Nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

A – Mở đầu * Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng XKLĐ XKLĐ xuất phát từ hiện tượng di dân – một hiện tượng rất phổ biến xuất hiện khá lâu từ thời kỳ tích lũy nguyên thủy cơ bản nhằm tìm kiếm một môi trường sống thuận lợi hơn cho con người. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, xuất khẩu lao động ở các nước Đông Nam Á đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiều quốc gia. Xuất khẩu lao động vừa là phương tiện thu hút ngoại tệ thông qua tiền gửi của người lao động là

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m việc ở nước ngoài, vừa là cơ hội tăng việc làm cho người dân, giảm bớt nạn thất nghiệp ở trong nước, thúc đẩy đầu tư, giảm bớt sự lệ thuộc vào các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, cũng như viện trợ của các nước phát triển. Xuất khẩu lao động được coi là một trong những chiến lược phát triển của nhiều quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Chất lượng nguồn lao động là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự thắng thế trong cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Muốn mở rộng việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn cho lao động Việt Nam ở nước ngoài, không có cách nào hữu hiệu bằng nâng cao chất lượng nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài Tuy nhiên chất lượng XKLĐ ở Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức. Kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, đời sống của người lao động còn nhiều khó khăn. Do đó cần thiết phải có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động, đáp ứng yêu cầu một cách tối đa cho thị trường thế giới, tăng sức cạnh tranh của XKLĐ trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Xuất phát từ sự cần thiết đó, em quyết định lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động của Việt Nam trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế” để làm hướng nghiên cứu cho đề án. B – Nội dung I – Những lý luận chung về nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động 1. Khái niệm xuất khẩu lao động ( XKLĐ) Ngày nay khái niệm XKLĐ đã trở nên phổ biến. Việc lao động di chuyển từ nước có thu nhập thấp sang nước có thu nhập cao ngày càng dễ dàng hơn, đảm bảo một cuộc sống thuận lợi cho những người lao động. Có thể hiểu một cách đơn giản: XKLĐ là đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài bằng những hình thức thích hợp nhằm tạo ra thu nhập về ngoại tệ và giải phóng một phần áp lực việc làm trong nước Khái niệm XKLĐ cũng được xem xét dưới nhiều góc độ để hiểu một cách đầy đủ hơn loại hoạt động này. Về khía cạnh kinh tế XKLĐ là một loại hình xuất khẩu dịch vụ cung cấp một loại hàng hóa đặc biệt (sức lao động). Nó chứa đựng đầy đủ tính chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt đó: hoạt động của con người, tổng quan về các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào chất lượng lao động, trước hết là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay nghề được đào tạo, mức độ giao tiếp về ngoại ngữ, văn hóa, phẩm chất cá nhân như tính cần cù, kỹ năng, tinh xảo, khéo léo… và khả năng hội nhập, giao lưu với các nền văn hóa, tôn giáo khác. Giá cả của sức lao động cũng phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nước nhập khẩu lao động. 1.2 Về khía cạnh chính trị XKLĐ là tiến hành hợp tác góp phần hỗ trợ xây dựng, phát triển kinh tế xã hội của nước nhập khẩu lao động. Khác với các loại hình hàng hóa khác, đối với người đi xuất khẩu lao động ngoài yếu tố cơ bản về phẩm chất cá nhân, trình độ chuyên môn thì trình độ văn hóa, ngoại ngữ, khả năng hòa đồng hết sức quan trọng để đảm bảo phát huy các thế mạnh đó, thực sự tôn trọng luật pháp, hòa hợp tốt với cộng đồng dân cư nước sở tại. Điều đó sẽ bảo đảm cho vị trí cá nhân được khẳng định, được quý mến, góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc gia, góp phần củng cố, tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết thân thiện cộng đồng quốc tế giữa 2 nước. 2. Nguyên nhân và đặc điểm của XKLĐ 2.1 Nguyên nhân của XKLĐ Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc XKLĐ nhưng tóm lại là ở những nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất: XKLĐ là do sự chênh lệch về mức gia tăng tự nhiên giữa các nước. Những nước có mức gia tăng tự nhiên cao, dân số trẻ sẽ dẫn tới tình trạng thiếu việc làm và có nhu cầu tìm việc ở những nước phát triển hơn. Thứ hai: XKLĐ do sự chênh lệch về thu nhập và mức sống. Người lao động ở những nước có thu nhập thấp sẽ có xu hướng đổ xô đến các nước có mức thu nhập cao hơn, đảm bảo có một cuộc sống ổn định hơn. Thứ ba: XKLĐ là do nhu cầu lao động không đồng đều giữa các nước. Đối với các nước có thu nhập cao, người dân không muốn làm việc trong những môi trường độc hại, nguy hiểm tới sức khỏe, như ở các công trường xây dựng, mặt khác thuê mướn lao động nước ngoài cũng là để giảm chi phí. Đối với các nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Thứ tư: Do tác động của toàn cầu hóa và nhu cầu hội nhập quốc tế nhằm tiến tới một thị trường chung mà ở đó lao động được tự do di chuyển giữa các nước, đảm bảo một cuộc sống ổn định cho tất cả những người lao động. Cuối cùng: XKLĐ là phương tiện thu hút ngoại tệ, tăng thu ngân sách cho quốc gia, cải thiện thu nhập cho người lao động, đồng thời nâng cao tay nghề cho người lao động làm việc ở nước ngoài, rút ngắn thời gian đào tạo, tiếp cận công nghệ hiện đại để đáp ứng việc tiếp cận, khám phá và thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.2 Đặc điểm của các nước xuất và nhập khẩu lao động 2.2.1 Đặc điểm các nước nhập khẩu lao động Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại : một là những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là những nước đã phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước ngoài (đầu tư trực tiếp, FDI) những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh tại những nước nầy, nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển (Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực, dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp. Tại các nước đã phát triển, tiền lương nói chung đã tăng cao theo mức sống của xã hội, các xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao động không tốt, dễ gặp tai nạn, như ở các công trình xây dựng. Tại Nhật 3 loại công việc, mà tiếng Nhật gọi là 3K, phải nhập khẩu lao động nước ngoài vì không thuê mướn được lao động bản xứ : nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao động khắc nghiệt (kitsui) như nóng nảy, ngột ngạt. 2.2.2 Đặc điểm các nước xuất khẩu lao động Đây là những nước có dân số tăng nhanh nhưng lại kém phát triển, hoặc phát triển với tốc độ chậm mà lại không ưu tiên đẩy mạnh các ngành dùng nhiều lao động. Do đó việc làm thiếu, người lao động có trình độ tay nghề thấp, XKLĐ chủ yếu là lao động phổ thông và lao động tay nghề trung bình. XKLĐ để tăng thu nhập và tích lũy ngoại tệ, giảm sức ép về giải quyết việc làm trong nước, đồng thời đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.3 Hình thức XKLĐ Hình thức cung ứng XKLĐ đa dạng như: xuất khẩu theo hợp đồng cung ứng lao động, liên doanh sản xuất, hợp tác song phương, hợp đồng lao động cá nhân… và hiện nay xuất hiện thêm XKLĐ theo hình thức nhận thầu. 2.4. Các tiêu chí đánh giá chất lượng XKLĐ Để đánh giá chất lượng XKLĐ có thể thông qua các tiêu chí về hiệu quả kinh tế, xã hội hay công tác tổ chức và quản lý người lao động. 2.4.1 Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế được đánh giá thông qua sự chênh lệch giữa tổng thu từ XKLĐ và chi phí đầu tư cho XKLĐ trong một thời kỳ nhất định. Mức chênh lệch này càng cao thì hiệu quả kinh tế thu được càng lớn. Tổng thu từ XKLĐ có thể thông qua lượng tăng thu nhập cho doanh nghiệp, tăng thu nhập quốc gia, qua lượng ngoại tệ gửi về, tăng tích lũy và đầu tư ở khu vực kinh tế tư nhân. Chi phí đầu tư cho XKLĐ bao gồm: chi cho nghiên cứu và khai thác thị trường, cho đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ quản trị XKLĐ, cho đào tạo tay nghề, kỷ luật, trình độ ngoại ngữ người lao động… 2.4.2 Hiệu quả xã hội Tiêu chí này được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: số lượng việc làm được giải quyết nhờ XKLĐ, tỷ lệ thất nghiệp giảm, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần mở rộng quan hệ quốc tế,tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước nhận lao động. 2.4.3 Công tác tổ chức và quản lý XKLĐ Tiêu chí này được đánh giá qua các nội dung như: chính sách XKLĐ, sự phối hợp đồng bộ giữa doanh nghiệp XKLĐ với các cơ quan chức năng, hệ thống tuyển chọn, công tác đào tạo và định hướng trước khi xuất khẩu, quản lý người lao động đang làm việc ở nước ngoài, các chương trình tái hội nhập và hợp tác liên quốc gia thông qua các hiệp định song phương với các nước nhập khẩu nguồn lao động… 3.Vai trò của XKLĐ Xuất phát từ những đặc điểm của XKLĐ có thể thấy được vai trò quan trọng của XKLĐ, đặc biệt với những nước đang phát triển như Việt Nam. Trước hết XKLĐ cho phép phát huy lợi thế so sánh về nhân công, khai thác tối đa ngoại lực trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Các nước đang phát triển sở hữu một nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ là điều kiện để phát huy lợi thế so sánh về nhân công, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, học hỏi công nghệ…phục vụ cho sự phát triển của đất nước. XKLĐ góp phần tạo việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, từ đó ổn định trật tự xã hội, tránh được những tệ nạn xã hội do thiếu việc làm gây nên. XKLĐ góp phần cải thiện trình độ lao động. Sau thời gian lao động ở nước ngoài (thường là ở các khu vực có trình độ công nghệ cao hơn), lao động xuất khẩu trở về quê hương sẽ có một tay nghề, được đào tạo về kỹ năng công việc, kỷ luật làm việc chặt chẽ hơn mà không mất chi phí đào tạo trong nước. XKLĐ tạo thu nhập cao cho người lao động, không những góp phần cải thiện cuộc sống của gia đình họ mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với quốc gia XKLĐ như đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, tăng nhu cầu cho tiêu dùng, tăng đầu tư (ví dụ như vào nhà ở và khởi nghiệp các doanh nghiệp nhỏ), tăng mức tín nhiệm của các ngân hàng thực hiện các dịch vụ chuyển tiền cho người lao động ở nước ngoài, góp phần giải quyết việc làm. Hơn nữa, dòng tiền có được từ XKLĐ là dòng vốn chuyển giao, không tạo ra nghĩa vụ trả nợ trong tương lai nên còn có thể góp phần giảm nguy cơ khủng hoảng tài chính, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia có nguồn thu XKLĐ đáng kể. XKLĐ góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động xã hội theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức và kinh tế thị trường. Thu nhập từ XKLĐ giúp người lao động có thể đầu tư kinh doanh, từ đó xuất hiện nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức kinh doanh khác nhau, biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp và cơ cấu lao động cũng bị biến đổi theo. XKLĐ góp phần tiếp cận, khám phá và thúc đẩy ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua đội ngũ lao động xuất khẩu. XKLĐ thúc đẩy tăng cường hội nhập, mở rộng giao lưu quốc tế và hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đưa hình ảnh Việt Nam giới thiệu với cộng đồng quốc tế, nâng cao vị thế người Việt. II – Thực trạng XKLĐ ở Việt Nam Thực trạng XKLĐ của Việt Nam hiện nay : Trong vài năm gần đây, nhất là từ sau khi có Chỉ thị số 41 của Bộ Chính trị, Nghị định số 152 của Chính phủ công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia có tiến bộ rõ rệt, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, tạo được đà cho sự phát triển trong thời kỳ tới : 1. Thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia đang dần được mở rộng ra nhiều nước 2. Công tác đào tạo nguồn lao động và chuyên gia để đi làm việc ở nước ngoài bước đầu được đặt ra và tổ chức thực hiện. 3. Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia; phân biệt ngày càng rõ hơn công tác quản lý Nhà nước và hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tạo ra cơ chế đã tương đối thông thoáng, đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu lao động. Năm 2007, mặc dù đã đưa được 85.020 người đi làm việc ở nước ngoài, tăng 6,3% so với kế hoạch và tăng 7,8% so với năm 2006, nhưng thị trường XKLĐ năm 2008 đang phát ra những tín hiệu không thuận lợi. Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này, năm 2007 vẫn là một năm “sóng gió” với công tác XKLĐ. Nhiều thị trường mới mở ra, nhưng một số thị trường truyền thống cũng gặp không ít khó khăn. Đơn cử như thị trường Malaysia năm qua số lao động đưa đi chỉ bằng 70% so với năm 2006. Mặc dù hiện có tới 120.000 lao động VN đang làm việc tại thị trường này, nhưng số người muốn đi lao động ở Malaysia đã giảm đáng kể. Đài Loan vẫn tạm dừng nhận lao động VN làm việc trong các gia đình; Qatar đã giảm tốc độ tiếp nhận lao động từ giữa năm 2006 do tình trạng lao động vi phạm kỷ luật ngày một tăng. Ngoài ra các thị trường mới đang tiến hành thí điểm như Canada, Hoa Kỳ đều chưa triển khai được do chưa giải quyết được vấn đề thủ tục nhập cảnh cho người lao động... Theo Cục QLLĐNN, mục tiêu của năm 2008 sẽ đưa 85 ngàn lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, bằng năm 2007. Mục tiêu này không cao hơn năm 2007 là do thị trường XKLĐ đang tiềm ẩn nhiều khó khăn, đông về số lượng nhưng cần phải vững chắc. Nhiều thị trường mới sẽ mở ra, nhưng điều kiện để lao động Việt Nam vào được các thị trường này sẽ rất khó khăn. Tình hình đưa lao động đi trong năm 2007 vừa qua cho thấy thị trường hiện đã có bước chuyển rõ rệt sang nhu cầu nhận lao động có tay nghề và tay nghề cao, trong khi đó vẫn còn tình trạng lao động VN vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật. Ngoài ra, tình trạng các tổ chức, cá nhân không có chức năng XKLĐ nhưng lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động vẫn đang xảy ra ở nhiều địa phương. Nhiều vụ lừa đảo đã bị phát hiện, xử lý, truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên các thủ đoạn lừa đảo vẫn đang diễn ra với trình độ ngày càng tinh vi, dẫn đến hình thành các vụ lừa đảo lớn, liên quan đến người lao động. Từ 1/7/2007, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã có hiệu lực. Luật điều chỉnh và mở rộng tới 5 loại hình tham gia XKLĐ. Đó là : - doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài - doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu đưa người đi làm việc ở nước ngoài - tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài đưa lao động đi làm việc - doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề - tổ chức sự nghiệp của Nhà nước đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài Từ những thực trạng đó ta có thể thấy XKLĐ của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, không những góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế mà còn đạt được những kết quả xã hội trong việc giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lực lượng lao động dư thừa. 1.Những kết quả đạt được của XKLĐ 1.1 Những kết quả về kinh tế Tổng thu từ XKLĐ xem xét qua:Số lượng ngoại tệ thu về XKLĐ làm tăng thu nhập quốc gia bằng cách làm tăng GDP thông qua các khoản thu dịch vụ như phí dịch vụ XKLĐ, tiền bán vé máy bay, các khoản dịch vụ khác phục vụ người lao động và các khoản thu nhập của lao động gửi về nước. Ngoài việc giúp cải thiện tình trạng đói nghèo, nguồn thu của lao động xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy đầu tư, giảm bớt sự lệ thuộc vào các khoản vay từ các tổ chức tài chính quốc tế, cũng như viện trợ của các nước phát triển. Số ngoại tệ của lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài chuyển về nước Đơn vị tính: triệu USD Năm 1995 1996 1997 1998 1999 Số ngoại tệ 181 250 321 342 404 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Số ngoại tệ 1250 1400 1450 1500 1600 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, báo cáo đánh giá kết quả XKLĐ , dự kiến kế hoạch đến năm 2010 Như vậy, số ngoại tệ chuyển về tăng liên tục qua các năm. Chỉ trong vòng 10 năm từ 1995 – 2004 lượng ngoại tệ thu được từ lao động xuất khẩu đã tăng gần gấp 8 lần, bắt đầu từ năm 2000 số lượng ngoại tệ đã tăng đáng kể. Hiện ở Việt Nam, hàng năm số lao động làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước số ngoại tệ khoảng 1,6 tỷ USD, xấp xỉ với số tiền thu được bằng xuất khẩu gạo cả năm, đã góp phần quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người lao động. Bảng : Mức gia tăng GDP, GNI từ XKLĐ Đơn vị: triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Mức gia tăng GDP từ XKLĐ 30 30 30 30 30 Số tiền lao động chuyển về nước 1250 1400 1450 1500 1600 Mức gia tăng GNI từ XKLĐ 1280 1430 1480 1530 1630 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài Chi trả lợi tức nhân tố ra nước ngoài Thu nhập lợi tức nhân tố từ nước ngoài = _ Số tiền lao động chuyển về nước Mức gia tăng GDP từ XKLĐ Mức gia tăng GNI từ XKLĐ = + Việt Nam là một trong 20 quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng tính theo lượng KH. KH và XKLĐ tại Việt Nam phát triển cùng chiều với thế giới, tăng nhanh từ 35 triệu USD năm 1991, 1.76 tỷ/2000, và khoảng 5 tỷ/2006, với kim ngạch tích lũy lên đến 23 USD; chiếm tỷ trọng quan trọng so với các nguồn vốn phát triển khác: 60% vốn FDI thực hiện và 137% vốn giải ngân của viện trợ phát triển (ODA). Trên phương diện tài chánh, theo tài liệu Báo cáo cập nhật tình hình phát triển và cải cách kinh tế của Việt Nam do WB ấn hành tháng 12/2006, KH đã góp phần giúp cho tài khoản vãng lai của Việt Nam thặng dư trong hai năm 2005 và 2006. Sự cải thiện cán cân vãng lai, cùng với các chỉ số kinh tế tài chánh khác, như tỷ lệ nợ trên kim ngạch xuất khẩu, dự trữ ngoại tệ, và các nguồn vốn đầu tư và phát triển, đã giúp nâng cao độ tin cậy tài chánh của Việt Nam trên thị trường tài chánh quốc tế; tháng 9/2006, Công ty Standard and Poor đã nâng hạng tín nhiệm ngoại tệ của Việt Nam lên một mức thành hạng BB, và nội tệ từ BB lên BB+. Chi phí cho XKLĐ Bộ LĐ-TB&XH vừa mới ban hành Quyết định 61/2008/QĐ-LĐTBXH về mức tiền môi giới người lao động hoàn trả cho doanh nghiệp tại một số thị trường. Theo đó, ở hầu hết thị trường lao động, phí môi giới đều giảm ít nhất là 50 USD và nhiều nhất là 2.000 USD; chỉ có thị trường Nhật Bản, Brunei là vẫn giữ nguyên. Tại thị trường Đài Loan, phí môi giới tối đa đối với lao động giúp việc gia đình, chăm sóc sức khỏe đã giảm từ 1.000 xuống 800 USD; tại các thị trường Qatar, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Bahrain, Oman, phí môi giới lao động không nghề là 300 USD, lao động có nghề là 400 USD, giảm 100-150 USD so với quy định cũ; mức phí môi giới giảm nhiều nhất là Australia, chỉ còn 3.000 USD, giảm 2.000 USD. Phí môi giới giảm đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho những người tham gia lao động xuất khẩu, góp phần làm tăng khoản thu nhập ròng họ gửi về nước. - Bước đầu đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề của lao động xuất khẩu. Hiện nay lao động Việt Nam làm việc trong khoảng 30 nhóm ngành nghề chủ yếu thuộc các lĩnh vực xây dựng công nghiệp và dân dụng, công nghiệp nhẹ, các ngành dịch vụ, vận tải biển và đánh bắt, chế biến hải sản… 1.2 Kết quả về xã hội 1.2.1 Giải quyết việc làm: Số lượng lao động xuất khẩu tăng Với một nước đông dân như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những nỗ lực lớn của Chính phủ. Với hơn 82 triệu dân, trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì XKLĐ của Việt Nam là một kênh giải quyết việc làm rất có ý nghĩa cho người lao động. Từ những năm 2001 trở về trước, Việt Nam có hai thị trường xuất khẩu lao động chính là: châu Á (Lào, Nhật Bản, Đài Loan...), chiếm khoảng 79% tổng số lao động xuất khẩu năm 2001, và thị trường các nước Đông Âu (Nga (Liên Xô cũ), Đức, Cộng hoà Séc,...), chiếm khoảng 15%. Sau sự thay đổi về chính trị - xã hội ở Đông Âu, thì kể từ năm 2001, thị trường xuất khẩu lao động chính của Việt Nam vẫn là châu Á, chiếm tới 97% năm 2004, chủ yếu trong đó là thị trường Đài Loan (chiếm khoảng 56%) và Malayxia (22%), và khi đó thị trường châu Âu chỉ còn chiếm 0,6%. Nhưng từ năm 2004, nhiều thị trường lao động mới (như châu Mỹ, châu Phi, Trung Đông) đã được mở ra và các thị trường cũ (châu Âu, Trung Đông) đã được khôi phục lại. Ví dụ, như đối với thị trường châu Mỹ, năm 2004, ta đã đưa được 186 lao động sang Cộng hoà Paula (một thị trường được đánh giá là đầy tiềm năng) so với mức zêrô trong năm 2002 và 2003. Tương tự, thị trường châu Phi/Trung Đông cũng đã được khôi phục trong năm 2004 với số lượng lao động xuất khẩu là 607 so với mức zêrô trong năm 2003. Bảng: số lượng lao động xuất khẩu qua một số năm Năm Tổng số lao động xuất khẩu (người) Đạt chỉ tiêu kế hoạch năm 2005 70590 100,8% (590 người) 2006 78855 105% (3755 người) 2007 85.020 106% (5.020 người) Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh xã hội Như vậy lao động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua tăng liên tục và luôn vượt chỉ tiêu đề ra, giải quyết đáng kể nguồn lao động dư thừa ở Việt Nam, lượng kiều hối gửi về nước cũng liên tục tăng nhanh và duy trì ở mức 1,6 tỷ USD Bốn thị trường lao động xuất khẩu lớn nhất Việt Nam Đơn vị tính: Lao động Thị trường lao động Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Malaysia 24600 25324 26.704 Đài Loan 22780 23124 23.646 Hàn Quốc 12100 12123 12187 Nhật Bản 2134 3047 5517 Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh xã hội Tính đến nay, lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở các thị trường Nước Số lượng lao động Thu nhập bình quân Malaysia Trên 100.000 người 150-200 USD/tháng Đài Loan Trên 90.000 người 300-500USD/tháng Hàn Quốc Trên 30.000 người 900-1000USD/tháng Nhật Bản Khoảng 19.000 tu nghiệp sinh 700-1.100 USD/tháng Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất 3000 người Quatar 10000 người Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động – Thương binh xã hội Việt Nam vẫn duy trì đẩy mạnh lao động xuất khẩu sang các nước thuộc thị trường lao động truyền thống vì đây là các thị trường dễ tính, không hạn chế số lượng lao động, không đòi hỏi cao về tay nghề, phù hợp với đại đa số lao động ở nông thôn. Do đó có thể thấy số lao động xuất khẩu nhiều nhất là tại Malaysia và Đài Loan. Trong 18 nước và vùng lãnh thổ tiếp nhận lao động Việt Nam, thị trường Malaysia vươn lên đứng đầu về số lượng. Đối với thị trường Malaixia tuy với mức lương (chỉ khoảng 150-200 USD một tháng), không cao bằng các thị trường khác, nhưng nếu khai thác tốt tiềm năng thì cơ hội xoá đói giảm nghèo sẽ đến được với nhiều người, nhiều địa phương. Thị trường Đài Loan (đứng thứ 2 vế số lượng) đang gặp khó khăn bởi vì từ đầu năm 2005, lao động Việt Nam (chủ yếu là giúp việc gia đình và chăm sóc bệnh nhân) bỏ trốn quá nhiều (chiếm trên 10% tổng số lao động Việt Nam ở thị trường này). Hiện nay, thị trường này vẫn “đóng băng”, mặc dù nhu cầu về giúp việc gia đình và chăm sóc bệnh nhân ở thị trường này vẫn cao, chiếm tới 75-80% tổng số lao động đưa đi hằng năm. Hàn Quốc được đánh giá là thị trường tăng trưởng mạnh về lao động trong năm 2005. Từ tháng 8/2004, Hàn Quốc đã rộng cửa đón lao động. Lao động Việt Nam được đánh giá cao và có số lượng lớn nhất trong 6 đối tác XKLĐ của Hàn Quốc, gồm: Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Phillipin, Xri Lanka và Mông Cổ. Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những điểm dừng chân đem lại thu nhập cao cho lao động VN. Chủ yếu lao động Việt Nam đưa sang Nhật Bản là dưới dạng tu nghiệp sinh với thu nhập lên tới hơn 1000 USD/tháng, được phía bạn đánh giá cao tay nghề, tính cần cù, chịu khó và khả năng tiếp thu kỹ thuật lao động mới của lao động người Việt. Nhưng yêu cầu tuyển chọn cũng không dễ dàng như thị trường Malaysia, Đài Loan hay Trung đông nên số lượng đi còn hạn chế Chúng ta cũng đang bắt đầu triển khai kế hoạch đưa lao động sang nhiều thị trường mới như Cộng hòa Séc, Úc, Bruney, Macao… 1.2.2 Về xóa đói giảm nghèo Nguồn thu nhập từ XKLĐ được WB coi là một công cụ để đấu tranh chống nghèo đói bởi số tiền này đã góp phần trang trải chi phí học hành của trẻ em, mua sắm nhà cửa, xây dựng đường sá...Một công trình nghiên cứu của một nhóm chuyên gia WB cho thấy nếu số người XKLĐ từ các nước đang phát triển tăng trung bình 10% thì số những người có thu nhập dưới 1 USD mỗi ngày ở những nước như vậy sẽ giảm đi được 2%. Ở Việt Nam, nguồn thu từ XKLĐ cũng tác động làm thay đổi bộ mặt của nhiều địa phương theo hướng tích cực, tăng cơ sở vật chất, giảm tỷ lệ hộ nghèo đói, nâng cao mức sống. Người tham gia lao động khi về nước với trình độ tay nghề cao, kinh nghiệm học hỏi ở nước ngoài đã tham gia làm kinh tế hộ gia đình, đầu tư kinh doanh…thúc đẩy sự phát triển của địa phương. Nhiều địa phương trong cả nước cũng đã có những ghi nhận cụ thể về lợi ích thiết thực của công tác xuất khẩu lao động. Ông Phan Sỹ Dương, Phó giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Nghệ An cho biết, hiện cả tỉnh này đang có 36.000 người xuất khẩu lao động, nguồn thu nhập lao động gửi về qua các ngân hàng thương mại năm 2007 khoảng 90 triệu USD, chưa kể nguồn do lao động mang về trực tiếp, hoặc bằng con đường khác. Trước đây phần lớn các xã thuộc huyện miền núi của tỉnh Nghệ An chủ yếu là những xã nghèo. Từ khi có “phong trào” xuất khẩu lao động, nhiều gia đình trong xã đã có “của ăn của để”, nhà cửa khang trang… Từ thuần nông, xã Xuân Liên (huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) đã mạnh dạn mở ra hướng đưa con em đi xuất khẩu lao động, và đây chính là nguồn thu nhập cao giúp cho nhiều hộ nâng cao đời sống, số hộ nghèo từ 46% (năm 2000) nay đã giảm xuống còn 17%. Trong những năm qua, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Xuân Liên đã làm được 9 km đường bê tông, đường cấp phối, 2 công trình chứa nước: Đồng Bản, Chọ Thòi. Xuân Liên trở thành xã điển hình trong xoá đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh. Ngoài những xã có số người đi xuất khẩu lao động như Cương Gián (Nghi Xuân), Thiên Lộc (Can Lộc), Kỳ Ninh (Kỳ Anh), Xuân Liên cũng được đánh giá là xã có hướng đi đúng, phá thế độc canh, mở ra hướng phát triển kinh tế khá mới mẻ. Hiện nay, Xuân Liên có gần 700 người đang lao động ở nước ngoài có thu nhập cao. Lâm Vượng, một trong những thôn nghèo của xã, nhờ có 200 người đi lao động nước ngoài hàng tháng gửi tiền về cho gia đình phát triển kinh tế, nay đời sống đã nâng lên rõ rệt, với 10 nhà cao tầng, số hộ khá chiếm 80%, không còn hộ nghèo. Chủ tịch xã Xuân Liên Hoàng Văn Cát cho biết: thông qua các tổ chức đoàn thể, chúng tôi đã vận động nhân dân đưa con em đi lao động nước ngoài, đồng thời giúp những gia đình khó khăn vay vốn để con em họ tham gia XKLĐ. Những năm trước, đời sống nhân dân xã Xuân Liên rất nhiều khó khăn, người dân chủ yếu làm nông nghiệp, một số gia đình làm ngư nghiệp. Chính quyền xã đã xem xuất khẩu lao động là mục tiêu chính trong xoá đói giảm nghèo, xã vận động nhân dân thành lập từng tổ liên gia góp vốn cho em đi làm việc ở nước ngoài. Các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh đứng ra tín chấp vay vốn cho hội viên, nhiều gia đình có 5 đến 6 người đi xuất khẩu lao động. Xã Quang Yên( Lập Thạch – Vĩnh Phúc) có trên 2.560 người trong độ tuổi lao động, phần lớn số lao động không sử dụng hết quỹ thời gian, một số người phải tìm việc làm từ bên ngoài như: xây dựng, làm dịch vụ, làm thuê ngoại tỉnh… và mỗi năm xã lại có thêm vài chục lao động đến tuổi lao động cần giải quyết việc làm. Xã đã có những chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhưng đời sống nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn, những năm gần đây xã đã tìm ra hướng đi mới trong xóa đói giảm nghèo (XĐGN), giải quyết việc làm - đó là xuất khẩu lao động.Mỗi năm Quang Yên có gần 10 tỷ đồng thu nhập từ bên ngoài gửi về góp phần tăng thu nhập bình quân từ 4,6 triệu đồng/người/năm; năm 2006 lên 5,6 triệu đồng/ người/năm; năm 2007, giảm tỷ lệ hộ nghèo của xã từ 33,9% đầu năm 2007 xuống còn 28,8% cuối năm, giảm 5,1 % số hộ nghèo, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi. Xã có 17 thôn đến nay đã có 16 thôn xây dựng được nhà văn hóa thôn nhờ tiền đóng góp của nhân dân. Năm 2007, bằng nguồn vốn của nhân dân đóng góp, và sự hỗ trợ của Nhà nước xã Quang Yên đã xây dựng được 3 km đường bê tông nông thôn, trị giá gần 3 tỷ đồng 1.3. Về công tác tổ chức và quản lý XKLĐ 1.3.1 Công tác đào tạo Các số liệu cho biết từ năm 1998 – 2005, cả nước đưa được 360.959 lao động đi làm việc ở nước ngoài (riêng 6 tháng đầu năm 2006 là 35.171 lao động), trong đó 61.300 lao động có nghề chuyên môn, chiếm 27,5%. Hiện nay, Nhà nước đã quy hoạch và chuẩn hóa hệ thống trường, trung tâm dạy nghề cả nước, trong đó sẽ đầu tư 7.000 tỷ đồng tập trung vào các hệ thống dạy nghề kỹ thuật thực hành, xây dựng 40 trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trong đó có 15 trường đạt tiêu chuẩn khu vực, 3 trường đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ và liên thông giữa các trình độ. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp liên kết để đầu tư ở góc độ đào tạo nghề ở mức độ nhỏ, theo khả năng và nhu cầu của doanh nghiệp. Mục tiêu cần đạt được trước nhất là phải nâng cao trình độ lao động xuất khẩu có tay nghề đạt tỷ lệ 55% đến 60% vào năm 2010. 1.3.2 Luật lao động Từ 1/7/2007, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật Xuất khẩu lao động) đã có hiệu lực. Luật được đánh giá là thông thoáng khi quy định Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người lao động; hỗ trợ đầu tư mở thị trường lao động mới, có chính sách tín dụng ưu đãi, khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài, nhất là thị trường thu nhập cao; chấp nhận nhiều hình thức đưa lao động đi (thông qua hợp đồng của doanh nghiệp, đấu thầu công trình ở nước ngoài, thực tập nâng cao tay nghề và hợp đồng cá nhân). Luật cũng quy định rất rõ, nếu doanh nghiệp xuất khẩu lao động vi phạm pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc thu hồi giấy phép xuất khẩu lao động. Đặc biệt, Luật quy định minh bạch vấn đề bảo lãnh, ti._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6013.doc