hạn chế . Chính vì vậy mà luôn tộn tại, chứa đựng những rủi ro bất ổn ở những thị trường này khiến cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trở nên bấp bênh, sự cạnh tranh vì thế mà vô cùng gay gắt. Theo như các nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đối thủ cạnh tranh lớn nhất không phải là các doanh nghiệp lớn mà chính là các doanh nghiệp có cùng quy mô. Bởi vì, các doanh nghiệp lớn có thị trường ổn định, nhóm khách hàng mục tiêu thường được xác định trước, các doanh nghiệp lớn thường quan tâm tới những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu, những thị trường nhỏ thường được bỏ qua hoặc không có khả năng bao quát hết toàn bộ thị trường. Các doanh nghiệp lớn cũng không dễ gì thâu tóm các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ bởi họ nhận thức được sự cần thiết của các DNVVN đối với sự tồn tại và phát triển của mình. Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số lượng đông đảo và đều có mục đích chung là tìm kiếm những thị trường còn bỏ trống chưa được khai thác, nhưng trên thực tế để có thể chứa được tất cả các doanh nghiệp nhỏ này thì những thị trường này vẫn còn quá bé nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng vô cùng nhạy cảm với các thị trường này. Khi một doanh nghiệp tìm thấy được một thị trường mới mẻ và đầu tư vào thị trường đó thì ngay lập tức có rất nhiều doanh nghiệp khác cũng nhảy vào, ví dụ như trong lĩnh vực ăn uống, bảo hành, dịch vụ sửa chữa.
Thứ tư, DNVVN tạo điều kiện duy trì cạnh tranh tự do. Như đã biết DNVVN là loại hình doanh nghiệp có số lượng lớn, kinh doanh rộng rãi trong các lĩnh vực cung cấp các mặt hàng thiết yếu, mặt khác các DNVVN không có sự bảo hộ từ phía nhá nước tạo nên một sự cạnh tranh công bằng và sôi động cho nền kinh tế. Các DNVVN luôn tận dụng, tìm tòi các cơ hội mà không ngại rủi ro, tự chủ cao trong kinh doanh, đây là một yếu tố mà các doanh nghiệp lớn đôi khi không có được.
Thứ năm, DNVVN có thể tận dụng và phát huy tối đa các tiền lực quốc gia. Sự phát triển của các DNVVN trong giai đoạn đầu là hết sức cần thiết và là phương thức tốt để sản xuất hàng hóa thay thể nhập khẩu, tận dụng các tiềm lực quốc gia trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Với quy mô nhỏ, vốn đầu tư không nhiều, phần lớn các doanh nghiệp này đều sử dụng nguồn nhân công và nguồn nguyên liệu sẵn có ở tại địa phương, đây là một ưu thế so với các doanh nghiệp lớn bời vì với một khối lượng sản phẩm sản xuất ra vô cùng lớn thì có lẽ các nguồn lực sẵn có ở địa phương là không đủ đáp ứng mà phải nhập từ nơi khác nữa. Đặc trưng của các doanh nghiệp này đó là thường sản xuất các mặt hàng thiết yếu, tiết kiệm được chi phí sản xuất giá thành phù hợp với người tiêu dùng góp phần ổn định đới sống xã hội.
Thứ sáu, DNVVN góp phần tạo lập sự phát triển cần bằng giữa các vùng trong một quốc gia. Xuất phát từ những đặc điểm trên mà sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung vào một số dạng chủ yếu như sau:
Các loại mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của các công ty lớn đóng vai trò như là nguyên liệu phụ của dây chuyền sản xuất như : các bộ phận phụ của một chi tiết lớn như các ngành cơ khí, tự động hoá , công nghiệp ô tô, máy bay,… Tuy hàm lương kĩ thuật chứa đựng trong các mặt hàng là khá thấp nhưng là một yếu tố không thể thiếu cho việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Các loại đồ mỹ nghệ,sản phẩm thủ công mang tính cá biệt cao,không thể áp dụng sản xuất hàng loạt. Giá cả của mặt hàng này thường cao do có chi phí sản xuất lớn. Nhóm sản phẩm này thường đáp ứng cho những khách hàng đặc biệt hoặc đem xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Các sản phẩm tiêu dùng khác phục vụ cho nhóm khách hàng bình dân, các sản phẩm kiểu này có chất lượng trung bình, giá cả phải chăng chủ yếu phục vụ những khách hàng dễ tính.
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một số lượng đồ sộ, là nhân tố không thể thiếu và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia.Với bất kỳ một quốc gia nào dù phát triển hay kém phát triển thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, giải quyết thất nghiệp và tiến bộ xã hội. Cho đến nay, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được khẳng định trên phạm vi toàn thế giới, được thể hiện cụ thể trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, DNVVN đóng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và gia tăng thu nhập ở các quốc gia. Không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh nghiệp có quy mô lớn.
Thứ hai, các DNVVN là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Chính nhờ sự có mặt của các doanh nghiệp này đã tạo điều kiện cho ngành thương mại dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp không ngừng phát triển ở nông thôn. Điều này đã làm cho tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân vì thế được thu hẹp dần. Mặt khác doanh nghiệp vừa và nhỏ thúc cũng góp phần đẩy mạnh quá trình đô thị hoá, thu hút và tập trung dân cư vào các khu vực trọng điểm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, mang đến lượng thu nhập đáng kể cho người nghèo và giá thành sản phẩm tương đối rẻ phù hợp với những người có mức thu nhập thấp . Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ tạo ra những sản phẩm giá rẻ, phù hợp với mức sống của người dân mà còn tạo ra một mạng lưới phân phối rộng khắp trải đều trên phạm vi toàn đất nước. Chính vì vậy những người nghèo có điều kiện nâng cao mức sống của mình và tình trạng đói nghèo cũng giảm dần.
Thứ ba, khu vực DNVVN là một cộng sự đắc lực không thể thiếu của các doanh nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, những nguyên liệu đầu vào của dây chuyền sản xuất, làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Có thể nói doanh nghiệp vừa và nhỏ là người cung cấp đồng thời là người tiêu thụ sản phẩm hết sức quan trọng của các doanh nghiệp lớn. Bất kỳ doanh nghiệp lớn nào đều cần có một mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là đối tượng phù hợp nhất đáp ứng nhu cầu cung cấp và phân phối sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Chính sự hỗ trợ này đã giúp các doanh nghiệp lớn hạn chế được tối đa các rủi ro trên thị trường gây ra cả về mặt cung và cầu, giảm thiểu các chi phí trong quá trình vận chuyển, lưu trữ hàng hoá từ đó làm giảm giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Thứ tư, các DNVVN đã góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, hạn chế tối đa nạn thất nghiệp. Mặc dù trong mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng lao động là không nhiều, nhưng bù vào đó, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất đông đảo và phát triển nên đã tạo ra một khối lượng việc làm đáng kể. Rõ ràng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ là một giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề việc làm, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển, nơi mà lượng lao động tham gia vào thị trường tăng tăng lên mỗi năm là không nhiều. Thực tế trên thế giới đã cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ là động lực lớn để thị trường lao động phát triển qua đó tay nghề, ý thức lao động cũng được nâng cao, góp phần cải thiện chất lượng nguồn lao động quốc gia.
Thứ năm, các DNVVN là nơi khởi đầu sự nghiệp của biết bao nhà kinh tế tài năng, là môi trường thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển kĩ năng kinh doanh.Rất nhiều các nhà doanh nghiệp khi làm quen với môi trường kinh doanh thường bắt đầu với doanh nghiệp vừa và nhỏ.Chính từ đây họ được tiếp cận các kỹ năng quản lý cơ bản,tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân và cũng là môi trường tốt để họ làm quen với sự cạnh tranh. Khi đã trưởng thành và có trong tay những kinh nghiệm cần thiết thì họ có thể tìm kiếm những doanh nghiệp lớn hơn để vươn tới đỉnh cao,thử thách mới hoặc ở lại lãnh đạo chính doanh nghiệp này phát triển thành doanh nghiệp lớn hơn. Sự lớn lên cả về chất lượng và số lượng của các doanh nhân kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp, nền kinh tế cũng theo đó mà đi lên.
Thứ sáu, các DNVVN làm hạn chế bớt sự độc quyền của các tập đoàn lớn, duy trì tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Ngay các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng luôn cạnh tranh với nhau hết sức gay gắt nhằm khẳng định chỗ đứng của mình trên thương trường, không ngừng phát triển trở thành các doanh nghiệp lớn mạnh hơn. Sự cạnh tranh gay gắt này đã khiến cho nền kinh tế trở nên sôi động hơn, luôn luôn có sự phát triển và thay mới,cùng hoà chung nhịp đập với nền kinh tế thế giới.
Có thể thấy rằng, doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy còn nhiều mặt hạn chế nhưng vai trò của chúng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Cùng với các doanh nghiệp lớn chúng tạo nên sự cân đối trong nền kinh tế. Một nền kinh tế nếu chỉ toàn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ không thể tích tụ và tập trung vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ. Ngược lại các doanh nghiệp lớn sẽ không thể nào phát triển được nếu không có sự hỗ trợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và ổn định thì cần phải đặt vai trò của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ ngang tầm với nhau, do đó vấn đề thúc đẩy và tăng cường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thị trường cạnh tranh đang trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi quốc gia.
1.2. CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái kiệm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là một trong những hình thức của nghiệp vụ tín dụng, là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho mỗi ngân hàng, cho vay có thể hiểu đơn giản là ngân hàng cấp một khoản tiền nhất định cho doanh nghiệp sử dụng trong một thời gian xác định với cam kết sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn. Hay có thể nói cách khác khi cho vay nghĩa là ngân hàng đã chuyển quyền sử dụng khoản tiền đó cho doanh nghiệp. Đây là chức năng chính của Ngân hàng để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chinh phủ. Đối với hầu hết khách hàng, cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp dịch vụ tư vấn và nguồn vốn bổ sung, cho vay là chức năng kinh tế lầu đời nhất của ngân hàng, là hoạt động mang lại lợi nhuận cho ngân hàng song cũng mang lại nhiều rủi ro nhất. Tóm lại, hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại là hoạt động mà ngân hàng cung cấp cho các tổ chức, các cá nhân, doanh nghiệp… một khoản tiền mặt nhất định sử dụng trong một thời gian xác định với cam kết sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn.
1.2.2. Đặc điểm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, bằng những hoạt động của mình để điều tiết và định hướng các hoạt động đầu tư, trong đó hoạt động tín dụng là một công cụ dùng để hướng các nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau vào các hoạt động kinh tế hiệu quả. Hoạt động tín dụng có thể được hiểu như sau:
Hoạt động tín dụng là hoạt động giao dịch về tài sản giữa bên cho vay - NHTM hoặc các định chế tài chính khác và bên đi vay - các thành phần kinh tế, dân cư, trong đó bên đi vay được quyền sử dụng trước tài sản của bên cho vay trong một thời kỳ nhất định theo các điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả tiền gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn. Trong điều kiện mà số lượng các DNVVN đang ngày càng đông đảo như hiện nay thì đối với hầu hết các NHTM đây chính là đối tượng chủ đạo. Để có thể nghiên cứu và phục vụ một cách hiệu quả hơn, các ngân hàng thường thành lập riêng một phòng chuyên trách về đối tượng khách hàng này, từ đó có thể triển khai một số giải pháp để mở rộng đối tượng khách hàng DNVVN, trong đó chú trọng nhiều trong vấn đề hoàn thiện các sản phẩm, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách nhóm khách hàng DNVVN. Có rất nhiều giải pháp được các ngân hàng thương mại đưa ra nhằm tăng cường sự tiếp cận vốn cho các DNVVN như chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với mỗi khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu vay vốn hơn nữa. Có thể nói tiềm năng của khối doanh nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của các ngân hàng thương mại, thể hiện ở sự chuyển động tích cực của tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như quy mô của các quỹ cho vay trong thời gian qua.
1.2.3. Các hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Cho vay ngắn hạn là cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng với mục đích bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Do đăc tính quy mô, lượng vốn nhỏ, năng lực tài chính và năng lực quản lý còn nhiều hạn chế nên các DNVVN thường nhận được khoản vay ngắn hạn từ phía các ngân hàng thương mại.
Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm các loại phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, hoặc đổi mới thiết bị công nghệ với thời gian thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn là hình thức cho vay có thời hạn dài trên 5 năm, thời hạn tối đa của tín dụng dài hạn có thể lên đến 40 năm tùy thuộc vào mỗi khoản vay. Loại tín dụng này nhằm phục vụ các công trình xây dựng lớn như nhà cửa, máy móc, sân bay, cầu, đường, có giá trị lớn.
Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng
Cho vay thấu chi: Cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định ( hạn mức thấu chi ) và trong một khoảng thời gian xác định. Có thể nói đây là mọtt hình thức cho vay khá linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo. Nhìn chung, hình thức này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần: hình thức cho vay có sư can thiệp của ngân hàng, ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Hình thức cho vay này thường áp dụng chủ yếu đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không đủ điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng thường sử dụng vốn chủ sở hữu hoặc tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ đến thời vụ đặc biệt hoặc mở rộng sản xuất thì mới phải đi vay ngân hàng, tức là vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt, tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
Cho vay luân chuyển: Dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa, ngân hàng cho khách hàng vay để mua hàng và đến khi doanh nghiệp bán được hàng thì sẽ thu nợ. Với hình thức này, ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng , các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ.
Cho vay theo hạn mức: Nghiệp vụ tín dụng mà theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định, có thẻ cấp cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trong kì khách hàng có thể vay – trả nhiều lần nhưng dư nợ ko được vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng cho phép. Khách hàng cần trình bày phương án kinh doanh, chiến lược sử dụng vốn, các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dich vụ và yêu cầu vay, nếu thấy khả thi và hợp lệ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Cho vay trả góp: Khách hàng được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận với nhân hàng. Loại tín dụng này thường áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, dùng để đầu tư cho tài sản cố định và một số hàng hoá có giá trị lâu bền khác. Số tiền mỗi lần trả sẽ được ngân hàng tính toán sao cho phù hợp với khả năng thanh toán tại thời điểm đó của ngân hàng. Loại cho vay này thường có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp, thu nhập của người vay ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của họ. Chính vì rủi ro cao như vậy nên trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng thì cho vay trả góp luôn có mức lãi suất cao nhất
Cho vay khác : Ngoài các phương thức đã kể trên, ngân hàng cũng có nhiều hình thức cho vay khác mà vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với các quy định tại các Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, điều kiện kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay ( cho vay theo dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ các dự án đầu tư phục vụ đời sống, cho vay gián tiếp, vv..)
Căn cứ vào mục đích cho vay
Cho vay bất động sản là loại cho vay mới mục đích mua sắm xây dựng bất động sản
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí trong sản xuất nông nghiệp như phân bón, đất đai, giống cây trồng.
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng cho mỗi cá nhân trong việc tiêu dùng mua sắm.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo
Có rất nhiều trường hợp khi đi vay ngân hàng yêu cầu phải có tài sản đảm bảo bởi khách hàng luôn phải đối mặt với những rủi ro trong kinh doanh và rất có thể sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Những biến cố không mong muốn này có thể gây ra những tổn thất lớn cho ngân hàng chính vì thế mà ngoai trừ những khách hàng có uy tín cao thì hầu hết đều phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Theo đó, cho vay được chia làm hai loại như sau :
Cho vay không tài sản đảm bảo là loại cho vay không cần đến tài sản thế chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng đối với ngân hàng.
Cho vay có tài sản đảm bảo là loại cho vay cần phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, đây là loại cho vay tương đối phổ biến đối với các NHTM. Các tài sản đảm bảo thường là giấy tờ có giá, hàng hóa trong kho, thiết bị, nhà cửa... Ngân hàng chỉ chấp nhận những tài sản hợp pháp, dễ thu hồi được tiền khi thanh lý trên thị trường. Có hai hình thức trong cho vay có tài sản đảm bảo đó là :
Hình thức thứ nhất là cho vay dựa trên thế chấp tài sản, đây là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tớ chứng nhận sở hữư của các tài sản đảm bảo sang bên ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết nhưng vẫn được quyền sử dụng tài sản với cảm kết giữ nguyên hiện trạng. Hình thức này có thể là một thuân lợi cho người đi vay khi họ sử dụng tài sản đảm bảo để thực hiện hoạt động kinh doanh, nhưng lại là một trở ngại lớn đối với ngân hàng trong việc quản lý và kiểm soát tài sản đảm bảo bởi quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản hoặc khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng. Vì vậy quá trinh thẩm định giá trị tài sản là rất quan trọng.
Hình thức thứ hai là cho vay dựa trên cầm cố tài sản, đây là hình thức cho vay theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang bên ngân hàng trong khoảng thời gian cam kết ( thường gọi là thời gian tài trợ) . Hình thức này khá phù hợp với những tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, và bên đi vay không hề bị ảnh hưởng khi ngân hàng nắm giữ tài sản cầm cố. Liên quan đến hình thức này, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp của tài sản cầm cố, định giá tài sản cầm cô và cuối cùng là quy định quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với vật cầm cố.
1.3. HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯONG MẠI
1.3.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Hiệu quả cho vay đầu tiên phải được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu,đòi hỏi hợp lý của khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đem lại lợi nhuận cho ngân hàng không chỉ từ hoạt động cho vay mà còn từ các hoạt động dịch vụ khác, qua đó, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế và tạo công ăn việc làm. Trên giác độ mỗi ngân hàng, hiệu quả hoạt động tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng sao cho phù hợp với khả năng, thực lực và theo hướng tích cực của ngân hàng đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường, tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng kì hạn vay và có lãi. Như vậy, hiệu quả tín dụng được coi là một chỉ tiêu bao quát, tổng hợp phản ánh mối quan hệ giữa khả năng sinh lợi và rủi ro, phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng trước sự biến động của thị trường, thể hiện thế mạnh của ngân hàng trong cuộc cạnh tranh với các ngân hàng khác. Hiệu quả cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : mức độ an toàn, khả năng thu hút khách hàng, doanh thu chi phí và lợi nhuận. Hiệu quả cho vay được đo lường bằng cách so sánh yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của kỳ này so với kỳ trước, của đơn vị này so với đơn vị khác từ đó so sánh với mặt bằng chung của ngành hoặc cũng có thể so sánh với kỳ vọng đặt ra để xác định hiệu quả. Trước đây, các ngân hàng còn phân biệt thành ngân hàng bán buôn và bán lẻ, tuy nhiên trong thời gian gần đây, các ngân hàng đã nhận thấy những tiềm năng vô cùng lạc quan,tích cực từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự phân biệt cũng hầu như không còn nhờ đó mà việc so sánh hiệu quả cho vay của mỗi ngân hàng đối với các doanh nghiệp này cũng trở nên đơn giản hơn.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Để đánh giá về hiệu quả cho vay các DNVVN, chúng ta dùng một số chỉ tiêu như:
Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ khả năng chi trả ( Tài sản có có thể thanh toán ngay/ TS nợ phải thanh toán ngay)
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Vốn tự có/ TS có rủi ro)
Tỷ lệ vốn ngắn hạn đã sử dụng cho vay trung dài hạn
Tỷ lệ tài sản sinh lời ( Tài sản sinh lãi/ Tổng tài sản bình quân )
Thu lãi doanh nghiệp/ Tổng thu lãi
Đối với ngân hàng thương mại, để đánh giá hiệu quả cho vay người ta thường căn cứ trên các chỉ tiêu ROA ( thu nhập trên 1 đồng tài sản ) và ROE (đo lường mức thu nhập trên 1 đồng vốn ). Tuy nhiên các ngân hàng thường dựa vào tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên và tỷ lệ ngoài lãi cận biên để đánh giá một cách chính xác hơn về tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời. Nó cho ta thấy được khả năng duy trì sự tăng trưởng của các khoản thu ( chủ yếu thu từ lãi) so với mức tăng chi phí (chủ yếu chi trả lãi). Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua các hoạt động kiểm so._.át chặt chẽ tài sản sinh lời và huy động được các nguồn vốn rẻ. Ngược lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi với các chi phí ngoài lãi chủ yếu là thu từ các dịch vụ khác (bao gồm tiền lương, chi phí tổn thất tín dụng, chi phí sửa chữa bảo hành ). Sau khi tính toán chính xác các chỉ số hiệu quả cho vay ngân hàng tiến hành so sánh giữa tỷ lệ này ở đầu kì và cuối kì, giữa năm trước và năm nay, giữa các đơn vị cùng hệ thống cũng như với toàn ngành. Ngoài biện pháp đó, các nhà điều hành ngân hàng có thể dùng chênh lệch lãi suất cơ bản như là một chỉ tiêu mang tính truyền thống để so sánh :
Chênh lệch LSCB = ( Thu lãi – Chi lãi)/ TS sinh lãi bình quân.
Chênh lệch lãi suất cơ bản là một chỉ tiêu căn bản để cho thấy hiệu quả hoạt động cho vay và đi vay của ngân hàng, hơn nữa nó còn đo lường mức cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã làm thu hẹp mức chênh lệch này và đặt ra câu hỏi cho các nhà lãnh đạo ngân hàng phải làm sao để bù đắp mức chênh lệch, giải pháp cho vấn đề này là đẩy mạnh tăng thu từ các hoạt động dịch vụ khác.
Một số chỉ tiêu khác cũng thưòng được dùng giá khả năng sinh lời của ngân hàng và đánh giá tình trạng rủi ro tín dụng đó là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ,tình hình tài chính và phương án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng người vay hay xem xét mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người vay. Việc phân tích những chỉ tiêu này không có ý nghĩa để xem xét chất lượng các khoản cho vay mà còn nhằm mục tiêu là đảm bảo an toàn cho chính ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra, đó cũng chính là biện hữu hiệu nhất để pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
1.3.3.1. Các nhân tố khách quan
Về phía ngân hàng Trung ương
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng Trung ương và Chính phủ, trong đó hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động trực tiếp của các công cụ chính sách tiền tệ :
Công cụ thứ nhất mà ngân hàng trung ương điều chỉnh đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động. Thông qua đó ngân hàng Trung Ương tác động tới cả giá cả và khối lượng tín dụng từ đó ảnh hưởng đến khả năng cho vay của ngân hàng thương mại.
Công cụ thứ thứ hai mà ngân hàng trung ương cũng thường xuyên sử dụng đó là điều chỉnh lãi suất tín dụng. Sự thay đổi của lãi suất có thể tác động tới cung cầu vốn vay, ảnh hưởng lớn đến khả năng cho vay của ngân hàng. Nếu lãi suất cao sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền tại ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ chủ động được nguồn vốn để mở rộng cho vay.
Công cụ thứ ba là tái cấp vốn, hình thức cấp tín dụng của ngân hàng Trung Ương đối với các ngân hàng thương mại, như vậy lượng tiền cung ứng đã tăng lên làm tăng khả năng cho vay của ngân hàng thương mại.
Cuối cùng là nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ này bao gồm các hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá như : Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu kho bạc , v.v.... trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu giấy tờ có giá, ảnh hưởng tới dự trữ của các ngân hàng thương mại, tác động đến khả năng cho vay của ngân hàng thương mại.
Về phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đây là một nhân tố quan trọng hàng đầu tác động tới hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng, điều này được thể hiện rõ nét thông qua một số chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp như khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, hệ số khả năng chi trả, hệ số nợ…Mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp đó là làm sao để vay được vốn cho hoạt động kinh doanh và họ tìm mọi cách để có được nguồn vốn từ các ngân hàng. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn, trung thực, tích cực tăng hiệu quả hoạt động, tích cực hợp tác với ngân hàng thì cũng có những doanh nghiệp sử dụng những hình thức không tích cực như không cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng, sử dụng các biện pháp không tích cực như làm sai lệch các báo cáo tài chính theo hướng có lợi cho doanh nghiệp. Không chỉ có vậy, đôi khi doanh nghiệp còn sử dụng tiền ngân hàng cho vay sai mục đích, không trung thực với những gì đã cam kết với ý đồ cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Cũng phải thừa nhận một thực tế là về vấn đề lập dự án thì nhiều doanh nghiệp còn quá yếu kém,chính vì thiếu đi tính khả thi trong dự án nên rất khó tạo niềm tin để ngân hàng cho vay vốn. Sự yếu kém, hạn chế này lại thường rơi vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mất đi lòng tin từ phía các ngân hàng, tức là các doanh nghiệp đứng trước thực trạng khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn từ phía ngân hàng, các ngân hàng phải áp dụng nhiều biện pháp đảm bảo,thắt chặt hơn, điều này gây ảnh hưởng đến không ít doanh nghiệp có đủ khả năng được cấp tín dụng từ ngân hàng. Tuy nhiên, cũng có doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của ngân hàng nhưng do sự thiếu chuyên môn của một số cán bộ quản lí, không thể quản lý và khai thác nguồn vốn một cách tốt nhất làm cho hiệu quả hoạt động cho vay giảm xuống. Những nhân tố tác động từ phía doanh nghiệp rất khó kiểm soát và đánh giá và phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm và trình độ phân tích của cán bộ tín dụng cũng như thiện chí hợp tác của các doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Có thể nói một trong những yếu tố mang tính vĩ mô tác động trực tiếp tới hiệu qua cho vay của các doanh nghiệp đó là môi trường pháp lý. Có được một môi trưòng pháp lý chặt chẽ và ổn định sẽ là điều kiện rất tốt để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và cũng giúp cho hoạt động vay vốn tại ngân hàng được dễ dàng, thuận lợi hơn. Bất kỳ một sự thay đổi nào đó trong một nghị định, một sự thỏa thuận kinh tế hay một hợp tác thương mại được ký kết hay giữa Chính phủ các nước đều có thể tác động tới khả năng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Bên cạnh đó, sự tác động của môi trường pháp lý không thực sự chặt chẽ hay mang tính kìm hãm có thể gây ra sự giảm sút về dư nợ, làm các khoản nợ quá hạn tăng lên một cách đột ngột, hạn chế khả năng sinh lời của doanh nghiệp, và do đó làm suy giảm hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một lợi thế khá lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là do quy mô hạn chế nên khả năng khắc phục những tác động của môi trường pháp lý tới hoạt động của mình so với doanh nghiệp lớn cũng nhanh hơn. Và vì vậy cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một biện pháp tối ưu làm giảm sự biến động về hiệu quả và rủi ro cho ngân hàng.
Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh
Thể hiện của sự tác động này đó là qua các biến số kinh tế như là : lạm phát, lãi suất, cung cầu, tỷ giá và giá cả hàng hoá trên thị trưòng…Các chỉ tiêu này không chỉ tác động lên khả năng cho vay, mà nó còn tác động trực tiếp lên chi phí của ngân hàng. Nếu như tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lạm phát tăng lên sẽ kéo theo chi phí trả lãi cho các nguồn huy động cũng tăng và tất nhiên nó cũng sẽ làm giảm khả năng cho vay, mặt khác lãi suất trên thị trường tăng cũng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của dư nợ đồng thời đẩy chi phí trả lãi của các ngân hàng tăng cao. Đối với doanh nghiệp thì các biến số này có tác động hai mặt , một mặt nó thúc đẩy sự phát triển của nhóm doanh nghiệp này và một mặt nó lại lại hạn chế hoạt động của nhóm doanh nghiệp khác. Đơn cử như một chỉ số là tỷ giá, nếu tỷ giá tăng thì có lợi cho nhóm doanh nghiệp xuất khẩu trong khi đó lại là bất lợi đối với các doanh nghiệp nhập khẩu. Vì thế vấn đề đánh giá sự tác động của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là vô cùng quan trọng, muốn làm được điều này thì các ngân hàng phải phân loại một cách chính xác khách hàng chủ yếu mà mình phục vụ, từ đó có chiến lược đối phó cho phù hợp.
Các nhân tố thuộc về môi trường an ninh, chính trị, xã hội
Bất kì một quốc gia nào cũng vậy, nếu mất đi một nền an ninh, chính trị, xã hội ổn định thì không thể có một nền kinh tế vững mạnh. Đây có thể coi là yếu tố đầu tiên, chủ chốt trong mỗi nền kinh tế, quyết định sự tồn tại và phát triển cua nền kinh tế noi chung cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan
Chính sách cho vay của ngân hàng
Đây chính là hướng dẫn chung cho mọi cán bộ tín dụng của ngân hàng, góp phần đẩy mạnh chuyên môn hoá và tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho vay của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lợi. Bao gồm :
Thứ nhất cần phải nói đến đó là về chính sách khách hàng. Đối tượng vay vốn của ngân hàng vô cùng đông đảo và đa dạng gồm có các cá nhân, người tiêu dùng, các doanh nghiệp, cơ quan quan nhà nước. Khi đó ngân hàng sẽ phân loại ra thành khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng và các khách hàng khác để từ đó đưa ra các hình thức ưu đãi trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Thứ hai đó là chính sách lãi suất. Nếu ngân hàng có một chính sách lãi suất linh hoạt hoặc có thể cho phép cán bộ tín dụng được thay đổi trong một phạm vi nhất định, khách hàng có thể lựa chọn mức lãi suất thì sẽ làm tăng khả năng tiếp cận với vốn ngân hàng của DNVVN.
Thứ ba là chính sách về thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ. Nếu thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì sẽ làm tăng hiệu quả cho vay đối với ngân hàng và doanh nghiệp, từ đó mở rộng cho vay đối với DNVVN.
Thứ tư là chính sách quy mô và giới hạn cho vay. Chính sách này cũng rất quan trọng tác động trực tiếp đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. Nếu ngân hàng đưa ra quy mô và giới hạn cho vay quá lớn rất dễ gặp phải những rủi ro về tín dụng do việc bị các tổ chức chiếm dụng vốn quá lớn trong khi lượng tiền dự trữ còn lại không đủ để bù đắp. Mặt khác nếu quy mô, giới hạn cho vay quá nhỏ ngân hàng sẽ mất đi ưu thế cạnh tranh trên thị trưòng, dẫn đến suy giảm khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Quy mô nguồn vốn ngân hàng
Mỗi một quyết định cho vay của ngân hàng đều chịu tác động rất lớn bởi quy mô nguồn vốn ngân hàng và đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu. Dư nợ cho vay tối đa đối với mỗi khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ nguồn ủy thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng là tổ chức tín dụng khác.
Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay
Nhân tố này có tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu sản phẩm tín dụng của một ngân hàng mà đơn điệu, chất lượng không cao thì sẽ kìm hãm khả năng phát triển của ngân hàng, khả năng mở rông cho vay cũng kém đi. Người vay tiền là khách hàng, vậy ngân hàng nào có chất lượng tín dụng, dich vụ, khả năng phục vụ khách hàng tốt thì khách hàng sẽ tìm đến với ngân hàng đó. Do đó, trong điều kiện như vậy, các ngân hàng buộc phải đẩy mạnh nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm để mở rộng thị phần, tăng khả năng cho vay, đây cũng là vai trò quan trọng trong các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng
Con người luôn có một tầm quan trong nhất định trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và trong đó trình độ, khả năng chuyên môn của cán bộ tín dụng luôn đóng vai trò quan trọng nhất. Cán bộ tín dụng là người thường xuyên trực tiếp đối thoại, giao dịch với khách hàng vì thế hình ảnh của ngân hàng được gây dựng trong tâm trí khách hàng vay vốn bởi các cán bộ tín dụng.
Công nghệ thông tin
Có thể nói công nghệ thông tin là một bước tiến lớn của nền khoa học nhân loại, nó đem lại những lợi ích to lớn cho rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực, trong cả sản xuất và đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Nhờ ứng dụng các công nghệ thông tin mà đã giúp cho các ngân hàng: cập nhật, thu thập, xử lý và phân tích thông tin nhanh hơn, giúp ngân hàng đơn giản hóa các quá trình làm việc, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK
2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VPBANK
2.1.1. Lĩnh vực hoạt động và cơ cấu tổ chức của VPBank
2.1.1.1. Lĩnh vực hoạt động
Là một ngân hàng Thương mại cổ phần, kinh doanh, hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, chức năng chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư trong khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Dịch vụ Thanh toán quốc tế; Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong nước và Quốc tế; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác dựa trên quy định của NHNN Việt Nam.
Cuối tháng 3/2006 đại hội cổ đông được tổ chức, và một lần nữa, VPBank khẳng định kiên trì thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ. VPBank đặt ra chỉ tiêu, định hướng phấn đấu quyết tâm trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và nằm trong nhóm 5 Ngân hàng dẫn đầu các Ngân hàng TMCP trong cả nước trong một vài năm tới.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của VPBank
Rủi ro luôn là vấn đề được VPBank hết sức quan tâm và chú trọng trong hoạt động tín dụng của mình. Chính vì vậy mà bộ máy quản trị rủi ro của VPBank được tổ chức một cách hết sức chặt chẽ theo nhiều cấp quản lý,cơ cấu cụ thể như sau :
Ban kiểm soát: Bao gồm 3 thành viên do Đại hội cổ đông bầu ra trong đó có 2 thành viên chuyên trách.
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: trực thuộc Ban điều hành với nhân sự được phân bổ cho mỗi Chi nhánh cấp 1 có ít nhất từ 1 đến 2 nhân viên. Chức năng chính của bộ phận kiểm tra kiểm toán đó là kiểm tra giám sát hoạt động thường ngày và toàn diện trong tất cả các giai đoạn trước, trong và sau trong quá trình thực hiện mỗi nghiệp vụ của Ngân hàng. Hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ các chi nhánh được thực hiện thường xuyên theo sự chỉ đạo trực tiếp theo ngành dọc.
Hội đồng tín dụng và ban tín dụng: VPBank có hai Hội đồng tín dụng và mỗi Chi Nhánh cấp 1 có một ban tín dụng riêng. Hai hội đồng tín dụng được đặt tại Hà nội và thành phố Hồ chí Minh có nhiệm vụ là giải quyết các khoản vay vượt hạn mức giao dịch cho các Chi Nhánh cấp 1 đóng tại khu vực phía bắc và phía nam. VPBank đã và đang áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng do Hội đồng quản trị ban hành nhằm mục đích hạn chế thấp nhất mọi rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
Hội đồng ALCO: Hội đồng ALCO được thành lập với mục đích nhằm hạn chế rủi ro thị trường và thanh khoản. Nhiệm vụ chủ yếu của hội đồng này đó là quản lý thanh khoản, quyết định cơ cấu nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn hợp lý và hiệu quả, quyết định triển khai các sản phẩm mới. Bên cạnh đó, Hội đồng ALCO cũng có nhiệm vụ theo sát diễn biến thị trường về biến độnglãi suất, tỷ giá và những khả năng có thể gấy rủi ro khác để có thể giải pháp phù hợp trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn.
Nhờ có một cơ chế kiểm soát rủi ro hiệu quả và linh hoạt mà nhiều năm qua VPBank đã hạn chế được tối đa rủi ro trong mọi hoạt động của mình và kết quả kinh doanh luôn rất tốt. Trước đây, nợ quá hạn của VPBank luôn ở mức khá cao, tuy nhiên với sự tăng cường công tác quản lý rủi ro hiện nay con số này đang giảm xuống và duy trì ở tỷ lệ 0.5%.
2.1.2. Tình hình hoạt hoạt động kinh doanh của VPBank
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Có thể nói từ đầu năm 2007 đến sáu tháng đầu năm 2008 là thời kỳ mà hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trở nên vô cùng sôi động. Thể hiện rõ đó là mức cạnh tranh giữa các ngân hàng luôn luôn hết sức gay gắt và uộc các ngân hàng phải nâng cao hơn nữa các giải pháp khuyến khích nhằm thu hút khách hàng nếu như muốn tồn tại trên thương trường. Một loạt các hoạt động thu hút khách hàng được các ngân hàng triển khai như : tăng lãi suất huy động và thực hiện các chương trình quay số có thưởng với nhiều giải thưởng hữu ích, có giá trị đồng thời cũng đưa vào áp dụng nhiều sản phẩm mới, tiện ích hơn giành cho khách hàng. Điều đặc biệt đáng quan tâm là các ngân hàng quốc doanh dường như đã tỉnh giấc sau nhiều năm trì trệ, tụt hậu trong thời kì bao cấp, nay cũng đã tham gia một cách tích cực hơn vào cạnh tranh. Với ưu thế về vốn và mạng lưới day đặc khắp cả nước nên nhiều chương trình khuyến mại của họ khá lớn, vượt trội so với các NH ngoài quốc doanh.
Trong bối cảnh cạnh tranh đó, đòi hỏi VPBank phải năng động hơn nhiều giải pháp tích cực liên tục áp dụng các chương trình khuyến mại huy động có thưởng, đưa ra nhiều sản phẩm huy động mới phù hợp với nguyện vọng của dân cư (tiết kiệm VND đảm bảo bằng USD, tiết kiệm rút gốc linh hoạt… Tăng cường quảng cáo, quảng bá hình ảnh của VPBank trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp cho khách hàng hiểu biết nhiều hơn về VPBank. 6 tháng đầu năm 2007 cũng là thời gian VPBank mở rộng mạng lưới nhanh chóng với việc được NHNN cấp phép thành lập 10 chi nhánh mới và nâng cấp 6 Phòng giao dịch thành chi nhánh cấp II. Đến nay, tất cả đã đi vào hoạt động. Tổng số tiền huy động được đến cuối tháng 6/2005 đạt 2.323 tỷ đồng, tăng 347 tỷ đồng so với cuối năm 2004, trong đó, riêng số dư tiền gửi tiết kiệm tăng 427 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán của cư dân và các tổ chức kinh tế tăng 71 tỷ đồng. Riêng trong năm 2006, tổng tiền huy động đạt hơn 9.065 tỷ đồng tăng 61% so với năm 2005.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn một số năm của VPBank
Đơn vị: Triệu VNĐ
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Số dư
Tỷ trọng
Nguồn vốn huy động
3.858.967
100%
5.638.001
100%
9.065.000
100%
Phân theo kì hạn
Ngắn hạn
3.202.943
83%
4.397.641
78%
7.252.155
80%
Trung và dài hạn
656.000
17%
1.240.360
22%
1.813.039
20%
Phân theo cơ cấu
Huy động thị trường 1
1.847.711
48%
3.209.771
57%
5.678.458
63%
Huy động thị trường 2
2.011.256
52%
2.398.230
43%
3.386.736
37%
Nguồn : Báo cáo thường niên VPBank
Trong năm 2007, VPBank luôn có những điều chỉnh kịp thời về mặt lãi suất sao cho phù hợp với biến động thị trường. Sự linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất đã giúp VPBank luôn nằm trong nhóm ngân hàng có lãi suất huy động cao nhất trên thị trường. Ngoài việc huy động tiết kiệm bằng đồng USD và VND thông thường, hiện nay VPBank vẫn tiếp tục huy động tiết kiệm dưới các hình thức đặc biệt “ Tiết kiệm VND được đảm bảo bằng USD” và “ Tiết kiệm VND được bù đắp trượt giá USD ” , việc này đã thu hút hàng ngàn người gửi với doanh số gửi tiền mỗi tháng ngày một tăng cao.
Đến hết ngày 31/3/2008, tổng nguồn vốn huy động của VPBank đạt tới 9.300 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, huy động tiết kiệm từ dân cư tăng hơn 27%, huy động từ các tổ chức kinh tế tăng gần 43% so với đầu năm. Nợ quá hạn duy trì ở mức 0,54 % tổng dư nợ. 3 tháng đầu năm, lợi nhuận sau khi trích dự phòng rủi ro (trước thuế) của VPBank đạt 37 tỷ đồng (đạt 10,73% so với vốn điều lệ). Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn điều lệ tăng lên một cách đáng kể và đạt con số 6,43%.
2.1.2.2. Hoạt động tín dụng
Nói về ngân hàng thì không thể không nói đến hoạt động tín dụng bới đây là hoạt động chính của bất cứ một ngân hàng nào và cũng là một nguồn thu không thể thiếu. Trong thời gian từ 2006 - 2008, VPBank luôn giữ vững hoạt động với chỉ tiêu kiên quyết không cạnh tranh bằng cách nới lỏng điều kiện tín dụng.Chính sự đẩy mạnh, phát triển công tác tiếp thị khách hàng của các đơn vị trực thuộc hệ thống mà tiến độ tín dụng của VPBank luôn đạt mức tăng khá, cao gấp hai lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng. Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2008 đạt 6594 tỷ đồng, tăng 2681 tỷ đồng ( tương đương 68% so với năm 2007).Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến 31/12/2007 đạt 5031 tỷ đồng, tăng 2017 tỷ đồng ( tương đương 67% ) so với năm 2006.
Dưới sự nghiêm ngặt của pháp luật cũng như các quy chế định chế của VPBank, chất lượng tín dụng của ngân hàng này vẫn luôn đảm bảo được yêu cầu của NHNN. VPBank luôn duy trì được một tỷ lệ nợ quá hạn phù hợp ( gồm các nhóm 3,4,5 ), cuối năm 2007 ở mức 0,56% tổng dư nợ, thấp hơn khá nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn ngành ngân hàng Việt nam ( khoảng 7% ).
Với phương châm không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, VPBank luôn không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên. Bên cạnh đó, VPBank cũng liên tục tiến hành nghiên cứu triển khai các hình thức cho vay mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Mới đây nhất, VPBank vừa chính thức đưa vào triển khai hình thức cho vay cầm cố bằng cổ phiếu do các Ngân hàng TMCP tại Việt Nam phát hành. Đến với VPBank, khách hàng có thể cầm cố cổ phiếu để vay vốn sử dụng vào mục đích bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cho cá nhân và gia đình, mua cổ phẩn của các công ty cổ phần hay các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật Việt nam. Số tiền cho vay cũng như thời hạn cho vay được ngân hàng xem xét dựa trên mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. VPBank hy vọng với loại hình cho vay mới này, có thể đáp ứng được nhu cầu giao dịch bằng cổ phiếu đang và sẽ ngày càng tăng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Hiện nay VPBank nhận cầm cố cổ phiếu của 9 Ngân hàng TMCP : ACB, Techcombank, VIB, Sacombank, Habubank, EAB, Eximbank, MBvà Phương Đồng. Nếu xảy ra trường hợp phát sinh các khoản cho vay ngoài danh mục, VPBank sẽ xem xét và quyết định từng trường hợp cụ thể. Đây là cách làm khá linh hoạt của VPBank nhằm thích ứng với mọi sự biến động trên thị trường đang ngày một sôi động ở Việt Nam.
2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ
Hạt động dịch vụ cũng là một lĩnh vực được VPBank rất quan tâm và trong những năm trở lại đây các hoạt động dịch vụ của ngân hàng này vẫn tiếp tục tiến triển và hoàn thiện tốt. Song song với việc mở rộng mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước, VPB đã nâng cấp dịch vụ chuyển tiền trong nước ngày càng trở nên thuận tiện và nhanh chóng. Doanh số chuyển tiền trong nước năm 2007 đạt 7334 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2006. Toàn bộ chi phí dịch vụ chuyển tiền trong nước mà VPBank thu được trong năm 2008 lên tới con số 2 tỷ đồng, tuy vẫn là con số khá khiêm tốn nhưng cũng đã đạt được những tăng trưởng nhất định.
Bên cạnh đó VPBank cung đạt được rất nhiều thành công lớn ở một số dịch vụ khác.
Khách hàng cảm thấy rất hài lòng với những tiện ích mà dịch vụ thẻ của VPBank đã mang lại cho họ. Ngày 21/12/2007, tại Press Club, dòng sản phẩm thẻ mới đã được VPBank ra mắt một cách long trọng với tên gọi VPBank MC2 EMV MasterCard – “Nhìn thì dễ, xâm nhập mới khó”. Và loại thẻ này đã nhanh chóng được MasterCard phát hành trên toàn thế giới, đây là lần đầu tiên MC2 được phát hành tại Việt Nam và là dòng sản phẩm thẻ quốc tế thứ hai được VPBank phát hành tiếp theo thành công của loại thẻ cao cấp VPBank Platinum MasterCard.
Trong năm 2007, các hoạt động thanh toán quốc tế đã có xu hướng tăng mạnh: Doanh số mở L/C nhập khẩu đạt tới 61 triệu USD, so với năm 2006 con số này tăng hơn 60%. Chuyển tiền thanh toán quốc tế ( TTR) đạt mức 80 triệu USD, tăng hơn 79% so với năm 2006. Doanh số chuyển tiền trong nước năm 2007 là 7340 tỷ đồng, tăng 22% so với năm trước.Tính đến cuối năm 2007, tổng số điểm đại lý chi trả WU khá lớn đạt con số 225 điểm. Tổng doanh số chi trả kiều hối các loại đạt 16.8 triệu USD và 13.4 tỷ đồng, trong đó chi trả qua WU là 6.4 triệu USD và 5.2 tỷ đồng. (Nguồn: Báo cáo thường niên VPBank2007)
Mới đây nhất, vào ngày 10/3/2008, VPBank vinh dự được chứng nhận đạt tỷ lệ điện chuẩn trong giao dịch thanh toán quốc tế năm 2007 bởi đại diện của Wachovia Bank - một trong bốn ngân hàng lớn nhất của Mỹ trao tặng. Với những thành quả đã đạt được trong nhiều năm liên tiếp, VPBank luôn được các ngân hàng lớn như CitiBank, The Bank of New York...công nhận về chất lượng hoạt động trong các giao dịch thanh toán quốc tế của mình.
2.2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK
2.2.1. Một số vấn đề vế các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn
Với vị thế là thủ đô, trung tâm kinh tế hàng đầu của miền Bắc, Hà Nội là nơi tập trung số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng thứ hai trong cả nước chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp ở Hà Nội tính đến 31/12/2007 là 22.739 trong đó số doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn dưới 10 tỷ là 19.880, chiếm tới 87,43%. Hấu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu vực kinh tế n\goài quốc doanh và hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, công nghiệp nhẹ 19%, công nghiệp chế biến và xây dựng (70%), còn lại là các ngành xây dựng kinh doanh khách sạn, thông tin liên lạc và y tế.
Công nghiệp nhẹ
Ngành khác
Biểu đồ : Cơ cấu ngành của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2007
Thương mại, công nghiệp và xây dựng
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Có thể thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cả nước cũng như trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội nói riêng đều gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính. Để có được vốn nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh trong điều kiện mà lợi nhuận còn quá ít ỏi, các doanh nghiệp này phải nhờ nguồn tài trợ chủ yếu là đi vay từ người thân, gia đình, bạn bè, vay các cá nhân khác. Chính vì vậy mà nguồn đi vay từ các tổ chức tín dụng đóng một vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn này không hề đơn giản bởi những khó khăn, cản trở đến từ cả hai phía ngân hàng và doanh nghiệp. Trước thực trạng đó, nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đã lập ra một số quỹ hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng nhằm giải quyết phần nào khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, ví dụ như :
Quỹ ABS ( một tổ chức tư nhân lâu đời ở Nauy ): Tổ chức này tài trợ có tính nhân đạo thông qua việc phục hồi chức năng và giải trí cho người tàn tật, hỗ trợ bảo tồn thiên nhiên, giúp đỡ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ để phát triển và hiểu biết trên toàn cầu.
Quỹ phát triển dự án MêKông (MPDF) : quỹ nằm trong chương trình hỗ trợ phát triển cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia của World Bank và bắt đầu thành lập năm 1997. Mục tiêu hướng tới của quỹ là hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ba nước Đông Dương trong một số lĩnh vực quan trong như : lĩnh vực tài chính, lĩnh vực kỹ thuật, học thuật, các phân tích và nghiên cứu khả thi về các mô hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các nước này.
Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (dưới sự tài trợ của Ủy ban Châu Âu): Hướng trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, bằng việc cấp tín dụng trung và dài hạn cho 3 hoặc 4 ngân hàng. Để lựa chọn ra những ngân hàng được cấp tín dụng, tổ chức căn cứ vào một số những tiêu chí như chính sách cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, tình hình tài chính của ngân hàng, các phương tiện để triển khai chiến lược cho vay…
Quỹ phát triển nông thôn (RDF): quỹ này được thành lập xuất phát từ một phần trong dự án tài chính nông thôn do World Bank tài trợ. Mục tiêu của quỹ là hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn có thể tiếp cận các nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại và từ đó có thể tăng cường chuyển dịch cơ cấu và giải quyết việc làm tại nông thôn.
Mặc dù nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ phía các tổ chức, quỹ phát triển nhưng nguồn vốn huy động từ tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng nhất. Hầu như tất cả các quỹ đều yêu cầu các doanh nghiệp phải có được nguồn tài trợ từ phía các ngân hàng thương mại từ 15 đến 25% nhu cầu vốn vay , đây được coi như là một điều kiện bắt buộc để được hỗ trợ phần còn lại từ quỹ. Vì vậy, để có thể tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức của doanh nghiệp vừa và nhỏ thì con đường tất yếu,bắt buộc đó là thông qua hệ thống ngân hàng thương mại.
2.2.2. Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ VPBank
Hiện nay ở nước ta, với điều kiện nền kinh tế mở cửa và liên tục tăng trưởng mạnh, nhu cầu vay vốn phục vụ cho đầu tư tăng cao nên hoạt động tín dụng của các ngân hàng khá sôi động.Trong thời gian từ 2006 – 2008,hoạt động tín dụng của VPBank luôn luôn kiên trì giữ theo phương châm “bảo thủ”, không cạnh tranh bằng cách nới lỏng điều kiện tín dụng. Tuy vậy, do có nhiều giải pháp tổng thể như tăng cường đào tạo nghiệp vụ cho nhân viên, nâng cao chất lượng nghiệp vụ, rút ngắn thời gian phục vụ khách hàng cùng với sự nỗ lực tiếp thị khách hàng của các đơn vị nên tốc độ phát triển tín dụng Của VPBank vẫn đật mức tăng khá, cao gấp gần 3 lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng. Doanh số cho vay của toàn hệ thống năm 2008 đạt 7594 tỷ đồng, tăng hơn 2681 tỷ đồng ( tương đương 68% ) so với năm 2007.Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến 31/12/2008 đạt 6031 tỷ đồng, tăng 2017 tỷ đồng ( tương đương 67%) so với năm 2007.
Mặc dù vậy chất lượng tín dụng của VPBank vẫn luôn đảm bảo được yêu cầu của NHNN và qui chế của VPBank. Tỷ lệ nợ quá hạn của VPBank (gồm các nhóm 3,4,5 ) cuối năm 2007 ở mức xấp xỉ 0,56% tổng dư nợ, thấp hơn rất nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn ngành Ngân hàng Việt nam ( khoảng 7% ).
Bảng 2 : Cơ cấu Dư nợ tín dụng VNĐ theo ngành kinh tế năm 2006-2007-2008
Đơn vị: triệu VNĐ
Năm
Ngành
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung dài hạn
2006
2007
2008
2006
2007
2008
Xây dựng
313.859,06
508.385,70
736.859,50
54.351,37
85.358,76
133.351,37
Sản xuất công nghiệp chế biến
31.837,86
45.038,00
56.637,64
41.881,51
60.454,33
98.881,51
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy
269.366,40
438.343,05
836.750,30
345.027,99
574.350,72
537.027,99
Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc
24.506,12
24.183,54
62.745,60
240.367,21
474.217,66
578.367,21
Hoạt động phục vụ cá nhân, cộng đồng
333.142,57
324.738,50
637.756,40
173.201,97
473.110,94
435.201,97
Ngành khác
31.636,99
64.404,21
180.500,56
5.159,95
79.565,59
195.266,95
Tổng dư nợ tín dụng VNĐ
1.004.349
1.405.093
2.511.250
859.990
1.607.058
2.458.097
Nguồn : Báo cáo thường niên VPBank
Có thể thấy theo cơ cấu ngành k._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1894.doc