Nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vpbank

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………6 CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ....................................................9 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ…………………………………..9 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ…………………………..9 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ…………………………..12 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế….21 CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM..25 Đặc điểm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ………………....25 Các hì

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vpbank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thức cho vay của NHTM đối với các DNVVN…….26 HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ…28 Quan điểm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ..28 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay………………………29 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ……………………………………………………31 1.3.3.1 Ảnh hưởng từ các nhân tố khách quan……………….31 1.3.3.2 Ảnh hưởng từ các nhân tố chủ quan………………….32 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK………………………………...35 2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VPBANK……………………………...35 2.1.1 Lĩnh vực hoạt động và cơ cấu tổ chức………………………...35 2.1.1.1 Lĩnh vực hoạt động………………………………………35 2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức…………………………………………...36 2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của VPBank…………………..38 2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn…………………………………38 2.1.2.2 Hoạt động tín dụng…………………………………….....40 2.1.2.3 Hoạt động dịch vụ………………………………………..41 2.2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA VPBANK…………………………………………...42 2.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn………………………..42 2.2.2 Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ của VPBank…………………………………………………………………….45 2.3 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DNVVN CỦA VPBANK.51 2.3.1 Thành tựu đạt được……………………………………………..51 2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân…………………………………53 2.3.2.1 Những hạn chế…………………………………………….53 2.3.2.2 Nguyên nhân………………………………………………54 CHƯƠNG 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VPBANK………………………………..56 3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VPBANK…………………...56 3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU CỦA CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ…………………………………………………..58 3.2.1 Đổi mới cơ chế cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ..58 3.2.2 Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định………………………...59 3.2.3 Thiết lập chính sách khách hàng hợp lý, vừa thỏa mãn nhu cầu khách hàng vừa đảm bảo có lãi…………………………………………….63 3.2.4 Nâng cao trình độ các cán bộ tín dụng………………………...65 3.2.5 Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, marketing, thông tin đại chúng……………………………………………………………………….67 3.3 NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VPBANK…….68 KẾT LUẬN………………………………………………………………..71 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTM : Ngân hàng Thương mại VNĐ : Việt Nam Đồng USD : Đô La Mỹ NH : Ngân hàng DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ LSCB : Lãi suất cơ bản DN : Doanh nghiệp DANH MỤC BẢNG Bảng 1 : Xác định quy mô doanh nghiệp Bảng 2 : Các nguồn tín dụng của DNVVN Việt Nam Bảng 3 : Tình hình huy động vốn trong một số năm của VPBank Biểu đồ : Cơ cấu ngành của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2005 Bảng 4 : Cơ cấu dư nợ tín dụng VNĐ theo ngành kinh tế năm 2004 Bảng 5 : Cơ cấu dư nợ tín dụng VNĐ theo ngành kinh tế năm 2005 Bảng 6 : Cơ cấu dư nợ tín dụng VNĐ theo ngành kinh tế năm 2006 Bảng 7 : Cơ cấu dư nợ của doanh nghiệp vừa và nhỏ 2005 - 2006 Bảng 8: Tình hình thu lãi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 2005 - 2006 Bảng 9 : Tỷ lệ dư nợ xấu trong tổng dư nợ của VPBank năm 2004- 2005- 2006 Bảng 10: Tỷ lệ đảm bảo an toàn 2004 - 2005 - 2006 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình NHTM – NXB ĐH KTQD HN – 2007 Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter Rose – NXB Tài chính- 2001 Annual Report VPBank 2005 và 2006 (gồm các báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối tài sản, báo cáo thu nhập chi phí…) Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại - NXB Thống kê – 2006 LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển vô cùng ấn tượng trong hai thập niên gần đây, chính sự chuyển dịch từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung truyền thống sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ năm 1986 đã mang lại những cải thiện sâu xắc về hiệu quả kinh tế và đời sống nhân dân. Hiện nay, nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ với sự đồng hành của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt trong sự phát triển đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang giữ một vị trí rất quan trọng .Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân và đồng thời để hội nhập với xu hướng thời đại, các thành phần kinh tế cần phải khai thác toàn diện và hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng, vì thế vấn đề đặt ra cho ngành ngân hàng là phải giải quyết hàng loạt khó khăn mà các doanh nghiệp đang gặp phải. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những tổ chức kinh tế làm ăn khá hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển và phù hợp với khả năng nguồn vốn của ngân hàng chính vì thế rất nhiều ngân hàng hiện nay đã chủ trương ưu tiên cấp tín dụng cho đối tượng này. Tuy nhiên sự tiếp cận của các doanh nghiệp này đối với ngân hàng vẫn còn rất khó khăn và thực tế cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chưa nhiều. Nguyên nhân có thể là do mục tiêu của các NHTM chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp lớn,tuy nhiên lý do chính là vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta sử dụng vốn tín dụng còn chưa hợp lý và hiệu quả. Chính vì những bức xúc đó mà việc đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề đặc biệt chú trọng của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 04/9/1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04/09/1993. Chiến lược của VPBank được Hội đồng quản trị đưa ra là “Phấn đấu đến năm 2010 trở thành ngân hàng đứng đầu khu vực phía Bắc, được đứng trong top5 cả nước, một ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực Đông Nam Á về chất lượng, hiệu quả, độ tin cậy ”, thị trường mục tiêu mà VPBank hướng đến đó là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, quy mô vừa và nhỏ.Khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được VPBank lấy làm trọng tâm đầu tư và khai thác, chính vì thế vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là hiệu quả cho vay các doanh nghiệp này. Xuất phát từ thực tế đó của VPBank em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Nâng cao hiệu quả cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank ”. Trong chuyên đề này, nội dung chính được chọn nghiên cứu là hoạt động cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM nói chung và VPBank nói riêng. Từ đó, đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank.Tuy nhiên, vì những hạn chế nhất định, phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại xem xét ở các khía cạnh chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp này ở VPBank – Chi nhánh Đông Đô. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chuyên đề gồm 3 chương chính: CHƯƠNG I : Cơ sở lí thuyết về vấn đề hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ CHƯƠNG II : Thực trạng hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank hiện nay CHƯƠNG III : Những giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng VPBank Em xin trân thành gửi lời cảm ơn đến Ths Đoàn Phương Thảo đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em hoàn thiện đề tài, cùng toàn thể các anh chị, cô, chú tại phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp VPBank Đông Đô và các phòng ban khác có liên quan đã nhiệt tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ HIỆU QUẢ CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1 DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách rõ ràng và chính xác nhất, đòi hỏi các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách cần đặt mình vào những điều kiện cụ thể của từng quốc gia cũng như thời điểm nghiên cứu khái niệm. Mỗi một quốc gia có những đặc trưng và điều kiện kinh tế khác nhau, vì vậy sự phân loại các doanh nghiệp là không thể thống nhất ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Ví dụ, một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước này được xem là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng nếu đặt trong môi trường kinh tế kém phát triển hơn thì lại trở thành doanh nghiệp lớn thậm chí là rất lớn…Tương tự, nếu như trong quá khứ một doanh nghiệp được coi là lớn thì đến nay nó chỉ là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì thế, khi đề cập đến doanh nghiệp vừa và nhỏ thì ta phải biết rằng, các doanh nghiệp đó đang nằm tại quốc gia nào, trong một môi trường kinh tế như thế nào và tại thời điểm nào. Nói cách khác, khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia, tại một thời điểm nhất định. Mặc dù vậy, đối với mỗi quốc gia thì việc đưa ra một khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ cho riêng mình lại đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển, điều này đã được minh chứng rõ cụ thể trong thực tiễn, quốc gia có một khái niệm kinh tế càng rõ ràng thì các chính sách hỗ trợ đưa ra càng hiệu quả. Thông thường, khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn gắn với các nhóm chỉ tiêu định tính và định lượng, trong đó, các chỉ tiêu định lượng đóng vai trò quyết định để phân biệt nhóm doanh nghiệp này với các doanh nghiệp lớn hơn. Có ba chỉ tiêu định lượng để xác định mức độ vừa và nhỏ của doanh nghiệp có thể được dùng độc lập, hoặc kết hợp với nhau : Lượng vốn đầu tư vào máy móc dây truyền sản xuất Số lượng lao động Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh. Xét về mặt định tính, người ta xem xét đến cơ cấu của công ty, cơ cấu quản lý, ngành nghề kinh doanh, người ra quyết định chính và các rủi ro có thể xẩy ra.Sau đây là một số định nghĩa của một vài quốc gia tiêu biểu trên thế giới: Trong các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), doanh nghiệp vừa và nhỏ được xếp thành các nhóm cụ thể sau: Doanh nghiệp có quy mô vừa nếu có ít hơn 250 nhân viên, doanh thu hàng năm không vượt quá 50 triệu EUR, hoặc trị giá tổng tài sản không vượt quá 43 triệu EUR. Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có dưới 50 công nhân, doanh thu hàng năm không vượt quá 10 triệu EUR hoặc giá trị tổng tài sản không vượt quá 9 triệu EUR. Doanh nghiệp cực nhỏ nếu có dưới 10 nhân viên, doanh thu hàng năm thấp hơn 1 triệu EUR, hoặc tổng tài sản nhỏ hơn 1,4 triệu EUR. Tại Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Nhật Bản, số nhân công Nhật làm việc cho những công ty này chiếm khoảng 70%, giá trị sản xuất chiếm một nửa tổng giá trị ngành. Hoạt động của họ tập trung chủ yếu vào sản xuất hàng điện tử, kỹ thuật và hóa học; cụ thể như sau: Bảng 1: Xác định quy mô doanh nghiệp Các doanh nghiệp vừa Khu vực Quy mô lao động / Vốn Sản xuất, khai thác và chế biến < 300 người / 100 triệu Yên Bán buôn < 100 người / 30 triệu Yên Bán lẻ và dịch vụ < 50 người / 10 triệu Yên Các doanh nghiệp nhỏ Khu vực Quy mô lao động / Vốn Sản xuất < 20 người/5 triệu Yên Thương mại và dịch vụ < 5 người/dưới 5 triệu Yên (Nguồn: Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương) Tại Indonesia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp trong nước,thu hút từ 60% - 70% việc làm tại các doanh nghiệp. Inđônêxia cho rằng doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lượng công nhân từ 20-99 người, vốn tư bản trên 600 triệu RP (tiền Inđônêxia) doanh nghiệp nhỏ có số lượng công nhân từ 5-19 người và vốn tư bản dưới 600 triệu RP còn doanh nghiệp cực nhỏ có số lượng lao động từ 1-4 người (Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương) Tại Việt Nam, căn cứ nghị định của chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Theo đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm : Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/ 02/ 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã. Như vậy đã có sự khác nhau rõ rệt giữa các quốc gia về khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời sự phân định này chỉ mang tính tương đối và chủ yếu căn cứ vào qui mô về vốn và lao động của doanh nghiệp đó.Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được sự quan tâm đặc biệt từ các chính phủ, cho dù đó là nước công nghiệp phát triển hay nước đang phát triển. Mặc dù khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ không hề giống nhau ở mỗi quốc gia, nhưng ta có thể đi đến kết luận chung, thuật ngữ doanh nghiệp vừa và nhỏ là hàm ý nói tới một tập hợp các thực thể kinh tế có quy mô vừa và nhỏ xét trên phương diện vốn và lao động so với mặt bằng phát triển chung của nền kinh tế ở một quốc gia nhất định. 1.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ Đã là doanh nghiệp vừ và nhỏ thì chắc phải có những hạn chế nhất định về quy mô và nguồn lực so với các doanh nghiệp lớn,chính vì vậy các DNVVH luôn gặp phải những khó khăn nhất định, cụ thể là : Năng lực cạnh tranh yếu kém, trình độ tay nghề chưa cao, giá lao động đang tăng lên ảnh hưởng tới giá thành làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm ; khâu kiểm soát chất lượng sản phẩm chưa được chú trọng . Năng suất lao động thấp, là do nhân tố trình độ công nghệ thấp quyết định. Ít vốn và thiếu sự hỗ trợ tài chính Sự yếu kém trong công tác quản lý, công tác nghiên cứu và phát triển thì hầu như không có hoặc nếu có thì cũng được tiến hành rất chậm chạp. Do chi phí quá cao nên khâu quảng cáo thương hiệu cũng bị hạn chế nhiều. Hơn thế nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phải đối mặt với một thực tế là những nhân viên giỏi rất dễ ra đi trước những sự lôi kéo của các công ty hay tập đoàn lớn với mức thu nhập hấp dẫn kèm theo. Về vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết định, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn không nhỏ đối với các khoản vay trung hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc đầu tư vào khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ còn bị hạn chế rất nhiều do sự nhận thức chưa thông thoáng. Một khó khăn nữa đặt ra đó là việc tiếp cận các nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế. Với tỷ trọng chiếm hơn 90% trong tổng số các doanh nghiệp ở hầu hết các nước trên thế giới, đáng lẽ khu vực này phải là “khách hàng ruột” của các ngân hàng thương mại, song thực tế là chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các DNVVH đối với các ngân hàng thương mại. Trong khi đó nhu cầu vốn kinh doanh của các DNVVH là rất lớn bao gồm cả vốn ngắn hạn và trung dài hạn. Nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện xuất phát từ tính chất thời vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương mại. Các khoản vay hầu hết dựa trên những hợp đồng tiêu thụ có sẵn, hoặc các hợp đồng cung cấp đã ký. Khối lượng mỗi khoản vay thường không lớn nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường vay nhiều lần và với thời hạn ngắn vì vậy nếu tính theo doanh số cho vay trong một thời kì nhất định thì con số này khá cao, tương đương với một doanh nghiệp lớn. Vốn dài hạn dùng để đầu tư vào tài sản cố định và mở rộng sản xuất. Doanh nghiệp nào cũng đều muốn mở rộng phạm vi hoạt động cũng như quy mô để có thể trở thành các doanh nghiệp lớn hơn. Để làm được điều đó, các kế hoạch đổi mới công nghệ, Marketing của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều cần tới nguồn vốn dài hạn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn huy động từ nhiều nguồn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn : Vay từ các cá nhân, các tổ chức tín dụng thương mại Vay từ các ngân hàng thương mại Vay từ các quỹ tín dụng Vay từ một số nguồn khác Bảng 2 : Các nguồn tín dụng của DNVVN Việt Nam (%) Nguồn Khu vực nông thôn Khu vực thành thị Tổng Vay từ cá nhân, tín dụng thương mại 72.5 66 70.8 Quỹ tín dụng 3.5 1.2 2.6 Ngân hàng thương mại 22.5 23.1 22.7 Nguồn khác 1.5 9.7 3.9 Tổng 100 100 100 (Nguồn : Phòng thống kê, Bộ Kế hoạch đầu tư, tháng 9 năm 2005) Thực tế cho thấy, các DNVVN đang có rất nhiều cơ hội được tiếp cận với vốn tín dụng của các ngân hàng. Theo tổng kết của các ngân hàng, trong thời gian trở lại đây, hầu hết các ngân hàng thương mại đều nhận định  DNVVN là khách hàng quan trọng, vì vậy đã đạt chỉ tiêu phấn đấu cho vay từ 30 đến 40%. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cho thấy 44% số ngân hàng được hỏi cho DNVVN vay với tỷ trọng vốn khoảng 38% dư nợ. Doanh nghiệp thì cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, ngân hàng thì cần cho vay thu lãi, nhưng hai bên vẫn loay hoay tìm con đường tiếp cận với nhau, nhiều vướng mắc trong quá trình cấp tín dụng là do vốn thực của các doanh nghiệp luôn thấp hơn số vốn đăng ký. Tình trạng thiếu minh bạch trong hồ sơ sổ sách cũng như sự thiếu chuyên nghiệp trong xây dựng dự án của doanh nghiệp cũng là một khó khăn khi các NHTM ra quyết định cấp vốn. Theo kết quả điều tra của Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), hiện nay có đến 80% lượng vốn cung ứng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là huy động từ các ngân hàng.Nhưng chỉ có 32,38% những doanh nghiệp này là có khả năng tiếp cận được nguồn vốn của các ngân hàng; 35,25% khó tiếp cận và 32,37% không thể tiếp cận được. Ngoài ra, những vụ án về một sốdoanh nghiệp kinh doanh theo kiểu chụp giật, lừa đảo..., cũng gây áp lực tâm lý cho ngân hàng khi cho vay.  Cán bộ tín dụng luôn phải chịu áp lực không nhỏ về các chỉ tiêu đặt ra như cho vay đủ doanh số, kế hoạch hàng tháng và nhiều khi họ rơi vào tình trạng ngập ngừng trong việc cấp tín dụng bởi những vướng mắc như việc phân loại doanh nghiệp, các chỉ số đánh giá chưa chính xác; hệ thống thông tin về khách hàng chưa đạt yêu cầu, vì vậy việc xem xét thực trạng hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, trách nhiệm đối với các khoản tín dụng nhiều khi chưa rõ ràng. Trong trường hợp này,nhờ xây dựng được những gói sản phẩm, được trình bày khá chi tiết, cụ thể đã đem lại hiệu quả tốt hơn cho các ngân hàng cổ phần, giúp doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện những yêu cầu đặt ra. Nếu doanh nghiệp làm ăn một cách chuyên nghiệp hơn, việc áp dụng những chuẩn mực do ngân hàng đề ra cũng không quá khó khăn, thậm chí, ngân hàng phải đến tận nơi phục vụ. Tuy nhiên, một số ngân hàng  khai thác khách hàng dựa trên mối quan hệ đã có, tạo một thông lệ không tốt cho các doanh nghiệp, cũng như  mất đi tính lành mạnh trong sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng,điều này đã dẫn đến việc cho vay chỗ khó vẫn khó mà chỗ dễ thì lại quá dễ. Các doanh nghiệp này thường thừa cơ chiếm dụng vốn của nhau thông qua một số hình thức tín dụng thương mại, hoặc vay từ các cá nhân bạn bè. Với sự cố gắng vươn lên để tồn tại và có được một chỗ đứng trên thị trường đã khách quan tạo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ những đặc điểm riêng vốn có của mình. Hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn rất linh hoạt và năng động bởi sự đa dạng về ngành nghề và phương thức tiêp cận thị trường. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này cũng rất phong phú,vì vậy đây chính là cơ hội tốt cho các chủ doanh nghiệp tìm kiếm các lĩnh vực mới đem lại lợi nhuận nhanh chóng mà sự cạnh tranh lại chưa cao. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này dể dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh nếu cảm thấy không phù hợp hoặc không hiệu quả bởi lượng vốn bỏ vào không lớn, vì vậy nếu có những sự biến động xấu về cung cầu trên thị trường thì nhóm doanh nghiệp này cũng không chịu ảnh hưởng nhiều, dễ phục hồi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Về ngành nghề kinh doanh, một số lĩnh vực đòi hỏi quy mô lớn mà doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tham gia như các ngành công nghiệp năng, khai thác mỏ, luyện kim, ngân hàng tài chính… do vốn và nhân lực còn hạn chế. Nhưng bên cạnh đó lại có những mặt mà chỉ DNVVN mới có thể làm tốt mà các doanh nghiệp lớn nếu làm sẽ không đạt hiệu quả cao như mong đợi. Vì thế, các DNVVN thường tập trung khai thác vào các ngành công nghiệp nhẹ như : may mặc, gia công thô sơ, xử lý phần thô, chế biến, sản xuất bao bì, đóng gói ,…Về dịch vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung vào các lĩnh vực như vận tải nội thành, vui chơi giải trí, ẩm thực, bảo hành chăm sóc khách hàng … Lĩnh vực thương mại cũng là một trong những thế mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ như thu mua nguyên vật liệu trong và ngoài nước, tham gia và các kênh phân phối sản phẩm. Có thể nói rằng các ngành được nêu ở trên đều có số vốn đầu tư ban đầu ít, công nghệ sử dụng ở mức trung bình, lao động sử dụng chủ yếu là lao động phổ thông có trình độ vừa phải phù hợp với tính chất của các DNVVN. Có thể thấy rõ là hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là phục vụ cho các doanh nghiệp lớn như làm nhà cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán hàng, phân phối, hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có quy mô nhỏ và chiều sâu hạn chế . Chính vì vậy mà luôn tộn tại, chứa đựng những rủi ro bất ổn ở những thị trường này khiến cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trở nên bấp bênh, sự cạnh tranh vì thế mà vô cùng gay gắt. Theo như các nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ thì đối thủ cạnh tranh lớn nhất không phải là các doanh nghiệp lớn mà chính là các doanh nghiệp có cùng quy mô. Bởi vì, các doanh nghiệp lớn có thị trường ổn định, nhóm khách hàng mục tiêu thường được xác định trước, các doanh nghiệp lớn thường quan tâm tới những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu, những thị trường nhỏ thường được bỏ qua hoặc không có khả năng bao quát hết toàn bộ thị trường. Các doanh nghiệp lớn cũng không dễ gì thâu tóm các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ bởi họ nhận thức được sự cần thiết của các DNVVN đối với sự tồn tại và phát triển của mình. Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số lượng đông đảo và đều có mục đích chung là tìm kiếm những thị trường còn bỏ trống chưa được khai thác.Nhưng thực tế để có thể chứa được tất cả các doanh nghiệp nhỏ này thì những thị trường này vẫn còn quá bé nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng vô cùng nhạy cảm với các thị trường này. Khi một doanh nghiệp tìm thấy được một thị trường mới mẻ và đầu tư vào thị trường đó thì ngay lập tức có rất nhiều doanh nghiệp khác cũng nhảy vào, ví dụ như trong lĩnh vực ăn uống, bảo hành, dịch vụ sửa chữa. Về khả năng cạnh tranh, các DNVVN Việt Nam có nhiều điểm mạnh, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém,cụ thể như sau : Thứ nhất, chất lượng và khả năng cạnh tranh trong quản lý còn yếu kém. Đội ngũ chủ DN, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN chưa thực sự có trình độ tương xứng về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, năng lực quản lý tốt và trình độ chuyên môn cao chưa nhiều. Hầu hết chủ DN và giám đốc DN tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản và chuyên nghiệp về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Chính vì vậy mà không tránh khỏi khi các DN hoạt động 1 cách chủ quan, thiếu kinh nghiệm,tầm nhìn chiến lược và thiếu kiến thức trên các phương diện : Quản lý tổ chức, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu. Thứ hai, năng suất lao động thấp trong khi đó chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thì ngày càng cao khiến cho khả năng cạnh tranh của các Dn này yếu đi.Giá thành sản phẩm sản xuất ở nước ta luôn cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần so với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,... mặc dù giá nhân công lao động thuộc loại rất thấp so với các nước trong khu vực. Thứ ba, khả năng cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn và năng lực tài chính (có tính cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều DN còn rất nhỏ bé, vừa không có tính bền vững, vừa kém hiệu quả. Hiện nay ở nước ta số lượng DN nhỏ và vô cùng nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao. Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy, các DNVVN hiện đang chiếm tới 97% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 26% tổng đầu tư toàn xã hội và thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Số DN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm khoảng 44,1%, quy mô lao động dưới 10 người chiếm 46,6%. Nếu so sánh năm 2006 với năm 2000, số vốn và số lượng lao động bình quân trong mỗi DN đã giảm từ 26 tỷ đồng và 87 lao động xuống còn 24 tỷ đồng và 75 lao động (theo số liệu của Tổng cục Thống kê). Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành,tuân thủ luật pháp còn rất yếu kém. Rất nhiều các DNVVN vẫn còn tình trạng coi thường luật pháp,chỉ vì lợi ích kinh doanh mà bất chấp tất cả, chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp.Có không ít các DNVVN đã bị các cơ quan chức năng phàn nàn, xử phạt vi phạm các chế độ về thuế, tài chính. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật này là do sự hạn chế trong nhận thức cũng như sự kém hiểu biết của DN về pháp luật. Thứ năm, sự kém phát triển trong lĩnh vực quảng cáo thương hiệu đã góp phần làm giảm khả năng cạnh tranh. Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa thực sự khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam còn rất thiếu kinh nghiệm trong chiến lược xây dựng thương hiệu riêng cho mình,chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ chính vì vậy mà khả năng cạnh tranh cũng kém đi nhiều. Theo số liệu khảo sát gần đây nhất của VCCI, chỉ có gần 10% số doanh nghiệp là thường xuyên và chú trọng việc tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này các doanh nghiệp lớn là chủ yếu, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu; Khoảng 42% doanh nghiệp tìm hiểu thị trường nước ngoài không thường xuyên và khoảng 20% doanh nghiệp, chủ yếu là các DNVVN, không hề có các hoạt động tìm hiểu thị trường nước ngoài. Hội nhập quốc tế đã buộc các DN phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh,mở rộng quy mô để đủ sức tồn tại và phát triển trên thương trường. Trong các nhân tố tạo nên 1 DN thì có thể nói năng lực của các nhà quản lý là một trong những nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển và cạnh tranh của DN. Doanh nhân ngày nay nhất là các nhà quản lý cần có những năng lực tổng hợp và ở mức độ cao hơn hẳn những năm trước để nhằm đáp ứng được nhu cầu thời đại; trong đó cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh tranh. Xuất phát từ những đặc điểm trên mà sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung vào một số dạng chủ yếu như sau: Các loại mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của các công ty lớn đóng vai trò như là nguyên liệu phụ của dây chuyền sản xuất như : các bộ phận phụ của một chi tiết lớn như các ngành cơ khí, tự động hoá , công nghiệp ô tô, máy bay,… Tuy hàm lương kĩ thuật chứa đựng trong các mặt hàng là khá thấp nhưng là một yếu tố không thể thiếu cho việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Các loại đồ mỹ nghệ,sản phẩm thủ công mang tính cá biệt cao,không thể áp dụng sản xuất hàng loạt. Giá cả của mặt hàng này thường cao do có chi phí sản xuất lớn. Nhóm sản phẩm này thường đáp ứng cho những khách hàng đặc biệt hoặc đem xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Các sản phẩm tiêu dùng khác phục vụ cho nhóm khách hàng bình dân, các sản phẩm kiểu này có chất lượng trung bình, giá cả phải chăng chủ yếu phục vụ những khách hàng dễ tính. Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ không ngừng thay đổi và cải tiến mẫu mã,chất lượng sản phẩm nhằm đáp ưng nhu cầu người tiêu dùng,chính vì vậy mà các sản phẩm dịch vụ mà cung cấp thường đa dạng và có sự khác biệt giữa những doanh nghiệp với nhau. Đối với từng khách hàng thì dịch vụ được cung ứng cũng khác nhau, giá cả của các dịch vụ cũng rất phong phú phụ thuộc vào đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ đó : như dịch vụ bảo hành, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lắp đặt, … 1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một số lượng đồ sộ, là nhân tố không thể thiếu và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia.Với bất kỳ một quốc gia nào dù phát triển hay kém phát triển thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là yếu tố cần thiết không thể thiếu cho sự tăng trưởng, giải quyết thất nghiệp và tiến bộ xã hội. Cho đến nay, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được khẳng định trên phạm vi toàn thế giới, được thể hiện cụ thể trên một số khía cạnh sau: Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và gia tăng thu nhập ở các quốc gia. Ở nước ta hiện nay, trong tổng số khoảng 250.000 doanh nghiệp đã thành lập trên toàn quốc thì doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 96% . Các doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 25% GDP, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra khoảng 80% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, và 26% lực lượng lao động trong cả nước. Nhìn ra một số nước trên thế giới, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng vô cùng quan trọng trong nền kinh tế.Nhìn vào một đất nước đã từng sản sinh ra các tập đoàn hùng mạnh vào bậc nhất thế giới,nước Mỹ, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn luôn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. 40% GDP của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực này,một tỷ lệ tương đối lớn. Những doanh nghiệp lớn như Ford hay Microsoft cũng không thể hoạt động đơn lẻ nếu không có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ. Ở Bungary, theo thống kê năm 2006, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra 30.72 % tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế. Năm 2003, doanh thu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan chiếm 36% cả nước, kim ngạch xuất khẩu chiếm tới 51%. Chúng ta cũng có thể thấy tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhổntng việc đảm bảo tăng trưởng của nền kinh tế tại Nhật Bản, chiếm 64% doanh số bán buôn và 76% doanh số bán lẻ. Không chỉ có những đóng góp to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doa._.nh nghiệp có quy mô lớn. Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Chính nhờ sự có mặt của các doanh nghiệp này đã tạo điều kiện cho ngành thương mại dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp không ngừng phát triển ở nông thôn. Điều này đã làm cho tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân vì thế được thu hẹp dần. Mặt khác doanh nghiệp vừa và nhỏ thúc cũng góp phần đẩy mạnh quá trình đô thị hoá, thu hút và tập trung dân cư vào các khu vực trọng điểm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, mang đến lượng thu nhập đáng kể cho người nghèo và giá thành sản phẩm tương đối rẻ phù hợp với những người có mức thu nhập thấp . Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ tạo ra những sản phẩm giá rẻ, phù hợp với mức sống của người dân mà còn tạo ra một mạng lưới phân phối rộng khắp trải đều trên phạm vi toàn đất nước. Chính vì vậy những người nghèo có điều kiện nâng cao mức sống của mình và tình trạng đói nghèo cũng giảm dần. Thứ ba, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ là một cộng sự đắc lực không thể thiếu của các doanh nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, những nguyên liệu đầu vào của dây chuyền sản xuất, làm đại lý tạo lập các kênh phân phối sản phẩm. Có thể nói doanh nghiệp vừa và nhỏ là người cung cấp đồng thời là người tiêu thụ sản phẩm hết sức quan trọng của các doanh nghiệp lớn. Bất kỳ doanh nghiệp lớn nào đều cần có một mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là đối tượng phù hợp nhất đáp ứng nhu cầu cung cấp và phân phối sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Chính sự hỗ trợ này đã giúp các doanh nghiệp lớn hạn chế được tối đa các rủi ro trên thị trường gây ra cả về mặt cung và cầu, giảm thiểu các chi phí trong quá trình vận chuyển, lưu trữ hàng hoá từ đó làm giảm giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Thứ tư, góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, hạn chế tối đa nạn thất nghiệp. Mặc dù trong mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ, lượng lao động là không nhiều, nhưng bù vào đó, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất đông đảo và phát triển nên đã tạo ra một khối lượng việc làm đáng kể. Hiện nay ở nước ta theo con số thống kê mới nhất lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 77%, con số này ở Trung Quốc là 84,3% và ở Nhật Bản là 80%. Trong tình trạng nền kinh tế hiện nay, với việc tái cơ cấu nền kinh tế và kèm theo đó khủng hoảng kinh tế diễn ra trên toàn cầu đã khiến các doanh nghiệp lớn cắt giảm 1 lượng lao động khá lớn và chính trong hoàn cảnh này sự có mặt của các DNVVN đã làm hạn chế phần nào áp lực thất nghiệp đối với nền kinh tế. Rõ ràng sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ là một giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề việc làm, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển, nơi mà lượng lao động tham gia vào thị trường tăng tăng lên mỗi năm là không nhiều. Thực tế trên thế giới đã cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ là động lực lớn để thị trường lao động phát triển qua đó tay nghề, ý thức lao động cũng được nâng cao, góp phần cải thiện chất lượng nguồn lao động quốc gia. Thứ năm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ như cái nôi sản sinh ra các nhà doanh nghiệp tài năng, là môi trường thuận lợi cho việc đào tạo và phát triển kĩ năng kinh doanh.Rất nhiều các nhà doanh nghiệp khi làm quen với môi trường kinh doanh thường bắt đầu với doanh nghiệp vừa và nhỏ.Chính từ đây họ được tiếp cận các kỹ năng quản lý cơ bản,tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân và cũng là môi trường tốt để họ làm quen với sự cạnh tranh. Khi đã trưởng thành và có trong tay những kinh nghiệm cần thiết thì họ có thể tìm kiếm những doanh nghiệp lớn hơn để vươn tới đỉnh cao,thử thách mới hoặc ở lại lãnh đạo chính doanh nghiệp này phát triển thành doanh nghiệp lớn hơn. Sự lớn lên cả về chất lượng và số lượng của các doanh nhân kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp, nền kinh tế cũng theo đó mà đi lên. Thực tế như ở nước Bỉ, với số dân là 10 triệu người thì có đến khoảng 700 nghìn người làm kinh doanh, ở Pháp có 60 triệu dân và số người làm kinh doanh là 2,4 triệu. Trong khi đó ở nước ta con sso này lại không hề tưưong xứng, chỉ có 200 nghìn người làm kinh doanh trong tổng số hơn 80 triệu dân. Thứ sáu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm hạn chế bớt sự độc quyền của các tập đoàn lớn, duy trì tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Ngay các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng luôn cạnh tranh với nhau hết sức gay gắt nhằm khẳng định chỗ đứng của mình trên thương trường, không ngừng phát triển trở thành các doanh nghiệp lớn mạnh hơn. Sự cạnh tranh gay gắt này đã khiến cho nền kinh tế trở nên sôi động hơn, luôn luôn có sự phát triển và thay mới,cùng hoà chung nhịp đập với nền kinh tế thế giới. Có thể thấy rằng, doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy còn nhiều mặt hạn chế nhưng vai trò của chúng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Cùng với các doanh nghiệp lớn chúng tạo nên sự cân đối trong nền kinh tế. Một nền kinh tế nếu chỉ toàn những doanh nghiệp vừa và nhỏ thì sẽ không thể tích tụ và tập trung vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ. Ngược lại các doanh nghiệp lớn sẽ không thể nào phát triển được nếu không có sự hỗ trợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một nền kinh tế muốn phát triển bền vững và ổn định thì cần phải đặt vai trò của doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ ngang tầm với nhau, do đó vấn đề thúc đẩy và tăng cường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thị trường cạnh tranh đang trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi quốc gia. 1.2. CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM 1.2.1. Đặc điểm cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngân hàng thương mại đóng 1 vai trò vô cùng quan trọng, là trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, bằng những hoạt động của mình để điều tiết và định hướng các hoạt động đầu tư, trong đó hoạt động tín dụng là một công cụ dùng để hướng các nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau vào các hoạt động kinh tế hiệu quả. Hoạt động tín dụng có thể được hiểu như sau: Hoạt động tín dụng là hoạt động giao dịch về tài sản giữa bên cho vay - NHTM hoặc các định chế tài chính khác và bên đi vay - các thành phần kinh tế, dân cư, trong đó bên đi vay được quyền sử dụng trước tài sản của bên cho vay trong một thời kỳ nhất định theo các điều kiện đảm bảo thoả thuận giữa hai bên và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả tiền gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn. Trong điều kiện mà số lượng các DNVVN đang ngày càng đông đảo như hiện nay thì đối với hầu hết các NHTM đây chính là đối tượng chủ đạo. Để có thể nghiên cứu và phục vụ một cách hiệu quả hơn, các ngân hàng thường thành lập riêng một phòng chuyên trách về đối tượng khách hàng này, từ đó có thể triển khai một số giải pháp để mở rộng đối tượng khách hàng DNVVN, trong đó chú trọng nhiều trong vấn đề hoàn thiện các sản phẩm, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách nhóm khách hàng DNVVN. Có rất nhiều giải pháp được các ngân hàng thương mại đưa ra nhằm tăng cường sự tiếp cận vốn cho các DNVVN như chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với mỗi khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu vay vốn hơn nữa. Có thể nói tiềm năng của khối doanh nghiệp này đang là hướng đầu tư trọng điểm của các ngân hàng thương mại, thể hiện ở sự chuyển động tích cực của tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như quy mô của các quỹ cho vay trong thời gian qua. 1.2.2. Các hình thức cho vay của Ngân hàng thương mại đối với các DNVVN Căn cứ vào thời hạn tín dụng Cho vay ngắn hạn là cho vay có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng với mục đích bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân Cho vay trung hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm các loại phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, hoặc đổi mới thiết bị công nghệ với thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm (đối với nước ta) và trên 7 năm (đối với các nước trên thế giới). Loại tín dụng này nhằm phục vụ các công trình xây dựng lớn như nhà cửa, máy móc, sân bay, cầu, đường, có giá trị lớn. Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng: Cho vay thấu chi: Cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định ( hạn mức thấu chi ) và trong một khoảng thời gian xác định. Cho vay trực tiếp từng lần: hình thức cho vay có sư can thiệp của ngân hàng, ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Cho vay luân chuyển: Dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa, ngân hàng cho khách hàng vay để mua hàng và đến khi doanh nghiệp bán được hàng thì sẽ thu nợ. Cho vay theo hạn mức: Trong kì khách hàng có thể vay – trả nhiều lần nhưng dư nợ ko được vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng cho phép. Cho vay trả góp: Khách hàng được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận với nhân hàng. Cho vay gián tiếp: Ngân hàng cho vay thông qua các tổ, hội, nhóm sản xuất. Căn cứ vào mục đích Cho vay bất động sản là loại cho vay mới mục đích mua sắm xây dựng bất động sản Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại dịch vụ. Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí trong sản xuất nông nghiệp như phân bón, đất đai, giống cây trồng. Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng cho mỗi cá nhân trong việc tiêu dùng mua sắm. Căn cứ vào độ tín nhiệm đối với khách hàng Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không cần đến tài sản thế chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng đối với ngân hàng. Cho vay có đảm bảo là loại cho vay cần phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, đây là loại cho vay tương đối phổ biến đối với các NHTM 1.3. HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.3.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiệu quả cho vay đầu tiên phải được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu,đòi hỏi hợp lý của khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đem lại lợi nhuận cho ngân hàng không chỉ từ hoạt động cho vay mà còn từ các hoạt động dịch vụ khác, qua đó, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế và tạo công ăn việc làm. Trên giác độ mỗi ngân hàng, hiệu quả hoạt động tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng sao cho phù hợp với khả năng, thực lực và theo hướng tích cực của ngân hàng đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường, tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng kì hạn vay và có lãi. Như vậy, hiệu quả tín dụng được coi là một chỉ tiêu bao quát, tổng hợp phản ánh mối quan hệ giữa khả năng sinh lợi và rủi ro, phản ánh mức độ thích nghi của ngân hàng trước sự biến động của thị trường, thể hiện thế mạnh của ngân hàng trong cuộc cạnh tranh với các ngân hàng khác. Hiệu quả cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : mức độ an toàn, khả năng thu hút khách hàng, doanh thu chi phí và lợi nhuận. Hiệu quả cho vay được đo lường bằng cách so sánh yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra của kỳ này so với kỳ trước, của đơn vị này so với đơn vị khác từ đó so sánh với mặt bằng chung của ngành hoặc cũng có thể so sánh với kỳ vọng đặt ra để xác định hiệu quả. Trước đây, các ngân hàng còn phân biệt thành ngân hàng bán buôn và bán lẻ, tuy nhiên trong thời gian gần đây, các ngân hàng đã nhận thấy những tiềm năng vô cùng lạc quan,tích cực từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sự phân biệt cũng hầu như không còn nhờ đó mà việc so sánh hiệu quả cho vay của mỗi ngân hàng đối với các doanh nghiệp này cũng trở nên đơn giản hơn. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các DNVVN Để đánh giá về hiệu quả cho vay các DNVVN, chúng ta dùng một số chỉ tiêu như: Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ Tỷ lệ khả năng chi trả ( Tài sản có có thể thanh toán ngay/ TS nợ phải thanh toán ngay) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Vốn tự có/ TS có rủi ro) Tỷ lệ vốn ngắn hạn đã sử dụng cho vay trung dài hạn Tỷ lệ tài sản sinh lời ( Tài sản sinh lãi/ Tổng tài sản bình quân ) Thu lãi doanh nghiệp/ Tổng thu lãi Đối với ngân hàng thương mại, để đánh giá hiệu quả cho vay người ta thường căn cứ trên các chỉ tiêu ROA ( thu nhập trên 1 đồng tài sản ) và ROE (đo lường mức thu nhập trên 1 đồng vốn ). Tuy nhiên các ngân hàng thường dựa vào tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên và tỷ lệ ngoài lãi cận biên để đánh giá một cách chính xác hơn về tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời. Nó cho ta thấy được khả năng duy trì sự tăng trưởng của các khoản thu ( chủ yếu thu từ lãi) so với mức tăng chi phí (chủ yếu chi trả lãi). Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua các hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và huy động được các nguồn vốn rẻ. Ngược lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi với các chi phí ngoài lãi chủ yếu là thu từ các dịch vụ khác (bao gồm tiền lương, chi phí tổn thất tín dụng, chi phí sửa chữa bảo hành ). Sau khi tính toán chính xác các chỉ số hiệu quả cho vay ngân hàng tiến hành so sánh giữa tỷ lệ này ở đầu kì và cuối kì, giữa năm trước và năm nay, giữa các đơn vị cùng hệ thống cũng như với toàn ngành. Ngoài biện pháp đó, các nhà điều hành ngân hàng có thể dùng chênh lệch lãi suất cơ bản như là một chỉ tiêu mang tính truyền thống để so sánh : Chênh lệch LSCB = ( Thu lãi – Chi lãi)/ TS sinh lãi bình quân. Chênh lệch lãi suất cơ bản là một chỉ tiêu căn bản để cho thấy hiệu quả hoạt động cho vay và đi vay của ngân hàng, hơn nữa nó còn đo lường mức cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã làm thu hẹp mức chênh lệch này và đặt ra câu hỏi cho các nhà lãnh đạo ngân hàng phải làm sao để bù đắp mức chênh lệch, giải pháp cho vấn đề này là đẩy mạnh tăng thu từ các hoạt động dịch vụ khác. Một số chỉ tiêu khác cũng thưòng được dùng giá khả năng sinh lời của ngân hàng và đánh giá tình trạng rủi ro tín dụng đó là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ,tình hình tài chính và phương án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng người vay hay xem xét mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người vay. Việc phân tích những chỉ tiêu này không có ý nghĩa để xem xét chất lượng các khoản cho vay mà còn nhằm mục tiêu là đảm bảo an toàn cho chính ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra, đó cũng chính là biện hữu hiệu nhất để pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay DNVVN 1.3.3.1. Các nhân tố khách quan Có thể nói một trong những yếu tố mang tính vĩ mô tác động trực tiếp tới hiệu qua cho vay của các doanh nghiệp đó là môi trường pháp lý. Có được một môi trưòng pháp lý chặt chẽ và ổn định sẽ là điều kiện rất tốt để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, và cũng giúp cho hoạt động vay vốn tại ngân hàng được dễ dàng, thuận lợi hơn. Bất kỳ một sự thay đổi nào đó trong một nghị định, một sự thỏa thuận kinh tế hay một hợp tác thương mại được ký kết hay giữa Chính phủ các nước đều có thể tác động tới khả năng cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Bên cạnh đó, sự tác động của môi trường pháp lý không thực sự chặt chẽ hay mang tính kìm hãm có thể gây ra sự giảm sút về dư nợ, làm các khoản nợ quá hạn tăng lên 1 cách đột ngột, hạn chế khả năng sinh lời của doanh nghiệp, và do đó làm suy giảm hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một lợi thế khá lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là do quy mô hạn chế nên khả năng khắc phục những tác động của môi trường pháp lý tới hoạt động của mình so với doanh nghiệp lớn cũng nhanh hơn. Và vì vậy cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một biện pháp tối ưu làm giảm sự biến động về hiệu quả và rủi ro cho ngân hàng Một nhân tố khách quan nữa có tác động không nhỏ tới hiệu quả cho vay chính là môi trường kinh doanh. Thể hiện của sự tác động này đó là qua các biến số kinh tế như là : lạm phát, lãi suất, cung cầu, tỷ giá và giá cả hàng hoá trên thị trưòng…Các chỉ tiêu này không chỉ tác động lên khả năng cho vay, mà nó còn tác động trực tiếp lên chi phí của ngân hàng. Nếu như tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc lạm phát tăng lên sẽ kéo theo chi phí trả lãi cho các nguồn huy động cũng tăng và tất nhiên nó cũng sẽ làm giảm khả năng cho vay, mặt khác lãi suất trên thị trường tăng cũng làm hạn chế tốc độ tăng trưởng của dư nợ đồng thời đẩy chi phí trả lãi của các ngân hàng tăng cao. Đối với doanh nghiệp thì các biến số này có tác động hai mặt , một mặt nó thúc đẩy sự phát triển của nhóm doanh nghiệp này và một mặt nó lại lại hạn chế hoạt động của nhóm doanh nghiệp khác. Đơn cử như một chỉ số là tỷ giá, nếu tỷ giá tăng thì có lợi cho nhóm doanh nghiệp xuất khẩu trong khi đó lại là bất lợi đối với các doanh nghiệp nhập khẩu. Vì thế vấn đề đánh giá sự tác động của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là vô cùng quan trọng, muốn làm được điều này thì các ngân hàng phải phân loại một cách chính xác khách hàng chủ yếu mà mình phục vụ, từ đó có chiến lược đối phó cho phù hợp. 1.3.3.2. Các nhân tố chủ quan Từ phía doanh nghiệp: Đây là một nhân tố quan trọng hàng đầu tác động tới hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng, điều này được thể hiện rõ nét thông qua một số chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp như khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, hệ số khả năng chi trả, hệ số nợ…Mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp đó là làm sao để vay được vốn cho hoạt động kinh doanh và họ tìm mọi cách để có được nguồn vốn từ các ngân hàng. Bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn, trung thực, tích cực tăng hiệu quả hoạt động, tích cực hợp tác với ngân hàng thì cũng có những doanh nghiệp sử dụng những hình thức không tích cực như không cung cấp đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng, sử dụng các biện pháp không tích cực như làm sai lệch các báo cáo tài chính theo hướng có lợi cho doanh nghiệp. Không chỉ có vậy, đôi khi doanh nghiệp còn sử dụng tiền ngân hàng cho vay sai mục đích, không trung thực với những gì đã cam kết với ý đồ cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng. Cũng phải thừa nhận một thực tế là về vấn đề lập dự án thì nhiều doanh nghiệp còn quá yếu kém,chính vì thiếu đi tính khả thi trong dự án nên rất khó tạo niềm tin để ngân hàng cho vay vốn. Sự yếu kém, hạn chế này lại thường rơi vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mất đi lòng tin từ phía các ngân hàng, tức là các doanh nghiệp đứng trước thực trạng khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn từ phía ngân hàng, các ngân hàng phải áp dụng nhiều biện pháp đảm bảo,thắt chặt hơn, điều này gây ảnh hưởng đến không ít doanh nghiệp có đủ khả năng được cấp tín dụng từ ngân hàng. Tuy nhiên, cũng có doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của ngân hàng nhưng do sự thiếu chuyên môn của một số cán bộ quản lí, không thể quản lý và khai thác nguồn vốn một cách tốt nhất làm cho hiệu quả hoạt động cho vay giảm xuống. Những nhân tố tác động từ phía doanh nghiệp rất khó kiểm soát và đánh giá và phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm và trình độ phân tích của cán bộ tín dụng cũng như thiện chí hợp tác của các doanh nghiệp. Nhân tố từ phía ngân hàng : Đây là các nhân tố chủ quan xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng của và ngân hàng có thể điều chỉnh và khắc phục được. Nó bao gồm các yếu tố như : chiến lược phát triển của ngân hàng, uy tín và kinh nghiệm điều hành, công nghệ ngân hàng, trình độ nghiệp vụ và đạo đức của cán bộ tín dụng. Các ngân hàng hiện nay đều có một chiến lược phát triển chung đó là đưa ra định hướng cụ thể về khách hàng mục tiêu và từ đó tạo lập các chính sách hỗ trợ ưu đãi cho nhóm khách hàng này. Hiện nay với một tầm quan trọng khá lớn,các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang được sự quan tâm lớn của các ngân hàng và rất nhiều các ngân hàng đã thiết lập một chiến lược kinh doanh cụ thể hướng vào nhóm doanh nghiệp này. Chi phi khoản vay cũng như khả năng mở rộng quy mô dư nợ phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ và uy tín của ngân hàng, với những công nghệ tốt và tiên tiến sẽ là điều kiện tốt giúp ngân hàng có thể tiết kiệm chi phí và đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh cũng như các tiện ích mới phục vụ khách hàng. Một nhân tố cũng khá quan trọng trong số các nhân tố tác độngNhận thức vào đạo đức của cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nhân tố tác động tới hiệu quả cho vay từ phía ngân hàng. Như đã nói ở trên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm mọi cách để có được nguồn vốn, họ có thể tiếp xúc, móc nối với các cán bộ tín dụng để đạt được mục đích. Chính vì vậy để giữ được sự trung thành của các nhân viên, ngân hàng phải có được một chính sách đãi ngộ hợp lý, thường xuyên giáo dục nhắc nhở các nhân viên về nhận thức, đạo đức nghề nghiệp cũng như ý thức trách nhiệm của mình. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VPBANK 2.1.1. Lĩnh vực hoạt động và cơ cấu tổ chức 2.1.1.1. Lĩnh vực hoạt động Là một ngân hàng Thương mại cổ phần, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; Dịch vụ Thanh toán quốc tế; Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ chuyển tiền trong nước và Quốc tế; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam. Đại hội cổ đông năm 2005 được tổ chức vào cuối tháng 3/2006, một lần nữa, VPBank khẳng định kiên trì thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ. Phấn đấu trong một vài năm tới trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và nằm trong nhóm 5 Ngân hàng dẫn đầu các Ngân hàng TMCP trong cả nước.  2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức Vấn đề quản trị rủi ro được VPBank rất quan tâm. Bộ máy quản trị rủi ro của VPBank được tổ chức một cách chặt chẽ theo nhiều cấp quản lý, với cơ cấu như sau Ban kiểm soát: Do Đại hội cổ đông bầu ra gồm 3 thành viên trong đó có 2 thành viên chuyên trách Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: trực thuộc Ban điều hành với nhân sự được phân bổ cho mỗi CN cấp 1 có ít nhất từ 1 đến 2 nhân viên. Bộ phận kiểm tra kiểm toán có chức năng kiểm tra giám sát hoạt động thường ngày và toàn diện trong tất cả các giai đoạn trước, trong và sau trong quá trình thực hiện mỗi nghiệp vụ của Ngân hàng. Hoạt động kiểm tra kiểm toán nội bộ các chi nhánh được thực hiện theo sự chỉ đạo trực tiếp theo ngành dọc. Hội đồng tín dụng và ban tín dụng: VPBank có hai Hội đồng tín dụng và mỗi CN cấp 1 có một ban tín dụng. Hai hội đồng tín dụng đặt tại Hà nội và thành phố Hồ chí Minh có nhiệm vụ giải quyết các khoản vay vượt hạn mức giao dịch cho các CN cấp 1 đóng tại khu vực phía bắc và phía nam. Để hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng, VPBank đã và đang áp dụng hệ thống chấm điểm tín dụng do Hội đồng quản trị ban hành Hội đồng ALCO: để hạn chế rủi ro thị trường và thanh khoản, đã từ lâu VPBank thành lập hội đồng ALCO. Hội đồng có nhiệm vụ quản lý thanh khoản, quyết định cơ cấu nguồn vốn, sử dụng nguồn vốn hợp lý và hiệu quả, quyết định triển khai các sản phẩm mới. Đồng thời, Hội đồng ALCO cũng có nhiệm vụ theo sát diễn biến thị trường về lãi suất, tỷ giá và những khả năng có thể gấy rủi ro khác để có thể giải pháp phù hợp trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn. Nhờ có cơ chế kiểm soát rủi ro như trên mà nhiều năm qua VPBank đã hạn chế được rủi ro trong mọi hoạt động của mình và đạt được kết quả kinh doanh cao. Riêng trong hoạt động tín dụng, nợ quá hạn của VPBank từ mức cao nay đã giảm xuống và đang duy trì ở tỷ lệ 0.5%. 2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của VPBank 2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Sáu tháng đầu năm 2007 là thời kỳ sôi động trong hoạt động của Hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Mức cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên gay gắt hơn với nhiều giải pháp khuyến khích nhằm thu hút khách hàng. Không ít ngân hàng tăng lãi suất huy động và thực hiện các chương trình quay số có thưởng với nhiều giải thưởng hữu ích, đồng thời cũng đưa vào áp dụng nhiều sản phẩm mới, tiện ích hơn giành cho khách hàng. Điều đặc biệt đáng quan tâm là các ngân hàng quốc doanh dường như thức tỉnh sau nhiều năm trì trệ do được bao cấp quá nhiều, nay đã tham gia một cách tích cực hơn vào cạnh tranh. Do có ưu thế về vốn và mạng lưới nên nhiều chương trình khuyến mại của họ khá lớn, vượt trội so với các NH ngoài quốc doanh. Trong bối cảnh cạnh tranh đó, đòi hỏi VPBank phải năng động hơn nhiều giải pháp tích cực liên tục áp dụng các chương trình khuyến mại huy động có thưởng, đưa ra nhiều sản phẩm huy động mới phù hợp với nguyện vọng của dân cư (tiết kiệm VND đảm bảo bằng USD, tiết kiệm rút gốc linh hoạt…); Tăng cường quảng cáo, quảng bá hình ảnh của VPBank trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp cho khách hàng hiểu biết nhiều hơn về VPBank. 6 tháng đầu năm 2007 cũng là thời gian VPBank mở rộng mạng lưới nhanh chóng với việc được NHNN cấp phép thành lập 10 chi nhánh mới và nâng cấp 6 Phòng giao dịch thành chi nhánh cấp II. Đến nay, tất cả đã đi vào hoạt động. Tổng số tiền huy động được đến cuối tháng 6/2005 đạt 2.323 tỷ đồng, tăng 347 tỷ đồng so với cuối năm 2004, trong đó, riêng số dư tiền gửi tiết kiệm tăng 427 tỷ đồng, tiền gửi thanh toán của cư dân và các tổ chức kinh tế tăng 71 tỷ đồng. Riêng trong năm 2006, tổng tiền huy động đạt hơn 9.065 tỷ đồng tăng 61% so với năm 2005. Bảng 3: Tình hình huy động vốn một số năm của VPBank Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 2006 2005 2004 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Nguồn vốn huy động 9.065.000 100% 5.638.001 100% 3.858.967 100% Phân theo kì hạn Ngắn hạn 7.252.155 80% 4.397.641 78% 3.202.943 83% Trung và dài hạn 1.813.039 20% 1.240.360 22% 656.000 17% Phân theo cơ cấu Huy động thị trường 1 5.678.458 63% 3.209.771 57% 1.847.711 48% Huy động thị trường 2 3.386.736 37% 2.398.230 43% 2.011.256 52% Nguồn : Annual Report VPBank 2006 Trong năm 2005, VPBank luôn có những điều chỉnh về mặt lãi suất cho phù hợp với diễn biến thị trường. Với sự linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất, VPBank luôn ở trong nhóm ngân hàng có lãi suất huy động cao nhất. Ngoài việc huy động tiết kiện bằng USD và VND thông thường, hiện nay VPBank vẫn tiếp tục huy động tiết kiệm dưới các hình thức đặc biệt “ Tiết kiệm VND được bù đắp trượt giá USD “ và “ Tiết kiệm VND được đảm bảo bằng USD”, thu hút hàng ngàn người gửi với doanh số gửi tiền mỗi tháng ngày một tăng cao. Đến hết ngày 31/3/2006, tổng nguồn vốn huy động của VPBank đạt 6.300 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm. Trong đó, huy động tiết kiệm từ dân cư tăng 27%, huy động từ các tổ chức kinh tế tăng gần 40% so với đầu năm. Nợ quá hạn chỉ ở mức 0,64% tổng dư nợ. 3 tháng đầu năm, lợi nhuận sau khi trích dự phòng rủi ro (trước thuế) của VPBank đạt 27 tỷ đồng (đạt 8,73% so với vốn điều lệ). Tỷ lệ lợi nhuận ròng trên vốn điều lệ đạt 6,3%. 2.1.2.2. Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động chủ yếu đem lại nguồn thu cho Ngân hàng Về hoạt động này, trong thời gian từ 2004 - 2006,hoạt động tín dụng của VPBank được giữ vững theo phương châm “bảo thủ”,không cạnh tranh bằng cách lới lỏng điều kiện tín dụng.Tuy vậy, nhờ có sự nỗ lực tiếp thị khách hàng của các đơn vị, nên tiến độ phát triển tín dụng vẫn đạt mức tăng khá, cao gấp hai lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng. Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2006 đạt 6594 tỷ đồng, tăng 2681 tỷ đồng ( tương đương 68% ) so với năm 2005.Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến 31/12/2006 đạt 5031 tỷ đồng, tăng 2017 tỷ đồng ( tương đương 67% ) so với năm 2005. Chất lượng tín dụng của VPBank vẫn đảm bảo được yêu cầu của NHNN và qui chế của VPBank. Tỷ lệ nợ quá hạn của VPBank ( gồm các nhóm 3,4,5 ) cuối năm 2006 ở mức 0,56% tổng dư nợ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của toàn ngành Ngân hàng Việt nam ( khoảng 7% ). Để nâng cao chất lượng tín dụng, VPBank luôn không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên. Mặt khác VPBank cũng nghiên cứu triển khai các hình thức cho vay mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Gần đây nhất, VPBank vừa chính thức triển khai hình thức cho vay cầm cố bằng cổ phiếu do các NH TMCP tại Việt Nam phát hành. Khách hàng đến với VPBank có thể cầm cố cổ phiếu để vay vốn sử dụng vào mục đích bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cho cá nhân và gia đình, mua cổ phẩn của các công ty cổ phần hay các mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật Việt nam. Tùy vào mục đích sử dụng vốn vay mà Ngân hàng sẽ xác định số tiền cho vay và thời hạn vay phù hợp. Với loại hình cho vay mới này, VPBank hy vọng sẽ đáp ứng được nhu cầu giao dịch bằng cổ phiếu đang và sẽ ngày càng tăng trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay VPBank nhận cầm cố cổ phiếu của 9 NHTM CP: ACB, Sacombank, EAB, Eximbank, Techcombank, MB, VIB, Habubank và Phương Đồng, trong trường hợp phát sinh các khoản cho vay ngoài danh mục, VPBank sẽ xem xét và quyết định từng trường hợp cụ thể. Đây là cách làm khá linh hoạt của VPBank nhằm thích ứng với mọi sự biến động trên thị trường rất sôi động này. 2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ Các hoạt động dịch vụ của VPBank vẫn tiếp tục tiến triển rất tốt. Cùng với việc mở rộng mạng lưới hoạt động, dịch vụ chuyển tiền trong nước của VPBank ngày càng trở nên thuận tiện và nhanh chóng. Doanh số chuyển tiền trong nước năm 2006 đạt 7331 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2005. Phí dịch vụ chuyển tiền trong nước thu được trong năm 2006 là 2 tỷ đồng, tuy vẫn là con số khá khiêm tốn nhưng cũng đã đạt được những tăng trưởng nhất định. Các hoạt động dich vụ khác của VPBank cũng khá sôi động với những kết quả rất đáng phấn khởi Dịch vụ thẻ đã được đưa vào hoạt động với nhiều tiện ích cho khác hàng. Ngày 21/12/2007, tại Press Club, VPBank long trọng tổ chức._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2437.doc
Tài liệu liên quan