Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank)

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu và rộng hậu WTO, lại bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngành Ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức. Nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng đang là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính nói chung và của các Ngân hàng nói riêng. Năm 2008 là một năm đầy sóng gió đối với nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1523 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nói riêng. Những khó khăn này được cụ thể hóa qua cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế ở các quốc gia có nên kinh tế phảt triển. Như một hệ quả khó tránh khỏi, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển chịu những thiệt thòi nhất định, Viêt Nam không nằm ngòai số đó. Những biến động xấu này được tiên đoán sẽ còn tiếp diễn ít nhất đến cuối năm 2009, đầu năm 2010 Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp. Nghiên cứu về vấn đề này em mong muốn sẽ hiểu biết sâu hơn về hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại kết hợp với thực tế tại đơn vị thực tập từ đó thấy được sự gắn kết cũng như điểm khác biệt giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ tạo thuận lợi cho em trong công việc sau này. Với những lý do trên, trong quá trình thực tập khảo sát thực tế tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, em rất quan tâm đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong hoạt động này của ngành ngân hàng. Vì vậy, đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” được lựa chọn làm khóa luận tốt nghiệp. Kết cấu khóa luận: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà HN Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, đánh giá, nhận xét từ phía ngân hàng và cô giáo đề em có thể hoàn thành tốt chuyên đề của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội 4/2009 Sinh viên Lê Phương Thảo Chương 1:Một số vấn đề chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.1. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại 1.1.1. Khái niệm và vai trò Ngân hàng Thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng, thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cho vay, cung ứng các dịch vụ thanh toán và các hoạt động khác có liên quan. Khác với các tổ chức kinh doanh khác, mặc dù cùng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nhưng đối tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ, trong đó hoạt động chủ yếu là huy động tiền gửi trong dân cư và các tổ chức kinh tế để cho vay. Trên thế giới, có nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại: Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. Ở Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, khoản 2 điều 20: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động của Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác” Từ những định nghĩa trên về Ngân hàng có thể rút ra được Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân thông qua nghiệp vụ tiền gửi, tiền tiết kiệm rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng trên Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn thực hiện một loạt các hoạt động khác như: kinh doanh ngoại hối, tham gia thị trường chứng khoán, góp vốn mua cổ phần, đầu tư mua trái phiếu, kỳ phiếu và các chứng từ có giá khác, cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ quỹ két, dịch vụ thanh toán… 1.1.1.2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại *Cung cấp nhu cầu vay vốn cho sự phát triển kinh tế Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân tức là cần phải mở rộng chiều rộng lẫn chiều sâu của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó cần thiết phải có vốn. Mặt khác khi nền kinh tế càng phát triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn, điều đó sẽ tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế như: vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình táu sản xuất. Có thể nói Ngân hàng thương mại, với chức năng trung gian tín dụng của mình đã biến tiết kiệm thành đầu tư. * Nâng cao hiệu quả kinh tế: Trong điều kiện nền kinh tế thị trượng, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên mọi phương diện: giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa mà còn đòi hỏi thỏa mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán…mà còn phải tìm tòi sử dụng nguyên liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp….Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư của mình. Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vống cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bà đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất,cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Có thể nói, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần làm cho quái trình sản xuất của doanh nghiệp diễn ra liên tục, không bị đứt quãng và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong kinh doanh. * Tham gia vào vào sự ổn định và phát triển thị trường tài chính và thị trường chứng khoán NHTM là tổ chức quan trọng nhất trong Thị trường tài chính: NHTM là một tổ chức trung gian tài chính có vai trò quan trọng nhất trong tài chính gián tiếp, có khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính. Vị trí của nó trong hệ thống tài chính được thể hiện qua 2 biểu hiện chủ yếu sau: NHTM là loại trung gian tài chính có số lượng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức trung gian tài chính và thực hiện phần lớn hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính nói chung NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng đầy đủ lợi ích của hệ thống tài chính. NHTM có thể cho phép tiết kiệm được chi phí giao dịch đối với những nhà cho vay và đi vay. Những người có món tiền tiết kiệm nhỏ khi mua các chứng khoán phải tốn chi phí để tập hợp thông tin cho việc mua chứng khoán nào là có lợi nhất, chi phí giao dịch của việc mua chứng khoán cũng có thể rất cao. Đối với người đi vay trên thị trường tài chính cũng chịu chi phí giao dịch rất cao. Sự có mặt của ngân hàng thương mại đã phần nào giải quyết được tình hình trên. NHTM là tổ chức thường xuyên nhận tiền gửi và cho vay do đó chi phí giao dịch cho mỗi khoản vay giảm đi rất nhiều. Số tiền ngân hàng tập hợp được sẽ dùng để đầu tư kiếm lời, đảm bảo khả năng thanh toán cho các nhà đầy tư và mở rộng khả năng cung các dịch vụ cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại góp phần điều hòa cung cầu, ổn định thị trường chứng khoán Vai trò này của NHTM được thể hiện một cách rõ rệt và tích cực thông qua các hoạt động: Điều hòa quan hệ cung cầu chứng khoán: NHTM là chủ thể quan trọng cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng khoán, là người tạo thị trường, có thể làm tăng nhu cầu hoặc giảm nhu cầu chứng khoán khi cần thiết. Với cơ chế giao dịch đó, NHTM tham gia điều hòa cung cầu chứng khoán một cách nhanh nhạy. Khi NHTM tham gia mua bán một khối lượng chứng khoán lớn sẽ làm thay đổi giá trị chứng khoán theo những chiều hướng nhất định. Hơn nữa, NHTM chủ động thay đổi mức tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến thị giá chứng khoán. Bằng những hoạt động này, các NHTM góp phần ổn định thị giá chứng khoán và thị trường chứng khoán Trợ giúp các công ty niêm yết, ổn định tâm lý của nhà đầu tư chứng khoán: Sự ổn định và phát triển của TTCK phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty niêm yết và tâm lý của công chúng – những người nắm giữ chứng khoán. Các NHTM còn thực hiện việc ổn định TTCK thông qua việc trợ giúp cho các công ty niêm yết khi họ có khó khăn về tài chính, đảm bảo khả năng thanh toán, tự chủ của họ trên thị trường. NHTM có thể đảm bảo cung cấp các thông tin chính xác, hạn chế những hiện tượng lừa đảo trong kinh doanh chứng khoán NHTM góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nguyên tắc công khai và công bằng thông qua chức năng kiểm soát. Các hành vi buôn bán tay trong, đầu cơ bất chính sẽ được phát hiện và hạn chế khi có sự tham gia của NHTM vào hoạt động của TTCK * NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế: Trong nền kinh tế thị trường, khi mà các mối quan hệ hành hóa tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong sự hòa nhập này. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại ra đời, phát triển trên cơ sở nền sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển và nền kinh tế càng ngày càng cần đến hoạt động của ngân hàng thương mại với các chức năng, vai trò của mình. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình, nhất là chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. * Tham gia kiểm soát các hoạt động kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại một mặt góp phần hình thành, duy trì và phát triển theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định, đồng thời góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Mặt khác, trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động một cách có hiệu quả thông qua nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương. Để thực thi chính sách tiền tệ phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở…chính các ngân hàng thương mại là các chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Bởi vì hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn chặt với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Mặc khác cũng qua ngân hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt,lãi suất, tỷ giá…của nền kinh tế được phản hồi về cho Ngân hàng trung ương, để chính phủ và Ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết phù hợp với từng tình hình cụ thể. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:”Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường” 1.1.2. Khái quát hoạt động của Ngân hàng Thương mại: 1.1.2.1. Nguồn vốn và nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM: Vốn tự có Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất thường xuyên và ổn định nên vốn tự có có thể được ngân hàng sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, tham gia đầu tư, góp vốn…Mặt khác vốn tự có còn là một trong những căn cứ quyết định khả năng và khối lượng huy động vốn của Ngân hàng do nó được coi như là tài sản gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp thua lỗ. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn tự có nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư và phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khác….ngoài ra còn có các quỹ không hình thành từ lợi nhuận ngân hàng như quỹ khấu hao cơ bản tài sản cố định, quỹ khấu hao sữa chữa lớn, các quỹ khác theo quy định của pháp luật tài chính. Vốn tiền gửi của khách hàng: Trong tổng nguồn vốn hoạt động, vốn tiền gửi là vốn chủ yếu của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn tiền gửi gồm có: tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi thanh toán được doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Khi mở tài khoản tiền gửi thanh toán, chủ tài khoản được hưởng dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp, thay vài đó lãi suất của khoản tiền này rất thấp. Chính vì thế, đây là nguồn vốn thấp hơn cả trong các loại tiền gửi Tiền gửi tiết kiệm lại gồm: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tương đối ổn định nên ngân hàng có thể chủ động sử dụng chúng để cho vay ngắn, trung và dài hạn. Tiền gửi không kỳ hạn tuy biến động thường xuyên nhưng nó vẫn có được một số dư ổn định do số tiền gửi vào và rút ra trong một thời kỳ bù trừ cho nhau nên ngân hàng ngoài việc sử dụng cho vay ngắn hạn còn có thể cho vay trung hạn Nguồn vốn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phải vay mượn thêm khi có những tình huống phát sinh đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định, để đáp ứng nhu cầu tín dụng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà NHTM có thể vay NHNN, vay của tổ chức tín dụng khác hay vay của dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Nguồn vốn tiếp nhận: Những nguồn vốn mà ngân hàng thương mại ủy thác từ các tổ chức trong hoặc ngoài nước từ ngân sách nhà nước để cho vay trung, dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của nhà nước, để thực hiện những dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh. Các nguồn khác: Vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi làm đại lý, dịch vụ thanh toán, làm trung gian thanh toán… 1.1.2.2.Nghiệp vụ tài sản Có Là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng các nguồn vốn hình thành của ngân hàng vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm: Thiết lập dự trữ: Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lời. Song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán làm sao để đáp ứng được các nhu cầu rút tiền của khách hàng. Muốn vậy, các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn, không sử dụng nó, để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. Tiền mặt tại quỹ: có khả năng thanh toán kịp thời nhất. Ngân hàng thương mại phải để tại quỹ của mình một số tiền phòng hộ theo một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi của khách hàng để đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc rút tiền mặt của khách hàng trong ngày. Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương: theo quy định, Ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tại ngân hàng trung ương và gửi vào đó một số tiền nhất định gồm 2 phần: Phần tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ngân hàng trung ương được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ nhất định. Việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bặt buộc do chính phủ quy định. Phần còn lại dùng để giao hoán séc và thanh toán nợ với các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại khác. Tiền gửi của Ngân hàng Thương mại phải mở tài khoản tại Ngân hàng Trung ương biến động hàng ngày vì mỗi ngày Ngân hàng Thương mại đều có nộp hay rút tiền mặt, đổi séc tại phòng giao hoán. Tuy nhiên, Ngân hàng Thương mại phải duy trì đủ tỷ lệ dự trữ bắt buộc nếu thiếu sẽ bị phạt, nếu thừa sẽ gây lãng phí. Mục đích của việc hình thành tỷ lệ này là bảo đảm hoàn trả tiền gửi của khách hàng khi ngân hàng thương mại bị phá sản. Tiền gửi của ngân hàng thương mại tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chuyển tiền khác địa phương của khách hàng, số này cao hay thấp tùy theo mức độ quan hệ với đại lý và số lượng đại lý. Tiền đầu tư vào các chứng phiếu có giá trị, những chứng phiếu này có thể bán ra bất cứ lúc nào trên thị trường chứng khoán. Hoạt động này vừa tạo ra sự an toàn vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ tín dụng: Nghiệp vụ tín dụng gồm có: Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác Đây là nghiệp vụ cho vay gián tiếp mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng, là việc ngân hàng mua thương phiếu của khách hàng, đây phải là những thương phiếu còn trong thời hạn hiệu lực, người sở hữu những thương phiếu đó khi bán cho ngân hàng sẽ nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ cho lợi tức chiết khấu do ngân hàng quy định. Cho vay Trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, nó chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng thương mại. Chính vì lý do này mà nhiều khi hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại được hiểu là hoạt động cho vay và do vậy hoạt động cho vay hoạt động cho vay thường được tìm hiểu kỹ càng hơn. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại có thể được phân chia theo nhiêu cách khác nhau. - Theo mục đích vay. - Phân loại theo hình thức bảo đảm - Theo kỳ hạn. - Theo phương pháp hoàn trả. - Theo nguồn gốc. - Theo loại hình tiền tệ. Cho thuê tài sản (Thuê – mua) Cho thuê của Ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là Ngân hàng với khách hàng thuê. Thời hạn thuê phải đảm bảo sao cho Ngân hàng phải thu gần đủ (hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi . Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương từ bỏ hợp đồng. Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng đưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Bảo lãnh của Ngân hàng có nghĩa Ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của Ngân hàng là người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba Nghiệp vụ đầu tư Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể cho ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này ngân hàng thực hiện kinh doanh kiếm lãi như các doanh nghiệp khác, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như: Đầu tư chứng khoán: Bằng cách cho các công ty cổ phần đa hoạt động, các xí nghiệp vay theo cách mua trái khoán của xí nghiệp, cho ngân hàng khác vay bằng cách mua công trái, đầu tư vào các công ty bằng cách mua cổ phiếu của công ty. Hùn vốn, liên doanh…là các biện pháp trực tiếp góp vốn với các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới. Tất cả mọi hành động đầu tư vào chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập. Nhưng mặt khác nhờ hoạt động mà các rủi ro trong hoạt động của ngân hàng được phân tán. Ngoài ra nếu đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp. Vì vậy các ngân hàng thương mại có xu hướng sử dụng nguồn vốn ngày càng tăng cho việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Theo quy định của ngân hàng thương mại chỉ được phép dùng nguồn vốn tự có để thực hiện nghiệp vụ đầu tư. Tài sản khác Những khoản mục còn lại của tài sản có, trong đó chủ yếu là tài sản lưu động-cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động ngân hàng. -Xây dựng hoặc mua thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng. -Mua sắm trang thiết bị, máy móc dụng cụ làm việc. -Mua sắm các phương tiện vận chuyển. -Xây dựng hệ thống kho quỹ. Ngoài tài sản lưu động, còn có các khoản thuộc tài sản có như các khoản phải thu, các khoản khác… 1.1.2.3.Hoạt động trung gian, cung cấp dịch vụ tài chính Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng. Đây là nghiệp vụ mà ngân hàng thương mại thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng được hưởng tiền hoa hồng như: -Chuyển tiền cho khách hàng sang địa phương khác để họ sử dụng theo yêu cầu hoặc trả cho một người nào đó. -Thu hộ: ngân hàng đứng ra thay mặt khách hàng để thu hộ các khoản kỳ phiếu đến hạn, chứng khoán, hàng hóa… -Ủy thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng làm theo ủy thác của khách hàng như quản lý tài sản hộ, chuyển gia tài hộ, bảo quản chứng khoán và vật có giá, thanh lý tài sản của xí nghiệp bị phá sản… -Mua bán hộ: theo ủy nhiệm của khách hàng, ngân hàng đứng ra phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu hoặc trái khoán công ty hoặc trái khoán nhà nước, mua bán ngoại tệ, kim khí quý, đá quý cho khác hàng. -Kinh doanh vàng, bạc, ngoại tệ để kiếm lời nếu được phép của ngân hàng trung ương. -Làm tư vấn tài chính tiền tệ như cung cấp thông tin, hướng dẫn chính sách tiền tệ, thương mại, lập dự án đầu tư tín dụng, ủy thác đầu tư cho khách hàng. 1.2. Tín dụng trung và dài hạn của NHTM 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn 1.2.1.1. Khái niệm: Hoạt động tín dụng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài gắn liền với lịch sử phát triển của hệ thống Ngân hàng. Với xu hướng phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ tín dụng ngày càng đa dạng phong phú, hoàn thiện đầu tư vào tất cả các lĩnh vực ngành nghề. Có thể hiểu một cách ngắn gọn: “Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa” [Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng, trang 100]. Trong tín dụng Ngân hàng, Ngân hàng trao quyền sử dụng vốn cho khách hàng, khách hàng dùng số vốn này đầu tư vào sản xuất kinh doanh kiếm lời, đảm bảo trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu chí khác nhau. Theo thời hạn tín dụng, tín dụng bao gồm tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn Tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tài chính tín dụng, cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh hay để phục vụ đời sống. Tùy theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà hoạt động tín dụng được quy định cụ thể. Hiện nay, thời hạn của tín dụng trung và dài hạn ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước quy định trong Điều 8, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (12/2001) như sau: Thời hạn cho vay trung hạn từ 1 – 5 năm Thời hạn cho vay dài hạn là từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống Mục đích của hoạt động tín dụng trung và dài hạn là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ…nhằm mục tiêu lợi nhuận 1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn Thời gian hoàn vốn chậm Thời hạn hoàn vốn của tín dụng trung và dài hạn thường rất dài. Đây được coi là đặc điểm không thể thiếu trong tín dụng trung và dài hạn. Mục tiêu của tín dụng trung và dài hạn là nhằm hình thành mới hoặc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Để thực hiện được mục đích đó cần một thời gian rất dài và thời hạn này phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời gian thi công thực hiện công trình, quy mô và mức độ phức tạp của công trình, công nghệ sản xuất…. của doanh nghiệp Lãi suất cao Tín dụng trung và dài hạn diễn ra trong một thời gian dài. Trong khoảng thời gian dài đó, việc sử dung vốn vay cũng như việc thực hiện các hoạt động khác của doanh nghiệp vay vốn luôn bị chi phối, ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp bởi vô vàn các yếu tố phức tạp như: tình hình chính trị, tình hình kinh tế - xã hội, các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên: hạn hán, lũ lụt, động đất… Sự biến động này không thể dự đoán hết được và nó có thể tác động và gây nên những hậu quả, tổn thất, thiệt hại cho bên vay cũng như Ngân hàng. Chính vì thế cho vay trung và dài hạn chứa đựng nhiều rủi ro hơn trong cho vay ngắn hạn và thông thường lãi suất trong cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Giá trị khoản vay lớn Đối tượng chủ yếu của tín dụng trung và dài hạn là chính là những chi phí để hình thành nên cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật đã có sẳn của doanh nghiệp. Đây là hoạt động rất đa dạng và phức tạp, cần phải có sự sắp xếp, bố trí các công việc một cách khoa học, tiến hành thực hiện theo một trình tự nhất định, có sự quản lý chặt chẽ. Đặc biệt đòi hỏi không thể thiếu được đó là doanh nghiệp phải có một khối lượng vốn lớn nhằm tạo ra một tài sản cố định, một năng lực sản xuất mới. Vì vậy, giá trị khoản vay lớn cũng là một đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn. 1.2.1.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn a. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của Ngân hàng: Hoạt động chủ yếu của NHTM là việc thu hút vốn để mở rộng cho vay và đầu tư nhằm thu lợi nhuận.Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong các chiến lược kinh doanh quan trọng của ngân hàng là chiến lược tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung và dài hạn thường có rủi ro cao hơn và đồng thời cũng hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn nên các ngân hàng thường phải chú trọng đặc biệt đến hình thức tín dụng này. Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. Các dự án đầu tư sẽ không thực hiện và trở nên vô nghĩa khi thiết bị, công nghệ đã lạc hậu, không được cải tiến, đổi mới cho phù hợp. Một khi đã có nền tảng cho sự phát triển từ các khoản đầu tư trung và dài hạn các doanh nghiệp mới yên tâm sử dụng các khoản vay ngắn hạn để sản xuất và kinh doanh. Nhờ vậy mà ngân hàng mới có điều kiện phát triển tín dụng ngắn hạn. b. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp: Muốn tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện để nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí, giảm giá thành để đảm bảo sức cạnh tranh và thu được lợi nhuận cao. Về dài hạn, các doanh nghiệp luôn cần một lượng vốn lớn để mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị, đổi mới công nghệ…Các doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đó bằng nhiều hình thức, tuy nhiên có một hình thức hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp đó là vay vốn trung và dài hạn của NHTM Tín dụng trung và dài hạn thỏa mãn các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp, cung cấp vốn cho họ khi họ đang tiềm năng sản xuất nhưng lại thiếu vốn. Khi có cơ hội kinh doanh cần phải mở rộng sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường thì doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng và hoàn trả khi cơ hội kinh doanh không còn. Thậm chí doanh nghiệp vay vốn có thể trả nợ sớm trước hạn khi họ không cần đến việc sử dụng vốn đó nữa. So với việc tạo vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu thì vay vốn trung và dài hạn doanh nghiệp không phải chịu sự chi phối, kiểm soát của cổ đông, không phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu, lãi cổ phần ưu đãi khi việc sử dụng vốn có khó khăn hoặc không cần thiết nữa. Ngoài ra doanh nghiệp c._.òn tránh được các chi phí phát hành, chi phí đăng ký chứng khoán…và lại được Ngân hàng tư vấn trong các công việc liên quan đến hoạt động đầu tư và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. c. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế: Cung cấp vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội: Hoạt động kinh tế trên thế giới ngày này đang diễn ra một cách khẩn trương, sôi nổi. Nhu cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đại hóa công nghệ sản xuất…đều rất lớn cả ở những quốc gia phát triển lẫn các quốc gia. Nhu cầu này được thỏa mãn một phần bằng vốn Ngân sách Nhà nước, một phần huy động dân cư nhưng phần lớn vẫn bằng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Thông qua cho vay trung và dài hạn mà xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển nền kinh tế. Hoạt động tín dụng đã biến các phương tiện tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những phương tiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, động viên nhanh chóng vật tư lao động và các phương tiện sẵn có khác đưa vào sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh chu chuyển tiền tệ, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng. Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển: Trong điều hiện nay, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước đây đã nhường bước cho nền kinh tế mở phát triển. Tín dụng trung và dài hạn đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Bởi ngân hàng thông qua hoạt động cho các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài hoặc cho các đối tác nước ngoài vay để đầu tư vào trong nước hoặc cho vay xuất nhập khẩu đã tạo ra mối quan hệ giao lưu, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, dần dần thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa nền kinh tế của nước đó với nền kinh tế các nước khác trong khu vực và trên thế giới. 1.2.2. Nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.2.2.1. Đặc điểm: Nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng Thương mại chủ yếu là nguồn vốn huy động. Khi tập trung huy động vốn, NHTM phải đảm bảo và có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, kịp thời cho người gửi khi họ có nhu cầu rút tiền gửi. Vì vậy trong cho vay nói chung cũng như trong cho vay trung và dài hạn nói riêng ngân hàng cũng đòi hỏi khách hàng vay vốn phải hoàn trả ngân hàng đúng hạn. Mặt khác, do thời gian hoàn vốn chậm nên trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, Ngân hàng phải bỏ ra chi phí nhiều hơn: trả lãi tiền gửi, trả lương cán bộ nhân viên, nộp thuế, trích lập các quỹ….Chính vì thế, trong cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng cho vay và doanh nghiệp vay vốn phải thống nhất tính toán, xác định rõ thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ của dự án. Đồng thời phải thường xuyên đôn đốc doanh nghiệp trong việc trả nợ, trả lãi. Do thời gian cho vay dài nên tín dụng trung và dài hạn chứa đựng rủi ro cao. Thêm vào đó, giá trị của khoản vay trung dài hạn lại có giá trị lớn nên Ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải có tài sản đảm bảo chắc chắn. Tài sản dùng để đảm bảo cho nợ vay phải có giá trị lâu dài và không bị mất giá theo thời gian. 1.2.2.2. Quy trình: Giai đoạn xét duyệt trước khi cho vay: Sau khi nhận từ khách hàng hồ sơ xin vay (bao gồm đơn xin vay, luận chứng kinh tế kỹ thuật, phương án vay và trả nợ, báo cáo tình hình tài chính, hồ sơ tài sản thế chấp…) và hồ sơ ban đầu (quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép đăng ký kinh doanh…) cán bộ tín dụng thẩm định theo trình tự sau: + Hồ sơ pháp lý: theo đúng thủ tục pháp lý + Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp + Thẩm định tính khả thi của phương án vay vốn: thẩm định về phương diện thị trường, kỹ thuật, tài chính, điều kiện vay vốn, hiệu quả kinh tế xã hội Sau khi xem xét các yếu tố trên, cán bộ tín dụng sẽ có đánh giá tổng quát, ghi ý kiến trình trưởng phòng, trưởng phòng tín dụng, kiểm tra lại nội dung tờ trình và ghi ý kiến trình giám đốc. Giám đốc là người duyệt và quyết định từ chối hay đồng ý cho vay. Thời gian thẩm định không quá 20 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ hồ sơ của khách hàng. Thời gian quyết định cho vay không quá 25 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của bộ phận thẩm định. Giai đoạn phát tiền vay: Đối với mỗi hợp đồng vay vốn, khách hàng có thể rút vốn nhiều lần. Cán bộ tín dụng có nhiệm vụ theo dõi, giám sát việc rút vốn vay từng lần của khách hàng để đảm bảo vốn rút ra đúng nội dung yêu cầu chi trả, phù hợp với mục đích vay. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để sớm phát hiện những lệch lạc trong việc sử dụng vốn vay, phát hiện những khó khăn mà khách hàng gặp phải để có cơ hội cố vấn tốt cho khách hàng, tránh rủi ro cho ca hai bên. Giai đoạn thu nợ gốc và lãi: Việc trả nợ gốc và lãi do khách hàng và ngân hàng thỏa thuận với nhau. Nếu đến hạn trả nợ, khách hàng không trả thì ngân hàng được quyền trích tài khoản các loại để thu nợ. Trình tự trả lãi, phí, gốc có thể thay đổi cho linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế và trên cơ sở đề nghị của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay, cùng kế toán viên theo dõi kỳ hạn nợ, chủ động lập giấy thu nợ. Cán bộ tín dụng xem xét các báo cáo tài chính định kỳ của doanh nghiệp, nếu thấy có vấn đề, cán bộ tín dụng có ý kiến để doanh nghiệp kịp thời xử lý. Trước khi đến hạn trả nợ vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn vì lý do khách quan và có đơn xin gia hạn nợ, cán bộ tín dụng xuống đơn vị tìm hiểu và kiểm tra thực tế, nếu thấy do nguyên nhân khách quan ngoài phạm vi quản lý điều hành của đơn vị thì cán bộ tín dụng trình Ban giám đốc giải quyết cho gia hạn nợ theo đúng quy định, chế độ cho vay của Ngân hàng Nhà nước. 1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM 1.3.1. Khái niệm Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội Chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng của các khoản vay có thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được sử dụng đúng mục đích, phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả, Ngân hàng được trả nợ đúng hạn, vừa bù đắp được chi phí vừa có lợi nhuận vừa đem lại hiệu quả kinh tế xã hội Từ khái niệm trên ta thây rằng khách hàng, NHTM, và bối cảnh kinh tế là ba nhân tố được đề cập đến khi xem xét chất lượng hoạt động tín dụng trung dài hạn. Do đó chúng ta xem xét chất lượng tín dụng trung dài hạn trên ba giác độ đó Đối với Ngân hàng Thương mại: chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của ngân hàng và phải bảo đảm được khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế. Đối với khách hàng: chất lượng tín dụng trung dài hạn là sự thoả mãn yêu cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng Đối với nền kinh tế: khoản tín dụng trung dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế. Như vậy, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề về cách tiếp cận khái niệm chất lượng cho vay hay chất lượng tín dụng: - Đây là một khái niệm tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn...) lại vừa trừu tượng (thể hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế...). - Chất lượng cho vay là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua nhiều yếu tố như: lãi, mức độ an toàn vốn của kinh doanh, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng.... 1.3.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sư tồn tại và phát triển của các Ngân hàng Thương mại Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt đẹp về biểu tượng, uy tín của ngân hàng và sự trung thành của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự châm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh. Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín dụng trung và dài hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng thương mại. Và cũng chính vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi sự cải tiến. 1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cần thiết để phát triển kinh tế Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng cũng ngày càng phát triển, nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm, bởi lẽ: + Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn cho vay, với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền. + Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có, hoặc vì lí do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khác cho khách vượt quá số tiền gửi thực có, hay khi ngân hàng xử lý nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng đã cung cấp cho doanh nghiệp một khối lượng thanh toán bằng cách ghi “có” trước ghi “nợ” sau. + Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng có quan hệ mật thiết với nền kinh tế xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách tín dụng đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội, điều đó cũng thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 1.3.3. Các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng trung và dài hạn: 1.3.3.1. Xét trên quan điểm ngân hàng Xét trên giác độ Ngân hàng, có rất nhiều các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn nhưng trong khuôn khổ khóa luận này em chỉ tập trung đánh giá trên những chỉ tiêu chủ yếu sau: Chỉ tiêu dư nợ Dư nợ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn = Tổng dư nợ tín dụng Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của một Ngân hàng trong các thời kì khác nhau. Có thể nghiên cứu biến động qui mô, khối lượng tín dụng trung và dài hạn nếu chỉ xem xét tử số. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ này càng lớn, uy tín với khách hàng được nâng cao. Vì tín dụng trung và dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm tàng mà dư nợ lại lớn chứng tỏ mối quan hệ khách hàng- Ngân hàng là hoàn toàn tin cậy, có hiệu quả. Chỉ tiêu Nợ quá hạn Dư nợ quá hạn trung và dài hạn Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn = Tổng dư nợ trung và dài hạn Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng của món vay. Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể được. Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ sinh lời trung và dài hạn = Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Lợi nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu ra và đầu vào tức lãi suất huy động và thu từ lãi hay doanh thu đầu ra của tín dụng trung và dài hạn. Xét cho cùng thì khoản tín dụng dù không có nợ quá hạn, nợ khó đòi thì cũng chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận cho Ngân hàng. Lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn Tỷ lệ lợi nhuận trung và dài hạn = Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu này cho thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung và dài hạn trong hoạt động Ngân hàng. Thu từ khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đóng góp lớn vào thu nhập của Ngân hàng. Nếu khoản tín dụng có chất lượng tồi thì thu không được gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của Ngân hàng nên sẽ kéo lợi nhuận giảm tương ứng. 1.4.3.2. Xét trên quan điểm khách hàng Chi phí vốn vay (lãi suất tiền vay): Đây là tiêu chí được khách hàng quan tâm hàng đầu khi tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Trong một ngân hàng cụ thể thì lãi suất của các khoản vay là không hoàn toàn giống nhau, nó phụ thuộc vào mức độ rủi ro tiềm ẩn của mỗi khoản vay đó, mức độ rủi ro nhiều hay ít là do đánh giá chủ quan của ngân hàng. Đối với tín dụng trung và dài hạn, thời gian vay dài, giá trị khoản vay lớn nên ngân hàng phải xem xét rất kỹ lưỡng và thông thường lãi suất cho vay sẽ tỷ lệ thuận với mức độ rủi ro của khoản vay. Còn xét trên tổng thể ngành ngân hàng trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại thì lãi suất dịch vụ tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng của các Ngân hàng thường không giống nhau. Thời gian bình quân để xét duyệt một khoản vay trung và dài hạn: Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thời gian được đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng có thể ảnh hưởng rất lớn, quyết định sự thành bại của một phương án kinh doanh. Chính vì thế mà tiêu chí này ảnh hưởng rất lớn đến việc lựa chọn Ngân hàng để vay vốn của khách hàng. Để tránh mất đi những khách hàng tốt, nâng cao chất lượng tín dụng thì các ngân hàng cần phải chú ý đến tiêu chí này, thực hiện đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, giảm thiểu thời gian xét duyệt khoản vay trên cơ sở vẫn đảm bảo sự an toàn tìn dụng cho ngân hàng. Sự đa dạng của loại hình tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng: Chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc đáp ứng được tốt nhất nhu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng. Như vậy, ngoài những yếu tố khác, Ngân hàng cần đặc biệt chú trọng đến sự đa dạng trong chủng loại sản phẩm tín dụng, đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của khách hàng. 1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại 1.3.4.1. Nhóm nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng, liên quan đến sự phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, bao gồm: Nguồn vốn của Ngân hàng Nguồn vốn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với hoạt động kinh doanh của các hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, đặc biệt là nguồn vốn huy động trung và dài hạn. Môt ngân hàng có cấu trúc vốn tương đối lớn có thể cho vay với kỳ hạn dài hơn và nhiều rủi ro tín dụng hơn, nhưng bù lại lợi nhuận thu về có thể cao hơn và thường thì các ngân hàng không sử dụng vốn trung và dài hạn của mình để cấp tín dụng ngắn hạn. Thêm vào đó, đối với tín dụng trung và dài hạn, với nguồn đáp ứng tương đối ổn định, lãi suất hợp lý sẽ một mặt đảm bảo bù đắp những chi phí và những biến động của thị trường, và một mặt để nâng cao năng lực cạnh tranh được với các NHTM khác. Ở Việt Nam, tính ổn định của các khoản tiền ngắn hạn có ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn bởi các NHTM cho vay trung và dài hạn chủ yếu từ nguồn ngắn hạn theo một tỷ lệ nhất đinh do NHNN Việt Nam quy định, trong khi huy động vốn trung và dài hạn còn rất hạn chế. Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Trước đây, việc quyết định thu hẹp hay mở rộng chính sách tín dụng có tác động rất lớn tới chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là cho vay càng nhiều càng tốt mà điều ngân hàng quan tâm trên hết là lợi ích từ các món vay mang lại. Một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn sẽ đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối chính sách của Nhà nước, tuân thủ pháp luật, đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và của chính bản thân ngân hàng, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng. Năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ tín dụng: Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng là yêu cầu hàng đầu đối với mỗi ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và khả năng tạo lợi nhuận của ngân hàng. Con người chính là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Khi nền kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động càng cao. Ở đây, năng lực không chỉ gói gọn trong ý nghĩa về chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải kể đến những hiểu biết về pháp luật, chính trị, xã hội, tâm lý khoa học…Đối với tín dụng trung và dài hạn, năng lực trong công tác thẩm định phải được đặt lên hàng đầu. Đây là công việc phức tạp và liên quan nhiều tới các bên thứ ba, đòi hỏi cán bộ tín dụng không những có khả năng dự đoán những biến động sẽ xảy ra mà còn phải có vốn kinh nghiệm để giúp cho việc dự đoán được chính xác. Quy trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay, thu nợ. Chất lượng tín dụng tùy thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính khoa học và việc thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng cũng như sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước. Khâu chuẩn bị cho vay là khâu rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ tín dụng phải làm tốt công tác thẩm định đối tượng cho vay cũng như tính khả thi của dự án đầu tư để ra quyết định cho vay hay không cho vay. Việc tập trung vào phân tích tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính dự án sẽ giúp cho ngân hàng xác định được khả năng trả nợ của doanh nghiệp và có được cái nhìn bao quát toàn diện về hoạt động và kết quả của dự án trong tương lai. Đối với kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi rủi ro thì việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp kiểm tra sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Thu nợ và thanh toán nợ là khâu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng của khoản tín dụng. Sự nhạy bén của ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý thu nợ hợp lý sẽ giảm thiểu các khoản nợ quá hạn và có tác động tích cực đối với chất lượng tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn. Thông tin tín dụng luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kỳ lĩnh vực nào. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng vậy, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước tiên phải có thông tin về khách hàng đó, về dự án đó,để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính xác, kịp thời, đầy dủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là biện pháp giúp lãnh đạo ngân hàng nằm được tình hình hoạt động kinh doanh đang diễn ra như thế nào, cũng như việc tuân thủ các quy trình cho vay của cán bộ tín dụng từ đó có được đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc, phát huy những nhân tố thuận lợi và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc chấp hành những quy định, chính sách và sự phát hiện kịp thời các sai sót cũng như nguyên nhân dẫn đến sai sót trong quá trình thực hiện một khoản tín dụng. Công nghệ Ngân hàng, trang thiết bị kỹ thuật Đây cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật chất lượng cao, sẽ tạo điều kiện đơn giản hoá các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là điều kiện tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn. 1.3.4.2. Các nhân tố từ phía khách hàng: a. Phẩm chất đạo đức và thiện chí của khách hàng: Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khánh hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. b. Năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, khả năng phân tích đánh giá các dự án vay vốn ngân hàng của khách hàng. Đây là những nhân tố quan trọng tác động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó nó ảnh hưởng đến chất lượng các khoản vốn vay ngân hàng cho sản xuất kinh doanh. Nếu khả năng quản lý, hiểu biết về thị trường, trình độ chuyên môn… của khách hàng không tốt thì khó có thể điều hành được hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Điều này có thể dẫn đến hậu quả xấu đó là sự thua lỗ của những dự án, không trả được cho ngân hàng. Chất lượng tín dụng vì thế mà không được đảm bảo. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy biến động thì vai trò của công tác quản lí trong doanh nghiệp càng quan trọng, bởi trong điều kiện đó đòi hỏi hoạt động của doanh nghiệp phải thường xuyên được điều chỉnh để thích ứng với những biến động của môi trường kinh doanh, của chính bản thân doanh nghiệp. 1.3.4.3. Nhóm nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô của Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước, pháp luật có vai trò rất quan trọng, đó là một hàng rào pháp lý tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế Sự đồng bộ thống nhất của hệ thống pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật và cơ chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh triệt để…ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh, phát huy được vai trò của tín dụng đối với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Việc thay đổi đột ngột cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu… gây xáo động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: không tiêu thụ được sản phẩm, chưa có phương án sản xuất kinh doanh mới…dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, chất lượng tín dụng giảm sút. 1.3.4.4. Các nhân tố khác: a. Môi trường kinh tế: Bất kì một Ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của những chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn nền kinh tế đang hưng thịnh, các doanh nghiệp làm ăn phát đạt, xuất hiện nhiều nhu cầu mở rộng sản xuất, nên nhu cầu tín dụng cũng tăng. Trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái, nhu cầu tín dụng sẽ giảm, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cũng giảm sút, lúc này, Ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng một lượng vốn lớn, nguồn vốn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất lượng tín dụng bị giảm sút. Chu kỳ kinh tế cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng xét trên quan điểm khách hàng. Khi nền kinh tế suy thoái, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị đình trệ do sản phẩm không tiêu thụ được và có nghĩa là doanh nghiệp khó có khả năng trả nợ Ngân hàng, chất lượng tín dụng lúc này bị đánh giá là kém. b. Môi trường chính trị xã hội: Môi trường chính trị xã hội bất ổn có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng. Lúc này, không chỉ riêng các doanh nghiệp mà bản thân ngân hàng cũng không yên tâm tập trung vào sản xuất kinh doanh chứ chưa nói là việc mở rộng. Người dân lo giữ của cải ở bên mình do đó các ngân hàng khó huy động được vốn để cho vay. Trường hợp có cho vay thì chất lượng tín dụng khó có thể đảm bảo trong tình hình biến động như vậy. c. Môi trường tự nhiên: Các nhân tố khách quan của môi trường như lũ lụt, hạn hán, thiên tai luôn là mối đe dọa đối với những dự án xây dựng công trình đặc biệt là những dự án có thời hạn dài. Đây là những nhân tố không thể lường trước được nên đối với các khu vực có điều kiện môi trường biến động như vậy thì chất lượng tín dụng là không đảm bảo. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) 2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Tên: Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội Tên quốc tế: Hanoi Building Commercial Joint Stock Bank Tên viết tắt: Habubank Hội sở chính: Địa chỉ: B7 Giảng Võ – Quận Ba Đình – Hà Nội Điện thoại: (04) 3 8460 135/ 36 Fax: (04) 3 8235 693 Email: mysay@habubank.com.vn Website: www.habubank.com.vn Hệ thống mạng lưới Hà Nội: 1 Sở Giao dịch, 13 chi nhánh Quảng Ninh: 1 phòng giao dịch, 2 chi nhánh Bắc Ninh: 1 phòng giao dịch, 1 chi nhánh TPHCM: 2 phòng giao dịch, 1 chi nhánh Bình Dương: 1 phòng giao dịch, 1 chi nhánh Ngoài ra còn có các phòng giao dịch đặt tại: Hải Phòng, Hà Tây, Đà Nẵng,Vĩnh Phúc. Công ty con: Công ty chứng khoán Habubank (Habubank Securities) 2.1.1. Thành lập và hoạt động: Habubank là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam, được thành lập từ năm 1989 theo quyết định số 104/QĐ-UB ngày 11 tháng 1 năm 1989 của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Tiền thân của Habubank là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Ngày 2/1/1989 Habubank khai trương hoạt động tại số 125 Bà Triệu , Hà Nội với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng với tên gọi “Ngân hàng phát triển Nhà Hà Nội”, Habubank được phép kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng trong 99 năm. Năm 1992, cùng với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Ngân hàng thực hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ gồm tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Ngân hàng cũng được đổi tên thành “Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội” Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý trong chiến lược kinh doanh của Habubank với việc chú trọng mở rộng các hoạt động thương mại nhằm vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các cá nhân và tổ chức tài chính khác bên cạnh việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ và phát triển nhà. Thêm vào đó, cơ cấu cổ đông cũng được mở rộng một cách rõ rệt với nhiều cá nhân và doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân tham gia đầu tư đóng góp phát triển. Cũng trong năm này, Habubank chính thức được phép cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và tăng vốn điều lệ lên 24,396 tỷ đồng. Năm 2001 Habubank mua lại Ngân hàng TMCP Nông thôn Quảng Ninh và mở chi nhánh đầu tiên tại Quảng Ninh, khai trương website Habubank tại địa chỉ www.habubank.com.vn với những thông tin cơ bản về sản phẩm dịch vụ,lãi suất…cung cấp cho khách hàng. Cùng năm này, Habubank triển khai hệ thống Smartbank trong toàn hệ thống, là một trong những ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam thực hiện quản lý dữ liệu tập trung và nối mạng online toàn hệ thống; trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) Năm 2002 Habubank bắt đầu triển khai dự án Nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro và năm 2004, hợp tác với dự án SBV-GTZ (Đức) nhằm đẩy mạnh công tác quản trị rủi ro của Ngân hàng. Năm 2005, triển khai dịch vụ ngân hàng tự động, thành lập Trung tâm thẻ Habubank, phát hành thẻ Habubank Vantage và trở thành thành viên chính thức trong liên minh thẻ VNBC (Vietnam Bankcard) Năm 2006, tăng vốn điều lện lên 1.000 tỷ đồng; thành lập và đưa vào hoạt động Công ty chứng khoán Habubank; triển khai dự án Nâng cấp hạ tầng dữ liệu thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quản trị điều hành; được tạp chí The Banker (Anh) trao tặng danh hiệu “Ngân hàng Việt Nam của năm” Năm 2007, tăng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng; hoàn thành việc lựa chọn Deutsche Bank làm đối tác chiến lược nước ngoài; được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và lần thứ 2 liên tiếp được tạp chí The Banker bầu chọn là “Ngân hàng Việt Nam của năm”. Cùng trong năm 2007, Công ty Chứng khoán Habubank tăng vốn điều lệ lên 150 tỷ đồng , đồng thời trở thành đơn vị dẫn đầu và có đóng góp to lớn trong việc xây dựng thị trường trái phiếu Việt Nam. Năm 2008, tổng vốn điều lệ của Habubank đạt được là 2.800 tỷ đồng. Số chi nhánh và phòng giao dịch của Habubank đạt 40 điểm trên toàn hệ thống. Tớ._.định dự án và xét duyệt cho vay. Về công tác kiểm tra kiểm soát Công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng tuy được tiến hành thường xuyên nhưng chưa phát huy được hiệu quả cao trong việc phát hiện kịp thời và xử lý những vướng mắc trong việc thực hiện quy trình tín dụng cũng như trong việc bố trí sắp xếp cán bộ sao cho đúng người đúng việc. Điều này gắn liền với sự hạn chế trình độ của cán bộ làm công tác này. Công tác thu nợ và xử lý nợ Công tác thu nợ và xử lý nợ quá hạn tiến triển chậm, đặc biệt ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Chính sách ưu đãi về lãi xuất chưa có sự linh hoạt đối với từng loại dự án. Bốn là: Những hạn chế khác Những hạn chế trong chiến lược Marketing: Hoạt động tuyên truyền quảng cáo về ngân hàng thông qua các phương tiện truyền thông còn hạn chế, chưa thực sự gần gũi với quần chúng nhân dân, và nói chung chưa có sự đầu tư đúng mức từ phía chi nhánh. Ngân hàng chưa coi trọng công tác Marrketing Ngân hàng. Các thông tin về thị trường và khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Ngân hàng chưa có các biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng, đôi khi còn quá tin tưởng vào các khách hàng quen mà quên rằng nếu họ luôn được các Ngân hàng khác chào mời thì Ngân hàng có thể mất khách. Chính vì vậy Ngân hàng cần có những chính sách khuyến khích khách hàng thường xuyên. Trong những năm qua, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã xây dựng được chiến lược phát triển tín dụng trung và dài hạn rõ ràng: lấy đối tượng khách hàng ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng. Đây là chiến lược rất đúng đắn vì đối tượng khách hàng này phù hợp với năng lực và quy mô của Ngân hàng. Hơn nữa với tốc độ cổ phần hóa nhanh như hiện nay cùng với sự ra đời của các doanh nghiệp mới thì số lượng khách hàng ngoài quốc doang sẽ tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Như vậy Ngân hàng có cơ hội lựa chọn khách hàng tốt và phân tán được rủi ro. Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội là Ngân hàng TMCP ra đời sớm nhất ở Việt Nam do đó Ngân hàng đã xây dựng được cho mình hình ảnh và vị trí nhất định trên thương trường. Đây là một thuận lợi không nhỏ của Ngân hàng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Tuy nhiên, Ngân hàng cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc huy động tiền gửi đầu vào so với các Ngân hàng quốc doanh. Thực tế cho thấy chi phí đầu vào của Ngân hàng luôn cao hơn các Ngân hàng quốc doanh khá nhiều nên lãi suất cho vay đầu ra của Ngân hàng kém tính cạnh tranh hơn, điều này gây khó khăn cho Ngân hàng trong công tác Marketing các khách hàng lớn, uy tín. Điều này dẫn đến hệ quả chất lượng tín dụng của Ngân hàng bị ảnh hưởng bất lợi theo Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp để điều hành nền kinh tế, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, thị trường tiền tệ diễn biến thất thường, cùng với tác động xấu của khủng hoảng tài chính thế giới và hiệu ứng của tăng trưởng tín dụng nóng, tăng quy mô và mạng lưới hoạt động quá nhanh của những năm trước vẫn ảnh hưởng lớn tới hoạt động của Ngân hàng TMCP. Đến năm 2008, mặc dù một số chỉ tiêu cơ bản của Ngân hàng vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng song tốc độ đã chậm lại. Hoạt động chủ yếu là tập trung huy động vốn để cân đối nguồn và đảm bảo khả năng thanh khoản, đảm bảo an toàn của mình. b. Những nguyên nhân từ phía khách hàng: Hiện nay các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn rất cao nhưng họ rất khó đáp ứng được các tiêu chí của Ngân hàng. Một số nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được vay vốn là: Không có các dự án khả thi: khi đi vay vốn Ngân hàng, các doanh nghiệp phải có dự án khả thi được xây dựng trên cơ sở khoa học, thông tin đầy đủ, thẩm định và phân tích một cách chính xác. Nhưng trong thực tế một số doanh nghiệp không thể xây dựng dự án đầu tư trung và dài hạn. Có những doanh nghiệp có ý tưởng làm ăn lớn nhưng không lập được kế hoặch dưới bảng biểu theo yêu cầu của Ngân hàng. Cán bộ tín dụng nhiều khi phải giúp đỡ người vay, tính toán và lập phương án vay vốn trả nợ. Vì vậy nếu trình độ của các cán bộ tín dụng yếu thì chất lượng tín dụng sẽ không tốt. Doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp hợp pháp. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn đi vay phải có tài sản thế chấp để đảm bảo vốn vay, phòng ngừa rủi ro khi dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn ngoài dự kiến, dẫn đến hoạt động kinh doanh không có hiệu quả. Hiện nay chủ yếu các doanh nghiệp thế chấp bằng tài sản cố định hoặc bất động sản nhưng việc xác định giá trị thực tế của các tài sản còn gặp nhiều khó khăn, độ chính xác thấp, các văn bản quy định có liên quan còn một số chồng chéo và mâu thuẫn. Ngoài ra còn có các nguyên nhân như: - Trình độ năng lực quản lý của của doanh nghiệp yếu kếm, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Vốn tự có của doanh nghiệp tham gia rất ít thậm chí không có. - Các nguồn thông tin về phía người vay thường thiếu chính xác, không đảm bảo tính thường xuyên, kịp thời, và do đó còn thiếu chính xác - Trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ phân tích thị trường còn hạn chế ở một số các dự án.. - Bên cạnh đó phẩm chất đạo đức của một số khách hàng xuống thấp do kinh doanh không hiệu quả nên có tâm lý trốn tránh, dây dưa nợ nần.Thậm chí có khách hàng còn âm mưu lừa đảo để chiếm đoạt vốn của chi nhánh. c. Các nguyên nhân khác: Môi trường kinh tế: Xuất phát từ những khó khăn chung của nền kinh tế: 9 tháng đầu năm lạm phát và nhập siêu cao, sang tháng 10 giảm phát. Cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ diễn biến bất thường. Các doanh nghiệp hầu hết ở trong tình trạng khó khăn, làm ăn thua lỗ. Nền kinh tế có dấu hiệu suy giảm, sức cầu yếu. Sản xuất lưu thông hàng hóa có dấu hiệu trì trệ. Đây là những yếu tố bất lợi cho hoạt động Ngân hàng. Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn này ở mức cao, khoảng 7-8%/năm. Tăng trưởng kinh tế một mặt thúc đẩy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, mặt khác nhu cầu về các dịch vụ của Ngân hàng phục vụ cho doanh nghiệp, cá nhân cũng gia tăng. Ngoài ra hoạt động huy động vốn, quay vòng vốn phục vụ doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế cũng dễ dàng hơn. Tuy nhiên việc tăng cung tiền và lạm phát cũng ảnh hưởng không tốt tới hoạt động Ngân hàng. Lạm phát tăng cao gây khó khăn cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng nói riêng. Tình trạng khan hiếm vốn xảy ra, gây sức ép gia tăng lãi suất huy động vốn, trong khi đầu ra bị hạn chế bởi các chính sách thắt chặt tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả lợi nhuận của các Ngân hàng. Theo lộ trình cam kết WTO, lĩnh vực Ngân hàng Việt Nam mở cửa cho phép các Ngân hàng nước ngoài lập Ngân hàng con 100% vốn. Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động hai mặt tới sự phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam. Một mặt nó tạo ra môi trường kinh doanh năng động, hoàn hảo hơn; mặt khác lại tạo ra một áp lực lớn tới sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng Thương mại trong nước. Môi trường xã hội: Theo thống kê, hiện có khoảng 7 triệu tài khoản mở tại Việt Nam trên tổng số 84 triệu dân (tức là khoảng 8% dân số) trong đó có tới 6 triệu tài khoản chỉ được mở chỉ trong 2 năm 2006 và 2007. Con số này một mặt cho thấy mức độ tiếp cận các dịch vụ Ngân hàng của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất so với các nước trong khu vực và trên thế giới; mặt khác cũng cho thấy tiềm năng của ngành Ngân hàng Việt Nam trong việc phát triển thị trường. Thêm vào đó tiềm năng thị trường của lịnh vực Ngân hàng còn được mở rộng nhờ cơ cấu dân số trẻ với mức thu nhập ngày càng được cải thiện và xu hướng sử dụng dịch vụ Ngân hàng ngày càng trở nên phổ biến. Cơ chế chính sách: Các văn bản chế độ của Ngân hàng Nhà nước, tài chính tư pháp còn chưa đồng bộ, chưa bám sát thực tiễn, chưa tạo điều kiện giúp Ngân hàng giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện tại cơ sở. Đặc biệt là về vấn đề xử lý tài sản gán nợ, siết nợ đang gây ách tắc vốn tại Ngân hàng. Việc quy định về hạch toán thống kê tại các doanh nghiệp chưa thống nhất nên gây khó khăn trong công tác kiểm tra, kiểm soát chế độ kế toán doanh nghiệp của các Ngân hàng. Phần 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 3.1. Định hướng chủ yếu cho hoạt động của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong thời gian tới. Định hướng chiến lược chung của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội trong suốt những năm qua là phát triển thành Ngân hàng đa năng, tập trung phát triển hoạt động Ngân hàng bán lẻ. Đồng thời, Habubank cũng luôn hướng tới trở thành một trong ba ngân hàng được tín nhiệm nhất Việt Nam về quản lý, môi trường làm việc, sáng tạo và linh hoạt khi môi trường kinh doanh thay đổi nhằm duy trì sự hài lòng và gắn bó của khách hàng với Habubank. Trên cơ sở định hướng chiến lược đó, đối tượng mà Ngân hàng hướng tới là các cá nhân, hộ gia đình và mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để thực hiện được các mục tiêu chiến lược trên, Habubank đã xây dựng cho mình định hướng phát triển cho năm 2009 một cách rõ ràng và cụ thể. Xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược quản trị theo thông lệ quốc tế, rút kinh nghiệm về kinh doanh và quản trị rủi ro thời kỳ cuối 2008 và đầu 2009 để giữ an toàn cho hoạt động Ngân hàng Đa dạng hóa các nguồn thu kinh doanh, tiếp tục mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực tài chính mới có tiềm năng hiệu quả cao; tận dụng thời cơ mở rộng danh mục đầu tư vào các doanh nghiệp có tiềm năng và hiệu suất đầu tư tốt nhằm gia tăng thu nhập dài hạn ổn định cho Ngân hàng Tăng cường đầu tư cho hạ tầng quản lý thông tin, dự kiến đầu tư nâng cấp thêm với ngân sách kiến nghị là từ 3-5 triệu USD cho hạ tầng mạng kể cả bảo mật, back up, hệ thống ATM, POS, Internet Banking, Mobile Banking và Trung tâm dịch vụ khách hàng. Củng cố và mở rộng mạng lưới chi nhánh và các phòng giao dịch tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Công tác mở rộng mạng lưới vẫn phải luôn đi kèm với chất lượng quản lý và hiệu quả kinh doanh. Đầu tư nâng cấp các địa điểm giao dịch và hoàn thiện chuẩn hóa nơi giao dịch với hình ảnh thống nhất của Ngân hàng. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, tiếp tục sáng tạo các chính sách đãi ngộ phù hợp, thu hút và gìn giữ nguồn nhân lực kỹ thuật cao, tăng cường công tác đào tạo nội bộ. Chính sách đãi ngộ nhất thiết phải đủ hấp dẫn tài năng và liên kết sự trung thành của cán bộ với Ngân hàng. Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu năm 2009: Mức tăng trưởng tài sản tăng 35% so với năm 2008 Nâng vốn điều lệ ở mức tăng khoảng 50% so với năm 2008 Nguồn huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư tăng 10-20% so với năm 2008 Dư nợ tín dụng tăng 10-15% so với năm 2008, trong đó tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong tổng dư nợ tăng 35-40% so với năm 2008 Tỷ lệ nợ quá hạn duy trì ở mức dưới 2% Bước sang năm 2009,nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung sẽ gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại cần phải vượt qua nhưng với những kinh nghiệm đúc kết được từ kết quả hoạt động năm 2008 và tinh thần phát huy nội lực, Habubank sẽ tiếp tục hoàn thiện và vươn lên nhằm thực hiện được mục tiêu và chiến lược đã hoạch định. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. 3.2.1. Đổi mới công tác thẩm định dự án đầu tư: Chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư quyết định chất lượng tín dụng. Tuy nhiên ở các NHTM Việt Nam nói chung và Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội nói riêng, công tác thẩm định vẫn chưa hiệu quả. Nguyên nhân là do trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế, chưa được đào tạo chuyên sâu, thông tin khách hàng cung cấp bị sai lệch, phương pháp thẩm định chưa đúng đắn… Để có quyết định cho vay đúng, vừa đảm bảo an toàn vốn và lợi nhuận, vừa hỗ trợ cho doanh nghiệp thì việc thẩm định cho vay là rất cần thiết. Do đặc trưng tín dụng trung và dài hạn có độ rủi ro rất cao nên công tác thẩm định tín dụng càng phải được coi trọng Để nâng cao được chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư, Ngân hàng cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu về thẩm định tài chính dự án đầu tư một cách đầy đủ, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để phản ánh dự án đầu tư một cách hiệu quả, trung thực nhất. Về cơ bản, gồm 2 nhóm chỉ tiêu chính: Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của dự án đầu tư Các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro của dự án Các chỉ tiêu này chỉ là phương tiện để phân tích đánh giá, quan trọng là việc áp dụng triển khai trong thực tiễn thẩm định tài chính dự án vì bị giới hạn bởi nhiều điều kiện như thời gian, hoạt động tổ chức….chứ không chỉ quá chú trọng đến cơ sở lý thuyết. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng cần chú ý đế thông tin trong công tác thẩm định: các báo cáo tài chính, chiến lược kinh doanh, sổ sách kế toán….và các thông tin về trình độ, phẩm chất đạo đức của người quản lý doanh nghiệp. Trong quá trình thu thập thông tinn, cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra, đối chứng độ chính xác của thông tin, loại bỏ ngay những thông tin còn nghi ngờ. 3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát Nếu thẩm định dự án là khâu đầu tiên, quyết định việc có cho vay hay không đối với dự án đầu tư thì quá trình kiểm tra, đôn đốc thu nợ cũng là khâu rất quan trọng. Khi một dự án trung và dài hạn được cho vay theo đúng quy định thì công việc quản lý vốn vay ở đây là theo dõi, kiểm tra số tiền mà doanh nghiệp rút ra lần trước xem có sử dụng đúng mục đích không thông qua các chứng từ, hóa đơn, hợp đồng…Nếu doanh nghiếp sử dụng đúng mục đích như trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát vốn lần sau, ngược lại, phải xử lý ngay theo chế độ tín dụng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng còn có trách nhiệm đôn đốc thu nợ, thu lãi đúng kỳ hạn. Lịch trả nợ gốc và lãi vay đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Ngân hàng phải gửi báo cáo cho doanh nghiệp có nợ quá hạn chuẩn bị nguồn trả vào trước kỳ hạn trả. Việc thu nợ, lãi đúng kỳ hạn sẽ tránh được nợ quá hạn, thể hiện sự phát triển của Ngân hàng. Khi một dự án vay mà đã đến hạn trả nhưng doanh nghiệp chưa có tiền để trả nợ thì việc xem xét để gia hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được ủy nhiệm và các chế đột ín dụng quy định, không tùy tiện gia hạn. Nếu trong các dự án cho vay có nợ quá hạn thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ nần dây dưa và để có biện pháp thích hợp để giúp đỡ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh. 3.2.3. Cải tiến, đa dạng hóa cơ cấu, loại hình cho vay trung và dài hạn: Muốn phát triển và thu hút được khách hàng, Ngân hàng phải có nhiều loại sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của nhiều loại khách hàng khác nhau. Vì vậy trong thời gian tới chiến lược sản phẩm của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội cần hướng tới những nội dung sau: Luôn cải tiến, đổi mới các hình thức cho vay, đầu tư cho phù hợp với quá trình biến đổi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người vay cũng như nền kinh tế, để thu hút khách hàng Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình, cá nhân trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn, đảm bảo an toàn vốn tín dụng bằng cách khoán triệt để cho cán bộ tín dụng về số lượng khách hàng và số dư nợ Đổi mới quan điểm chính sách và cơ cấu cho vay phù hợp với nền kinh tế. Chuyển đổi cơ cấu đầu tư cho vay phù hợp với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xã hội. Để thực hiện điều này, trong thời gian tới, Ngân hàng cần cho vay theo hướng tăng tỷ trọng các ngành sản xuất mũi nhọn chủ lực của nền kinh tế. Đa dạng hóa loại tiền cho vay: Hiện nay để đáp ứng nhu cầu sản xuất và kinh doanh của nền kinh tế mở, các doanh nghiệp có nhu cầu vay ngoại tệ rất lớn để nhập máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất. Vì vậy họ rất cần vay bằng ngoại tệ để thanh toán với đối tác. Do vậy Ngân hàng cần đáp ứng nhu cầu này để doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi. 3.2.4. Chú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng Với tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao qua các năm và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong năm tới, đòi hỏi toàn bộ Ngân hàng cần coi trọng tăng cường quản trị rủi ro, như là một trong các nhiệm vụ trọng tâm. Cụ thể cần quan tâm đến một số giải pháp như sau: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá, trong đó có các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Tiếp tục chương trình quy chế hoá, quy trình hoá các hoạt động tín dụng (hoàn thành cẩm nang tín dụng, cẩm nang quản lý rủi ro...). Tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức, uỷ ban nghiệp vụ trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội nhằm kiểm soát tốt rủi ro. Bộ phận thuộc phòng thông tin công nợ cần phải thu nhập các thông tin về các công ty, doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản và các cá nhân lãnh đạo các công ty bị phá sản. 3.2.5. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng Để đảm bảo cho hệ thống thông tin của các chi nhánh trong toàn hệ thống Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội hoạt động có hiệu quả, từ đó giúp cho quá trình thẩm định và phân tích khách hàng được sàng lọc thì cần phải thực hiện một số biện pháp sau: Thực hiện chế độ kiểm soát bắt buộc đối với các chủ đầu tư. Tổ chức dữ liệu trên cơ sở các chỉ tiêu tín dụng chuẩn hoá, cung cấp thông tin và các báo cáo ngược lại trên mạng Online cho tất cả các chi nhánh Ngần hàng TMCP Nhà Hà Nội Kết nối với các hệ thống thông tin khác của NHNN, Bộ thương mại, Bộ công nghiệp...thu thập thông tin tín dụng toàn ngành Ngân hàng và thông tin kinh tế khác. Xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực tuyến cho toàn bộ hệ thống. 3.2.6. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng Hoàn thiện và đổi mới công nghệ tức là Ngân hàng cần thiết lập hệ thống quản lý và cung cấp thông tin mạng nội bộ (Intranet) sử dụng chung. Đưa công nghệ vào để cải thiện, cải tạo phương thức quản lý trong toàn chi nhánh hệ thống Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. Tạo ra được cách suy nghĩ, cách làm việc và quản lý khoa học dựa trên hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ có sự hỗ trợ tối đa của máy móc, áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định phục vụ cho cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc điều hành và quản lý hoạt động ngân hàng. 3.2.7. Nhóm giải pháp về cơ cấu tổ chức và nhân sự Về cơ cấu tổ chức Trong những năm qua, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đã có những bước tiến vững chắc trong việc củng cố bộ máy tổ chức Ngân hàng. Trong những năm tới, kết hợp với đề án tái cơ cấu Ngân hàng, Ngân hàng tiếp tục sắp xếp lại tổ chức, tránh chồng chéo trong công việc. Để đơn giản hóa thủ tục và không lãng phí thời gian trong quá trình xin vay cho khách hàng thì đây cũng là một giải pháp tốt. Về nhân sự Người làm tín dụng phải là người am hiểu khách hàng, hiểu biết sâu sắc thực lực tài chính cũng như tiềm năng phát triển của khách hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng phải có vốn hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực chuyên môn ma khách hàng của mình đang tiến hành sản xuất kinh doanh vì nó liên quan trực tiếp đến từng món vay. Điều này rất khó đạt được nếu một cán bộ tín dụng phụ trách nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, cần có sự chuyên môn hóa trong cán bộ tín dụng. Ngân hàng cần cử các cán bộ tín dụng phụ trách từng mảng tín dụng khác nhau theo trình độ, thế mạnh của mình. Bên cạnh đó, ngân hàng cần mở những lớp huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ về nghiệp vụ, thị trường, công nghệ để không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ. 3.2.8. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có hơn 60 Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh dịch vụ tiền tệ do đó có sự cạnh tranh gay gắt và phân chia khách hàng. Chính vì vậy, mỗi Ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược khách hàng riêng hợp lý. Trong đó xác định rõ đối tượng nào cần ưu tiên, đối tượng nào cần khuyến khích phát triển. Đối với những khách hàng truyền thống, Ngân hàng cần duy trì mối quan hệ tín dụng ổn định, lâu dài bằng cách tiếp tục cung ứng các sản phẩm tín dụng cho các doanh nghiệp này. Đối với khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước nhưng không thuộc khối xây lắp, Ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp này từ đó mở rộng được thị phần của mình. Khối các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hứa hẹn nhiều tiềm năng mà Ngân hàng chưa khai thác hết. Tỷ trọng cho vay của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất ít, trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp này càng cao Đối với những khách hàng mới, Ngân hàng cũng cần có những chính sách riêng như: thường xuyên chủ động tìm kiếm khách hàng làm sao để khách hàng biết đến Ngân hàng và quyết định sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình. Muốn vậy, Ngân hàng phải có các biện pháp đẩy mạnh hơn nữa hoạt động Marketing. Trong nền kinh tế hiện nay, khi mà sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt thì hoạt động Marketing trở nên rất quan trọng. Để đạt được mục tiêu thu hút được thêm nhiều khách hàng thì trong thời gian tới Ngân hàng cần xây dựng cho mình một chiến lược Marketing phù hợp hơn nữa, cụ thể là: Tăng cường tuyên truyền quảng bá các sản phẩm mà Ngân hàng cung cấp một cách rộng rãi, làm cho khách hàng biết đến hoạt động, cơ chế chính sách tín dụng của Ngân hàng để đẩy mạnh tín dụng một cách bền vững. Chủ động tìm kiếm khách hàng: Bộ phận Marketing của Ngân hàng không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền, quảng bá mà nhiệm vụ quan trọng hơn là tìm hiểu khách hàng, lựa chọn khách hàng mục tiêu. Từ đó Ngân hàng đưa ra các giải pháp và chiến lược cụ thể nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Tăng cường khả năng cạnh tranh bằng cách tạo ra sự khác biệt về sản phẩm. Muốn làm được điều này, Ngân hàng phải luôn luôn đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm dịch vụ để tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng, nâng cao được năng lực cạnh tranh của Ngân hàng. Thường xuyên xây dựng và giới thiệu những chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với khách hàng, quan tâm đến nhu cầu của khách hàng để từ đó đề ra các biện pháp cụ thể, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, từ đó góp phần củng cố mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng ngày càng bền vững. 3.3. Kiến nghị: Để có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn, góp phần mở rộng thị phần, nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường thì không chỉ dựa vào sự nỗ lực của Ngân hàng mà phải cần có sự giúp đỡ từ phía Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan liên quan. 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước: Về cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng: Nhìn chúng hệ thống văn bản pháp quy của Ngân hàng Nhà nước về hoạt động tín dụng đã có nhiều điểm mới thuận lợi hơn cho các Ngân hàng Thương mại, tháo gỡ phần nào những khó khăn vướng mắc cho các Ngân hàng Thương mại trong quá trình làm thủ tục thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản, cho vay và xử lý tài sản đảm bảo để thu nợ. Nhờ đó mà hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại hiệu quả hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí. Tuy nhiên một số quy định trong các băn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay và quy chế cho vay vẫn chưa sát với tình hình thực tế và chưa phù hợp với các văn bản pháp luật mới ban hành. Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng trên cơ sở đảm bảo tính đồng bộ và tính pháp lý để tạo điều kiện cho công tác tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại được an toàn và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các văn bản liên quan đến cơ chế tín dụng còn quá nhiều,ngoài cơ chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước còn có nhiều công văn, quyết định, thông tư, chỉ thị của các cấp ngành có liên quan chỉ đạo cho từng ngành nghề. Mỗi ngành nghề được thêm bớt một số điều kiện nên khi thực hiện cho vay phải tham chiếu nhiều loại văn bản. Do đó cần thiết phải có biện pháp cơ cấu lại hệ thống văn bản pháp luật nhằm đáp ứng hoạt động tín dụng được thực hiện một cách khoa học, nhanh chóng, an toàn Tăng cường công tác thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng. Xây dựng hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo thực hiện hoạt động kiểm soát hệ thống Ngân hàng có hiệu quả và độ an toàn cao nhất. Tạo điều kiện nâng cao trình độ quản trị kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại, đảm bảo cho toàn ngành hoạt động tốt và theo đúng pháp luật. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên tiến hành kiểm tra và giám sát các Ngân hàng để đảm bảo thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tín dụng nhằm nâng cao tính ổn định và phát triển trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các NHTM là thiếu thông tin cần thiết, chính xác từ phía khách hàng, từ thị trường và dự án. Vì vậy, muốn hoạt động của các NHTM đạt hiệu quả cao thì NHNN cần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng tại NHNN và Phòng thông tin tín dụng tại chi nhánh NHNN để có thể cung cấp những thông số chính xác nhất, mới nhất về các doanh nghiệp, các biến động trên thị trường, các thông tin có liên quan đến dự án… Có các hình thức chỉ đạo, hỗ trợ giúp các đơn vị hiện đại hóa trên cơ sở đổi mới công nghệ Ngân hàng, tạo tiền đề cho các Ngân hàng Thương mại phát triển mạnh trong hoạt động. Từng bước đa dạng hóa hoạt động Ngân hàng, hội nhập với cộng đồng tài chính và tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng Thương mại trong hoạt động tín dụng và thanh toán quốc tế. Thực thi chính sách ổn định kinh tế vĩ mô trong đó có việc kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính – tiền tệ có hiệu quả. Thực thi chính sách lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu, phù hợp với việc phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Để hạn chế cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội Ngân hàng cũng như nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết lãi suất thị trường thông qua lãi suất định hướng của mình. 3.3.2. Đối với Chính phủ và các cơ quan liên quan: Các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư cần tăng cường trách nhiệm đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Tránh tình trạng dự án được duyệt thiếu căn cứ khoa học và tính thực tiễn, không phát huy được hiệu quả gây khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng. Chính phủ cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp, qua đó đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo tài chính Bộ tài chính cần hướng dẫn thực hiện tốt việc hạch toán kế toán của doanh nghiệp theo pháp lệnh hạch toán và thống kê nhằm đảm bảo tính chính xác, khoa học, và kịp thời của các báo cáo tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định của cán bộ Ngân hàng. Các cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu cần đảm bảo tính ổn định trong chính sách xuất nhập khẩu, đảm bảo cân đối cán cân xuất nhập khẩu, tạo điều kiện cho ngân hàng yên tâm kinh doanh trong lĩnh vực này. Các cơ quan thống kê cần đẩy mạnh công tác thống kê doanh nghiệp, đảm bảo tính chính xác, kịp thời khi cung cấp thông tin cho các ngân hàng. Bên cạnh đó cần làm tốt hai công tác sau: Một là: Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển: Bởi lẽ hiện nay, số doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH chiếm tỷ trọng lớn trong tống số các doanh nghiệp ở Việt Nam và tiềm năng của họ cũng rất lớn .Tuy nhiên trong việc vay vốn ngân hàng, về phía các cơ quan chức năng và ngân hàng nói chung vẫn ưu tiên hơn đối với các doanh nghiệp Nhà nước.Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả thẩm định các dự án. Hai là: Hoàn thiện môi trường pháp lý: Các cơ quan có thẩm quyền chứng nhận quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp nên hoàn thiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho đồng bộ, thống nhất, chỉ cấp một bản duy nhất để tránh tình trạng khách hàng sử dụng vay vốn ở nhiều nơi. Tuy nhiên đối với việc mua sắm các phương tiện vận tải thì rất khó cho khách hàng sử dụng những phương tiện này. Do đó để đảm bảo an toàn về phía ngân hàng nhưng vẫn bảo đảm lợi ích hai bên nên chăng Nhà nước cần có quy định riêng về việc sử dụng các bản sao thứ nhất trong việc kiểm tra giấy tờ sở hữu của Bộ giao thông, và các ban ngành liên quan đến những loại hình phương tiện này. KÊT LUẬN Tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại và cũng là một vấn đề được đề quan tâm rất nhiều trong những năm gần đây. Tuy vậy, trong việc thực hiện loại hình tín dụng này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Để có thể giải quyết triệt để những vấn đề của hoạt động tín dụng là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều thời gian và trí tuệ, đặc biệt là cần có sự đồng bộ trong các chính sách kinh tế và pháp luật cũng như sự đồng bộ trong phát triển kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Trong mấy năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn hạn chế và gặp không ít các khó khăn trở ngại. Những gì làm được hôm nay còn nhỏ bé so với những đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng về vốn cố định của các doanh nghiệp Nhận thức được vấn đề này, dưới sự nhìn nhận của một sinh viên thực tập, bài viết này mong muốn đề cập đến hoạt động tín đối với các dự án dụng trung và dài hạn để từ đó đưa ra một số kiến nghị với mong muốn có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các dự án trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội. Với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay cùng với những kinh nghiệm và lỗ lực của toàn bộ tập thể Cán bộ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà nội, chúng ta tin chắc rằng trong một tương lai không xa, Ngân hàng sẽ đạt được mục tiêu nâng chất lượng tín dụng đối với các dự án trung dài hạn của mình như mong muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO TS Phan Thị Thu Hà , Giáo trình Ngân hàng Thương mại , tr.10-37 TS Tô Ngọc Hưng, Giáo trình Nghiệp vụ Kinh doanh Ngân hàng Báo cáo thường niên của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội các năm 2006, 2007,2008. Báo cáo cho vay tại Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Website: Quy định về nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Quy chế về tín dụng trung và dài hạn của Thống đốc NHNN Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22115.doc
Tài liệu liên quan