Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH — & – CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Đề tài: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. NGUYỄN THỊ BẤT Sinh viên thực hiện : TRẦN QUANG VIỆT Lớp : TÀI CHÍNH 46Q Hà Nội - 2008 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước và nhất là sau khi nước ta gia nhập tổ chức Thế giới WTO, hệ thống ngân hàng nước ta đã có sự phát tri

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế. Sự lớn mạnh này đã có những đóng góp không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động của hệ thống ngân hàng đóng vai trò tích cực trong công tác huy động vốn, phân phối vốn và điều hòa vốn, giúp nguồn vốn trong nước được sử dụng triệt để, mở rộng vốn đầu tư tạo điều kiện để sản xuất phát triển, từ đó có thể thu hút được nguồn vốn từ bên ngoài để phát triển nền kinh tế trong nước. Với những ý nghĩa lớn lao đó, ngành ngân hàng xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát và từng bước bình ổn giá cả. Sự phát triển của ngành ngân hàng nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng đã góp phần quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế phát triển ngày càng nhanh thì những yêu cầu đặt ra đối với hệ thống ngân hàng càng nhiều. Điều đó buộc các ngân hàng phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện mình để có thể tồn tại và phát triển vững mạnh trong nền kinh tế thị trường nơi mà sự cạnh tranh luôn diễn ra vô cùng gay gắt. Muốn làm được như vậy, các ngân hàng thương mại không còn cách nào khác là phải mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng của những dịch vụ. Đối với một ngân hàng hoạt động chính chiếm tỷ trọng lớn nhất là hoạt động tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, tín dụng trung và dài hạn là nghiệp vụ quan trọng mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng. Vì vậy, việc không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển bền vững cho các ngân hàng. Từ nhận thức trên, em quyết định chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội" làm chuyên đề tốt nghiệp của mình nhằm đóng góp những ý kiến trong phạm vi kiến thức của em về vấn đề nghiên cứu trên. 2. Kết cấu của đề tài: Chuyên đề được trình bày ở 3 chương: Chương 1: Tín dụng trung, dài hạn và chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. CHƯƠNG 1 TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tín dụng trung và dài hạn. 1.1.1.1. Khái niệm: Tín dụng là quan hệ vay mượn, dựa vào uy tín của mình để sử dụng vốn theo nguyên tắc hoàn trả. Tín dụng ngân hàng thể hiện sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng. Khi đến hạn, người sử dụng hoàn trả cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn bao gồm gốc và phần dư ra gọi là lợi tức tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, hoạt động chính mang lại lợi nhuận cho ngân hàng là hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Hoạt động này có vai trò vô cùng quan trọng bởi nó ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi ngân hàng. 1.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn * Thời hạn cho vay - Cho vay trung hạn: có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm, tín dụng trung hạn chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cố định của khách hàng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Cho vay dài hạn: có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20-30 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn. Các doanh nghiệp sử dụng phần vốn này vào các vấn đề như: xây dựng cơ bản, xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. *Đối tượng khách hàng vay vốn. Với mục đích cho vay như trên, nên đối tượng cho vay của tín dụng trung và dài hạn là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án không phân biệt thành phần kinh tế, là tổ chức, cá nhân hay là doanh nghiệp, bao gồm: giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân công, giá thuế và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản, chi phí mua bảo hiểm và các chi phí khác. * Vốn đầu tư lớn: Vì tín dụng trung và dài hạn được dùng để cấp vốn cho các dự án lớn, những hoạt động mang tầm chiến lược của các doanh nghiệp nên tỷ trọng vốn vay lớn gấp nhiều lần so với những khoản vay ngắn hạn. * Mức độ rủi ro cao Vì thời gian thu nợ kéo dài mà lãi suất lại cố định từ lúc cho vay cho đến khi hợp đồng kết thúc, trong khoảng thời gian dài đó có thể xảy ra nhiều biến động về lạm phát, về quy chế, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng chính trị… Những biến động này sẽ làm ảnh hưởng xấu tới quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng,rủi ro xảy ra là điều tất yếu bởi thông tin không cân xứng,sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.Trong tính dụng trung và dài hạn rủi ro cao hơn so với tín dụng ngắn hạn bởi đây là hình thức tài trợ dự án.Đặc điểm của dự án trung và dài hạn là lạc hậu ngay từ khi thiết kế do có thời gian đầu tư dài và quy mô đầu tư lớn. * Lãi suất cao: Theo nguyên tắc rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn, ngoài ra lãi suất cơ bản còn phụ thuộc vào cấu trúc kỳ hạn của lãi suất nên lãi suất cho vay trung và dài hạn bao giờ cũng lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay được xác định tuỳ vào dự án, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, chính sách của ngân hàng cũng như sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Lãi suất cho vay có thể được tính theo lãi suất cố định hoặc lãi suất biến động. Lãi suất cố định là lãi suất giữ nguyên không thay đổi trong suốt thời kỳ thực hiện hợp đồng. Lãi suất biến đổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống trong thời hạn vay. Trong cho vay trung dài hạn, phần lớn các ngân hàng sử dụng lãi suất biến đổi để tránh rủi ro cho ngân hàng và người vay khi lãi suất trên thị trường biến động. Thông thường, đối với các khoản vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng Thương mại thì lãi suất được đIều chỉnh 6 tháng một lần và được tính theo công thức sau: lãi suất đIều chỉnh = lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng + 0,1%/tháng. *Điều kiện cho vay. Để được vay vốn, đơn vị xin vay phải gửi đến ngân hàng đơn xin vay, luận chứng kinh tế, kỹ thuật và dự toán đã được thẩm định và cấp trên phê duyệt và các báo cáo tài chính của mình trong một vài năm trước. Ngoài ra, đơn vị xin vay phải gửi đến Ngân hàng bản tính toán hiệu quả của dự án, lợi nhuận mà dự án mang lại qua các năm, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của dự án như NPV, IRR...Bên cạnh đó có tính toán đầy đủ các số tiền xin vay, các nguồn trả nợ và lệnh trả nợ. Ngân hàng cho vay sẽ xem xét kỹ các tài liệu nhằm đánh giá đầy đủ khả năng của đơn vị vay vốn trước khi quyết định cho vay, tình hình tài chính và nghiã vụ của họ với Nhà nước và các tổ chức tàichính như thế nào. Khi ngân hàng quyết định cho các doanh nghiệp vay trung và dài hạn, ngân hàng cần phải nắm chắc hiệu quả của phương án, dự án, chương trình sản xuất của bên vay vốn. Một trong các điều kiện để cho các Ngân hàng Thương mại cho vay là thế chấp. Đó cũng là đảm bảo tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung có thể chia làm hai loại: đảm bảo đối vật và đảm bảo đối nhân. - Đảm bảo đối vật: đảm bảo đối vật là hình thức đảm bảo tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ. Có 2 hình thức đảm bảo đối vật chính là thế chấp và cầm cố. + Thế chấp là phương tiện chuyển dịch quyền lợi về tài sản sang cho chủ nợ với mục đích làm đảm bảo cho món nợ hoặc miễn trừ một nghĩa vụ. Người đi vay được gọi là người thế chấp và người cho vay được gọi là người được thế chấp. + Cầm cố là hành vi giao nộp tài sản hoặc các chứng từ chứng nhận quyền sở hữu tài sản của con nợ (người được cầm cố) để thực hiện một nghĩa vụ. Nghĩa vụ cầm cố trong quan hệ tín dụng là người đi vay thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ đúng hạn hợp đồng. Trong trường hợp người đi vay không thanh toán nợ đúng hạn theo hợp đồng thì Ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố và được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ khác. Những loại tài sản cầm cố thông dụng để đảm bảo cho vay Ngân hàng gồm: cầm cố hàng hoá, chiết khấu thương phiếu, cầm cố các chứng khoán khác. - Đảm bảo đối nhân: Đảm bảo đối nhân là sự cam kết của một hoặc nhiều người về việc trả nợ Ngân hàng thay cho khách hàng vay vốn khi người này không trả được nợ. Trong đảm bảo đối nhân có 3 chủ thể liên quan với nhau như sau: NGƯỜI ĐI VAY NGÂN HÀNG NGƯỜI BẢO LÃNH 1 2 1: Hợp đồng tín dụng được ký giữa ngân hàng và người đi vay. 2: Hợp đồng bảo lãnh được ký giữa ngân hàng và người bảo lãnh. Khi xét duyệt một bảo lãnh ngân hàng cần chú ý đến một số điểm như sau: + Người bảo lãnh phải có đủ năng lực bảo lãnh theo quy định của pháp luật. Nếu là pháp nhân thì người đứng ra bảo lãnh phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân. + Thể nhân hoặc pháp nhân đứng ra bảo lãnh phải có đủ năng lực tài chính để thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. + Uy tín của người bảo lãnh. Đảm bảo tín dụng được coi là tiêu chuẩn khi xét duyệt cho vay nhưng phải thấy rằng đây không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất hay nói cách khác không phải là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc. Tuy nhiên trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại nước ta vẫn xếp đảm bảo tiền vay vào vị trí số một. 1.1.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn 1.1.2.1. Đối với nền kinh tế * Cung cấp vốn phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội Việc thiếu vốn là việc thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp trong việc tái sản xuất cũng như mở rộng địa bàn hoạt động. Trong trường hợp thiếu, lựa chọn tối ưu cho các doanh nghiệp là đi vay vốn tại các ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng mà chủ yếu trong đó là tín dụng trung và dài hạn đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Tín dụng trung và dài hạn góp phần giải quyết thoả đáng những nhu cầu của nền kinh tế về nhu cầu vốn tiền tệ, nó thực hiện việc điều hòa vốn nhằm phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Hoạt động tín dụng lành mạnh, chính sách tín dụng đúng đắn mang lại hiệu quả cao sẽ góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng cường kinh tế và tăng uy tín quốc gia. Tín dụng trung và dài hạn dùng để tài trợ cho các dự án lớn nên việc cấp tín dụng không phải trải đều cho các chủ thể mà phải tập trung vào những chủ thể kinh tế có triển vọng phát triển sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực kinh tế cần được ưu tiên vì chính những ngành kinh tế, đó sẽ thúc đẩy ngành kinh tế khác phát triển. Như vậy, tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển là động lực tích cực trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Với ngân hàng, để đảm bảo đồng vốn sinh lời thì họ phải theo dõi sát sao hoạt động của các doanh nghiệp, ưu tiên cho vay những dự án có tính khả thi cao và trong những trường hợp cần thiết phải tư vấn hoặc đưa ra những lời khuyên bổ ích cho các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, do lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao nên nếu không sử dụng không có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả và có thể bị tịch thu tài sản thế chấp. * Thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển Ngân hàng thông qua hoạt động cho vay ngoại tệ để cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, hoặc cho các đối tác nước ngoài vay để đầu tư vào trong nước hoặc thông qua tín dụng xuất nhập khẩu mà tạo ra mối quan hệ giao lưu hợp tác giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ về kinh tế giữa nước đó với các nước trong khu vực và trên thế giới. * Tạo công ăn việc làm cho người lao động Bên cạnh những tác động trực tiếp, tín dụng trung và dài hạn còn có tác động gián tiếp tới nền kinh tế. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn để mở rộgn sản xuất kinh doanh, sự mở rộng sản xuất gắn liền với việc tăng thêm nguồn lao động của doanh nghiệp đã tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết được phần nào nỗi bức xúc của xã hội, góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân. 1.1.2.2. Đối với ngân hàng * Mục tiêu lợi nhuận Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có thể nói mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà ngân hàng hướng tới. Do vậy, trong cơ chế thị trường, các ngân hàng phải tính toán sao cho hoạt động đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế rủi ro ở mức độ thấp nhất có thể. Chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng, là hoạt động sinh lời chủ yếu thì nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng sẽ tạo điều kiện tăng trưởng bền vững cho ngân hàng. * Tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển Như chúng ta đã biết, các dự án của doanh nghiệp sẽ khó mà thực hiện được khi trong thiết bị, công nghệ lạc hậu, không được cải tiến cho phù hợp với những yêu cầu ngành càng cao của nền kinh tế thị trường, khi mà không có khả năng cạnh tranh thì nguy cơ bị phá sản của các doanh nghiệp là rất lớn. Vì vậy, nhờ vào các khoản đầu tư trung và dài hạn - nền tảng cho sự phát triển thì doanh nghiệp mới yên tâm sử dụng các khoản vay ngắn hạn để sản xuất và kinh doanh. Do đó, tín dụng trung và dài hạn trong một số trường hợp nhất định chính là động lực thúc đẩy cho tín dụng ngắn hạn phát triển. 1.1.2.3. Đối với khách hàng * Tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng hoạt động đối với 1 vừa và nhỏ. Sở dĩ như vậy là do tín dụng trung và dài hạn phù hợp với tình hình thực tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta. Các doanh nghiệp này tuy chiếm số lượng lớn nhưng không có được những ưu thế về quy mô và tốn tự có như các doanh nghiệp lớn nên họ thường gặp khó khăn trong việc sử dụng vốn. Vì vậy, họ khó có thể đầu tư vào các dự án lớn nên thiếu sự tài trợ về vốn từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. * Cung ứng vốn giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh và phát triển tiềm năng vốn có của mình. Bước vào nền kinh tế thị trường, nơi mà sự cạnh tranh diễn ra vô cùng gay gắt, nơi mà sức tồn tại không dành chỗ cho những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả thì nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn để sử dụng cho việc mua sắm nhà xưởng, máy móc thiết bị… đã góp phần đáng kể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nhờ vào nguồn tài trợ này, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp tăng lên, đẩy nhanh quá trình tiêu thụ từ đó làm tăng doanh thu và từng bước giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường. Đồng thời, cũng nhờ nguồn vốn này mà doanh nghiệp có những định hướng và chiến lược phát triển để phù hợp với nhu cầu của thị trường nhằm đạt hiệu quả cao nhất. * Góp phần khẳng định tính khả thi của dự án Như chúng ta đã biết, khi tài trợ vốn vào doanh nghiệp nghĩa là ngân hàng đã có quá trình thẩm định, nghiên cứu kỹ lưỡng những dự án của doanh nghiệp. Điều này buộc các nhà đầu tư khi thành lập dự án phải có những tính toán, thận trọng khi đưa ra các số liệu, dữ liệu… để thuyết phục ngân hàng cho vay. Vì vậy, ngay từ khi thành lập cho đến lúc dự án được khả thi ngân hàng đóng vai trò là nhờ tư vấn, là người định hướng cho các doanh nghiệp phát triển hết tiềm năng của mình. Đồng thời, do ngân hàng không cho vay đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nên buộc người đi vay phải chủ động sáng tạo, giảm thiểu những chi phí không cần thiết, nâng cao chất lượng sản phẩm đi đôi với hạ giá thành để đứng vững trên thị trường. Từ đó, người đi vay phải sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất để có thể trả nợ vay ngân hàng, thu được lợi nhuận để tái sản xuất mở rộng. 1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1.2.1. Khái niệm Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm là điều tất yếu. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Trong hoạt động của ngân hàng, tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng là một điều tất yếu. Hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về chất lượng tín dụng, có người nói rằng chất lượng là "sự phù hợp với mục đích xây dựng", người khác lại cho đó là "năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thỏa mãn những nhu cầu của người sử dụng". Với quan niệm như vậy, chất lượng tín dụng trung và dài hạn được hiểu như sau: Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, là phạm trù kinh tế phản ánh nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một chỉ tiêu tổng hợp, nó thể hiện thông qua nợ quá hạn, khả năng thu hút khách hàng, giảm thiểu rủi ro… qua đó phản ánh mức độ thích nghi của hệ thống ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện tiềm năng và sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như vậy, để có thể đưa ra một đánh giá, nhận xét tương đối chính xác về hoạt động của ngân hàng thì chất lượng tín dụng trung và dài hạn là thước đo chủ yếu. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn 1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính * Đối với nền kinh tế Chỉ tiêu định tính được thể hiện ở khả năng hoạt động, khả năng cung ứng vốn phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Một khoản vay trung và dài hạn được đánh giá là tốt chỉ khi nó đảm bảo được đầu tư đúng đắn, mang lại hiệu quả theo đường lối phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Thêm vào đó, môi trường kinh tế lành mạnh, chính trị và pháp luật, ổn định cũng chính là những điều kiện tốt để nâng cao, chất lượng tín dụng trung và dài hạn, giảm thiểu được những rủi ro tiềm ẩn bởi thời gian c ho vay là rất dài. * Đối với ngân hàng Trước hết được thể hiện ở khả năng thu hút khách của ngân hàng. Một ngân hàng muốn thu hút được sự chú ý của khách hàng thì phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng mà đặc biệt là phải nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn, nơi mà các bạn hàng lớn tuy không nhiễu nhưng lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn vay. Việc giữ được uy tín đối với các khách hàng cũ, tạo niềm tin ở khách hàng mới sẽ làm cho số lượng khách hàng ngày càng tăng lên, đó là nhân tố quan trọng mang tính chiến lược cho khả năng phát triển lâu dài của ngân hàng. Quy trình thẩm định tín dụng? cụ thể là phân loại từng đối tượng tham gia thực hiện công tác tín dụng, đề ra cụ thể từng công việc cần phải thực hiện từ khâu thu hút khách hàng, xử lý hồ sơ vay vốn cho đến khi thu hồi nợ vay. Nếu một ngân hàng thực hiện tốt, đầy đủ các quy trình thẩm định dự án thì chất lượng tín dụng của ngân hàng ngày càng cao và ngược lại. Chính sách tín dụng: cụ thể là tiêu chuẩn xét cho vay đối với khách hàng, hạn mức cấp tín dụng đối với khách hàng, các mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tín dụng, kế hoạch thu hồi nợ gốc và lãi, xử lý nợ xấu… nếu chính sách tín dụng của ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao với các ngân hàng khác thì chứng tỏ chất lượng tín dụng được đánh giá tốt và ngược lại. Chất lượng đội ngũ công nhân viên: là khả năng xử lý tốt các quy trình của công tác thẩm định, có năng lực chuyên môn cao, khả năng nhận biết khách hàng triển vọng, khả năng đàm phán với khách hàng… chất lượng của đội ngũ công nhân viên ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. * Đối với khách hàng Sự hài lòng của khách hàng đối với dịch vụ tín dụng của ngân hàng: được thể hiện thông qua khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn được coi là tốt nếu doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay này một cách đúng đắn, làm ăn, có lãi và trả được nợ ngân hàng khi khoản vay đáo hạn. Khi làm hồ sơ vay vốn, nếu khách hàng cảm thấy hài lòng và chấp nhận mức lãi suất cho vay, các loại hình tín dụng của ngân hàng thì chất lượng tín dụng của ngân hàng được đánh giá là cao và ngược lại. Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn được phản ánh thông qua mật độ, giá trị giao dịch của khách hàng. Nếu là kháhc hàng lâu dài, thường xuyên đến ngân hàng giao dịch với giá trị lớn thì rõ ràng chất lượng tín dụng của ngân hàng cao. Còn nếu khách hàng chỉ đến ngân hàng giao dịch có một lần rồi thôi thì chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa thể được đánh giá cao. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng Bên cạnh các chỉ tiêu định tính, chất lượng tín dụng trung và dài hạn cần được phản ánh qua một số chỉ tiêu định lượng sau: * Doanh số cho vay trung và dài hạn. Là chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế, phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng phát ra cho vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể năm cho vay đó đã thu hồi về hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quý hoặc năm. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác hoạt động của ngân hàng, nó cho thấy khả năng hoạt động của ngân hàng qua các quý, các năm, qua đó đánh giá được mức độ hoạt động tốt hay xấu của ngân hàng qua các thời kỳ. Nếu doanh số cho vay cao, mà ở đó cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn cho thấy ngân hàng có nhiều uy tín đối với khách hàng, cung cấp dịch vụ phong phú, đa dạng đồng thời cũng cho thấy chất lượng các khoản vay trung và dài hạn tốt, là cơ sở để tăng doanh số cho vay. Khi cho vay trung và dài hạn, ngân hàng cần phải xem xét khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn như sau: - Đối với từng phương án, dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp lý hóa sản xuất khách hàng phải có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu bằng 10% tổng mức đầu tư của phương án, dự án. - Đối với từng phương án, dự án đầu tư xây dựng cơ bản mới khách hàng phải có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu bằng 30% tổng mức vốn đầu tư sau khi trừ phần vốn lưu động dự kiến trong tổng mức vốn đầu tư của phương án, dự án. - Đối với từng phương án, dự án phục vụ đời sống, khách hàng phải có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu bằng 30% tổng mức vốn đầu tư sau khi trừ phần vốn lưu động dự kiến trong tổng mức vốn đầu tư của dự án. * Tổng dư nợ trung và dài hạn. Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng ngân hàng, phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm, nó bao gồm dư nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Thông qua chỉ tiêu tổng dư nợ, ta có thể thấy được chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn qua các thời kỳ, nếu chỉ tiêu này có xu hướng tăng chứng tỏ chất lượng hoạt động trung và dài hạn của ngân hàng cũng đang tốt lên. Tổng dư nợ tăng chứng tỏ ngân hàng áp dụng chính sách tín dụng năng động, hiệu quả, khả năng thu hút khách hàng tốt. * Cơ cấu dư nợ trung và dài hạn. Cơ cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ, tuỳ vào đặc điểm của mỗi ngân hàng mà tỷ trọng này cũng khác nhau. Cơ cấu dư nợ được tính theo công thức sau: Trong đó: Ki: là cơ cấu dư nợ loại i Li: Là dư nợ loại i T: là tổng dư nợ Cơ cấu dư nợ phản ánh chiến lược của mỗi ngân hàng, giữa các ngân hàng khác nhau thì cơ cấu này cũng khác nhau. Nếu ngân hàng thay đổi chiến lược kinh doanh cho phù hợp với xu thế của thị trường thì cơ cấu chủ nợ cũng có sự thay đổi qua các thời kỳ. Việc đảm bảo cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội sẽ góp phần giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong hoạt động của mình. * Vòng quay vốn trung và dài hạn. Vòng quay vốn là chỉ tiêu đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng của ngân hàng. Vòng quay vốn tín dụng trung, dài hạn được tính theo công thức: = Vòng quay vốn phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm. Vòng quay càng lớn chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng luân chuyển nhanh, khả năng thu nợ cao. Với một số vốn nhất định, nếu vòng quay vốn nhanh thì ngân hàng có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư khác. Nếu hệ số vòng càng tăng t hì chứng tỏ khả năng quản lý vốn càng tốt và ngược lại. * Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn. Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn. Chỉ tiêu nợ quá hạn phản ánh chất lượng tín dụng của một ngân hàng, thông thường chỉ tiêu này dưới mức 5% thì ngân hàng được cho là hoạt động bình thường. Nếu tại một thời điểm nào đó, tỷ lệ nợ quá hạn lớn chứng tỏ chất lượng nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng kém, chứa nhiều rủi ro và ngược lại. Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công tác sau: Trong đó: Tqh là tỷ lệ nợ quá hạn Nqh: là nợ quá hạn T: là tổng dư nợ Xét về mặt bản chất, tín dụngn nói chung và tín dụng trung và dài hạn được xây dựng trên nguyên tắc hoàn trả. Khi một món vay đến hạn trả mà khách hàng không trả được nợ và ngân hàng không gia hạn nó thì ngân hàng chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn. Trên thực tế, đa số các khoản nợ quá hạn, đều là những khoản nợ có vấn đề, là những khoản vay không có khả năng hoàn trả cho doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì nguy cơ mất vốn của ngân hàng càng nhiều, ngân hàng sẽ bị giảm lợi nhuận, ảnh hưởng đến kế hoạch thu nợ, chi phí quản lý tăng thêm và ngân hàng phải sử dụng vốn tự có để bù đắp vào những khoản hụt đó. * Lợi nhuận: = Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời, một khoản tín dụng dù ngắn hay dài không thể xem là có hiệu quả nếu nó không đem lại lợi nhuận thực tế cho ngân hàng. Đối với ngân hàng thương mại, mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu quan trọng hàng đầu, tuy nhiên đối với ngân hàng chính sách thì lợi nhuận không phải là cái đích mà họ hướng tới. Bên cạnh hoạt động sinh lời, các ngân hàng chính sách sẽ thực hiện các chủ trương chính sách mà Đảng, Nhà nước đề ra để giải quyết các vấn đề xã hội. * Doanh số thu nợ: là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho vay của ngân hàng kể cả trong năm, và những năm trước đó. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng lựa chọn khách hàng, khả năng quản lý điều hành của ngân hàng. * Hiệu suất sử dụng vốn: Là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng như thế nào: = * Lãi cho vay thâm hụt Lãi cho vay hiện nay vẫn là nguồn thu nhập chính của các ngân hàng, do vậy nếu số lượng lãi trèo cao sẽ ảnh hưởng xấu tới tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1.3.1. Nhân tố chủ quan * Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn, bởi nếu không có chiến lược kinh doanh thì ngân hàng sẽ ở trong trạng thái bị động, dễ bị sụp đổ do những tác động không tích cực từ phía thị trường. Trên cơ sở chiến lược kinh doanh đúng đắn, ngân hàng có thể đưa ra những kế hoạch phù hợp với từng thời kỳ để đảm bảo cho khả năng phát triển bền vững và lâu dài. * Chính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách tín dụng là một hệ thống các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra và các biện pháp để thực hiện, nó cung cấp một khuôn mẫu cho quá trình quản lý tín dụng, có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của mỗi ngân hàng. Chính sách tín dụng không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh sẽ trở thành rào cản cho việc mở rộng thị trường, và như vậy muốn có chất lượng tín dụng tốt thì phải có chính sách phù hợp với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, phải có sự kết hợp hài hòa về lợi ích giữa người đi vay, người gửi tiền và chính bản thân ngân hàng. Một chính sách tín dụng hợp lý sẽ đem lại hiệu quả, an toàn cho các khoản vay còn chính sách tín dụng lỏng lẻo sẽ gây nên rủi ro cho ngân hàng. * Quy trình tín dụng của ngân hàng: Quy trình tín dụng bao gồm những bước phải thực hiện trong quá trình hoạt động tín dụng của ngân hàng. Quy trình tín dụng bắt đầu từ hồ sơ xin vay vốn của khách hàng cho đến lúc dự án khả thi và được ngân hàng chấp nhận. Quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn, chất lượng tín dụng sẽ được đảm bảo nếu thực hiện tốt các quy trình ở từng bước và có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các bước trong quy trình này. * Chất lượng trong công tác thẩm định và xử lý tín dụng Đối với tín dụng trung và dài hạn, giá trị của các khoản vay là rất lớn thì công tác thẩm định là công việc quan trọng hàng đầu quyết định tới chất lượng của các món vay. Thẩm định dự án đầu tư là việc dựa vào những thông tin trong hồ sơ của khách hàng để phân tích và làm sáng tỏ tính khả thi của dự án từ đó đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không hoặc chỉ đầu tư vào một phần nào đó trong dự án. Như vậy, mục đích của công tác thẩm định là chọn ra các dự án khả thi và có hiệu quả, tránh được rủi ro xảy ra dễ dẫn đến mất vốn. Cũng từ công tác thẩm định, ngân hàng sẽ đưa ra ý kiến đóng góp cho chủ đầu tư tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. * Công tác kiểm soát nội bộ Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng và cán bộ tín dụng có thông tin về thực trạng kinh doanh, kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động tín dụng nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh, phù hợp với chính sách và mục tiêu đã đề ra. Hiểu được tác động của nhân tố này, ngân hàng sẽ có được sự điều chỉnh hợp lý liên quan đến các khoản vay, tránh được rủi ro có thể xảy ra từ đó góp phần làm cho ngân hàng phát triển thêm bền vững. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát bao gồm: - Kiểm tra hoạt động tín dụng và các thủ tục có liên quan đến khoản vay. - Kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất do kiểm soát viên nội bộ hoặc do Hội đồng kiểm tra tiến hành, giám sát thực hiện nhằm báo cáo các trường hợp ngoại lệ đồng thời kiểm tra các hoạt động có liên quan đến tín dụng. * Chất lượng nhân sự Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, cán bộ tín dụng phải xử lý nhiều nghiệp vụ liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau thì cán bộ tín dụng được lựa chọn trước hết phải đảm bảo về khả năng chuyên môn, giỏi nghiệp vụ nhưng đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp vì suy cho cùng, con người c._.hính là yếu tố quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng. Nếu trình độ của cán bộ tín dụng ngân hàng yếu kém, không có khả năng phân tích thẩm định dự án, không phân tích được năng lực tài chính… thì khi đánh giá dự án dễ chọn phải dự án kém khả thi, doanh nghiệp được cấp vốn vay làm ăn thua lỗ thì hậu quả tất yếu là doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, lợi nhuận của ngân hàng giảm sút và ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng phát triển của ngân hàng sau này. * Hệ thống thông tin tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, người nắm bắt được càng nhiều thông tin thì sẽ càng có nhiều ưu thế trong cạnh tranh. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy, nếu như ngân hàng có càng nhiều thông tin về khách hàng thì sự đánh giá trong công tác thẩm định càng chính xác, ngân hàng sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro và đem lại hiệu quả cao cho các khoản vay. * Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động ngân hàng. Đây cũng là nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Một ngân hàng có trang thiết bị hiện đại, hệ thống công ngệ thông tin phát triển sẽ tạo điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn được thời gian giao dịch, tăng khả năng tìm kiếm thông tin… tạo tiền đề để ngân hàng thu hút thêm khách hàng, mở rộng hoạt động tín dụng để từ đó xây dựng chính sách tín dụng có hiệu quả hơn 1.3.2. Các nhân tố khách quan 1.3.2.1. Nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô của nhà nước * Đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương Đặc trưng cơ bản của hệ thống tín dụng là do tính chất và cơ cấu quản lý kinh tế quyết định, do đó một khoản tín dụng trung và dài hạn nếu đạt hiệu quả thì trước hết phải phù hợp với đường lối, chủ trương phát triển kinh tế mà Nhà nước để ra. Mức độ phát triển kinh tế của địa phương sẽ quyết định quy mô và khối lượng đầu tư tín dụng, nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp và khả năng phát triển sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. * Môi trường kinh tế Nền kinh tế xã hội trong quá trình phát triển luôn phải chịu những tác động không nhỏ từ những biến cố như suy thoái kinh tế lạm phát, khủng hoảng tài chính, những biến động của tự nhiên như lũ lụt, hạn hán… Những yếu tố này cho dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng sẽ tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu môi trường kinh tế xã hội ổn định, sản xuất phát triển, lưu thông hàng hóa thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có lãi, trên cơ sở đó, nhu cầu về vốn tăng cao và do đó các ngân hàng sẽ ngày càng phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, khủng hoảng khiến sản xuất và tiêu thụ hàng hóa đình trệ, nhu cầu vay vốn cũng như khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút, lợi nhuận thu về giảm thậm chí còn thua lỗ sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng mở rộng của ngân hàng sau này. * Môi trường pháp lý Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường pháp lý. Hoạt động tín dụng gắn chặt với các quy định về pháp lý, môi trường pháp lý mà ổn định về pháp lý, môi trường pháp lý mà ổn định, thông thoáng cùng bộ máy hành chính gọn nhẹ sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, môi trường pháp lý thường xuyên biến động, thủ tục phiền hà, có những văn bản vừa mới ra đời đã lại thay đổi ngay khiến cho doanh nghiệp không thích nghi kịp thời, nhu cầu đầu tư giảm, nền kinh tế sẽ đi xuống. 1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng * Năng lực sản xuất kinh doanh: thể hiện thông qua các yếu tố như chất ượng, giá cả, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, hệ thống mạng lưới đại lý… Năng lực thị trường càng cao thì nhu cầu về vốn vay càng lớn. * Năng lực tài chính Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện khả năng thanh toán và trả nợ vay ngân hàng. Nó bao gồm các chỉ tiêu như tổng tài sản của doanh nghiệp, vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số vốn mà doanh nghiệp sử dụng, vòng quay vốn lưu động, doanh lợi tài sản (ROA)… Một doanh nghiệp mà có năng lực tài chính tốt thì sẽ sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả, khả năng phát triển và mở rộng kinh doanh cũng cao. Quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp là quan hệ hợp tác cùng phát triển, doanh nghiệp mà hoạt động hiệu quả thì cũng kéo theo sự phát triển của ngân hàng. Chính vì vậy, những doanh nghiệp có năng lực tài chính vững mạnh là bạn hàng tốt đối với ngân hàng. * Năng lực quản lý Năng lực quản lý của doanh nghiệp được thể hiện ở chất lượng và khả năng thích nghi của bộ máy quản lý trước sự biến động của thị trường. Một doanh nghiệp có bộ máy quản lý tốt, có những người lãnh đạo tài giỏi sẽ giúp doanh nghiệp thích nghi với môi trường xung quanh giảm thiểu những rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt, sử dụng hợp lý các nguồn lực là cơ sở để doanh nghiệp làm ăn có lãi, trả được nợ cho ngân hàng. * Tính khả thi của dự án Thông qua công tác thẩm định tài chính, nếu dự án vay vốn của khách được đánh giá là có hiệu quả, lĩnh vực hoạt động được pháp luật cho phép, phù hợp với nền kinh tế thì sẽ làm tăng khả năng trả cả gốc và lãi vay cho ngân hàng, giúp ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 2.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI. 2.1.1 Sự hình thành và phát triển. Ngân hàng ngoại thương Hà Nội thành lập ngày 01/03/1985 , là thành viên trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam . Qua hơn hai mưoi năm hoạt động và phát triển Ngân hàng ngoại thương Hà Nội đã dần trưỏng thành và phát triển vững mạnh là một trong các thành viên chủ chốt của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và vinh dự được nhà nước công nhận là doanh nghiệp hạng một. Năm 2004 Ngân hàng ngoại thương Hà Nội vinh dự được chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân Chương Lao Động Hạng Ba Ngày đầu thành lập Ngân hàng chỉ với 1 trụ sở tại 31 Ngô Thì Nhậm với 17 đảng viên do bác Nguyễn Bích Chiểu làm bí thư , giám đốc Mai Xuân Thang . Từ bước đầu đầy khó khăn , co thời điểm tưởng chừng như là sẽ giải thể , Ngân hàng ngoại thương Hà Nội đã khẳng định vị thế trong đời sống xã hội và không ngừng phát triển . Ngày nay Ngân hàng đã có : * 14 phòng ban . * 4 chi nhánh cấp hai . * 3 phòng giao dịch . * 1 quầy thu đổngoại tệ ở sân bay quốc tế Nội Bài . 2.1.1.1 Mạng lưới chi nhánh của VIETCOMBANK trên địa bàn Hà Nội. *VIETCOMBANK HÀ NỘI (Chi nhánh đầu mối trên địa bàn Hà Nội) Địa chỉ: : 78 Nguyễn Du , 344 Bà Triệu – Hà Nội *VIETCOMBANK THÀNH CÔNG Địa chỉ: : 30-32 Láng Hạ - Đống Đa – Hà Nội VIETCOMBANK CẦU GIẤY Địa chỉ: : 98 Hoàng Quốc Việt – Cầu Giấy – Hà Nội VIETCOMBANK CHƯƠNG DƯƠNG Địa chỉ: : 564 Nguyễn Văn Cừ – Gia Lâm – Hà Nội VIETCOMBANK BA ĐÌNH Địa chỉ: : 39 Đào Tấn – Ba Đình – Hà Nội 2.1.1.2 Các dịch vụ mà VIETCOMBANK cung cấp: * Các dịch vụ truyền thống. Đầu tư tự động cho các khoản tập trung vốn Thực hiện các giao dịch hình thức một cửa Huy động vốn với các hinh thức đa dạng Thu đổi ngoại tệ tự do chuyển đổi, séc du lịch ... Chi trả kiều hối từ các nước trên thế giới, chuyển tiền nước ngoài phục vụ các nhu cầu cá nhân Phát hành bảo lãnh, chứng nhận du học – xuất khẩu lao động ... *Các dịch vụ hiện đại. Dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại VIETCOMBANK đã cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ tiện ích như sau : Dịch vụ ngân hàng điện tử VCB Money ( Dành cho khách hàng và doanh nghiệp ): truy vấn và thưc hiện các nghiệp vụ thanh toán tại trụ sở của khách hàng thông qua modem điện thoại. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến i-b@nking: truy vấn các thông tin tài khoản và tín dụng tức thời thông qua internet. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động SMS Banking: tra cứu thông tin về tỉ giá, lãi suất , các địa điểm đặt ATM, thông tin tài khoản ... bằng cách nhắn tin đến số 8170 * Liên kết sản phẩm. Cho vay nhu cầu tiêu dùng cá nhân mua nhà, ô tô, du học ... Thanh toán hoá đơn điện thoại, điện nước, bảo hiểm ... qua máy ATM Đại lý cho các công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt, AIA, Prudential ... 2.1.2 Cơ cấu tổ chức và bộ máy điều hành. 2.1.2.1 Sơ đồ tổ chức. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC NGUYỄN XUÂN LUẬT PHD. GIÁM ĐỐC BÀ TRỊNH THỊ ĐỨC PHÓ GIÁM ĐỐC BÀ NGUYỄN THỊ KIM LIÊN PHÓ GIÁM ĐỐC P.Quan hệ khách hàng P. Quản lý rủi ro P. Kế toán tài chính P. Tổng hợp P. Dịch vụ ngân hàng P. Kế toán tài chính P. Thanh toán xuất nhập khẩu P. Thanh toán thẻ P. Tin học Tổ chức cán bộ Tín dụng thể nhân Hành chính quản trị P. Kiểm tra nội bộ Quản lý nợ Xây dựng cơ bản BAN GIÁM ĐỐC CÁC HỘI ĐỒNG Hội đồng xử lý rủi ro Hội đồng Tín dụng Hội đồng lương Hội đồng thi đua Hội đồng miễn giảm lãi Các phòng giao dịch PGD số 1 PGD số 2 PGD số 3 PGD số 4 PGD số 5 PGD số 6 Quầy thu đổi ngoại tệ Nội Bài 2.1.2.2 Chức năng nhiệm vụ các phòng ban chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội: Phòng Quan hệ khách hàng: Thực hiện tất cả các nghiệp vụ tín dụng phát sinh trong quá trình hoạt động và làm nhiệm vụ giám sát việc sử dụng vốn vay, thu hồi nợ cho các tổ chức, cá nhân trên địa bàn Hà Nội. Cân đối vốn, tiến hành các hoạt động kinh doanh ngoại tệ cho chi nhánh. Phòng Quản lý rủi ro Kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ về mặt pháp lý của các hồ sơ tín dụng do Phòng Quan hệ khách hàng giải quyết, nêu ý kiến cảnh báo về mặt rủi ro ngành hàng, khách hàng và Phòng Quan hệ khách hàng trước khi ra quyết định cấp tín dụng hay không cấp tín dụng. Phòng Quản lý nợ Lưu giữ hồ sơ tín dụng, thực hiện các thao tác nhập dữ liệu tín dụng trên hệ thống vi tính, thực hiện các báo cáo tín dụng hàng tháng, hàng quý, hàng năm, in lãi vay hàng tháng. Phòng Kế toán tài chính Hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động của ngân hàng cho khách hàng và cho bản thân ngân hàng. Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu Tiến hành mở L/C và thanh toán L/C nhập; Thông báo và thanh toán L/C xuất; Thông báo, thanh toán D/P. T/T xuất nhập khẩu phục vụ các khách hàng có quan hệ tín dụng và quan hệ tiền gửi của NHNT Hà Nội. Phòng Ngân quỹ Thực hiện các hoạt động thu chi diễn ra từ các hoạt động kinh tế phát sinh, điều chuyển tiền giữa các ngân hàng. Phòng Tổ chức hành chính Phòng này gồm 02 bộ phận: Bộ phận tổ chức và bộ phận hành chính, thực hiện mọi hoạt động phục vụ cho công tác kinh doanh diễn ra tốt đẹp. Phòng dịch vụ ngân hàng Phục vụ nhu cầu mở tài khoản tiền gửi giao dịch, gửi tiền tiết kiệm, phát hành và thanh toán thẻ ATM, thẻ tín dụng cho các cá nhân có nhu cầu. 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh. 2.1.3.1 Tình hình chung về kinh tế xã hội. Năm 2007 nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, GDP năm 2007 tăng 8,5 %. Các hoạt động kinh tế ngày càng sôi động về cuối năm, lãi suất của các ngân hàng sau một thời gian điều chỉnh hiện đag ở mức ổn định sau việc cắt giảm lãi suất của Fed. Gần đây các Ngân hàng TMCP đang nâng lãi suất huy động để có đủ vốn cho hoạt động cuối năm. Giá vàng tăng đột biến ở mức 1.6 lên tới 1.8 triệu đồng / 1 chỉ, thị trường bất động sản phục hồi với nhiều dấu hiệu mới ... Chỉ số giá tiêu dùng ( CPI ) năm 2007 tăng 12,63% so với thág 12/2006 tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế và đời sống, đặc biệt mấy tháng cuối năm. Trên địa bàn Hà Nội tuy phải đối phó với nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội : nguy cơ tái phát dịch cúm gia cầm, tình trạng tăng giá khá phổ biến, nhất là ở một số hàng hoá, vật tư, nguyên liệu ; mức độ gia tăng sức ép cạnh tranh từ hàng ngoại nhập do thưc hiện các cam kết hội nhập kinh tế, đặc biệt trong năm đầu tiên chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) ... nhưng xét trên tổng thể tình hình kinh tế xă hội của thủ đô trong năm 2007 co nhiều chuyển biến tích cực : Tổng sản phẩm nội địa ( GDP ) trên địa bàn Hà Nội tăng 11,6 % so với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất, nhập khẩu trên địa bàn tăng tương ứng 20,6 và 17,8 % so với cùng kỳ năm 2006. Đặc biệt, hoạt động ngân hàng tại địa bàn Hà Nội năm 2007 vẫn phát triển khá ổn định, các chỉ tiêu đều ở mức cao so vởi toàn quốc. 2.1.3.2 Đánh giá các mặt hoạt động kinh doanh * Huy động vốn. Công tác huy động vốn của Chi nhánh năm 2007 đã duy trì kết quả tốt. Phát huy thế mạnh về uy tín, thương hiệu gần 45 năm của Vietcombank và với các phương pháp huy động hiệu quả, thực hiện thành công việc đưa các sản phẩm mới về huy động vào thị trường theo chủ trương của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, tổng nguồn vốn của chi nhánh tính đến 31/12/2007 đạt 7.088 tỷ đồng ạt kế hoạch Ngân hàng ngoại thương Việt Nam giao cho chi nhánh. - Huy động VNĐ đạt 3.433 tỷ đồng – chiếm 54,47% tổng nguồn vốn huy động - Huy động ngoại tệ đạt 2.837 tỷ đồng – chiếm 45,3 % tổng nguồn vốn huy động Bảng 1:Tình hình huy động vốn Đơn vị: tỷ đồng Năm Tổng vốn huy động Vốn huy động bằng VNĐ Vốn huy động bằng USD 2005 8.260 4.070 4.190 2006 10.830 5.584 5.246 2007 6.270 3.433 2.837 (nguồn:báo cáo tài chính của ngân hàng ngoại thương Hà Nội) Cơ cấu vốn huy động giữa tiền đồng và ngoại tệ có sự chuyển dịch theo hướng vốn huy động ngoại tệ giảm dần, đây cũng là xu hướng chung của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Sở dĩ có sự chuyển dịch đó một phần là do việc giảm lãi suất cơ bản USD của Cục dự trữ liên bang Mỹ(Fed) trong tháng 9/2007 từ 5,25% xuống còn 4,75% và 4,25% vào tháng 12/2007 đã khiến lãi suất huy động USD của các ngân hàng thương mại trong nước giảm theo. Mặt khác do xu hướng cạnh tranh về huy động vốn giữa các ngân hàng đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần mới. Huy động từ Tổ chức kinh tế đạt : 2.134 tỷ đồng, chiếm 34% tổng huy động vốn. Huy động từ Dân cư đạt : 4.136 tỷ đồng, chiếm 66% tổng vốn huy động. Đến 31/12/2007 thị phần huy động VND trên địa bàn Hà Nội tương ứng 1.41% ; 2.92% ; 1.84% so với mạng lưới 209 tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn. * Công tác tín dụng. Công tác tín dụng của chi nhánh trong năm 2007 tiếp tục thực hiện với phương châm “ Hiệu quả & An toàn “ . Với nỗ lực của các cán bộ ngân hàng ngoai thương Hà Nội, dư nợ tính đến 31/12/2007 đạt 2.553 tỷ đồng đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm 1.49% thị phần trên địa bàn Hà Nội. Số lượng khách hàng là các doanh nghiệp có vay vốn tại chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ quá hạn chiếm 0,87% tổng dư nợ . Cho vay trung dài hạn : chiếm 22,3% tổng dư nợ. Cho vay ngắn hạn : chiêm 77,7% tổng dư nợ. Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, mở các chương trình hỗ trợ về vốn cho khách hàng vừa và nhỏ để phát triển kinh doanh, Chi nhánh đang mở rộng thêm một loại hình cho vay thể nhân với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn : mua ôtô mới, sửa chữa nhà, phát triển kinh tế tư nhân – gia đình, du học, mua biệt thự tại khu biệt thự, đầu tư xây dựng văn phòng ... Đến 31/12/2007, dư nợ tại bộ tín dụng thể nhân đạt 145 tỷ đồng, chiếm 5,7% tổng dư nợ. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. * Thanh toán xuất nhập khẩu. Từ đầu năm 2007 đến nay, hoạt động XNK có những thách thức mới do môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các quy định rào cản về xuất khẩu ngày càng chặt chẽ, giá một số vật tư và dịch vụ đầu vào tăng làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, tại VCB Hn, doanh số thanh toán XNK vẫn đạt cao, có chất lượng tốt với tổng doanh số XNK đạt 435 triệu USD. Nhập khẩu đạt 246 triệu USD, vượt 8% kế hoạch đặt ra trong năm 2007, chủ yếu là các mặt hàng nhập khẩu nguyên vật liệu, may móc. Xuất khẩu đạt 189 triệu USD, vượt 69% kế hoạch đặt ra từ đầu năm, chủ yếu là các sản phẩm nông, lâm sản. Dư nợ bảo lãnh đến 31/12/2007 đạt 113 tỷ đồng. * Hoạt động thẻ và dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng ngoại thương đã liên minh với các NHCP để phát triển mạng lưới ngân hàng đại lý, mạng lưới dịch vụ thẻ và thúc đẩy hợp tác dịch vụ thẻ giữa ngân hàng và doanh nghiệp với các chương trình hợp tác như thanh toán cước điện thoại,Internet, phí bảo hiểm... Với mạng lưới ATM và các đơn vị chấp nhận thẻ rộng khắp trên toàn quốc, số lượng thẻ do VCB phát hành ngày càng tăng. Số lượng thẻ ATM phát hành mới trong năm 2007 của VCB HN đạt 27.155 thẻ, nâng tổng số thẻ ATM của chi nhánh lên 73.029 thẻ. Tổng số thẻ debit năm 2007 đạt 31.629 thẻ,vượt 63% kế hoạch năm 2007. Số lưọng phát hành thẻ tín dụng mới đạt 728 thẻ, nâng tổng số thẻ tín dụng của Chi nhánh đạt 3.254 thẻ. Thẻ ghi nợ quốc tế MTV phát hành mới năm 2007 đạt 2.317 thẻ, nâng tổng số thẻ MTV lên 3.599 thẻ. Thẻ ghi nợ Visa đạt 1399 thẻ, thẻ ghi nợ SGH24 đạt 758 thẻ. Sau khi chuyển một số máy ATM cho các Chi nhánh cấp 2 nâng cấp trực thuộc Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội hiện co 34 máy ATM, 86 đơn vị chấp nhận thẻ . Với chính sách đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và từng bước đưa các sản phẩm ngân hàng hiện đại vào tiếp cận cuộc sống, Ban giám đốc chi nhánh đã tạo điều kiện cho công tác khuyêch trương các dịch vụ ngân hàng, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhằm thu hút được đông đảo khách hàng Thủ đô và các tỉnh lân cận đến sử dụng các dịch vụ của ngân hàng Ngoại thương. Công tác dịch vụ ngân hàng phát triển là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của Chi nhánh. Không ngừng mở rộng dịch vụ và nâng cao chất lưọng dịch vụ nhằm nâng cao doanh thu từ dịch vụ là mục tiêu được Chi nhánh đặt lên hàng đầu. Số lượng tài khoản cá nhân mở mới đạt : 29.291 tài khoản, nâng tổng số tài khoản cá nhân mở tại Chi nhánh là 72.653 tài khoản, đạt 120% kế hoạch của năm 2007. Chuyển tiền trong nứoc đạt 322,6 tỷ đồng, tăng 26% so với năm 2006. Chuyển tiền nứơc ngoài đi đạt 1,3 triệu USD Chi trả kiều hối đạt 61.7 triệu USD tăng 5% so với năm 2006. Trong đó chuyển tiền qua hệ thống Money Gram đạt hơn 300.000 USD. Mặc dù con số này chưa cao so với lượng tiền nước ngoài chuyển đến qua tài khoản hoặc CMT ... tuy nhiên sự mở rộng dịch vụ chuyển tiền sẽ góp phần nâng cao thương hiệu cho Vietcombank. Doanh số bán ngoại tệ tại các bàn thu đổi đạt 6,4 triệu USD tăng 201% so với năm 2006. Với sự nỗ lực của các cán bộ, Chi nhánh hiện có 40 đơn vị đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử VCB Money và 450 đơn vị, 3000 lượt đăng ký truy vấn thông tin qua Internet i-b@nking, sử dụng dịch vụ SMS – banking... * Kinh doanh ngoại tệ. Doanh số mua bán ngoại tệ của VCB HN năm 2007 đạt 725 triệu USD. Lãi kinh doanh ngoại tệ trong năm 2007 đạt gần 6 tỷ đồng. Ngoại tệ mua được phần lớn từ nguồn các Tổ chức kinh tế đáp ứng cho nhu cầu thanh toán nhập khẩu tại Chi nhánh. Đông thời để tránh rủi ro về tỷ giá cũng như xác định rõ nguồn ngoại tệ đảm bảo thanh toán cho khách hàng, NHNT HN đã sử dụng công cụ phái sinh là Hợp đồng có kỳ hạn đối với các doanh nghiệp co nhu cầu nhập khẩu hàng hoá . Trong thời gian tới, NHNT VN nói chung cũng như NHNT HN nói riêng cần nghiên cứu , tiếp tục đưa ra các sản phẩm phái sinh mới, tạo sự đa dạng cho lựa chọn của khách hàng. Bảng 2:Tình hình kinh doanh ngoại tệ từ 2005-2007 Đơng vị : tỷ đồng Năm Tổng doanh số mua-bán ngoại tệ Doanh số mua ngoại tệ Doanh số bán ngoại tệ Lãi từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ 2005 861 430,933 115,19 11,56 2006 896 448,7 447,3 8 2007 725 363 362 6 (nguồn:báo cáo tài chính của ngân hàng ngoại thương Hà Nội) * Ngân quỹ. Năm 2007, khối lượng giao dịch thu chi tiền mặt qua VCBHN tăng nhiều, gồm cả ngoại tệ cũng như VND: Tổng thu chi VND đạt 28.450 tỷ đồng, tăng 33% so với kế hoạch năm 2007, thu chi ngoại tệ quỹ USD đạt 490,56 triệu USD, tăng 32% so với năm 2007. Công tác ngân quỹ luôn đảm bảo an toàn. Các nghiệp vụ ngày càng đa dạng hơn , khối lượng công việc nhiều hơn, nhưng trong giao dịch tiền mặt vẫn đảm bảo chi đủ, đúng, thực hiện trả lại tiền thừa cho khách hàng, thu được nhiều tiền giả đảm bảo giải phóng khách hàng nhanh, thái độ phục vụ nhiệt tình. Tiền giả: USD : 2.100 EUR : 100 GBP : 20 VNĐ : 186.590.000 Tiền thừa : VNĐ : 218.550.000 ( 28 món) Để đảm bảo lượng tồn quỹ tiền mặt đủ cho các nghiệp vụ và giao dịch viên, từ 01/04/2007, Giám đốc NHNT HN đã quy định hạn mức tồn quỹ hàng ngày cho các phòng nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả điều hành vốn của chi nhánh. * Kế toán Công tác thanh toán của ngân hàng luôn đảm bảo chính xác kịp thời cho các giao dịch chuyển vốn của khách hàng với thời gian ngắn nhất và chất lượng tốt nhất. Doanh số thanh toán điện tử liên ngân hàng và thanh toán IBT ONLINE đã đạt kết quả cao. Với vai trò đầu mối, VCB HN luông đảm bảo thanh toán cho các chi nhánh NHNT cơ sở thông suốt, kịp thời và chính xác. Tuy nhiên trong thanh toán bù trừ và giao dịch tiền mặt do NHNN thành phố quy định cứng về thời gian giao dịch làm ảnh hưởng tới các chi nhánh NHNT cơ sở. Một số kết quả đạt được của công tác kế toán : Doanh số thanh toán bù trừ đạt 10.973 tỷ đồng, tăng 57% so với năm 2006 Doanh số thanh toán IBPS đạt 82.540 tỷ đồng, tăng 106% so với năm 2006. Doanh số thanh toán IBT online đạt 83.673 tỷ đồng, tăng 144% so với năm 2006 Hiện chi nhánh có 131 đơn vị đăng ký trả lương qua tài khoản với doanh số gần 30 tỷ đồng/ tháng, 1958 đơn vị mở tài khoản tại ngân hàng, tăng 12% so với cuối năm 2006. 2.2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI. 2.2.1 Tình hình cho vay trung và dài hạn. Bảng 3:Doanh số cho vay trung và dài hạn Đơn vị:triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Đồng Việt Nam 43132 391409 802770 1073312 418138 Ngoại tệ (quy VND) 223298 621777 743806 990750 318654 Tổng số 466430 1013181 1546576 2064063 736792 (nguồn:bỏo cỏo tài chớnh của ngõn hàng ngoại thương Hà Nội) Nhìn vào bảng kết quả ta thấy doanh số cho vay trung vài dài hạn tại ngân hang ngoại thương Hà nội ngày một tằng, tuy nhiên sự tăng trưởng này không đồng đều qua các năm cũng như không đều giữa đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ. Đặc biệt doanh thu cho vay năm 2004 tăng 217,22 % so với năm 2003. Sự tăng trưởng này chứng tỏ doanh nghiệp đã gây được uy tín đối với khách hàng qua các năm thì số doanh nghiệp lớn đến với ngân hàng ngoại thương Hà nội nhiều hơn. Và lợi thế về nguồn vốn huy động trong năm 2004 chi nhánh đã chủ động mở rộng hoạt động tín dụng và phương châm: “An toàn và hiệu quả, qua đó, tạo điều kiện cho đồng vốn ngân hàng phát huy được vai trò thúc đẩy kinh tế Thủ đô tăng trưởng. Để đẩy mạnh công tác tín dụng, Chi nhánh đã thực sự chủ động tìm kiếm các khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng tín dụng truyền thống vẫn luôn được Chi nhánh quan tâm. Phong cách giao dịch của cán bộ tín dụng và chất lượng các sản phẩm tín dụng của Chi nhánh đã tạo niềm tin và uý tín đối với các khách hàng, tạo điều kiện cùng khách hàng tăng trưởng hiệu quả. Các doanh nghiệp vẫn có xu hướng thích vay USD hơn VND do tỷ giá USD ít biến động trong khi lãi suất vay USD thấp hơn nhiều so với lãi suất vay VND. Năm 2005, hoạt động tín dúng của chi nhánh tiếp tục được mở rộng và phương châm kiểm soát rủi ro chặt chẽ hơn. Từ 08/08/2008, ngân hàng ngoại thương Hà nội bắt đầu thực hiện triển khai thí điểm mô hình quản lý tín dụng mới, áp dụng cho khách hàng là doanh nghiệp, phân tích rõ chức nưang, nhiệm vụ giữa công tác quan hệ khách hàng và công tác quản lý rủi ro, từ đó giúp nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh kiểm soát tốt hơn rủi ro ngân hàng và tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, trong giai đoạn này, mục tiêu tăng trưởng dù nợ tín dụng tạm thời chưa phải là mục tiêu hàng đầu của chi nhánh. Trong năm 2006, thực hiện quy trình tín dụng mới theo Quyết định 90/QĐ.NHNT.QLTD ngày 26/05/2006 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam áp dụng đối với khách hàng là doạnh nghiệp, Phòng Quản lý rủi ro tín dụng đã từng bước góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, tạo đà phát triển bền vững cho Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội, góp phần làm cho hoạt động cấp tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội, góp phần làm cho hoạt động cấp tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội tiếp cận với tập quán quốc tế về quản lý trong hoạt động ngân hàng. Để mở rộng quan hệ khách hàng và đẩy mạnh công tác tín dụng, đội ngũ cán bộ VCBHN đã chủ động tìm kiếm các khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội luôn quan tâm duy trì và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống. Phong cách giao dịch của cán bộ tín dụng và chất lượng các sản phẩm tín dụng của Chi nhánh đã tạo niềm tin và uy tín đối với các khách hàng, tạo điều kiện cùng khách hàng kinh doanh hiệu quả. Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, Chi nhánh đang mở rộng thêm loại hình cho vay tiêu dùng với nhiều hình thức cho vay ưu đãi, hấp dẫn. Tính đến 31/12/2006, dư nợ tại bộ phận tín dụng thể nhân đạt 151 tỷ đồng. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. Từ năm 2003 đến năm 2006, doanh số cho vay của ngân hàng Ngoại Thương tăng lên, nó cho thấy ngân hàng Ngoại Thương làm ăn có hiệu quả, uy tín được nâng cao và có sự tăng trưởng bền vững qua các năm. Tuy nhiên sang năm 2007 ta thấy doanh số cho vay của ngân hàng Ngoại Thương suy giảm trầm trọng. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do sang năm 2007, ngân hàng Ngoại Thương có sự phân tách chi nhánh, 4 chi nhánh ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội tách ra hoạt động độc lập, riêng lẻ làm cho số liệu trong báo cáo giảm xuống. Tuy vậy, trong năm 2007 ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội vẫn làm ăn có lãi và hiệu quả. 2.2.2 Thu nợ cho vay trung và dài hạn. Bảng 4:Số liệu hoạt động tín dụng trung và dài hạn Đơn vị:triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 DSTN 286938 650719 1367449 828534 529316 % tăng trưởng DSTN 235,27 226,78 210,14 137,67 % tăng trưởng DSCV 214,35 217,22 152,64 133,46 (nguồn:báo cáo tài chính của ngân hàng ngoại thương Hà Nội) Với DSTN: Doanh số thu nợ DSCV: Doanh số cho vay Công tác thu nợ của ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội được ban lãnh đạo công ty hết sức quan tâm thể hiện sự tăng trưởng mạnh mẽ về doanh số thu nợ. Từ năm 2003 cho đến năm 2006 tốc độ tăng trưởng doanh số thu nợ luôn lớn hơn tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay. Có được kết quả ấn tượng này là sự nỗ lực rất lớn của ngân hàng trong công tác tín dụng thông qua khả năng lựa chọn khách hàng và khả năng quản lý điều hành. 2.2.3 Dư nợ cho vay trung và dài hạn. Bảng 5:Cơ cấu dư nợ trung và dài hạn Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Dư nợ ngoại tệ 119789 404839 476162 559327 227728 Dư nợ VND 195445 331233 439029 537393 341591 Tổng số 315234 736072 915191 1096720 569319 (nguồn:báo cáo tài chín của ngân hàng ngoại thương Hà Nội) Những năm gần đây, dư nợ cho vay trung và dài hạn có sự tăng trưởng rất khả quan do việc đổi mới công tác cho vay, giám sát nợ vay tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng đặc biệt là những khách hàng truyền thống là những tổng công ty, những doanh nghiệp có uy tín. Trong các năm từ 2003 đến 2007 thì năm 2004 là năm có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất, dư nợ tăng hơn gấp 2 lần từ 315234 triệu lên 736672 triệu, cơ cấu dư nợ cũng bắt đầu có sự thay đổi. Dư nợ tín dụng ngoại tệ tăng và chiếm tỉ trọng nhiều hơn so với đồng nội tệ. Xu hướng này tiếp tục cho đến hết năm 2006 khi ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội có chính sách cho vay ngoại tệ hỗ trợ xuất khẩu của thành phố, cụ thể: Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ năm 2005 đặt 1807 tỷ đồng (Bao gồm cả dư nợ ngắn hạn) chiếm 51,38% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay bằng VND năm 2005 đặt 1711 tỷ đồng (Bao gồm cả dư nợ ngắn hạn) chiếm 48,62% tổng dư nợ. Từ năm 2007, cơ cấu dư nợ bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng dư nợ ngoại tệ giảm dần, đây cũng là xu hướng chung của các ngân hàng thương mại trong thời gian gần đây. Sở dĩ có sự chuyển dịch đó, một phần là do việc cắt giảm lãi suất cơ bản USD của cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) trong tháng 9/2007 từ 5,25% xuống còn 4,75% và 4,25% vào tháng 12/2007 đã khiến lãi suất huy động USD của các ngân hàng thương mại trong nước giảm theo. Mặt khác là do xu hướng cạnh tranh về huy động vốn giữa các ngân hàng, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các ngân hàng thương mại cổ phần mới. Sở dĩ năm 2007 tổng dư nợ trung và dài hạn giảm đi nhiều so với năm 2006 là do có sự phân tách chi nhánh tại ngân hàng ngoại thương Hà Nội như đã trình bày ở trên. 2.2.4 Nợ quá hạn đối với tín dụng trung và dài hạn Bảng 6:cơ cấu nợ quá hạn trung và dài hạn Đơn vị:triệu đồng Chỉ tiêu Năm Nợ quá hạn trung và dài hạn Nợ quá hạn trung và dài/tổng dư nợ TVDH 2003 1008,75 0,32% 2004 1987,40 0,27% 2005 25076,23 2,74% 2006 26979,31 2,46% 2007 4440,69 0,78% (nguồn:báo cáo tài chính của ngân hàng ngoại thương Hà Nội) Khi xem xét vấn đề tín dụng trung và dài hạn, có một vấn đề mà các ngân hàng thương mại đều phải quan tâm phân tịch nhằm tim ra nguyên nhân, đưa ra biện pháp để ngăn ngừa và giải quyết, đó là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là biểu hiện không lành mạnh của các ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động, nó mang lại rủi ro và nguy cơ mất vốn cho ngân hàng. Vì vậy, bất kì ngân hàng nào cũng phải quan tâm ngăn chặn nợ quá hạn xảy ra. Tuy nhiên, nợ quá hạn lại là một hiện tượng kinh tế tất yếu phải xảy ra đối với một ngân hàng, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường có thể là lý do khách quan của môi trường kinh tế xã hội hay lý do chủ quan của cán bộ nhân viên ngân hàng mà nợ quá hạn luôn tồn tại. Tỷ lệ nợ quá hạn tại ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội trong các năm 2003, 2004 được hạn chế ở mức thấp, thành công đó là kết quả của chương trình nâng cao chất lượng tín dụng, quản lý và khai thác tài sản xiết nợcủa ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội. Điều này cho thấy việc đầu tư cho vay tại ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội về cơ bản là hiệu quả, đá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7660.doc
Tài liệu liên quan