Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Bắc Ninh

Lời nói đầu Trong những năm vừa qua, chính sách đổi mới mở cửa của Đảng và Nhà nước đã đem lại những thay đổi to lớn sâu sắc toàn diện trên các mặt và lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là ổn định chính trị trong phạm vi cả nước. Những thay đổi đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh trực thuộc hệ thống NHĐT&PTVN, một ngân hàng có uy tín trong cả nước và trên thế giới. Từ khi

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính thức hoạt động đến nay, mặc dù nằm trên địa bàn một tỉnh mới được tái thiết lập, đời sống kinh tế chính trị còn nhiều khó khăn, nhưng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh đã phát huy được vai trò vô cùng quan trọng của mình đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh cũng như của đất nước. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh là Ngân hàng giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển, tham gia vào nhiều hoạt động, hỗ trợ đắc lực đối với các dự án có tầm quan trọng trong quá trình phát triển của tỉnh. Chính vì vậy mà hoạt động tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động mũi nhọn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh, không chỉ có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng mà còn đối với cả sự phát triển của tỉnh, của đất nước. Bước sang giai đoạn phát triển mới, Ngân hàng đã và đang xây dựng cho mình một chiến lược phát triển toàn diện trong đó nghiệp vụ truyền thống là tín dụng trung và dài hạn vẫn là hoạt động hàng đầu. Do vậy, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh không những là đòi hỏi cấp thiết trong hoạt động Ngân hàng mà còn là đòi hỏi khách quan đối với sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế trên, đi sâu vào nghiên cứu công tác tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh, em đã chọn đề tài:"Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh" để làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình. Trong quá trình nghiên cứu đề tài được phân bố thành những nội dung cơ bản sau: Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh. Do hạn chế về thời gian nghiên cứu, kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên bài viết này chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự chỉ bảo đóng góp của các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Chương 1 Lý luận chung về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại. 1.1. Tổng quan về Ngân hàng Thương mại. Để đưa ra định nghĩa về NHTM, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết hợp mục đích tính chất và đối tượng hoạt động. Luật Ngân hàng Pháp năm 1941 qui định:" Được coi là ngân hàng là những xí nghiệp hoặc cơ sở nào hình thành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hoặc dịch vụ tài chính". Hay như Luật Ngân hàng ấn Độ năm 1950, được bổ xung năm 1959 nêu : "Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hoặc tài trợ đầu tư”. ở Việt Nam, theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng đã được Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 qui định: " Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của Luật các tổ chức tín dụng và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng ...". Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng, do đó được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Ngân hàng tiến hành các hoạt động cơ bản sau: 1.1.1. Hoạt động huy động vốn. Để thực hiện các hoạt động kinh doanh thì Ngân hàng phải có vốn. Nguồn vốn rất đa dạng và phong phú, Ngân hàng huy động từ các nguồn chủ yếu sau: Nhận tiền gửi: Đây là nguồn vốn chủ yếu của một NHTM theo đúng nghĩa của nó. Các yếu tố ảnh hưởng đến qui mô tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng như: Chính sách lãi suất, phương thức trả lãi, tình hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán, thói quen của từng vùng, uy tín, vị trí của ngân hàng, các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp... Nắm được các yếu tố này, Ngân hàng có thể điều chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu vốn của mình. Vốn đi vay: Ngân hàng chỉ đi vay khi có những tình huống phát sinh đặc biệt như đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo qui định, đáp ứng yêu cầu mở rộng tín dụng... tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà Ngân hàng có thể huy động vốn trên thị trường liên Ngân hàng, vay vốn Ngân hàng TW qua hình thức tái cấp vốn, vay các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, vay các tổ chức kinh tế, dân cư thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu... Vốn tự có và các quỹ của Ngân hàng: Là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, song lại là bộ phận rất quan trọng. Nó là cơ sở để thu hút tiền gửi của khách hàng, đồng thời là tấm đệm giảm sóc giúp Ngân hàng tránh khỏi nguy cơ khủng hoảng, mất khả năng thanh toán. Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể tận dụng các nguồn vốn khác như: nguồn uỷ thác của các tổ chức tín dụng lớn trong và ngoài nước, uỷ thác phát sinh trong quá trình thanh toán giữa các ngân hàng. Tuy nhiên các nguồn vốn này thường không ổn định và không phải Ngân hàng nào cũng có điều kiện sử dụng. 1.1.2. Hoạt động sử dụng vốn. Hoạt động sử dụng vốn của một ngân hàng gồm các hoạt động sau: Hoạt động ngân quỹ: Là hoạt động nhằm thúc đẩy khả năng thanh toán thường xuyên của Ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc có sinh lời thì cũng rất thấp. Bù lại khả năng thanh toán thường xuyên của một Ngân hàng được đảm bảo bằng những tài sản có tính thanh khoản cao như: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại các ngân hàng TƯ và các NHTM khác, tiền đang trong quá trình thu. Tuy nhiên đây là loại tài sản có khả năng sinh lời rất thấp nên việc để lại nhiều tài sản sẽ làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng: Là hoạt động kinh doanh chính và sinh lời chủ yếu của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng là các quan hệ giao dịch giữa người cho vay và người đi vay. Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau: - Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thức tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật. - Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. Sau khi hết hạn sử dụng, theo thoả thuận người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hoặc nói cách khác người đi vay phải trả thêm lợi tức. - Tham gia quan hệ này có nhiều chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng ... Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng mà chủ thể tham gia gồm một bên là Ngân hàng, một bên là các tổ chức kinh tế xã hội, Nhà nước, dân cư... Trong quan hệ tín dụng, chủ thể tham gia với hai tư cách là người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên khi xem xét trên giác độ Ngân hàng thì hoạt động tín dụng được hiểu là hoạt động cho vay, tức Ngân hàng cho khách hàng vay. Hoạt động đầu tư. Các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư bằng cách tiến hành mua bán chứng khoán trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Các chứng khoán Ngân hàng nắm giữ thường là có độ an toàn và tính lỏng cao sẽ giúp cho ngân hàng đảm bảo được khả năng thanh khoản tốt hơn mà không làm giảm hiệu quả kinh doanh 1.1.3. Hoạt động trung gian. Hoạt động trung gian là hoạt động mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ có liên quan đi kèm, qua đó Ngân hàng cũng nhận được một khoản thu dưới hình thức phí hoa hồng. Các dịch vụ của Ngân hàng ngày càng phong phú và tiện lợi, đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của khách hàng và yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Có thể kể ra rất nhiều các dịch vụ như: trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, tư vấn tài chính, môi giới chứng khoán, thanh toán hộ khách hàng... 1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại . 1.2.1. Khái niệm, sự cần thiết, vai trò của tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. 1.2.1.1. Khái niệm tín dụng tín dụng trung và dài hạn của NHTM. Tiền tệ và tín dụng gần như có lịch sử phát sinh tồn tại và phát triển, đồng thời cũng như tiền tệ, các quan hệ tín dụng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và từng bước được đa dạng hoá theo sự phát triển của nền kinh tế. Ngày nay tín dụng được hiểu theo những nghĩa cơ bản sau: a. Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả. b. Tín dụng là một phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá. c. Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên chu cấp tiền hàng hoá hoặc dịch vụ, chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán trong tương lai của bên kia. d. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Như vậy nghĩa của tín dụng được hiểu theo nhiều cách khác nhau nhưng nội dung cơ bản đều thống nhất: phản ánh một bên là người cho vay còn bên kia là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên được ràng buộc bởi cơ chế tín dụng và luật pháp hiện tại. Việc chuyển giao giá trị hay hiện vật giữa người cho vay và người đi vay có kỳ chuyển giao ngược lại. Lượng giá trị hay hiện vật khi người đi vay chuyển giao cho người cho vay phải lớn hơn lượng họ nhận được ban đầu. Tín dụng trung và dài hạn là một hình thức tín dụng Ngân hàng được phân theo tiêu thức thời gian, đó là những khoản vay có thời hạn lớn hơn một năm và thời gian cho vay không quá thời gian khấu hao của tài sản hình thành từ vốn vay. Tuỳ theo từng quốc gia mà được quy định cụ thể về thời gian khác nhau. ở Việt Nam theo qui chế cho vay mới số 1627/2001/QĐ Ngân hàng Việt Nam có hiệu lực từ 1/2/2002, các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng được gọi là tín dụng trung hạn, từ 60 tháng trở lên gọi là tín dụng dài hạn. Tín dụng trung hạn chủ yếu được người vay sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh và xây dựng các dự án mới có qui mô vừa và nhỏ, có thời gian thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn là các khoản cho vay đầu tư vào việc đổi mới dây truyền sản xuất hiện đại, xây dựng các công trình có qui mô lớn, thời gian hoạt động dài như : nhà ở, xí nghiệp nhà máy mới, các thiết bị phương tiện vận tải giá trị lớn. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung và dài hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các NHTM đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong số những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của Ngân hàng. Muốn được như vậy thì Ngân hàng cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 1.2.1.2. Phân loại tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng để mua sắm máy móc, thiết bị trả góp. Tín dụng để mua sắm máy móc thiết bị trả góp là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp, có thời hạn trên một năm. Tiền vay được thanh toán dần dần cho Ngân hàng theo từng định kỳ. Tín dụng theo kỳ hạn. Tín dụng theo kỳ hạn thường tài trợ cho các mục đích chung của doanh nghiệp, bao gồm tài trợ cho tài sản lưu động thường xuyên, mua sắm các bất động sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các thiết bị sản xuất, tài trợ cho nhu cầu vốn cho việc liên doanh, liên kết trong kinh doanh... Đối với hai phương thức nêu trên, thường việc thanh toán tiền vay theo các định kỳ bằng nhau. Nhưng cũng có khi tiền vay được thanh toán ở kỳ hạn cuối cùng nhiều hơn và các kỳ hạn khác có mức thanh toán bằng nhau. Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng thanh toán cho mình một số tiền vay ở kỳ hạn cuối lớn hơn so với số tiền thanh toán ở các kỳ hạn trước đó trong các trường hợp sau: - Ngân hàng muốn giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn trong thời hạn vay, miễn sao đến khi kết thúc thời hạn vay thì khách hàng phải hoàn trả hết tiền vay, kể cả lãi cho Ngân hàng. - Khi thời hạn vay theo yêu cầu của khách hàng ngắn hơn thời hạn cho vay mà Ngân hàng mong muốn. Tín dụng tuần hoàn. Tín dụng tuần hoàn là một hình thức cho vay, trong đó Ngân hàng cam kết chính thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định. Cam kết có thể dài từ 1 đến 3 năm, thậm chí 5 năm, song thời hạn của khế ước trong thời hạn được cam kết thường ngắn khoảng 90 ngày và nếu khách hàng thực hiện tốt các điều khoản của hợp đồng tín dụng thì cam kết hạn mức sẽ được tái tục, tức là gia hạn thêm một kì hạn bằng kì hạn gốc. Thông thường, khi được hưởng một hạn mức như trên, phần tiền vay mà người đi vay thực sự được sử dụng trên hạn mức sẽ được tính lãi còn phần hạn mức còn lại chưa được sử dụng hết sẽ được tính phí, gọi là phí cam kết. Tín dụng tuần hoàn thường được dùng để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản lưu động hoặc thay thế cho các khoản nợ ngắn hạn tới kỳ hạn thanh toán. 1.2.1.3. Sự cần thiết hay vai trò của tín dụng trung và dài hạn của NHTM. Đối với ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Trong các tài sản của NHTM thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất và đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Thu nhập từ các khoản cho vay biểu hiện dưới dạng lãi tiền vay. Lãi tiền vay lại phụ thuộc chủ yếu vào kì hạn vay. Thời hạn vay càng dài thì lãi suất tiền vay càng cao và do đó thu nhập càng lớn. Chính vì vậy nếu một Ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung và dài hạn thì có điều kiện kiếm lãi nhiều hơn. Tuy nhiên thời hạn càng dài cũng đồng nghĩa với rủi ro tiềm ẩn càng lớn. Hoạt động tín dụng tốt thể hiện chất lượng tín dụng cao. Điều đó cho thấy việc đáp ứng nhu cầu tín dụng tốt, năng lực quản lý trình độ chuyên môn cao sẽ tạo nên uy tín của Ngân hàng. Khi nhu cầu tín dụng trung và dài hạn được đáp ứng tốt sẽ tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn và các dịch vụ khác mở rộng và phát triển. Đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn thường xuyên phát sinh bởi các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển, mở rộng sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị đổi mới công nghệ sản xuất ... để củng cố và tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Muốn làm được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn trong một thời gian dài. Nhu cầu có thể được thoả mãn bởi vốn tự có của doanh nghiệp, có thể huy động thêm thông qua phát hành thêm cổ phiếu mới, phát hành trái phiếu. Trong thực tế, vốn tự có khó có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu thì không phải doanh nghiệp nào cũng được phép làm và làm được. Mặt khác, so với việc phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu thì việc vay vốn trung và dài hạn của NHTM có nhiều lợi thế hơn. Đó là doanh nghiệp không phải chịu sự chi phối, kiểm soát của các cổ đông, đối phó với việc trả cổ tức và một số chi phí khác liên quan đến việc phát hành, đồng thời cũng tránh cho doanh nghiệp sự phân tán quyền lực do việc phát hành thêm cổ phiếu. Đối với phát hành trái phiếu, doanh nghiệp buộc phải duy trì việc chi trả lãi cho các trái chủ cho đến khi đáo hạn mà không thể trả trước vốn trong khi việc sử dụng vốn gặp khó khăn hoặc không cần thiết nữa. Ngược lại, khi sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng, sự linh hoạt của nguồn vốn này cho phép doanh nghiệp tận dụng tốt các cơ hội kinh doanh cũng như thay đổi về kỳ hạn trả nợ. Khi cần Ngân hàng có thể xem xét cho doanh nghiệp vay với thời gian nhanh nhất có thể. Còn khi không có nhu cầu về vốn, doanh nghiệp có thể trả ngay cho Ngân hàng. Nhờ đó doanh nghiệp có được sự chủ động về vốn, linh hoạt trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Đối với nền kinh tế. Đối với bất kỳ một nền kinh tế nào, dù phát triển theo chiều rộng hay chiều sâu thì nguồn vốn trung và dài hạn là rất quan trọng và cần thiết. Nguồn vốn này có thể khai thác từ nhiều kênh, trong đó kênh tín dụng trung và dài hạn của NHTM giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Sự tham gia của nguồn vốn tín dụng Ngân hàng sẽ góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Vì khi một Ngân hàng quyết định cho vay thì trước đó hàng loạt các bước thẩm định dự án đầu tư, tìm hiểu khách hàng ... đã được tiến hành để đảm bảo cho Ngân hàng tránh được rủi ro có thể xảy ra. Ngay cả sau khi cho vay, Ngân hàng cũng luôn bám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng để kịp thời giải quyết những phát sinh bất ngờ. Mặt khác không giống như nguồn vốn cấp phát của NSNN, vốn vay Ngân hàng được cấp trên nguyên tắc hoàn trả có lãi. Khi vay vốn Ngân hàng, nhất là vốn trung và dài hạn, doanh nghiệp phải trả lãi rất cao trong thời gian dài. Do đó, doanh nghiệp buộc phải tính toán sao cho có hiệu quả nhất. Nhờ vậy mà các dự án đầu tư thường đem lại hiệu qủa kinh tế cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tín dụng trung và dài hạn góp phần chuyển dịch cơ bản nền kinh tế. Thông qua việc mở rộng cho vay với những lĩnh vực cần phát triển và hạn chế cho vay đối với những lĩnh vực không yêu cầu đẩy mạnh, các NHTM đã tham gia vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế một cách chủ động và tích cực. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn, trong khi các doanh nghiệp chưa có nhiều thời gian để tích luỹ và chưa tích luỹ được nhiều. Các hình thức đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp vẫn còn mới lạ với đại bộ phận dân chúng. Thị trường chứng khoán chưa phát triển nên việc huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy trong thực tiễn nhu cầu về vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp được đáp ứng bởi vốn tự có của doanh nghiệp và đa phần còn lại bằng sự tài trợ của hệ thống NHTM mại thông qua nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn. 1.2.2. Đặc trưng của tín dụng trung và dài hạn của NHTM. Mục đích, đối tượng, thời hạn và giá trị khoản vốn cho vay. Doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn của Ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đối tượng cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng là toàn bộ chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo công nghệ, dây truyền thiết bị ... Ngoài ra còn được dùng để đáp ứng một phần vốn lưu động tối thiểu của doanh nghiệp. Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi khách hàng nhận được tiền vay cho đến khi khách hàng trả hết toàn bộ nợ gốc và lãi. Thời hạn này do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận. Dựa vào tính chất của các tài sản do vốn vay hình thành thì tín dụng trung và dài hạn được sử dụng nhằm hình thành mới hoặc hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Mặt khác, tài sản do vốn vay trung và dài hạn cấu thành tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn và sinh lời gắn liền với tuổi thọ của nó qua nhiều giai đoạn dài. Do vậy nguồn vốn để trả nợ chủ yếu lấy từ kết quả hoạt động kinh doanh của tài sản đó. Trong quan hệ tín dụng Ngân hàng, đối tượng cho vay trung và dài hạn là các công trình, hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định ... của các đơn vị có luận chứng kinh tế kỹ thuật tốt, xác thực và tổng dự toán đã được phê duyệt. Do đó chi phí cấu thành trong tổng vốn đầu tư là rất lớn, vì vậy giá trị của các khoản vay trung và dài hạn thường là lớn và rất lớn. Rủi ro và lãi suất cho vay cao. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có rủi ro lớn, thể hiện hậu quả của rủi ro lớn, có thời gian dài, trong thời gian đó có thể xảy ra nhiều sự biến động lớn về giá cả , thuế, tâm lý người dân, sự thay đổi qui chế, chính sách pháp luật... vì vậy mức độ rủi ro rất cao. Cho vay trung và dài hạn có qui mô khoản vay là rất lớn, vì thế khi xảy ra rủi ro , hậu quả của nó là rất nghiêm trọng. Giữa rủi ro và lãi suất có tương quan tỷ lệ thuận. Thời hạn của khoản vay càng dài, rủi ro của khoản vay càng lớn thì lãi suất của khoản vay càng cao. Bởi vì Ngân hàng phải trang trải những chi phí để bù đắp rủi ro lớn và những chi phí huy động và quản lý nguồn vốn phục vụ cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Mức lãi suất cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lãi suất huy động vốn, tỷ lệ lạm phát, lãi suất cơ bản do NHNN quy định, lãi suất trên thị trường quốc tế... mức lãi suất có thể cố định trong suốt thời hạn vay hoặc có thể điều chỉnh linh hoạt theo sự biến động của thị trường. Thông thường để tránh rủi ro cho cả hai bên lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thị trường từng thời kỳ. Nguồn vốn cho vay. Nguồn vốn Ngân hàng có thể sử dụng phục vụ hoạt động tín dụng trung và dài hạn phải được hình thành từ những nguồn vốn ổn định và có thời gian tương đương, bao gồm: nguồn vốn tự có của Ngân hàng, nguồn huy động dưới hình thức tiền gửi trung và dài hạn, phát hành trái phiếu, nguồn vốn vay từ Ngân hàng TW, vay trên thị trường liên Ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác và một phần nguồn vốn ngắn hạn cũng có thể được dùng để cho vay trung và dài hạn. Mỗi nguồn vốn có ưu nhược điểm khác nhau, tuỳ theo tình hình cụ thể mà các Ngân hàng có phương án sử dụng các nguồn này một cách hợp lý và hiệu qủa. Tính thanh khoản thấp. Tính thanh khoản là chỉ tiêu phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của một loạt hàng hoá. Các khoản tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng có thời hạn dài nên khả năng chuyển đổi thành tiền của nó thấp hoặc muốn chuyển thành tiền thì phải chịu chi phí cao. Đây cũng là lý do các Ngân hàng đặt mức lãi suất cao cho các khoản tín dụng trung và dài hạn. Cũng do đặc điểm tính thanh khoản thấp mà nó tác động đến tính thanh khoản của Ngân hàng. Vì vậy các Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ để đưa ra được một cơ cấu hợp lý các khoản tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn sao cho phù hợp với cơ cấu nguồn vốn. Nguyên tắc và điều kiện cho vay. Muốn được cấp tín dụng trung và dài hạn, khách hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc cơ bản sau: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Khi vay vốn trung và dài hạn, người vay phải soạn thảo được dự án đầu tư. Dự án đầu tư phải thể hiện rõ ràng, đầy đủ việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Mục đích của dự án đầu tư phải bảo đảm lợi ích chính đáng của chủ đầu tư trên cơ sở pháp luật, vừa phải phù hợp với đường lối chính sách phát triển kinh tế của đất nước; hoạt động của dự án không gây ảnh hưởng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội. Dự án đầu tư phải được cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Vốn vay phải được hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Vốn vay phải được bảo đảm theo quy định. Trên cơ sở các nguyên tắc trên, mỗi ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc, các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện đối với vốn vay của Ngân hàng. Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản cụ thể thì có thể khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi Ngân hàng 1.2.3. Quy trình tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Ninh. Quy trình cho vay là một tập hợp các thao tác, thủ tục mà cán bộ tín dụng phải làm khi thực hiện xem xét một khoản một khoản vay đối với người xin vay. Quy trình tín dụng là những quy định của cơ quan cấp trên quản lý Ngân hàng ban hành, buộc Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải tuân thủ. Quy trình tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh bao gồm các bước cơ bản sau: Bước 1: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp hợp lệ của hồ sơ. 1.1- Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn: Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm hướng dẫn khách hàng lập và hoàn thiện hồ sơ vay vốn. Hồ sơ gồm những nội dung cơ bản sau: Giấy đề nghị vay vốn; Hồ sơ pháp lý về khách hàng; Hồ sơ về tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính; Hồ sơ về dự án vay vốn; Hồ sơ về đảm bảo tiền vay. 1.2- Kiểm tra hồ sơ và tiếp nhận hồ sơ: Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm kiểm tra tính đầy đủ về số lượng và tính pháp lý của hồ sơ vay vốn, báo cáo trưởng phòng xin ý kiến chỉ đạo về việc thực hiện các bước tiếp theo hoặc bổ xung thêm tài liệu hoàn thiện quá trình thẩm định và quyết định cho vay. Bước 2: Thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ. 2.1. Thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ. Cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định chịu trách nhiệm tiến hành thẩm định những nội dung sau: Thẩm định về năng lực pháp lý của khách hàng; Thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính, năng lực hoạt động và uy tín của khách hàng. Thẩm định về khả năng đáp ứng nguồn vốn, lãi suất, thời hạn cho vay của bản thân Ngân hàng. Thẩm định về hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Thẩm định về kinh tế kỹ thuật của dự án theo nội dung hướng dẫn thẩm định ban hành. Thẩm định các biện pháp bảo đảm tiền vay. 2.2. Lập tờ trình trình trưởng phòng tín dụng và trình lãnh đạo để tiến hành kiểm tra lại hồ sơ vay vốn, bổ xung thêm thông tin về khách hàng... và tiến hành ra quyết định cho vay. Bước 3: Quyết định cho vay. 3.1. Quyết định cho vay phải thể hiện rõ các ý kiến về việc chấp thuận cho vay, đề nghị các phòng tham gia thẩm định giải trình thêm các vướng mắc; việc từ chối quyết định không cho vay phải đưa ra lý do từ chối. 3.2. Quyết định cho vay phải gửi thông báo cho khách hàng bằng văn bản. Trường hợp thuộc thẩm quyền phán quyết của chi nhánh, cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm dự thảo văn bản trả lời khách hàng theo ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo. Trường hợp vượt quyền phán quyết của Chi nhánh, CBTD chịu trách nhiệm tập hợp hồ sơ khách hàng, dự thảo tờ trình trình Hội sở chính xét duyệt. 3.3. Thời hạn xem xét quyết định cho vay: Trong thời hạn không quá 25 ngày làm việc đối với dự án nhóm A, 18 ngày làm việc đối với dự án nhóm B và 12 ngày làm việc đối với dự án còn lại kể từ khi Chi nhánh nhận đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết từ phía khách hàng theo yêu cầu của chi nhánh Bước 4: Giải ngân, kiểm tra giám sát. 4.1. Hoàn thiện các điều kiện trước khi giải ngân: thực hiện bảo đảm tiền vay, các điều kiện khác ghi trong hợp đồng tín dụng trước khi giải ngân. CBTD chịu trách nhiệm yêu cầu khách hàng hoàn thiện đầy đủ điều kiển trước khi giải ngân đã ghi trong hợp đồng tín dụng. 4.2. Giải ngân. 4.3. Kiểm tra giám sát qúa trình vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ của khách hàng Bước 5: Thu nợ, thu lãi, phí và sử lý phát sinh. Bước 6: Kết thúc hợp đồng tín dụng. 1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại. 1.3.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng là một khái niệm còn khá mới mẻ trong kinh doanh Ngân hàng, nó phản ánh kết quả của hoạt động tín dụng. Chất lượng tín dụng được xác định bằng một tổng thể các tiêu chí cả trìu tượng lẫn cụ thể. Như ta đã biết, mỗi khoản tín dụng của NHTM khi được tài trợ ra nền kinh tế đều thu hút sự quan tâm của các bên, cụ thể là khách hàng- người đi vay, Ngân hàng- người cho vay, và bên thứ ba là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó chất lượng tín dụng sẽ được xem xét từ nhiều phía theo các tiêu chí của mỗi bên. Thứ nhất, xét từ giác độ khách hàng: Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu khách hàng sẽ giúp Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của khách hàng, từ đó tìm cách thoả mãn nhu cầu của họ. Trong bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào, doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì việc quan tâm đến chất lượng là điều tất yếu, vì khi chất lượng được bảo đảm mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cuả khách hàng, đồng thời giúp cho Ngân hàng nâng cao thị phần. Chất lượng tín dụng là sự thoả mãn yêu cầu hợp lý ( người gửi tiền, người vay tiền) với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo thu hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng, phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế xã hội, góp phần lành mạnh tài chính doanh nghiệp, cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại và phát triển cuả Ngân hàng. Thứ hai, xét từ giác độ nền kinh tế xã hội. Trong những năm gần đây, hoạt động tín dụng trung và dài hạn phản ánh rõ nét sự tác động đối với nền kinh tế. Các doanh nghiệp mọc lên ngày càng nhiều, vì vậy nhu cầu tín dụng trung và dài hạn cũng ngày càng lớn. Hơn nữa trong điều kiện Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là một đòi hỏi bức xúc. Vì vậy chất lượng tín dụng phản ánh sự hoạt động có hiệu qủa của nền kinh tế. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và hạn chế các tệ nạn xã hội, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế. Thứ ba, xét từ giác độ Ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn thể hiện ở phạm vi mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng thực lực theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận cao và gia tăng, mức dư nợ tăng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong nền kinh tế. Có thể khẳng định các lợi ích mà tín dụng trung và dài hạn mang lại, thì việc nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là việc làm quan trọng và cần thiết của Ngân hàng. Qua đó có thể rút ra: - Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng đối với sự thay đổi của môi trường, nó phản ánh sức mạnh của một Ngân hàng trong qúa trình cạnh tranh để tồn tại - Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về lãi suất, chi phí nghiệp vụ. - Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Do đó, để đạt được chất lượng cần có sự quản lý khoa học chặt chẽ. 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 1.3.2.1. Doanh số cho vay và tốc độ tăng doanh số c._.ho vay. Doanh số cho vay phản ánh khối lượng tín dụng mà Ngân hàng tài trợ trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Tốc độ tăng doanh số cho vay phản ánh xu hướng của hoạt động tín dụng trung và dài hạn của một Ngân hàng. Doanh số cho vay và tốc độ tăng doanh số cho vay một phần phản ánh được chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Tuy nhiên đây mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để khẳng định chất lượng tín dụng trung và dài hạn của một Ngân hàng là tốt hay không tốt. Cần phải kết hợp xem xét với các chỉ tiêu khác để có thể đánh gía một cách chính xác hơn. 1.3.2.2. Hiệu suất sử dụng vốn. Dư nợ cho vay trung và dài hạn Hiệu suất sử dụng vốn = Tổng nguồn vốn trung và dài hạn Chỉ tiêu phản ánh quy mô tín dụng trung và dài hạn so với tổng tài sản của Ngân hàng tại một thời điểm. Tỷ lệ này mà thấp cho thấy các Ngân hàng dè dặt hạn chế trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Ngược lại tỷ lệ này mà cao chứng tỏ các khoản cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của Ngân hàng, đây sẽ là điều tốt khi Ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào và ổn định, đồng thời cũng thể hiện việc quản lý các khoản tín dụng của Ngân hàng có thể là tốt. Ngược lại, nếu một Ngân hàng không có tiềm lực về vốn trung và dài hạn lại cho vay trung và dài hạn quá nhiều thì nguy cơ rủi ro cho Ngân hàng là rất lớn, Ngân hàng có thể mất khả năng thanh toán bất cứ lúc nào nếu khách hàng ồ ạt đến rút tiền. Do vậy khi xem xét chỉ tiêu này cần phải kết hợp xem xét cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng. 1.3.2.3. Chỉ tiêu quay vòng vốn. Vòng quay vốn Doanh số thu nợ trung và dài hạn = trung và dài hạn Tổng dư nợ trung và dài hạn bình quân Chỉ tiêu này được tính toán để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng trung và dài hạn và chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong việc thoả mãn nhu cầu khách hàng, cho ta biết Ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín dụng được bao nhiêu để có thể cho vay dự án mới, giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích: Nhà nước, khách hàng và Ngân hàng. Vòng quay vốn trung và dài hạn phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín dụng trung và dài hạn ( thường là 1 năm) : phản ánh một đồng vốn của Ngân hàng một năm được sử dụng mấy lần. Vòng quay càng lớn chứng tỏ nguồn vốn trung và dài hạn của Ngân hàng luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh hàng hoá. Đồng thời phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn tín dụng trung và dài hạn nói riêng và vốn tín dụng nói chung của Ngân hàng là tốt, chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cao. Với một lượng vốn nhất định, nhưng vòng quay vốn nhanh, Ngân hàng có thể đáp ứng được phần lớn nhu cầu khách hàng. Chỉ số này cao còn thể hiện hiệu quả cho vay của Ngân hàng, một đồng vốn cho vay nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy vậy, cần xét đến yếu tố quan trọng là dư nợ cho vay bình quân. Thực chất, khi dư nợ bình quân thấp, làm cho vòng quay lớn không có nghĩa là tốt, bởi thực chất nó thể hiện khả năng cho vay kém của Ngân hàng. 1.3.2.4. Chỉ tiêu nợ quá hạn. Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khoảng thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian được gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Thông thường đây được coi là những khoản nợ có vấn đề khi những khoản cho vay đã quá hạn ít nhất 90 ngày. Trong quan hệ tín dụng tính an toàn hay khả năng trả nợ của người vay là yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành lên chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã vi phạm nguyên tắc tín dụng và bị chuyển thành nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó tất yếu có nợ quá hạn. Song nếu một Ngân hàng có quá nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh vì có nguy cơ mất vốn, mà đây là điều tệ hại dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán và làm giảm thu nhập cuả Ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cho nợ quá hạn cho vay trung và dài hạn = vay trung và dài hạn tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn cho biết trong tổng dư nợ trung và dài hạn có bao nhiêu phần trăm là nợ quá hạn. Tỷ lệ này càng cao thể hiện Ngân hàng có nhiều khoản nợ trung và dài hạn quá hạn hay chất lượng tín dụng trung và dài hạn là thấp. Ngược lại, chất lượng tín dụng là cao khi tỷ lệ này càng thấp. Thông thường thì tỷ lệ nợ quá hạn <= 3% thì tốt. Tuy nhiên chỉ tiêu này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. Bởi vì bên cạnh những Ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp hợp lý là do họ đã thực hiện tốt các khâu cuả quá trình cho vay từ thẩm định xét duyệt dự án đến kiểm tra kiểm soát hay đôn đốc thu hồi nợ và những biện pháp xử lý nợ quá hạn... còn có những Ngân hàng có được tỷ lệ nợ quá hạn thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định, Ngân hàng có thể hợp thức hoá toàn bộ chứng từ sổ sách từ khâu thu nợ của khế ước cũ, lập khế ước cho vay lại, lập bảng kê thu chi tiền mặt, vào nhật ký quỹ đầy đủ rất khó phát hiện. Thậm chí có trường hợp nợ mới cao hơn nợ cũ, tạo điều kiện cho khách hàng vừa trả được vốn gốc và lãi của nợ cũ vừa lĩnh thêm một số tiền mới. Đây là việc làm hết sức nguy hiểm vì nó đẩy Ngân hàng tiến sâu hơn vào tình trạng rủi ro và chất lượng cũng như hiệu quả giảm. Như vậy đây là một chỉ tiêu quan trọng và có ý nghĩa trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng nhưng do những nguyên nhân trên mà chỉ tiêu này mất đi ý nghĩa của nó. Do vậy việc đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng phải kết hợp nhiều chỉ tiêu khác nhau. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. 1.3.3.1. Nhóm nhân tố khách quan. Các doanh nghiệp cũng như Ngân hàng đều tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong một môi trường kinh tế xã hội nhất định, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, xã hội, sự điều tiết của Chính phủ, các phong tục tập quán... ở đây xin đưa ra một số tác động chủ yếu sau: Về kinh tế: Về tổng thể, nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng Ngân hàng. Khi đó các quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói riêng phát triển lành mạnh, ổn định, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho khả năng cho vay và trả nợ không bị biến động lớn. Và như thế cả quy mô và chất lượng tín dụng trung và dài hạn đều được nâng cao. Một khi môi trường kinh tế không ổn định, môi trường kinh doanh biến động sẽ gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt khu vực kinh tế NQD - khu vực có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn là rất lớn- nhưng hiện nay việc mở rộng cho vay đối với những đối tượng này rất hạn chế thì quy mô và chất lượng tín dụng trung và dài hạn cũng bị ảnh hưởng, mà trước hết là nợ quá hạn tăng, sau đó là quy mô tín dụng giảm dần. Nói một cách giản đơn là trong giai đoạn sản xuất đình trệ, nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn là rất thấp bởi vì rất ít có cơ hội đầu tư và các doanh nghiệp cũng khó có khả năng đi vay các Ngân hàng hay khó có khả năng trả được các khoản nợ trước đó đã đến hạn. Ngoài ra lợi nhuận bình quân thấp cũng đã ảnh hưởng đến lợi nhuận Ngân hàng. Nhóm xã hội: Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin. Sự tín nhiệm là cầu nối Ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng nào có uy tín sẽ thu hút được nhiều khách hàng lớn, khách hàng nào làm ăn hiệu quả, được tín nhiệm trong quan hệ tín dụng sẽ được vay vốn dễ dàng, được hưởng các ưu đãi của Ngân hàng. Thị trường tài chính càng phát triển thì môi trường cạnh tranh càng phát triển khốc liệt hơn. Môi trường cạnh tranh là yếu tố tác động đến chất lượng tín dụng mạnh mẽ theo cả hai hướng: Thứ nhất, để có thể cạnh tranh tốt Ngân hàng phải có đội ngũ nhân viên có trình độ, trang thiết bị tốt, điều này sẽ tạo thêm uy tín cho Ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng. Thứ hai, dưới áp lực của cạnh tranh, các Ngân hàng có thể bỏ qua những điều kiện tín dụng cần thiết khiến cho độ rủi ro tăng lên, chất lượng tín dụng giảm xút. Nhóm nhân tố pháp lý. Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập một môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả cao, là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp. Vì vậy nhân tố pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Chỉ có trong điều kiện các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng tuân thủ một cách nghiêm túc thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho cả hai phía, chất lượng tín dụng trung và dài hạn mới được đảm bảo. Nhân tố pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp cũng như hoạt động của Ngân hàng. Đôi khi nó gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Về phía chính phủ. Chính phủ can thiệp và điều tiết thông qua chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ có ảnh hưởng đến các vấn đề như lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, các điều kiện cho vay. Sự can thiệp của Chính phủ có thể gây tác động xấu hoặc tốt đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Ngoài những nhân tố trên, chất lượng tín dụng trung và dài hạn còn chịu tác động của các nhân tố bất khả kháng như thiên tai hoả hoạn, dịch bệnh... những nguyên nhân này là khó phòng tránh nhất nhưng chiếm tỷ lệ không lớn và Ngân hàng thường được chia sẻ rủi ro bởi các công ty bảo hiểm hoặc được Nhà nước hỗ trợ. 1.3.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan. Về phía Ngân hàng: Chiến lược kinh doanh dài hạn của Ngân hàng: Không chỉ Ngân hàng mà bất kỳ một tổ chức hay doanh nghiệp nào hoạt động đều phải có chiến lược dài hạn. Đối với Ngân hàng chiến lược kinh doanh phải hướng đến mục tiêu an toàn, hiệu quả. Trong chiến lược kinh doanh các nhà quản lý đề ra các định hướng, nguyên tắc hoạt động, các mục tiêu cần đạt và phương pháp tiến hành, nó được cụ thể hoá bằng các kế hoạch hoạt động. Chiến lược kinh doanh ảnh hưởng lớn đến chiến lược tín dụng. Một chiến lược tín dụng đúng đắn và được thực hiện tốt trên cơ sở một chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Một chiến lược kinh doanh tồi sẽ làm Ngân hàng trở lên bị động dễ mắc sai lầm trong ra quyết định, không bắt kịp với những thay đổi của môi trường bên ngoài. Nhiều hoạt động gặp khó khăn sẽ dẫn đến công tác tín dụng không được coi trọng hay không nhận được sự trợ giúp, cộng tác từ các công tác khác như thẩm định, giám sát khách hàng, kế toán.... điều này làm cho chất lượng hoạt động này đi xuống. Chính sách tín dụng của Ngân hàng. Chính sách tín dụng là một hệ thống các chỉ tiêu mà Ngân hàng đặt ra và các biện pháp cụ thể để thực hiện các chỉ tiêu đó. Chính sách tín dụng phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Ngân hàng. Chính sách đó phải đảm bảo phù hợp với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, đồng thời phải kết hợp được với lợi ích của người gửi tiền, của Ngân hàng và của người vay tiền. Chính sách tín dụng đúng đắn phải được phản ánh bằng việc hoạt động tín dụng tuân thủ pháp luật, chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước, thu hút được nhiều khách hàng. Nắm chắc và theo sát chủ trương đường lối chính là xác định cho mình một hướng đi thuận lợi. Chính sách tín dụng cho ta biết trong một thời kỳ, Ngân hàng chú trọng vào loại hình tín dụng ngắn hạn trung hạn hay dài hạn. Chính sách tín dụng cũng đưa ra các quy định về điều kiện tín dụng, tiêu chuẩn tín dụng đối với khách hàng, lĩnh vực tài trợ, quy mô các khoản vay, hình thức cấp tín dụng, lãi suất... trực tiếp hay gián tiếp tác động đến chiến lược tín dụng của Ngân hàng. Xây dựng và thực hiện tốt chính sách tín dụng là tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng hiểu một cách đơn giản là các bước tiến hành quá trình từ cho vay đến thu nợ nhằm bảo toàn vốn tín dụng. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà mỗi Ngân hàng sẽ có các quy trình riêng. Chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không phụ thuộc vào việc thực hiện tốt các các quy định của từng bước và sự hợp lý của các bước trong quá trình. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng, đảm bảo vốn tín dụng được luân chuyển bình thường, đúng kế hoạch. Một quy trình tín dụng không phù hợp do thiếu các bước hoặc đủ nhưng tiến hành không tốt sẽ có thể dẫn ngay đến một khoản vay xấu, hoặc một quy trình chặt chẽ quá mức cũng bị coi là không hợp lý, không cần thiết, gây tốn kém mất thời gian và có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội. Việc linh hoạt trong quy trình tín dụng sẽ gây được cảm tình cho khách hàng. Quy trình khoa học hợp lý cho phép đảm bảo thực hiện các khoản vay có chất lượng và đảm bảo thực hiện các yêu cầu thể lệ trong quy chế tín dụng. Năng lực của Ngân hàng trong việc thẩm định dự án đầu tư, thẩm định khách hàng và khả năng giám sát việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Một khoản tín dụng được đánh giá là có chất lượng khi nợ gốc và lãi vay được hoàn trả đúng theo hợp đồng. Điều này sẽ không thể có được nếu dự án cho vay không có tính khả thi, việc thực hiện dự án không mang lại hiệu quả như mong muốn, doanh nghiệp không có thiện chí, cố tình lừa đảo Ngân hàng. Để hạn chế được những nguy cơ này, thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng có vai trò rất quan trọng. Ngân hàng thẩm định khách hàng trên các phương diện: khả năng tài chính, khả năng quản lý điều hành hoạt động kinh doanh, năng lực sản xuất kinh doanh, mức độ tín nhiệm, uy tín của khách hàng, quan hệ với các tổ chức tín dụng khác... Ngân hàng xem xét tới dự án đầu tư về các mặt: đánh giá sơ bộ theo các nội dung chính của dự án; phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ; đánh giá về phương diện tổ chức quản lý thực hiện dự án, thẩm định tổng vốn đầu tư và tính khả thi của phương án nguồn vốn; đánh giá hiệu quả về mặt tài chính và khả năng trả nợ của dự án... Làm tốt công tác thẩm định, Ngân hàng sẽ lựa chọn được những khách hàng tốt và dự án đầu tư có hiệu quả, là điều kiện để nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên, đó chưa phải là sự bảo đảm chắc chắn để có được chất lượng tín dụng cao, nhất là với tín dụng trung và dài hạn. Bởi lẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian dài luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được. Bản thân dự án trong quá trình thực hiện cũng phát sinh những tình huống không đoán trước. Chính vì vậy, công tác giám sát thực hiện dự án và khả năng xử lý các tình huống đột xuất sau khi cho vay là rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các nội dung sau: mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp sau khi được vay, tình hình hoạt động thực tế của dự án, tiến độ trả nợ, việc sử dụng và sự biến động về tài sản của doanh nghiệp... Công tác giám sát và xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong qúa trình thực hiện dự án giúp Ngân hàng ngăn chặn được những tiêu cực như việc sử dụng vốn sai mục đích, âm mưu lừa đảo Ngân hàng... ngăn ngừa những rủi ro lớn cho Ngân hàng. Thông qua công tác giám sát, Ngân hàng có những lời khuyên, thông tin tín dụng trung và dài hạn kịp thời bổ ích, giúp đỡ doanh nghiệp gặp khó khăn, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng là những thông tin về khách hàng, môi trường kinh doanh của khách hàng, rủi ro mà khách hàng có thể gặp phải. đó là vấn đề thông tin không cân xứng và sự lựa chọn đối nghịch. ở bất kỳ lĩnh vực nào, thông tin cũng là yếu tố rất quan trọng và cần thiết cho công tác quản lý. Đối với Ngân hàng, để thực hiện tốt công tác thẩm định dự án đầu tư, thẩm định khách hàng, đòi hỏi phải có một lượng thông tin lớn bao quát mọi vấn đề, đặc biệt với cho vay trung và dài hạn. Thông tin không chính xác không đầy đủ thì Ngân hàng không thể đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên giám sát việc thực hiện dự án và những hoạt động liên quan đến nguồn trả nợ, tài sản đảm bảo của khách hàng. Nếu không nắm bắt được thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài sản, biến động của thị trường, sự thay đổi về chính sách của Nhà nước... thì công tác giám sát của Ngân hàng không có hiệu quả, mức độ an toàn của hoạt động tín dụng trung và dài hạn thấp. Ngược lại thông tin mà đầy đủ, chính xác và kịp thời sẽ giúp Ngân hàng ra quyết định cho vay đúng đắn đồng thời giám sát và xử lý kịp thời những biểu hiện không tốt trong quá trình sử dụng vốn vay. Hoạt động huy động vốn. Ngân hàng hoạt động dựa trên nguyên tắc đi vay để cho vay, đóng vai trò là trung gian tài chính. Vì vậy, muốn mở rộng cũng như nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng thì trước hết phải huy động được nguồn nhất là nguồn vốn trung và dài hạn. Ngân hàng cần đưa ra những chính sách chiến lược hợp lý để thu hút được nhiều hơn loại nguồn vốn này. Nguồn vốn càng huy động được nhiều thì quy mô cho vay càng lớn. Và chất lượng của nguồn huy động cũng gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn cuả Ngân hàng. Công tác tổ chức của Ngân hàng. Tổ chức của Ngân hàng được tổ chức sắp xếp một cách khoa học đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng giữa các phòng ban trong Ngân hàng sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của Ngân hàng, giúp Ngân hàng quản lý sát sao các khoản cho vay. Đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh, nâng cao chất lượng tín dụng Kiểm soát nội bộ: Đây là biện pháp nhằm hạn chế những sai sót của cán bộ tín dụng, là biện pháp mang tính chất ngăn ngừa những vi phạm quy trình nghiệp vụ. Thông thường ở đâu công tác tín dụng làm tốt, ở đó chất lượng tín dụng được nâng cao. Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất. Chất lượng nhân sự là trình độ năng lực cũng như phẩm chất đạo đức của người cán bộ Ngân hàng có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng, nhất là với tín dụng trung và dài hạn. Trình độ năng lực thể hiện là khả năng thẩm định, đánh giá dự án đầu tư, đánh giá khả năng quản lý của người đi vay, tình hình tài chính... đồng thời nó còn thể hiện sự hiểu biết của người cán bộ về loại hình sản xuất kinh doanh mà dự án tiến hành, từ đó có thể định ra được kỳ hạn cho vay thích hợp, đảm bảo khả năng thu hồi nợ. Sự hạn chế về trình độ dẫn tới làm sai quy trình quy phạm cho vay, bị khách hàng lừa đảo... Tuy nhiên điều đó chưa nguy hại bằng việc nhân viên Ngân hàng do sự yếu kém về phẩm chất đạo đức, cấu kết với khách hàng lừa đảo chính Ngân hàng mình. Cơ sở vật chất là máy móc phương tiện làm việc của Ngân hàng. Nó góp phần làm cho hoạt động huy động vốn - cho vay được nhanh chóng... Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của Ngân hàng, đến tâm lý khách hàng khi đến Ngân hàng để gửi tiền hoặc vay tiền. Về phía khách hàng. Tham gia vào quan hệ tín dụng, khách hàng có tác động rất lớn đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn bởi hiệu quả và chất lượng tín dụng dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. Do vậy, khi cho vay, Ngân hàng cần đánh giá được năng lực của khách hàng trên các phương diện: Khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn tín dụng của Ngân hàng; trong việc quản lý và sử dụng khoản vay có hiệu quả. Điều kiện tín dụng là những điều kiện mà Ngân hàng đặt ra đối với khách hàng khi cho vay nhằm bảo đảm an toàn, tránh rủi ro cho các NHTM. Khách hàng muốn vay được vốn thì phải thì phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng. Do đặc trưng của vốn vay trung và dài hạn nên điều kiện tín dụng cũng chặt chẽ và yêu cầu doanh nghiệp đáp ứng ở mức độ cao hơn. ở từng Ngân hàng cụ thể, điều kiện tín dụng có thể khác nhau, song nhìn chung các Ngân hàng đều quan tâm đến một số vấn đề sau: Mục đích sử dụng vốn vay: Doanh nghiệp khi vay vốn phải trình bày mục đích sử dụng vốn vay. Mục đích này phải hợp lý, không trái với pháp luật hiện hành đồng thời phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế nói chung của ngành, của địa phương và của cả nước. Hoạt động của dự án không gây ảnh hưởng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Dự án đầu tư phải được cơ quan có thẩm quyền thẩm định và phê duyệt. Năng lực tài chính và năng lực sản xuất kinh doanh. Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở tỷ trọng và quy mô vốn tự có của doanh nghiệp khi tham gia vào dự án. Quy mô vốn và tỷ trọng vốn tự có càng cao cho thấy tiềm lực tài chính của doanh nghiệp càng mạnh. Tỷ trọng vốn tự có của doanh nghiệp tham gia vào dự án còn có tác dụng kích thích doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm trong việc thực hiện dự án nhằm tránh rủi ro cho chính doanh nghiệp đó và cho cả Ngân hàng. Thông thường tỷ lệ này được quy định tối thiểu trong điều kiện tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên tuỳ vào mức độ tín nhiệm đối với từng khách hàng cụ thể mà các Ngân hàng áp dụng mức tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án khác nhau. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn quan tâm đến khả năng thanh toán thông qua xem xét cơ cấu tài sản của doanh nghiệp. Việc đáp ứng yêu cầu thanh toán còn phụ thuộc khá lớn vào cơ cấu tài sản của doanh nghiệp xếp theo tính lỏng. Năng lực tài chính càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp, Ngân hàng cần kết hợp xem xét về năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện ở quy mô, năng suất, quy trình sản xuất, tổ chức bán hàng... Nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp giúp Ngân hàng đáp ứng được khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng giá cả, khả năng sinh lời và khả năng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó đánh giá khả năng thanh toán đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Trong điều kiện tín dụng, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải hoạt động ổn định và kinh doanh có lãi trong khoảng thời gian nhất định. Tính khả thi của dự án. Dự án vay vốn phải khả thi là yêu cầu bắt buộc trong điều kiện tín dụng của Ngân hàng. Dự án khả thi là dự án mà việc thực hiện nó là cần thiết, đáp ứng yêu cầu thị trường, nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế của ngành, của vùng và của Nhà nước. Như vậy khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Bởi vì nếu đa số khách hàng không đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng, có thể là do những điều kiện đó quá khắt khe, hoặc do tình trạng của doanh nghiệp là quá kém, Ngân hàng không thể cho vay đồng thời vẫn đảm bảo an toàn tín dụng được. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng Ngân hàng của doanh nghiệp mới chỉ là điều kiện cần của việc bảo đảm chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay hiệu quả của doanh nghiệp là điều kiện đủ để đảm bảo chất lượng tín dụng của Ngân hàng là tốt. Khả năng quản lý và sử dụng các khoản vay của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp sau khi nhận được vốn vay sẽ sử dụng nó như thế nào. Việc quản lý dòng tiền vào ra của dự án chặt chẽ hay lỏng lẻo? Cách thức tổ chức hạch toán kế toán và quản lý tài chính có phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật không? Đây là những yếu tố rất quan trọng, trên cơ sở những kết luận rút ra khi đến điều tra tại doanh nghiệp, xem xét đánh giá từng người cụ thể trong bộ máy quản lý, các mối quan hệ xã hội, quan hệ nội bộ doanh nghiệp để ra quyết định cho vay. Chương 2 Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Bắc Ninh. 2.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng dầu tư và phát triển tỉnh bắc ninh. 2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, giữ vai trò chủ đạo về lĩnh vực đầu tư và phát triển, là ngân hàng chuyên nghành về lĩnh vực đầu tư phát triển được thành lập sớm nhất Việt Nam, đã có hơn 46 năm hoạt động và trưởng thành; có chức năng huy động vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trong nước và ngoài nước để đầu tư và phát triển; kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ; tín dụng; dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng; làm ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ cho đầu tư phát triển từ các nguồn của chính phủ, các tổ chức kinh tế tài chính tiền tệ, các tổ chức kinh tế xã hội đoàn thể cá nhân trong và ngoài nước . Ngân hàng ĐT &PT VN được thành lập theo nghị định số 117/TTg ngày 26/4/1957 của thủ tướng chính phủ và được thành lập theo mô hình tổng công ty Nhà nước quy định tại quyết định số 90/ TTG ngày 07/03/1994. Bốn mươi sáu năm qua, NHĐT & PTVN đã có những tên gọi : - Ngân hàng Kiến Thiết VN từ ngày 26/4/1957 trực thuộc Bộ Tài Chính. - Ngân hàng Đầu Tư và Xây Dựng Việt Nam từ ngày 24/6/1998 trực thuộc Ngân hàng Nhà Nước. - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ngày 14/11/1990. Hơn 46 năm hoạt động xây dựng trưởng thành và đổi mới của NHĐT&PTVN gắn liền với những giai đoạn lịch sử của đất nước Việt Nam. Trong hơn 46 năm qua, NHĐT&PTVN đã lập nhiều thành tích góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng & bảo vệ Tổ Quốc. Từ những năm 90 trở về trước, nguồn vốn hoạt động của NHĐT&PTVN chủ yếu từ ngân sách Nhà nước. NHĐT&PTVN đã góp phần quan trọng trong việc cấp vốn ngân sách & quản lý có hiệu quả nguồn vốn đó. Hàng nghìn công trình then chốt của nền kinh tế quốc dân, từ các công trình hạ tầng cơ sở đến các công trình sản xuất ra của cải vật chất, đều do NHĐT&PTVN đảm nhiệm và phục vụ tốt phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong các thời kỳ và giai đoạn lịch sử: Từ năm 1957 – 1965: là thời kì phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh chống Pháp. Từ năm 1965 – 1975: là thời kì phục vụ công cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc và công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Từ năm 1975 – 1989: Là thời kì phục vụ công cuộc phục hồi, phát triển kinh tế của đất nước sau chiến tranh. Nhất là từ năm 1990 trở lại đây sau khi có 2 pháp lệnh về ngân hàng, đó là pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính, NHĐT&PTVN đã thực hiện thành công những thử nghiệm hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước và của ngành Ngân hàng về chống bao cấp trong đầu tư cũng như trong hoạt động Ngân hàng. Trong quá trình đổi mới và phát triển, NHĐT&PTVN đã trưởng thành nhanh chóng, đạt được những thành tích đáng khích lệ: Luôn lấy hiệu quả, an toàn của hoạt động sản xuất kinh doanh làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước, ổn định tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo được niềm tin, chữ tín với khách hàng trong và ngoài nước . Những kết quả và thành tựu đạt được trong hơn 46 năm qua của NHĐT&PTVN là do sự nỗ lực vượt bậc của NHĐT&PTVN với những giải pháp tổng thể và đồng bộ, với nghị lực sáng tạo và trí tuệ, với những quyết sách kịp thời và đúng đắn, với sự quan tâm theo dõi và chỉ đạo thường xuyên ân cần của các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước từ đồng chí Tổng Bí thư BCH TW Đảng, đồng chí Thủ tướng Chính Phủ đến các đồng chí trong thường vụ Chính phủ, ban cán sự và Thống đốc NHNN, các đồng chí lãnh đạo của bộ ngành và địa phương, sự hợp tác có hiệu quả của bè bạn, khách hàng trong và ngoài nước. 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh NHĐT&PT tỉnh Bắc Ninh. Là một chi nhánh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi nhánh ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh mà tiền thân là chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thị xã Bắc Ninh thuộc tỉnh Hà Bắc cũ được chính thức ra đời và hoạt động ngày 1/1/1997 khi tỉnh Bắc Ninh được tái thiết lập. Tính đến thời điểm hiện nay, chi nhánh đã trải qua hơn 7 năm xây dựng và phát triển, từ cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh còn nhỏ bé, nguồn vốn kinh doanh còn hạn hẹp và phụ thuộc, thị phần tín dụng chỉ dừng lại ở khách hàng truyền thống trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, hoạt động dịch vụ chưa phát triển, đội ngũ cán bộ còn thiếu nhưng được sự quan tâm và chỉ đạo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh, tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân, NHNN tỉnh Bắc Ninh cùng với sự nỗ lực quyết tâm của Chi nhánh, cho đến nay Chi nhánh đã mở rộng phát triển các loại hình kinh doanh, phấn đấu tạo nguồn vốn kinh doanh đủ mạnh để phục vụ cho tăng trưởng tín dụng, tiến hành mở rộng và phát triển các loại hình dịch vụ trong đó có thanh toán Quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, xây dựng xong cơ sở vật chất, trang thiết bị để phục vụ lâu dài cho sản xuất kinh doanh, giữ vững vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh. 2.1.3.1. Cơ cấu nguồn nhân lực của Ngân hàng. Từ khi chính thức thành lập cho đến nay, Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT tỉnh Bắc Ninh đã trải qua hơn 7 năm xây dựng và phát triển. Cùng với sự mở rộng phát triển trên các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn nhân lực tại Ngân hàng cũng không ngừng được mở rộng, nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Hiện tại Ngân hàng bao gồm 77 cán bộ nhân viên được phân công bố trí vào các phòng ban cụ thể. Tuổi đời nhân viên hiện nay bình quân là 34,5 tuổi đây là nguồn nhân lực trẻ cả tuổi đời và tuổi nghề. Chính điều này đã tạo thuận lợi cho Ngân hàng vì lớp cán bộ trẻ đại diện cho một thế hệ thanh niên hiện đại, năng động sáng tạo, đem lại một hình ảnh mới cho Ngân hàng. Tuy nhiên đây cũng là một trở ngại lớn cho Ngân hàng, vì những cán bộ này chưa có nhiều những kinh nghiệm thực tế, thiếu sự cọ sát, do vậy gặp nhiều khó khăn trong việc sử lý các nghiệp vụ cụ thể. Vì vậy có thể gây ra nhiều khó khăn cho Ngân hàng. Về mặt trình độ chuyên môn nghiệp vụ, Chi nhánh liên tục nhận những cán bộ được đào tạo cơ bản cũng như rất quan tâm._.cho vay dân cư đảm bảo đúng luật pháp, an toàn và tăng doanh lợi. Thẩm định tốt hơn nữa công tác thẩm định dự án đầu tư trong cho vay trung và dài hạn, thực hiện kiểm tra kiểm soát ở cả ba khâu trước trong và sau khi cho vay để tiếp tục phát huy kết quả của năm 2003 là không để có nợ quá hạn trung và dài hạn xảy ra đồng thời phấn đấu hạn chế nợ quá hạn đối với khoản tín dụng ngắn hạn, hạn chế lãi treo điều chỉnh kỳ hạn, gia hạn nợ. Thực hiện phối hợp cho vay đồng tài trợ với các dự án quan trọng của Nhà nước, các dự án lớn nhằm phân tán rủi ro cho Ngân hàng. Nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các dự án thuộc các KCN tập trung như KCN Tiên Sơn, các dự án KCN Quế Võ, cho vay làng nghề và đa nghề, góp phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh trong xu thế phát triển kinh tế của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế. Gắn tín dụng với phát triển dịch vụ, đẩy mạnh cho vay kết hợp với nhiều hình thức vay vốn, đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng. 3.1.4. Các công tác khác. Về công nghệ thông tin: Tiếp tục thực hiện triển khai dự án hiện đại hoá Ngân hàng theo chủ trương của NHĐT&PTVN đã vạch ra. Thực hiện triển khai các chương trình ứng dụng công nghệ tin học trong quản trị điều hành, trong các hoạt động nghiệp vụ tại Chi nhánh. Thực hiện phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ trong toàn thể Chi nhánh, tạo điều kiện cho các cán bộ trẻ được học hỏi kinh nghiệm, giúp công tác xử lý nghiệp vụ được nhanh hơn chính xác và đáp ứng tốt hơn nhu cầu phục vụ khách hàng. Triển khai các chương trình kiểm tra kiểm toán nội bộ, tăng cường kiểm tra, kiểm toán, đánh giá các rủi ro lớn hoặc hoạt động có liên quan đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ phải được làm đúng theo các chương trình kế hoạch đã vạch ra, các sai phạm cần được chỉnh sửa uốn nắn kịp thời; phối hợp tốt với thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong quá trình thanh tra. Về công tác quản trị điều hành: Thực hiện tốt công tác phối hợp giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể; thường xuyên bám sát chế độ thể lệ và các định hướng trong kinh doanh của NHNN, của NHĐ&PTVN để tổ chức thực hiện chỉ đạo tại Chi nhánh có hiệu quả. Thực hiện ban hành các quy chế nội bộ về hoạt động nghiệp vụ, quy chế làm việc của các phòng và đơn vị trực thuộc, thực hiện giao ban định kỳ đều đặn. Phấn đấu thực hiện phối hợp hoạt động một cách đồng bộ hơn giữa các phòng nghiệp vụ, đặc biệt giữa bộ phận điện toán và bộ phận kế toán. 3.2. giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Bắc Ninh. 3.2.1. Tăng sức mạnh về vốn trung và dài hạn, nâng cao năng lực quản trị điều hành, quản trị lãi suất và thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn có độ rủi ro cao, do vậy rất cần những nguồn vốn có tính ổn định, đảm bảo cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn hoạt động an toàn hiệu quả. Chính vì vậy ngân hàng cần tiến hành các hoạt động sau: - Triển khai hình thức gửi tiền tiết kiệm mới: để cải tiến rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng chi nhánh cần áp dụng hình thức “ đồng sở hữu sổ tiết kiệm” và một số nội dung mới như cho phép chuyển nhượng sổ tiết kiệm, cho phép gửi tiền thay chủ sở hữu sổ tiết kiệm, uỷ quyền giao dịch, thế chấp sổ tiết kiệm được vay vốn với lãi suất ưu đãi, gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích luỹ như một dạng của bảo hiểm nhân thọ. - Phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ, VNĐ - Tăng cường công tác khách hàng nhằm giữ vững và đẩy mạnh quan hệ với những khách hàng truyền thống, mở rộng đối tượng khách hàng là các công ty bảo hiểm để tăng nguồn tiền gửi trung và dài hạn tại chi nhánh NHĐT&PTBN. - Cân đối khả năng huy động vốn trung và dài hạn nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng an toàn hiệu quả và bền vững. do đó chi nhánh NHĐT&PTBN cần bố trí cán bộ giàu kinh nghiệm, có trình độ kiến thức. 3.2.2. Tăng cường công tác thẩm định khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh, thực hiện đổi mới công tác thẩm định. Khách hàng vay vốn trung và dài hạn của CN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Ninh chủ yếu là các công ty các doanh nghiệp lớn, do vậy công tác thẩm định khách hàng giúp cho Ngân hàng biết được doanh nghiệp đó là ai, tình hình sản xuất kinh doanh như thế nào, năng lực tài chính của doanh nghiệp đó ra sao... để từ đó đưa ra được mức độ tín nhiệm đối với khách hàng của Ngân hàng. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để Ngân hàng xác định cho vay hay không cho vay. Tăng cường công tác thẩm định khách hàng là công việc rất cần thiết trong việc đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho Ngân hàng, đảm bảo hạn chế nguy cơ rủi ro tiềm ẩn của dự án. Ngân hàng có thể tìm hiểu khách hàng từ nhiều nguồn thông tin khác nhau như: nguồn thông tin từ chính khách hàng cung cấp, nguồn thông tin từ các bạn hàng của khách hàng, nguồn thông tin từ các tổ chức khác mà Ngân hàng có quan hệ vay mượn... Từ đó Ngân hàng tập trung phân tích về năng lực pháp lý, năng lực tài chính và đánh giá tính cách uy tín của khách hàng. Năng lực pháp lý của khách hàng được xem xét theo quy định của pháp luật. Đối với doanh nghiệp: thực hiện kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của : Quyết định thành lập đối với doanh nghiệp, giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước; xem xét quyền hạn trách nhiệm của các bên trong hợp đồng liên doanh; các quy định về quyền hạn trách nhiệm trong điều lệ doanh nghiệp... Đối với khách hàng là tư nhân: phải có đủ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự, có hộ khẩu thường trú. Đối với công tác thẩm định dự án Ngân hàng cần xem xét trên hai khía cạnh: dự án có khả thi về mặt kinh tế xã hội hay không. Thông thường các Ngân hàng chỉ quan tâm đến chỉ tiêu hoàn vốn nội bộ hơn là quan tâm đến chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng tức là chỉ quan tâm đến khả năng có thu hồi được vốn hay không. Điều này là hiển nhiên vì nó có quan hệ mật thiết đến sự tồn tại của Ngân hàng. Nhưng Ngân hàng cần xem xét kết hợp cả hai chỉ tiêu sẽ có lợi hơn cho sự phát triển của doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng. Ngân hàng cần xem xét phương án thực hiện dự án có hợp lý không, thực hiện kiểm tra dự án về mức độ đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, dự án có phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh hay không. Bên cạnh công tác thẩm định dự án và khách hàng, Ngân hàng cũng cần quan tâm đến trình độ của cán bộ thẩm định. Tại NHĐT&PTBN trước đó cán bộ tín dụng thường kiêm luôn công việc thẩm định dự án đầu tư do vậy có rất nhiều hạn chế, nhưng đến năm 2004 chi nhánh đã thực hiện tách công việc của cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng vì vậy công tác thẩm định dự án đã có hiệu quả hơn, tuy nhiên công việc này vẫn chưa đạt hiệu quả cao, trình độ cán bộ thẩm định vẫn đang là vấn đề bất cập. Nếu những khoản đầu tư này rơi vào tay những cán bộ yếu về năng lực, phẩm chất tất yếu sẽ tạo ra những khoản đầu tư tồi. Lẽ dĩ nhiên là không thể đòi hỏi cán bộ thẩm định phải hiểu biết về các ngành nghề định đầu tư như dây truyền công nghệ, các thông số kỹ thuật... trong việc thẩm định dự án đầu tư, điều quan trọng là cán bộ thẩm định phải nắm được các thông tin về khách hàng như uy tín, tình hình tài chính, năng lực quản lý, các quan hệ kinh tế xã hội của người vay, dự đoán được xu hướng của sản phẩm và các yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến sản phẩm trong tương lai. Chi nhánh cần nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn cũng như sự hiểu biết về kinh tế xã hội, tâm lý khách hàng... nhằm nâng cao sự hiệu quả trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại Chi nhánh, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại CN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Ninh. Đồng thời với tăng cường công tác thẩm định dự án đầu tư và khách hàng vay vốn chi nhánh cần thực hiện đổi mới công tác thẩm định: - Thành lập tổ thẩm định dự án có tính chuyên nghiệp cao. - Đổi mới quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay. Hồ sơ cho vay trước khi lãnh đạo ký duyệt cần phải được kiểm tra xem xét toàn diện, chính xác và khách quan từ khâu lập hồ sơ, nhận xét năng lực quản lý điều hành của doanh nghiệp, khả năng tài chính kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, tính khả thi của phương án. Do vậy nếu chỉ để một cán bộ tín dụng đảm nhận tất cả các khâu sẽ không tránh khỏi sai sót do trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của mỗi cán bộ khác nhau. Chi nhánh cần tổ chức phòng tín dụng theo hai bộ phận: + Bộ phận quản lý doanh nghiệp: bao gồm các cán bộ tín dụng chuyên quản các doanh nghiệp. Cán bộ của bộ phận này là đại diện ngân hàng tại doanh nghiệp để thường xuyên theo dõi kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp đề xuất ý kiến giải quyết khó khăn và ý kiến đối với từng phương án xin vay vốn. Bộ phận này xuống doanh nghiệp làm việc theo lịch công tác, nắm tình hình và định kỳ về họp phòng để báo cáo tình hình hoặc báo cáo đột xuất khi phát hiện khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Hằng tuần có báo cáo tổng hợp gửi lãnh đạo và bộ phận thẩm định theo dõi chỉ đạo. + Bộ phận thẩm định dự án: Bộ phận này chủ yếu làm việc tại ngân hàng, thỉnh thoảng có thể xuống doanh nghiệp nắm tình hình thực tế và kiểm tra định giá tài sản thế chấp, cầm cố khi thẩm định dự án. bộ phận này căn cứ ý kiến đề xuất của bộ phận quản lý để đưa ra phương án xử lý trình lãnh đạo giải quyết các vụ việc liên quan đến vốn vay. 3.2.3. Đẩy mạnh công tác đào tạo, có chính sách đãi ngộ hợp lý và thoả đáng với cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Công tác tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động rất phức tạp, đôi khi cán bộ tín dụng phải đối mặt với nhiều cám dỗ, vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải là người nhanh nhạy có trình độ chuyên môn cao, cán bộ tín dụng phải được lựa chọn kỹ lưỡng là những người dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm trước việc mình làm. Cán bộ tín dụng phải là người có khả năng phân tích đánh giá, có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, là người đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định lên chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Chỉ một sai sót rất nhỏ của cán bộ tín dụng có thể làm cho Ngân hàng gặp khó khăn, làm phát sinh những khoản nợ khó đòi hoặc Ngân hàng bị khách hàng lừa đảo, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Tại CN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh hiện nay, với đội ngũ hơn 50% là cán bộ trẻ mới ra trường, họ là những người có trình độ nghiệp vụ, là đội ngũ trẻ năng động sáng tạo, năng nổ trong công việc. Tuy nhiên chỉ như thế thôi thì chưa đủ, họ còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tế, chưa hiểu hết được tâm lý khách hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, nhất là trong công tác tín dụng trung và dài hạn, không thể đánh giá hết được tiềm năng cũng như rủi ro của dự án. Đôi khi cán bộ trẻ còn chưa ý thức được trách nhiệm của họ đối với sự phát triển của Ngân hàng, phong cách giao dịch còn bộc lộ nhiều điểm bất cập. Thực tế nhiều cán bộ tín dụng còn làm việc không hiệu quả. Để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Ninh trong thời gian tới cần tiến hành xếp loại cán bộ tín dụng, nâng cao trình độ chuyên môn hoá, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Thực hiện xếp loại, nâng cao trình độ chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng. Mục đích của việc này là nhằm đánh giá một cách chính xác năng lực của từng cán bộ để có phương hướng bố trí sắp xếp cán bộ, tuyển dụng cán bộ mới vào các công việc phù hợp với trình độ chuyên môn của họ. Việc làm này có tác dụng khuyến khích thúc đẩy, tạo động lực phấn đấu cho mỗi cán bộ mong muốn được xếp loại cao vì nó thường gắn liền với quyền lợi mà họ được hưởng. Để có thể đánh giá xếp loại cán bộ tín dụng, Ngân hàng phải xây dựng một số chỉ tiêu đánh giá căn cứ theo quy định của NHĐT&PTVN trên các phương diện trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức cơ bản về thị trường, pháp luật, khoa học kỹ thuật, xã hội, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm... Trên cơ sở đó, tiến hành rà soát đánh giá chất lượng cán bộ thông qua việc tổ chức các cuộc thi trong nội bộ Chi nhánh, một mặt tạo phong trào thi đua, tạo không khí sôi nổi phấn khởi trong mỗi cán bộ công nhân viên, mặt khác là cơ sở để Chi nhánh có thể xét duyệt, bình xét xếp loại A, B, C thông qua kết quả công tác được phân công để từ đó thấy được những ưu khuyết điểm của từng cá nhân để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao và cũng là động lực thúc đẩy phong trào thi đua sôi nổi trong toàn CN Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Ninh. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh cần thực hiện nâng cao trình độ chuyên môn hoá ở mỗi cán bộ công nhân viên, thực hiện chuyên môn hoá theo từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với định hướng đa dạng hoá tín dụng. Khi đó mỗi cán bộ sẽ phấn đấu hơn làm tốt hơn công việc của mình, nâng cao được trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh công tác xếp loại cán bộ tín dụng, thực hiện chuyên môn hoá, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh cần có chế độ thưởng phạt phân minh, với những cán bộ giỏi có năng lực cần tạo điều kiện, tạo cơ hội cho họ thăng tiến và cần có chế độ đãi ngộ thoả đáng nhằm tạo động lực thúc đẩy cho mỗi cán bộ nhân viên trong Ngân hàng. Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tín dụng. ở bất kỳ vị trí nào cũng phải có con người có trình độ, có năng lực phẩm chất và có tâm huyết với nghề. Đặc biệt trong công tác tín dụng như hiện nay đang chiếm tới trên 70% trên tổng thu nhập của Ngân hàng lại càng đòi hỏi cao hơn. Bởi hơn ai hết, cán bộ tín dụng phải là người hiểu biết khách hàng cần gì? họ đang làm gì? vốn vay có phát huy được hiệu quả hay không? Vì vậy thông qua việc quản lý khách hàng, mỗi cán bộ tín dụng cũng đồng thời phải là nhân viên tiếp thị của Ngân hàng. Các sản phẩm của Ngân hàng đến được với khách hàng chủ yếu thông qua cán bộ tín dụng. Họ chính là những nhà tư vấn trực tiếp cho khách hàng trên nhiều phương diện, đặc biệt là những khách hàng vay trung và dài hạn. Họ cần được tư vấn trên những phương diện như về quản trị điều hành, tổ chức, tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời cán bộ tín dụng sẽ phải nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng qua nhiều kênh: báo cáo tài chính, kế hoạch sản xuất, quản trị điều hành, tổ chức. Chính vì những việc này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ phân tích đúng thực trạng của khách hàng, đồng thời phát hiện ra những tiềm ẩn rủi ro, từ đó đề ra được những biện pháp phòng ngừa cũng như tháo gỡ cho khách hàng. Cũng chính vì những điều này mà đòi hỏi mỗi cán bộ tín dụng của Chi nhánh cần phải thường xuyên được trang bị kiến thức về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, pháp luật, thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm nhằm nâng cao sự hiểu biết của mình, phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, với xu thế quốc tế hoá hiện nay thì đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ, áp dụng những khoa học kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến vận dụng vào thực tế một cách hiệu quả. Đối với mỗi NHTM thì yêu cầu này đòi hỏi càng cao hơn. Chi nhánh NHĐT&PTBN với đội ngũ hơn 50% cán bộ trẻ năng động sáng tạo, tuy có trình độ nghiệp vụ nhưng lại yếu kém về kinh nghiệp cũng như quy trình sử lý nghiệp vụ vì vậy chi nhánh cần thường xuyên mở các lớp tập huấn tổ chức phổ biến cơ chế chính sách, các văn bản pháp quy, các quy định của ngành, liên ngành; phổ biến đường lối chủ trương đường lối phát triển kinh tế của địa phương, của Đảng và Nhà nước. Trong đó phải gắn lý luận với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cán bộ công nhân viên trẻ được học hỏi kinh nghiệm, đi sâu vào thực tiễn hơn để có thể vận dụng một cách linh hoạt hiệu quả vào công việc của mình. Chi nhánh cần nâng cao trình độ tin học cho mỗi cán bộ để họ có thể sử dụng tốt hơn các chương trình phần mềm ứng dụng và sử lý được nhanh hơn các nghiệp vụ của mình. Một biện pháp rất quan trọng trong công tác tín dụng đó là Chi nhánh cần tổ chức cho các cán bộ tín dụng học tập về nghệ thuật giao tiếp và nắm bắt tâm lý khách hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, ngăn chặn kịp thời được những ý đồ xấu của khách hàng, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh NHĐT&PT Bắc Ninh. 3.2.4. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động marketing Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu. Trong hoạt động Ngân hàng cũng vậy, marketing đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự quyết định thành công của mỗi Ngân hàng. ở Việt Nam, từ khi các Ngân hàng chuyển thành các NHTM, việc áp dụng marketing vào quá trình thực tiễn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên đứng trước sự phát triển mang tính cạnh tranh ngày càng diễn ra quyết liệt thì marketing được xem như một chiến lược có tính kế hoạch lâu dài của mỗi Ngân hàng. Các nhà kinh tế học nhận định: " Marketing là tiến trình mang tính kế hoạch, trong đó Ngân hàng hướng nỗ lực vào việc thoả mãn nhu cầu mong muốn của khách hàng một cách chủ động để từ đó thoả mãn nhu cầu và mong muốn của Ngân hàng. Đối với Chi nhánh NHĐT&PTBN, việc đứng trong môi trường mang tính cạnh tranh khá cao với nhiều hệ thống NHTM hoạt động lâu đời và nhiều tổ chức phi Ngân hàng khác thì hoạt động marketing đóng vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong hoạt động Ngân hàng. Marketing đóng vai trò thiết yếu trong việc hướng dẫn phối hợp các chức năng hoạt động của Ngân hàng để đạt đến mục tiêu chung. Vì vậy, Chi nhánh NHĐT&PTBN cần hoạch định cho mình chiến lược hoạt động marketing cụ thể: chiến lược khách hàng, chiến lược chất lượng dịch vụ Ngân hàng, chiến lược định vị thị trường. Tuy nhiên trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết tôi chỉ xin nêu một số giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả công tác marketing của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh, góp phần thực hiện nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Chiến lược khách hàng. Quan hệ với khách hàng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động Ngân hàng vì khách hàng là một yếu tham gia trực tiếp vào quá trình kinh doanh và phân phối dịch vụ Ngân hàng; Khách hàng có nhu cầu sử dụng một nhóm dịch vụ Ngân hàng có quan hệ với nhau và sử dụng một dịch vụ như một tổng thể; Các sản phẩm tài chính thường kéo dài thời gian đối với khách hàng. Do đó việc tạo lập và duy trì quan hệ có ý nghĩa đem lại sự thành công lâu dài cho một Ngân hàng và Ngân hàng phải chủ động trong tất cả các quan hệ khách hàng. Chiến lược quan hệ khách hàng đóng vai trò chủ đạo tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa Ngân hàng và khách hàng. Trong chiến lược này, Ngân hàng cần đưa ra chính sách khách hàng để giữ vững khách hàng truyền thống những khách hàng có quan hệ khép kín trọn gói. Chi nhánh cần coi trọng công tác chăm sóc khách hàng chu đáo hơn, nắm bắt kịp thời những diễn biến và nhu cầu kịp thời của khách hàng cũ, tích cực tìm kiếm thông tin về khách hàng mới, dự án mới có hiệu quả, sẵn sàng cạnh tranh bằng chất lượng hiệu quả, tinh thần thái độ phục vụ, đặc biệt là các dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để phục vụ khách hàng. Ngân hàng cần tổ chức các lớp học tập về nghệ thuật giao tiếp và nắm bắt tâm lý khách hàng cho các cán bộ Ngân hàng, đặc biệt là đối với cán bộ tín dụng, họ là những người trực tiếp và thường xuyên giao dịch với khách hàng và quyết định phần lớn khoản vay có hiệu quả hay không. Ngân hàng cần thực hiện phân loại khách hàng theo các tiêu thức khác nhau và căn cứ vào đó để đi sâu nghiên cứu tìm hiểu điều tra cụ thể. Thông qua công tác này sẽ giúp cho Ngân hàng nắm bắt được chính xác nhu cầu của khách hàng hiện tại và tiềm năng, nắm bắt được các mặt mạnh của đối thủ cạnh tranh cũng như của chính mình, dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những quyết định phù hợp nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay vốn của khách hàng. Chiến lược nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng. Đây là chiến lược tiêu điểm quyết định sự thành công của Ngân hàng trên thị trường. Chiến lược dịch vụ là cái khách hàng có thể nhận biết được, cảm nhận được vì nó xuất phát từ nhu cầu của khách hàng và kết thúc bằng sự đánh giá của khách hàng. Chiến lược dịch vụ được phản ánh và thực hiện trong toàn bộ quá trình hoạt động chứ không ở dịch vụ được cung ứng. Do vậy chất lượng dịch vụ đòi hỏi phải có sự quan tâm của toàn thể nhân viên Ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể đảm bảo được chất lượng khi toàn thể nhân viên đều cam kết đảm bảo chất lượng, được động viên huấn luyện về đảm bảo để trở thành thói quen văn hoá của mỗi người. Mỗi cán bộ nhân viên trong CN NHĐT&PTBN phải không ngừng học hỏi và phấn đấu để có thể phục vụ tốt hơn nhu cầu khách hàng. Muốn vậy thì CN NHĐT&PTBN phải thực hiện tốt thông tin khách hàng, xây dựng lên hệ thống thông tin hai chiều, đáp ứng kịp thời những nhu cầu cũng như những phản ánh của khách hàng. Chất lượng mỗi dịch vụ cung ứng ra cũng thường xuyên được cung cấp và cải tiến tốt hơn. Chi nhánh cũng cần thực hiện trang bị những thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ cho đội ngũ nhân viên nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác dịch vụ Ngân hàng, giúp mỗi nhân viên Ngân hàng xử lý nhanh hơn các nghiệp vụ. Trong cải tiến chất lượng dịch vụ đòi hỏi phải có bước đột phá, dù chất lượng không ngừng được cải tiến nhưng cũng cần phải sáng tạo, đưa lại sự nâng cấp vượt bậc về chất lượng. Cải tiến chất lượng cũng có thể là không đòi hỏi thêm chi phí, thậm chí tiết kiệm được những chi phí phi chất lượng. Làm tốt công tác này, chi nhánh sẽ có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với mình, phục vụ tốt những khách hàng hiện có và biến họ trở thành những khách hàng trung thành của Ngân hàng. Do vậy CN NHĐT&PTBN cũng đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 3.2.5. Trú trọng và đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro tín dụng. Chi nhánh NHĐT&PTBN cần coi trọng công tác quản trị rủi ro như là một nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể cần quan tâm đến một số giảI pháp sau: Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân tích đánh giá dự án : hoạt động đầu tư có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, do đó việc đo lường hiệu quả và cách phân tích đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư rất đa dạng. Tiếp tục chương trình quy chế hoá, quy trình hoá các hoạt động tín dụng. Đây là các công cụ chỉ dẫn giúp cho cán bộ tín dụng có được thông tin chính xác nhất về khách hàng, ngành hàng…để có được kết luận đúng đắn nhất về giao dịch sắp cho vay. Tuân thủ nghiêm túc các quy trình quy chế tín dụng. Bộ phận thông tin công nợ thu nhập các thông tin về các công ty, doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản và các cá nhân lãnh đạo công ty bị phá sản. Thu nhập và tổng hợp các thông tin về các công ty làm ăn kém hoặc có vấn đề để giúp cho việc nâng cao chất lượng các khoản tín dụng. Phối hợp chặt chẽ với trung tâm thông tin tín dụng của NHNN và khai thác có hiệu quả từ trung tâm này. Phân tích và dự báo chính xác xu hướng diễn biến về thị trường các loại sản phẩm, hàng hoá quan trọng trên thị trường thế giới và thị trường trong nước của các dự án lớn chuẩn bị đầu tư. 3.2.6. Hoàn thiện và đổi mới công nghệ ngân hàng. Tiêu chuẩn hoá các nghiệp vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn chung của một ngân hàng hoạt động đa năng trong môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh không chỉ riêng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng mà còn cả trong các lĩnh vực khác. Trên cơ sở và yêu cầu của việc quản lý thông tin khách hàng tập trung, quản lý vốn tập trung( cả ngoại tệ và đồng Việt Nam), tạo ra các sản phẩm công nghệ sử lý và cung cấp thông tin chính xác kịp thời nhất phục vụ cho công tác chỉ đạo định hướng kinh doanh của các cấp lãnh đạo và các phòng chuyên môn có chức năng nghiên cứu điều hành vĩ mô. Thiết lập hệ thống quản lý và cung cấp thông tin trong nội bộ sử dụng chung. Đưa công nghệ vào để cải thiện, cải tạo phương thức quản lý. Tạo ra được cách suy nghĩ, cách làm việc và quản lý khoa học dựa trên hệ thống thông tin chính xác, đầy đủ có sự hỗ trợ tối đa của máy móc, áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định phục vụ cho cán bộ lãnh đạo các cấp trong việc điều hành và quản lý hoạt động ngân hàng. Đưa công nghệ vào để góp phần chuẩn hoá các tiêu thức quản lý, một mặt đáp ứng linh hoạt việc điều hành, mặt khác phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, giúp thuận tiện cho giao dịch đối ngoại. 3.3. Kiến nghị. 3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước. - Nhà nước cần tăng cường quản lý đối với các doanh nghiệp, có biện pháp hữu hiệu buộc doanh nghiệp phải chấp hành đúng luật kế toán thống kê và chế độ kiểm toán bắt buộc để đảm bảo thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính được phản ánh một cách đầy đủ chính xác nhằm đảm bảo an toàn vốn vay của Ngân hàng. - Đảm bảo môi trường kinh tế ổn định, góp phần đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được hoạt động. - Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại hợp lý các thành phần kinh tế, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. - Nhà nước cần rà soát lại các văn bản pháp quy để tránh chồng chéo, tạo hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động. Ban hành hướng dẫn xử lý các khoản nợ xấu nhằm lành mạnh hóa hệ thống tài chính của các NHTM, ban hành quy định về nhiệm vụ và trách nhiệm của các ban ngành liên quan trong việc hỗ trợ Ngân hàng xử lý nợ quá hạn để thu hồi nợ như viện kiểm sát, công an, sở địa chính nhà đất... - Nhà nước cần xúc tiến nhanh hơn hoạt động của các cơ quan chuyên ngành về xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, qua đó Ngân hàng sẽ tham khảo để có được những đánh giá chính xác hơn về doanh nghiệp vay vốn. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. - Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn cần có khung pháp lý chặt chẽ hơn để đảm bảo an toàn nguồn vốn của Ngân hàng. Trên cơ sở đó nâng cao được chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng - NHNN nên có chính sách tạo nguồn vốn lâu dài cho nền kinh tế phát triển ổn định, cần có chính sách lãi suất hợp lý, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát đồng thời khuyến khích để người dân gửi tiền tiết kiệm, người sản xuất yên tâm đầu tư. - Ngân hàng Nhà nước cần tiến hành rà soát lại các văn bản pháp quy của ngành ban hành tránh tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ và không còn phù hợp với thực tế; xem xét các văn bản không thống nhất với các văn bản pháp quy của Bộ, ngành khác có liên quan để nâng cao tính pháp lý của các văn bản này, ban hành các văn bản cần thiết nhưng chưa có nhằm tạo hành lang pháp lý cho Ngân hàng cũng như nhiều doanh nghiệp hoạt động. 3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đối với các dự án lớn đề nghị NHĐT&PTVN cân đối hỗ trợ nguồn vốn với lãi suất hợp lý, đảm bảo khả năng cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh. Do tính chất phức tạp của công tác cho vay, NHĐT&PTVN nên sớm nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách, thể lệ làm việc, nghĩa vụ và quyền lợi của đội ngũ cán bộ tín dụng, có chính sách ưu đãi đối với cán bộ tín dụng, thường xuyên quan tâm khen thưởng đối với những cán bộ tín dụng giỏi, tạo điều kiện cho họ không ngừng nỗ lực phấn đấu, có chính sách khen thưởng hàng năm, có như vậy mới nâng cao được chất lượng hoạt động cho vay. Hỗ trợ Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh trong công tác đào tạo cán bộ nhằm nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động trong cơ chế thị trường. Kết luận Tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động cơ bản của NHĐT&PT tỉnh Bắc Ninh và cũng là vấn đề được quan tâm nhất hiện nay. Tuy vậy, trong việc thực hiện loại hình tín dụng này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Để có thể giải quyết những vướng mắc này là một việc làm không đơn giản và đòi hỏi nhiều thời gian, đặc biệt đòi hỏi một sự phát triển kinh tế đồng bộ. Trong quá trình hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng, Ngân hàng luôn tự đổi mới và hoàn thiện, không ngừng vươn lên qua việc phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế và khó khăn tồn tại. Tuy nhiên Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh cũng như các NHTM khác cần mạnh dạn và nhanh chóng áp dụng các biện pháp để tài trợ vốn cho nhu cầu phát triển cấp thiết của nền kinh tế. Khó khăn là không bao giờ hết nhưng chúng ta tin rằng với sự nỗ lực của toàn thể chi nhánh kết hợp với tư duy sáng suốt, việc chỉ đạo điều hành kiên quyết và sáng tạo Ngân hàng ĐT&PT tỉnh Bắc Ninh sẽ vượt qua được những trở ngại để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân tin tưởng. Hoàn thành bản chuyên đề này bản thân tôi mong muốn sẽ góp phần nhỏ kiến thức của mình vào việc tháo gỡ những khó khăn trong công tác tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên do đây là vấn khá phức tạp, rộng lớn và có nhiều khó khăn, bản thân tôi lại là một sinh viên mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận là chủ yếu, thực tế còn nhiều hạn chế. Vì vậy bản chuyên đề này không tránh khỏi những sơ suất nên tôi rất mong được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô giáo và toàn thể các anh chị và các bạn. Tài liệu tham khảo. 1. Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ - TS Nguyễn Thị Thu Thảo- TS Phan Thị Thu Hà, NXB Thống kê. 2. Quản trị Ngân hàng thương mại - Peter S.Rose. 3. Nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng - PGS Mai Siêu. 4. Tạp chí đầu tư phát triển số 68/2001 5. Tạp chí Ngân hàng 6. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 7. Quy trình tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh. 8. Báo cáo kết quả kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh năm 2001, 2002, 2003. 9. Báo cáo thống kê của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh năm 2001, 2002, 2003. 10. Báo cáo tổng hợp kết quả kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tỉnh Bắc Ninh năm 2001, 2002, 2003. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7541.doc
Tài liệu liên quan