MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của SGD Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam năm 2007 41
Bảng 2: Tổng nguồn vốn của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2006 - 2007 42
Bảng 3: Bảng dư nợ cho vay theo thời hạn 49
Bảng 4: Bảng cơ cấu tỷ trọng dư nợ tín dụng theo thời hạn 50
Bảng 5: Tình hình Nợ quá hạn tại SGD 51
Bảng 6: Tình hình Nợ quá hạn cho vay trung dài hạn 52
Bảng 7: Nợ quá hạn theo thời gian 53
Bảng 8: Tình hình đầu tư tín dụng trung dài hạn 54
Bảng 9: Tình
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình cho vay vốn trung dài hạn 56
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : NHTM
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
SGD : Sở giao dịch
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XNK : Xuật nhập khẩu
XK : Xuất khẩu
NK : Nhập khẩu
MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong giai đoạn đổi mới, đổi mới về cơ chế quản lý cũng như cơ chế thị trường mở ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế nước nhà. Nền kinh tế nước nhà đang có những tiến bộ đáng kể, cùng với nó là sự phát triển của các ngành sản xuất cũng như dịch vụ, ngành Ngân hàng, góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đất nước.
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính của nền kinh tế, là mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội; là tổ chức cho vay chủ yếu đối với Doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt nam nói chung và Ngân hàng Ngoại thương đã nỗ lực tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây là một lĩnh vực khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương em đã được tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng của SGD nhất là tín dụng trung dài hạn, em nhận thấy Ngân hàng còn nhiều tiềm năng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng này để hoạt động này mang lại lợi nhuận cao cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Vì vậy em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là:
"Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam"
Kết cấu đề tài gồm:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng tín dụng trung dài hạn
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM
KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM
Khái niệm và chức năng của NHTM
Khái niệm NHTM
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Sự ra đời của NHTM đã đánh dấu một bước phát triển trong đời sống kinh tế xã hội. Hệ thống NHTM đã cung cấp một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những người thừa vốn hoặc đang có vốn nhàn rỗi đến những người cần vốn để tiến hành hoạt động đầu tư, SXKD. Với tư cách là trung gian tài chính, NHTM góp phần vào việc điều hòa lưu thông tiền tệ, đồng thời cung cấp các dịch vụ thanh toán và một số dịch vụ khác.
Khái niệm về NHTM đứng trên nhiều góc độ sẽ có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung các quan điểm đó đều thống nhất: NHTM là một loại hình Doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất cho nền kinh tế.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ở Việt Nam thì Ngân hàng được định nghĩa như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, trong đó “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Chức năng của NHTM
Qua quá trình phát triển lâu dài, các NHTM ngày càng đa dạng hoá các hoạt động, đáp ứng tốt hơn cho những nhu cầu mới phát sinh trong nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo được những chức năng vốn có của một NHTM.
Chức năng trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế của các cá nhân, tổ chức được Ngân hàng huy động dưới các hình thức khác nhau. Sau đó Ngân hàng lại tiến hành cung ứng lượng vốn này cho các đối tượng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng vốn phục vụ cho hoạt động SXKD hoặc chi tiêu cho một mục đích nào đó. Như vậy, có thể nói Ngân hàng là “cầu nối” giữa đơn vị thừa vốn và đơn vị thiếu vốn, Ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay. Thực hiện chức năng trung gian tài chính, Ngân hàng đã tạo ra lợi ích cho tất cả các bên trong quan hệ này. Đồng thời, chức năng này cũng góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Từ đó cho thấy rằng, đây là chức năng cơ bản nhất của NHTM.
Chức năng trung gian thanh toán
Việc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chi trả giữa các tổ chức, cá nhân đôi khi không thể thực hiện được một cách trực tiếp do cách trở về không gian hoặc thời gian. Mặt khác, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt đôi khi gặp rủi ro, bất trắc và ảnh hưởng đến việc thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ vì số lượng tiền mặt tăng lên kéo theo những chi phí vận chuyển, bảo quản tiền mặt tăng lên. Với sự ra đời của NHTM, phần lớn các khoản chi trả trong hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ của xã hội dần được thực hiện qua Ngân hàng, với những hình thức thanh toán phù hợp, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện. Do đó, thông qua trung gian là NHTM sẽ khắc phục được những hạn chế trên, tiết kiệm được chi phí lưu thông tiền mặt, việc thanh toán trở nên tiện lợi và đảm bảo an toàn.
Với công nghệ ngày càng hiện đại, Ngân hàng đã đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí như thanh toán bằng séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi, nhờ thu... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ. Các Ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Thông qua chức năng trung gian thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của toàn xã hội nói chung và của Doanh nghiệp nói riêng tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chức năng tạo tiền
Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của NHTM khác cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của các Doanh nghiệp SXKD thương mại và dịch vụ khác. Vốn kinh doanh của NHTM chủ yếu là từ nguồn tiền gửi, vốn đi vay, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn. Vốn đi vay của NHTM gồm: vay trên thị trường liên Ngân hàng, vay trên thị trường tiền tệ, vay của Ngân hàng trung ương. Trong quá trình sử dụng các nguồn vốn tiền gửi và vốn vay, hệ thống NHTM đã tạo ra một lượng tiền lớn hơn rất nhiều lần số tiền gửi ban đầu. Do đó, Ngân hàng trung ương đã dựa vào chức năng này để xác định lượng tiền cơ bản đưa vào lưu thông. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, vì hoạt động của NHTM tạo ra một kênh quan trọng cung ứng tiền cho nền kinh tế hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông, thông qua các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư, thanh toán, huy động tiền gửi... để nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các hoạt động cơ bản của NHTM
Hoạt động của NHTM rất đa dạng, NHTM tham gia lĩnh vực tiền tệ với các hoạt động cơ bản như: huy động vốn, cho vay, thực hiện trung gian thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, cho thuê tài chính, đầu tư, tham gia thị trường chứng khoán và một số dịch vụ khác.
Hoạt động nhận tiền gửi
Nguồn vốn hoạt động của NHTM gồm: Vốn chủ sở hữu, vốn huy động và vốn khác. Vốn huy động của Ngân hàng bao gồm nhận tiền gửi, phát hành các công cụ nợ, vay từ các tổ chức tín dụng khác. Trong đó, nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Thông qua việc nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, Ngân hàng đã tập hợp được lượng tiền nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế và sử dụng lượng tiền này để cho vay. Những người gửi tiền sẽ được hưởng một khoản lợi tức nhất định tuỳ thuộc vào thời gian gửi và mức tiền gửi, đồng thời vẫn có thể lấy ra khi cần thiết.
Hoạt động tín dụng
Đây là hoạt động mà Ngân hàng cung cấp vốn trực tiếp cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo các mục đích khác nhau đã thoả thuận trước với Ngân hàng. Hoạt động này có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối với nền kinh tế. Hiện nay, mặc dù các tổ chức kinh tế có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán, nhưng sự tồn tại hoạt động cho vay của Ngân hàng vẫn rất cần thiết bởi không phải tổ chức nào cũng huy động được vốn trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, các cá nhân khi có nhu cầu sử dụng tiền mà không vay mượn được của nhau thì họ tìm đến Ngân hàng, lúc này nhu cầu về vốn sẽ được đáp ứng một cách nhanh chóng.
Hoạt động thanh toán
Khi các tổ chức và cá nhân gửi tiền vào Ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Lúc đó, khách hàng chỉ cần yêu cầu Ngân hàng chuyển tiền hay thanh toán hộ cho đối tượng khác có tài khoản giao dịch tại Ngân hàng. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các tổ chức kinh tế. Điều này đã khuyến khích các tổ chức kinh tế và cá nhân gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh toán hộ. Do đó, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin phục vụ cho việc thanh toán, thi các cách thức thanh toán cũng được phát triển như uỷ nhiệm chi, nhờ thu...
Hoạt động mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ Ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi, mua bán ngoại tệ. NHTM đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường do các Ngân hàng lớn thực hiện vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Hoạt động đầu tư
NHTM còn đa dạng hoá hoạt động của mình bằng việc đầu tư dưới dạng mua cổ phiếu của Doanh nghiệp với tư cách là một cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua trái phiếu chính phủ. Việc đầu tư này nhằm giải quyết lượng vốn thừa khi NHTM không cho vay được hết số vốn huy động trên thị trường đồng thời góp phần tăng thêm thu nhập cho NHTM. Mặt khác, ở những quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, Ngân hàng cũng tham gia khá mạnh mẽ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, khi tham gia lĩnh vực này, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM, luật các quốc gia thường quy định các NHTM phải thành lập các công ty chứng khoán hoạt động độc lập với hoạt động của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, các NHTM luôn có mối quan hệ mật thiết với các tổ chức kinh tế, các định chế tài chính và các khách hàng khác nên để tăng cường các mối quan hệ này, NHTM đã phát triển đa dạng các dịch vụ khác như: dịch vụ uỷ thác, dịch vụ bảo lãnh, tư vấn tài chính, các dịch vụ bảo hiểm...
Khái niệm và đặc điểm tín dụng trung dài hạn của NHTM
Khái niệm tín dụng trung dài hạn
Trong nền kinh tế, nhu cầu tín dụng trung dài hạn thường xuyên phát sinh, bởi các Doanh nghiệp luôn phải tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới kỹ thuật, tin học... Để củng cố và tăng cường sức cạnh tranh của Doanh nghiệp trên thị trường. Muốn làm được điều này, đòi hỏi Doanh nghiệp phải có một khối lượng vốn lớn với một thời gian dài. Chính vì vậy, các Doanh nghiệp thường tìm đến với các NHTM nhờ sự giúp đỡ và các NHTM cho các Doanh nghiệp vay khối lượng vốn lớn với thời gian dài bằng hình thức tín dụng trung dài hạn.
Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, tín dụng trung hạn được hiểu là loại tín dụng có thời gian hoàn vốn từ 1 đến 5 năm, được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển SXKD, dịch vụ và đời sống. Tín dụng trung hạn giúp cho khách hàng để mở rộng cải tạo, khôi phục, hoàn thiện, hợp lý hoá quy trình công nghệ, quy trình sản xuất.
Tín dụng Ngân hàng dài hạn là loại tín dụng có thời gian hoàn vốn trên 5 năm, được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư phát triển SXKD, dịch vụ và đời sống. Hình thức tín dụng này được NHTM cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ việc xây dựng mới, mở rộng hoặc hoàn thiện quy trình công nghệ, quy trình sản xuất.
Đối với điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn trung dài hạn rất lớn, trong khi các Doanh nghiệp chưa có nhiều thời gian để tích luỹ vốn và chưa tích luỹ được nhiều. Đồng thời việc đầu tư trực tiếp của công chúng qua việc mua trái phiếu, cổ phiếu do các Doanh nghiệp phát hành còn là một vấn đề rất hạn chế. Cho nên trong thực tiễn nhu cầu về vốn trung dài hạn của các Doanh nghiệp chủ yếu được đáp ứng bởi vốn tự có cuả Doanh nghiệp và đa phần còn lại bằng sự tài trợ của hệ thống NHTM thông qua tín dụng trung dài hạn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng trung dài hạn
Tín dụng trung dài hạn là một loại hình tín dụng và nó được phân biệt với các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau:
Đối tượng cho vay
Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới, mở rộng cải tạo công nghệ.
Trong quan hệ tín dụng Ngân hàng, đối tượng cho vay trung dài hạn là các công trình, hạng mục công trình hoặc các dự án đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cố định của các đơn vị kinh tế có luận chứng kỹ thuật tốt, xác thực và tổng dự toán đã phê duyệt.
Thời hạn cho vay
Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và ngắn hạn là thời hạn cho vay.
Tín dụng ngắn hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá 12 tháng.
Tín dụng trung dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của nguồn vốn cho vay, trong đó:
+ Tín dụng trung dài hạn có thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60 tháng tuỳ theo quy định của từng Ngân hàng.
+ Tín dụng dài hạn có thời gian trên 36 tháng hoặc 60 tháng.
Điều kiện vay vốn
Trên cơ sở nguyên tắc trên, mỗi Ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc, các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện vốn vay của Ngân hàng. Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản cụ thể thì khác nhau phụ thuộc vào mỗi Ngân hàng và thời điểm lịch sử.
Do các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn nên thời gian thu hồi vốn là rất lâu, có khả năng gặp nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng nên việc cho vay trung dài hạn phải tuân theo quyết định 367/QĐNH1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thể lệ tín dụng trung dài hạn như sau:
Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị SXKD có lãi, có vốn tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự toán công trình đầu tư.
Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và thể lệ tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng.
Hiện nay theo quy định mới của Chính phủ, các đơn vị kinh doanh nếu chứng minh được mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà không cần thế chấp.
Nguyên tắc vay vốn
Khách hàng muốn vay vốn của Ngân hàng phải đảm bảo được 3 nguyên tắc tín dụng cơ bản sau:
Sử dụng vốn vay đúng với mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Người vay phải có dự án, kế hoạch SXKD và phải được thể hiện một cách rõ ràng, đầy đủ việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể. Khách hàng cần phân chia khoản mục sử dụng vốn một cách chi tiết để Ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ của dự án.
Mục tiêu của dự án, kế hoạch SXKD phải đảm bảo lợi ích chính đáng của chủ đầu tư trên cơ sở pháp luật, phù hợp với đường lối chính sách phát triển kinh tế của địa phương, của đất nước. Dự án phải được thẩm địng, phê chuẩn của các cơ quan có thẩm quyền.
Việc vay vốn phải hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước.
Phân loại tín dụng trung dài hạn
Cho vay theo dự án
Cho vay đồng tài trợ
Là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phói hợp với các bên bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằn phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng.
Hình thức này được được áp dụng trong các trường hợp: Các dự án đầu tư đòi hỏi một khoản vốn lớn mà các Ngân hàng riêng lẻ thìo không đáp ứng hết được Ngân hàng thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất định so với tổng nguồn vốn của mình và không được đầu tư qúa nhiều vốn vào một công ty để đảm bảo an toàn vốn tài sản. Thậm chí đối với một vài dự án Ngân hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhưng rủi ro quá lớn Ngân hàng không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là một họat động tín dụng giúp Ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn vốn của họ cho đầu tư vào các dự án dài hạn.
Cho vay trực tiếp theo dự án
Đây là hình thức tín dụng trung dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường. NHTM tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đẫ lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của Ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến trực thi có hiệu quả của dự án như: quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn thiết bị máy móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư.. Bởi vì việc quy định cấp một khoản tín dụng sẽ dàng buộc Ngân hàng với người vay trong một số thời gian, cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ lưỡng các rủi ro có thể xẩy ra.
Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng và ngưòi thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê và có thể đựoc quyền sở hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản
Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô dây chuyền công nghệ...
Bất động sản chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất...
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn đi thuê chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, người đi thuê không đựơc bán chuyển nhượng cho người khác. Song họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài sản đó đem lại, đồng thời chịu phần vốn rủi ro có liên quan đến tài sản. Tín dụng thuê mua có một số hình thức như: thuê mua có tham gia của ba bên, thuê mua có sự tham gia của hai bên, tái thuê mua, thuê mua hợp tác, thuê mua giáp lưng...
Xét về lợi ích thì cả Ngân hàng và khách hàng đều có lợi
Đối với Ngân hàng (bên cho thuê): đây là hình thức tài trợ bổ sung cho các hình thức tài trợ khác đang tồn tại ở Ngân hàng, nó giúp Ngân hàng mở rộng dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc vốn vay được sử dụng đúng mục đích.
Đối với các Doanh nghiệp: hình thức này có thể giúp các Doanh nghiệp có thể sử dụng vốn vay dưới dạng các máy móc, thiết bị... mà không phải bỏ vốn lớn, không ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản và hạn mức tín dụng của Doanh nghiệp việc cấp tín dụng thuê mua thường nhanh chóng, từ đó cho phép đầu tư khẩn cấp, đáp ứng được thời cơ SXKD trong nền kinh tế thị trường, mặt khác phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp và mỗi cá nhân.
Đối với các công ty nhỏ hoặc công ty không có uy tín: Ngân hàng có thể không chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hưởng tín dụng thuê mua. Có thể nói, mô hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế thị trường, nhất là đối với nền kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện nay.
Vai trò của tín dụng trung dài hạn
Đối với Ngân hàng
Ngày nay, sản phẩm Ngân hàng cung ứng ngày càng đa dạng không chỉ giới hạn trong những nghiệp vụ truyền thống như nhận gửi, cho vay hay trung gian thanh toán mà còn rất nhiều các nghiệp vụ khác. Lợi nhuận do các nghiệp vụ này ngày một chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lợi nhuận của Ngân hàng. Một trong những khách hàng quan trọng nhất của những nghiệp vụ này chính là các Doanh nghiệp. Do vậy để tạo được mối quan hệ lâu dài trong tương lai, cũng là thị trường sinh lợi chính của mình, Ngân hàng sử dụng tín dụng trung dài hạn như là một công cụ thu hút các khách hàng, củng cố niềm tin của các khách hàng truyền thống, đồng thời tạo ra các mối quan hệ mới với các khách hàng tiềm năng. Ngân hàng thu được một nguồn lợi nhuận từ việc cung cấp tín dụng trung dài hạn cho khách hàng. Đồng thời, năng lực cung cấp tín dụng trung dài hạn cũng chứng tỏ Ngân hàng có được niềm tin lớn từ khách hàng, trong giai đoạn hiện nay nó cũng chứng tỏ khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, khẳng định được vai trò và vị trí của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Hơn nữa, tín dụng trung dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi Ngân hàng. Vì vậy, tín dụng trung dài hạn cần phải được tăng cường để các Ngân hàng có thể tham gia nỗ lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thông qua nghiệp vụ này. Ngoài ra tín dụng trung dài hạn còn là một nghiệp vụ mang lại lợi ích chủ yếu cho Ngân hàng. Bởi lẽ tín dụng trung dài hạn là những khoản tín dụng có quy mô lớn, lãi suất cao và có thời gian dài nên lãi thu sẽ lớn và ổn định.
Đối với Doanh nghiệp
Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, các Doanh nghiệp đang phải tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt, đây là một thực tế tất yếu xảy ra ở bất kỳ nền kinh tế nào. Do sức ép của cạnh tranh, các Doanh nghiệp luôn có những nhu cầu đầu tư để tái sản xuất mở rộng, tăng khả năng sản xuất, phát triển thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhưng muốn thực hiện các kế hoạch đó Doanh nghiệp cần có một lượng vốn nhất định, tín dụng trung dài hạn Ngân hàng là một giải pháp tối ưu nhất cho các Doanh nghiệp. Nó giúp cho Doanh nghiệp có những công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, củng cố vị thế của Doanh nghiệp trên thị trường, giúp cho Doanh nghiệp có thể chịu được những sức ép của cạnh tranh và của môi trường kinh doanh mới, yên tâm hơn trong đầu tư. An toàn về tài chính và khả năng thanh toán là mối quan tâm của nhiều phía đặc biệt là các Doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng vô cùng quan trọng đối với các Doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Đối với nền kinh tế
Đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển mạnh và bền vững nếu trong nền kinh tế đó các hoạt động đầu tư được đẩy mạnh. Các dự án đầu tư của Chính phủ thường là những dự án mang ý nghĩa chiến lược lâu dài, không thể đem lại hiệu quả trong chốc lát nhưng nó sẽ mang lại ích lợi to lớn sau này nên cũng cần có những nguồn vốn với thời hạn hòan vốn lâu dài. Tín dụng trung dài hạn Ngân hàng là một giải pháp tối ưu, giúp Chính phủ theo đuổi được các chính sách kinh tế vĩ mô, khuyến khích phát triển, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn và theo chiều sâu.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với mục tiêu của Chính phủ: Trong điều kiện hiện nay khi thị trường vốn của nước ta chưa phát triển thì tín dụng trung dài hạn vẫn đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Thông qua hoạt động tín dụng trung dài hạn, Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành kinh tế này cũng như hạn chế đối với ngành kinh tế khác. Như vậy qua chính sách tín dụng trong từng thời kỳ mà các NHTM có thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn: tín dụng trung dài hạn đầu tư cho một dự án mới để đầu tư vào các máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của Doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất phát triển. Khi đó nhu cầu vốn lưu động sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Tốc độ phát triển sản xuất càng lớn thì nhu cầu vốn ngắn hạn càng lớn.
Thúc đẩy mở rộng kim ngạch XNK: Nhờ có tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng mà các Doanh nghiệp có thể NK công nghệ mới từ đó nâng cao được năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, được thị trường quốc tế chấp nhận. Thị trường của Doanh nghiệp được mở rộng ra thị trường quốc tế góp phần tăng kim ngạch XNK.
Đảm bảo nguồn thu vững chắc cho Ngân sách Nhà nước: Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Khối lượng sản phẩm lớn được sản xuất và tiêu thụ sẽ tạo ra một nguồn thu lớn cho ngân sách từ các loại thuế như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK... Trong trường hợp hàng hoá được XK thì chúng ta sẽ thu được một nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu NK.
Ngoài ra, tín dụng trung dài hạn còn mang ý nghĩa to lớn đối với các cá nhân trong xã hội và trong toàn bộ nền kinh tế. Sản xuất phát triển, các Doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, tích luỹ trong xã hội tăng lên, nền kinh tế biến đổi về chất, phúc lợi xã hội được đảm bảo, việc làm tạo ra ngày càng nhiều, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi đôi với chất lượng cuộc sống ngày một tăng lên của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Hoạt động tín dụng trung dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, điều hoà lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng làm nhiệm vụ lưu chuyển vốn từ những nhà tiết kiệm sang nhà đầu tư, phục vụ phát triển nền kinh tế.
Bên cạnh đó các khoản cho vay trung dài hạn còn có vai trò tạo nguồn vốn để từng bước thực hiện hiện đại hoá nền sản xuất trong nước. Thúc đẩy sản xuất nâng cao chất lượng, mẫu mã, đa dạng về tính năng của sản phẩm để tiêu thụ trong nước và XK. Hàng hoá có tính chất cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ thúc đẩy XK, tăng thu ngoại tệ cho quốc gia. Cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế.
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM
Khái niệm chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM
Để có một khái niệm đầy đủ về chất lượng tín dụng trung dài hạn, trước tiên chúng ta cần đưa ra định nghĩa về chất lượng tín dụng. Chất lượng tín dụng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, góp phần vào sự phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của NHTM đối với sự thay đổi của thị trường, phản ánh sức mạnh của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng phản ánh kết quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng, khả năng thu hồi đúng hạn, đầy đủ cả vốn, gốc vã lãi. Hiệu quả và khả năng thu hồi nợ càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao.
Qua đây, chất lượng tín dụng trung dài hạn là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng góp phần vào sự phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của NHTM trong thời gian trung dài hạn.
Chất lượng tín dụng trung dài hạn phản ánh kết quả hoạt động tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện trên từng giác độ cụ thể:
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn xét trên giác độ của NHTM: thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn của tín dụng trung, dài hạn phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của bản thân Ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Thu hồi đầy đủ vốn, hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng, như thế sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng mới được đảm bảo.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn xét trên giác độ nền kinh tế: Tín dụng trung, dài hạn khi đầu tư cho nền kinh tế sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng cho nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với nền kinh tế là việc vốn cho vay trung, dài hạn được an toàn, làm cho tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng được nâng cao thu được lợi nhuận lớn khiến cho hoạt động của Ngân hàng được an toàn, từ đó làm cho hệ thống Ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn xét trên giác độ của khách hàng: Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà cho khách hàng. Điều đó làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng đối với hoạt động tín dụng trung dài hạn.
Thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đủ nguyên tắc, quy định của tín dụng trung, dài hạn và phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế xã hội, đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng, góp phần đẩy mạnh tài chính cho Ngân hàng.
Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
Hoạt động tín dụng trung dài hạn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng nói riêng và đối với sự phát triển của kinh tế nói chung. Có thể thấy được sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng ở những điểm sau:
Chất lượng tín dụng trung dài hạn phản ánh khả năng cho vay và thu hồi vốn của Ngân hàng. Khả năng cho vay tốt thì có thể thu được lợi nhuận cao. Trong khi nếu khả năng thu hồi vốn không tốt Ngân hàng có thể đứng trước nguy cơ bị mất vốn, ảnh hưởng xấu tới hoạt động của Ngân hàng. Do đó, chất lượng tín dụng trung dài hạn sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.
Chất lượng tín dụng trung dài hạn tốt sẽ làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các NHTM, do Ngân hàng tăng vốn thông qua việc tăng khả năng quay vòng vốn, thu hút thêm nhiều khách hàng.
Chất lượng tín dụng trung dài hạn tốt cũng sẽ làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng do giảm được sự chậm trễ trong phân tích tín dụng, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay.
Chất lượng tín dụng trung dài hạn đảm bảo được khả năng thanh tóan và lợi nhuận của Ngân hàng, tạo thế mạnh cho Ngân hàng trong việc cạnh tranh.
Thêm vào đó, chất lượng tín dụng tốt tạo thuận lợi cho sự tồn t._.ại lâu dài của Ngân hàng, cho phép Ngân hàng có những khách hàng truyền thống và uy tín đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng, củng cố thêm mối quan hệ xã hội của Ngân hàng.
Về mặt lý thuyết, nguồn vốn chủ yếu của NHTM là tiền gửi do đó có tính chất không ổn định nên để giảm thiểu rủi ro tín dụng NHTM tập trung cấp tín dụng ngắn hạn. Những khoản tín dụng ngắn hạn thường dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các Doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân, nhưng thường có lãi suất thấp, đem lại thu nhập không cao. Trong khi đó tín dụng trung dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến khoa học kĩ thuật, đổi mới công nghệ… của các Doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp, có thể huy động nhanh, thời gian hòan trả vốn lâu dài, nên được các Doanh nghiệp khá ưa thích. Nhà nước vay trung dài hạn để đầu tư phát triển. Như thế cho vay trung dài hạn chủ yếu để xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tăng cường vai trò của Nhà nước trong phát triển. Điều này làm cho nguồn vốn trung dài hạn trở nên rất quan trọng đối với những nước đang phát triển nơi mà cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, khả năng tích lũy của các Doanh nghiệp chưa cao. Ở nước ta tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tổng số dư nợ của các Ngân hàng đang ngày càng tăng, chất lượng tín dụng trung dài hạn đang được các Ngân hàng quan tâm sâu sắc hơn. Vì vậy, với những ưu thế trên, việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đối với các Ngân hàng là tất yếu, cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển lâu dài của Ngân hàng.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM
Như đã đề cập ở trên, chất lượng tín dụng trung dài hạn được thể hiện ở sự thỏa mãn của khách hàng, sự đảm bảo cho Ngân hàng tồn tại và phát triển (thực chất là có lãi lớn), sự phát triển của xã hội. Những điều này tác động tới chất lượng tín dụng trung dài hạn được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng
Đây là một chỉ tiêu định tính, được thể hiện dựa trên những đánh giá của khách hàng theo các tiêu chí sau:
Khoản vay được cấp kịp thời, phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Trong kinh doanh, tính kịp thời luôn giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại, một nguồn vốn được cấp kịp thời, phù hợp sẽ giúp khách hàng nắm bắt được cơ hội kinh doanh, điều này làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng đối với hoạt động tín dụng của NHTM.
Khoản vay có lãi suất thích hợp.
Một khoản vay có lãi suất thấp sẽ giúp khách hàng giảm chi phí khi vay vốn, điều này rất có lợi cho khách hàng. Nhưng một khoản vay có lãi suất quá thấp cũng sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của Ngân hàng. Vì thế, Ngân hàng cần phải điều chỉnh một mức lãi suất hợp lý nhất nhằm đáp ứng được nhu cầu của cả khách hàng cũng như không ảnh hưởng tới việc kinh doanh của Ngân hàng.
Thủ tục các khoản vay nhanh chóng, đơn giản.
Một khoản tín dụng từ khi khách hàng tới Ngân hàng xin vay cho tới khi được cho vay trải qua một quy trình xét duyệt bao gồm bước khác nhau, kéo dài trong một khoảng thời gian, đơn giản hóa các bước này sẽ giúp khách hàng giảm thiểu thời gian chờ đợi, tăng sự thỏa mãn của khách hàng. Tuy nhiên việc đơn giản hóa thủ tục vẫn phải đảm bảo sự chặt chẽ của quy trình, tránh cho Ngân hàng những rủi ro đáng tiếc.
Cán bộ hướng dẫn tận tình chu đáo.
Các bước trong quy trình cho vay có nhiều thủ tục khác nhau, việc giúp đỡ khách hàng thực hiện các thủ tục như làm các tờ khai, đi đến các phòng ban… giúp khách hàng thuận tiện hơn khi giao dịch cùng Ngân hàng, khi đó sự thỏa mãn của khách hàng tăng, chất lượng tín dụng tăng.
Tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn
Tỷ trọng tín dụng trung dài hạn =
Dư nợ tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Tổng dư nợ tín dụng là chỉ tiêu mang tính thời điểm, phản ánh lượng vốn Ngân hàng đã giải ngân cho các khoản tín dụng mà khách hàng còn nợ Ngân hàng tại một thời điểm cụ thể.
Tổng dư nợ tín dụng phản ánh quy mô tín dụng, sự tăng trưởng tín dụng. Tổng dư nợ tín dụng lớn phản ánh quy mô tín dụng của Ngân hàng lớn, khối lượng cho vay của Ngân hàng lớn. Thông qua chỉ tiêu này ta cũng đánh giá được khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Ngân hàng có tổng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ khả năng huy động vốn để cho vay tốt.
Dư nợ tín dụng trung dài hạn phản ánh lượng vốn khách hàng đang còn nợ Ngân hàng trong hoạt động tín dụng trung dài hạn tại một thời điểm. Dư nợ tín dụng trung dài hạn phản ánh quy mô của tín dụng trung dài hạn tại một thời điểm.
Tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn cho biết dư nợ trung dài hạn chiếm bao nhiêu phần trăm tổng dư nợ tín dụng. Tiêu chí này thể hiện được chính sách tín dụng của Ngân hàng là mở rộng hay thu hẹp tín dụng trung dài hạn. Tỷ trọng này cao chứng tỏ trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng hoạt động tín dụng trung dài hạn là chủ yếu, có thể chất lượng tín dụng trung dài hạn tăng lên nhưng thế là chưa đủ mà còn phụ thuộc vào các chỉ tiêu khác.
Chỉ tiêu lợi nhuận
Phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung dài hạn, khi bỏ một đồng vốn cho vay Ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Chỉ tiêu lợi nhuận =
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn
Ở vị thế của Ngân hàng thì tỷ lên này càng cao chứng tỏ lợi nhuận thu về từ tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng càng lớn. Nhưng điều này không đảm bảo Doanh nghiệp vay vốn làm ăn có hiệu quả.
Khi khoản tín dụng được đầu tư có hiệu quả, Doanh nghiệp có lợi và hoàn trả Ngân hàng gốc cùng tiền lãi đúng hạn, thì khoản tín dụng trung dài hạn đã phát huy được giá trị của mình. Chỉ tiêu lợi nhuận của Ngân hàng tăng đồng thời chất lượng tín dụng của Ngân hàng cũng được cải thiện theo. Nhưng nếu Doanh nghiệp sử dụng không hiệu quả nguồn vốn, đến hạn trả nợ phải trả bằng nguồn khác không phải là lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư. Lúc đó chỉ tiêu lợi nhuận Ngân hàng tăng nhưng không kết luận được khoản đầu tư đó có chất lượng là tốt được.
Dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận, để đánh giá được chất lượng khoản đầu tư trung dài hạn ta phải nhìn từ hai phía người cho vay và chủ thể đi vay để có được đánh giá khách quan nhất về chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Thu nợ gốc và lãi
Khi thực hiện một hoạt động tín dụng cụ thể, Ngân hàng luôn quan tâm tới khả năng trả nợ đúng hạn của khách hàng hay chính là khả năng thu hồi vốn và có lãi từ khoản cho vay. Đối với các khoản cho vay trung dài hạn, độ rủi ro là cao hơn so với cho vay ngắn hạn, do đó Ngân hàng luôn cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao và giảm thiểu được rủi ro ở mức thấp nhất. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, do khả năng hoàn tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân, dây là nguyên nhân khách quan.
Để đánh giá về tính an toàn và khả năng thu hồi vốn của hoạt động tín dụng trung dài hạn các Ngân hàng thường sử dụng tỷ lệ Nợ quá hạn. Nợ quá hạn là khổặnn mà một phần hoặc tòan bộ nợ gốc hoặc lãi đã quá hạn. Một khỏan vay không được hòan trả đầy đủ và đúng hạn như đã thỏa thuận mà không có lý do chính đánh thì nó trở thành Nợ quá hạn. Tỷ lệ Nợ quá hạn được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ Nợ quá hạn trung dài hạn =
Nợ quá hạn của tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn
Chỉ tiêu này cho biết tổng dư nợ trung dài hạn có bao nhiễu phần trăm là Nợ quá hạn.
Nếu Ngân hàng có nhiều khoản nợ trung dài hạn quá hạn, tỷ lệ này sẽ cao, Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn và đứng trước nguy cơ mất vốn. Tỷ lệ này càng cao thì khó khăn của Ngân hàng càng lớn do đối tượng vay vốn có khả năng mất hoàn toàn khả năng thanh toán, gây thiệt hại lớn cho Ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến sự tồn tại của Ngân hàng.
Tỷ lệ Nợ quá hạn trung dài hạn của Ngân hàng thấp cho thấy chất lượng tín dụng cao, Ngân hàng đã thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng, thu được đầy đủ gốc và lãi của các khoản vay, chi phí quản lý Nợ quá hạn giảm.
Tuy nhiên chúng ta cũng phải xem xét đến các yếu tố làm sai lệch tỷ lệ này. Do các hiện tượng như đảo nợ, giãn nợ đã không phản ánh đúng thực trạng Nợ quá hạn và tình an toàn của khoản cho vay. Khi khách hàng không trả được nợ, họ sử dụng vốn mới được vay để thanh toán khoản nợ cũ để không gây ra Nợ quá hạn tránh được lãi suất phạt cao hơn lãi suất cho vay của Ngân hàng. Điều này sẽ làm tổng dư nợ của Ngân hàng tăng. Hiện tượng này có thể khiến cho Ngân hàng mất vốn, lún sâu vào rủi ro, mất khả năng thanh khoản cao.
Thông thường, để đánh giá tỷ lệ Nợ quá hạn cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung của tòan ngành và tỷ lệ chấp nhận của mỗi Ngân hàng.
Tỷ lệ Nợ quá hạn 3% là mức an toàn cho Ngân hàng.
Tỷ lệ 3%- 5% là mức bình thường
Tỷ lệ 5% - 7% ở mức này có thể thấy hoạt động tín dụng Ngân hàng có nhiều rủi ro.
Tỷ lệ 7% ở mức này chất lượng tín dụng của Ngân hàng được đánh giá là yếu kém.
Để đánh giá một cách chính xác nhất về chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng, chúng ta cần xem xét tổng hợp các chỉ tiêu trên, nhằm định hướng đúng đắn trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn. Nhưng muốn làm được việc đó, trước hết Ngân hàng cần xác định và phân tích được các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung dài hạn.
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHTM
Các nhân tố chủ quan
Khả năng thu thập thông tin tín dụng của Ngân hàng
Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho Ngân hàng trong những công việc có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tiền vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công tác tín dụng của Ngân hàng càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế đến mức thấp nhất có thể, chất lượng tín dụng được nâng cao hơn. Tuy nhiên nếu thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính xác, kịp thời, chưa có danh sách phân loại Doanh nghiệp, chưa có sự phân tích đánh giá Doanh nghiệp một cách khách quan, đúng đắn sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng cao làm giảm chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Chiến lược kinh doanh và chính sách tín dụng của Ngân hàng
Chính sách tín dụng của một Ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển của Nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân Ngân hàng. Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và đầy đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng tạo khe hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Chính sách tín dụng bao gồm: chính sách khách hàng, quy mô giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất tín dụng, thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ, chính sách bảo đảm tiền vay… Cụ thể là:
Chính sách khách hàng: Ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng, khách hàng khác. Với những khách hàng truyền thống và khách hàng quan trọng sẽ được hưởng chính sách ưu đãi của NHTM. Ngân hàng duy trì được mối quan hệ với khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm các khách hàng tiềm năng. Một khả năng Maketing tốt cũng sẽ hướng sự chú ý của mọi người vào Ngân hàng tăng, tạo thêm uy tín cho Ngân hàng. Điều này sẽ làm mở rộng quy mô quan hệ tín dụng của Ngân hàng, tăng lợi nhuận và giảm chi phí quản lí cho Ngân hàng.
Quy mô và giới hạn tín dụng: các Ngân hàng có quy định riêng về quy mô và giới hạn để không làm giảm khả năng sinh lời trong những hoàn cảnh cụ thể. Chính sách này chặt chẽ sẽ giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng nhưng cùng với điều đó Ngân hàng có thể bỏ qua những khoản đầu tư có lợi nhuận cao. Sự giới hạn tín dụng có thể khiến Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vay của khách hàng, điều này làm ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng, khách hàng không thỏa mãn, làm giảm chất lượng tín dụng trung dài hạn. Tuy nhiên nếu chính sách này lỏng lẻo sẽ làm tăng rủi ro cho Ngân hàng mà đó là điều cần phải tránh đối với tín dụng trung dài hạn vì các khoản tín dụng này có độ rủi ro rất cao.
Lãi suất và phí suất tín dụng: một mức lãi suất và biểu phí thấp sẽ là cơ hội hấp dẫn cho các Doanh nghiệp nhưng điều đó lại làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu lãi suất quá cao thì Ngân hàng thu được nhiều lãi nhưng lại đối mặt với nguy cơ rủi ro cao và tâm lý của khách hàng. Cả hai điều trên đều ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín dụng vì thế cần phải phối hợp linh hoạt, đa dạng để đảm bảo khả năng sinh lời cũng như sự hấp dẫn của các khoản tín dụng.
Thời hạn tín dụng và kì hạn trả nợ: một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ giúp Ngân hàng giải quyết mối quan hệ thời hạn của nguồn và thời hạn tài trợ, làm giảm rủi ro Ngân hàng đồng thời tăng tính thanh khoản của các khoản tài trợ, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng
Chính sách bảo đảm tiền vay: bao gồm các quy định về trường hợp tài trợ cần tài sản đảm bảo, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình danh mục… Không có các loại hình đảm bảo tiền vay, thì Ngân hàng có thể sẽ gặp những rủi ro tín dụng, nhưng có nhiều khách hàng lại không thể đáp ứng được yêu cầu bảo đảm tiền vay của Ngân hàng, họ không thể vay vốn của Ngân hàng. Tất cả các điều trên đều làm giảm chất lượng tín dụng. Ngân hàng cần có một chính sách bảo đảm tiền vay hợp lý như đảm bảo tiền vay dựa trên uy tín đối với các khách hàng truyền thống, giảm tỷ lệ đảm bảo bắt buộc đối với những khách hàng tiềm năng…
Chính sách đối với các tài khoản có vấn đề: chính sách này sẽ ảnh hưởng tới chi phí của hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Thông qua việc đánh giá các khoản tín dụng có vấn đề, Ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro, thực hiện phòng ngừa rủi ro.
Hiệu quả huy động vốn
Vốn được sử dụng để cho vay, có được nguồn vốn lớn thì Ngân hàng có thể mở rộng cho vay tăng thêm thu nhập. Hiệu quả huy động vốn cao làm giảm bớt chi phí cho Ngân hàng. Ngân hàng huy động được một nguồn vốn có quy mô lớn và ổn định thì hoạt động cấp tín dụng trung dài hạn cũng được mở rộng, đáp ứng được nhiều nhu cầu của khách hàng, tăng sự thỏa mãn của khách hàng, đồng thời Ngân hàng cũng thu được nhiều lãi hơn nhờ mở rộng hoạt động cho vay. Huy động được nguồn vốn ổn định chi phí thấp sẽ giúp Ngân hàng có thể cấp tín dụng trung dài hạn với một lượng lớn, ổn định, và có một lãi suất cạnh tranh cho Doanh nghiệp. Từ hai phía Ngân hàng và Doanh nghiệp đều được thỏa mãn nhu cầu của mình. Như thế sẽ có tác động tốt làm tăng chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng.
Năng lực cán bộ tín dụng và công tác tổ chức Ngân hàng
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng cũng như trong hoạt động của Ngân hàng nói chung. Việc tuyển chọn sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, giỏi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, năm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay đến khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo quy định của Ngân hàng... sẽ giúp cho Ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chi kỳ khép kín của một khoản tín dụng. Tuy nhên đối với những cán bộ không được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ, trong khi Ngân hàng không có đủ các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vài trò vị trí của Doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng đời sản phẩm... dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xi vay làm rủi ro tín dụng của Ngân hàng.
Công tác tổ chức không chỉ tác động tới chất lượng tín dụng mà còn tác động tới mọi hoạt động của Ngân hàng. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ làm ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với món vay, không đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng, không theo dõi sát sao được công việc.
Sự phân công công việc nếu không hợp lý sẽ dẫn đến sự không rõ ràng, chồng chéo khiến cho các cán bộ tín dụng thiếu trách nhiệm đối với công việc của mình. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập tới vấn đề giao việc đúng người, đúng việc. Mỗi một cán bộ cần được giao cho công việc phù hợp để có thể phát huy hết khả năng và giữa các bộ phận cần có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ để công việc tiến hành nhanh chóng, chính xác. Nếu được tổ chức tốt, các công việc đối với một món vay sẽ được thực hiện tuần tự, chặt chẽ, vừa đảm bảo về mặt thời gian vừa không có sự sơ hở nên sẽ làm cho chất lượng của món vay được nâng cao.
Quy trình cho vay
Một quy trình cho vay thông thường gồm năm bước sau:
Lập hồ sơ đề nghị cung cấp tín dụng
Phân tích tín dụng
Quyết định tín dụng
Giải ngân
Giám sát thu nợ và thanh lý tín dụng
Quy trình cho vay với thủ tục đơn giản, nhanh chóng giải quyết được nhu cầu của khách hàng sẽ làm khách hàng hài lòng hơn tăng chất lượng tín dụng trung dài hạn
Đối với Ngân hàng, trong quy trình cho vay công tác thẩm định giữ vai trò quan trọng trong việc ra quyết định cấp tín dụng. Công tác thẩm định dự án thực hiện phân tích tình hình tài chính, các dòng tiền của dự án, khả năng thu lợi nhuận của dự án, sự an toàn của các khoản tín dụng. Từ đó có thể chọn đúng được đối tượng khách hàng, đây là cơ sở cho quyết định cấp tín dụng. Hoạt động này không thể thiếu trong tín dụng trung dài hạn, đòi hỏi những cán bộ thẩm định có chuyên môn tốt.
Thực hiện tốt công tác thẩm định giúp Ngân hàng loại bỏ được những dự án không khả thi, giảm rủi ro cho Ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí cho Ngân hàng.
Một khâu cũng rất quan trọng khác nữa song hành cùng công tác thẩm định đó là hệ thống kiểm soát nội bộ. Hoạt động này nhằm làm hạn chế sai sót của cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Trang thiết bị khoa học kỹ thuật
Với sự tiến bộ của khoa học, máy móc giúp con người giảm bớt khối lượng công việc cũng như làm cho các công việc trong hệ thống được luân chuyển nhanh hơn. Trong ngành Ngân hàng cũng vậy, hệ thống trang thiết bị như máy tính, các phần mềm phân tích chuyên dụng, các phần mềm quản lí tín dụng ngân hàn giúp giảm khối lượng công việc cho cán bộ tín dụng, tiến độ phê duyệt dự án được nhanh hơn, giảm thiểu được những sai sót không mong muốn cho cán bộ tín dụng. Hệ thống thông tin nội bộ như mạng nội bộ, giúp sự luôn chuyển thông tin trong hệ thống diễn ra nhanh hơn giảm bớt thời gian cho nhân viên. Cùng với đó sự thống nhất và hoàn thiện hệ thống khoa học kĩ thuật sẽ giúp sự thống nhất trong toàn hệ thống cao hơn.
Những nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì chất lượng của các khoản tín dụng trung dài hạn sẽ được nâng cao. Ngược lại, sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín dụng trung dài hạn xấu đi. Ví dụ khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt, đồng tiền mất giá, chỉ số giá cả tăng nhanh gây khó khăn cho SXKD, tác động xấu đến khả năng thu hồi công nợ của Ngân hàng. Sự biến động về tỷ giá cũng khiến các Doanh nghiệp phải nhập thiết bị nước ngoài lẽ ra đã vay Ngân hàng đủ tiền sẽ trở thành không đủ tiền để nhập gây ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ môi trường kinh tế trong nước này thay đổi sẽ tác động tới chất lượng tín dụng trung dài hạn mà sự thay đổi của môi trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối với Doanh nghiệp hoạt động XNK. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các Doanh nghiệp kinh doanh XNK bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ Ngân hàng của Doanh nghiệp.
Môi trường Chính trị xã hội
Môi trường Chính trị xã hội ổn định sẽ giúp cho các Doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư lâu dài cho hoạt động SXKD. Ngược lại, nếu môi trường Chính trị xã hội bất ổn thì các Doanh nghiệp chỉ duy trì việc sản xúat kinh doanh ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng tới quy mô các khoản tín dụng của Ngân hàng, các khỏan vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng trung dài hạn sẽ thấp. Ngoài ra, sự không ổn định về Chính trị xã hội dẫn đến việc kinh doanh của Doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro, bất trắc hơn nên nó sẽ ảnh hưởng tới công tác thu nợ của Ngân hàng.
Tuy nhiên, không chỉ có tình hình chính trị xã hội mà cả tình hình Chính trị xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung dài hạn bởi vì hiện nay các mối quan hệ kinh tế xã hội ngày càng được mở rộng cho nên các loại hình Doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số lượng và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế xã hội ở nước ngoài đều có ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế không thể trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho mọi hoạt động SXKD tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói riêng và cho hoạt động của các Doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh Nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong SXKD của các Doanh nghiệp, gây nên các khoản Nợ quá hạn cho Ngân hàng. Như vậy, pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng trung dài hạn nói riêng.
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng nói chung đặc biệt là tín dụng trung dài hạn nói riêng bởi vì thiên tai là một yếu tố bất khả kháng, chúng ta không thể dự đoán một cách chắc chắn là khi nào những thiên tai như bão lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, dịch bệnh...sẽ xảy ra và mức độ ảnh hưởng, thiệt hại của chúng là như thế nào. Thông thường khi thiên tai xảy ra, nó thường gây thiệt hại rất lớn cho các ngành sản xuất, dịch vụ, gây ra các biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và các khách hàng của mình làm cho vốn của Ngân hàng đầu tư vào các Doanh nghiệp sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng và dẫn tới rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng.
Nhân tố khách hàng
Năng lực của khách hàng
Không một khách hàng nào khi đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu quả nhưng nhiều khi do năng lực có hạn nên họ không thể thực hiện được ý đồ của mình. Do hạn chế về khả năng, họ không dự đoán đúng những biến động lên xuống của nhu cầu thị trường hoặc do yếu kém trong quản lý, trong việc giới thiệu, quảng cáo sản phẩm mà hoạt động của Doanh nghiệp không thể phát triển hoặc do thiếu kinh nghiệm trên thương trường mà Doanh nghiệp dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh... Tất cả những điều đó khiến cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng ngoài ý muốn của cả Ngân hàng lẫn khách hàng.
Sự trung thực của khách hàng
Nếu khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích thì xác suất xảy ra rủi ro sẽ giảm đi đáng kể vì tính khả thi của dự án cũng đã được Ngân hàng thẩm định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Chẳng hạn như sử dụng vốn vay đầu tư vào tài sản cố định, vào bất động sản, sau đó các tài sản này bị sụt giá dẫn đến việc Doanh nghiệp không trả được nợ cho Ngân hàng. Các Doanh nghiệp còn chiếm dụng vốn lẫn nhau dẫn đến các Doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh gặp khó khăn trong việc trả nợ Ngân hàng.
Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng
Rủi ro trong kinh doanh của Doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển khai dự án đầu tư SXKD của Doanh nghiệp trong khoa học, không thực hiện kỹ càng...Tuy nhiên trong một số trường hợp cho dù phương án SXKD của người đi vay đã được tính toán một cách chi tiết, khoa học, chính xác đến mức tối đa thì công việc đầu tư vẫn luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn và bất khả kháng của các điều kiện SXKD, gây tác động xấu đến công việc làm ăn, mang lại rủi ro cho Doanh nghiệp. Ví dụ các thiệt hại Doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung cấp như: khi giá cả nguyên vật liệu biến động tăng vọt làm tăng giá thành công xưởng của sản phẩm, nếu giá bán của sản phẩm không thay đổi nó sẽ làm cho thu nhập tạo ra trên một sản phẩm giảm, làm giảm tổng lợi nhuận được của cả dự án, ảnh hưởng xấu tới việc trả nợ Ngân hàng. Nếu đảm bảo thu nhập của mình, Doanh nghiệp nâng giá bán của sản phẩm lên thì điều này sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn sản xuất bị chậm trễ, dễ dàng vi phạm việc trả nợ Ngân hàng về mặt thời hạn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI
SGD NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1 TỔNG QUAN VỀ SGD NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (tên gọi tắt là Vietcombank) được thành lập theo quyết định số 115/CP ngày 30/12/1962 của Hội đồng chính phủ trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý ngoại hối Ngân hàng NN (nay là Ngân hàng Nhà nước). Được chính thức thành lập vào ngày 01/04/1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong hai Ngân hàng lâu đời nhất trong hệ thống NHTM ở Việt Nam.
SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) được thành lập từ ngày 25/03/1991 theo quyết định 34/TCCB của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và chính thức hoạt động ngày 01/04/1991. Điều hành SGD là một Ban giám đốc, đứng đầu là Giám đốc SGD, đồng thời là một trong những Phó tổng giám đốc của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Theo quyết định thành lập, SGD sẽ hoạt động với chức năng là một bộ phận trực tiếp kinh doanh và thực hiện các nghiệp vụ đầu mối với các SGD trong toàn hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Sau khi toà nhà Vietcombank được xây dựng, trụ sở SGD đã được đặt ngay tại Hội sở chính của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội từ 20/12/2007, đến tháng 1/2008, SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được chuyển về tòa nhà số 31-33 Ngô Quyền, Hòan Kiếm, Hà nội
Để tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã quyết định tiến hành tách riêng hoạt động của SGD với hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương NN theo Quyết định thành lập SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số 1215/QĐ-NHNT.TCCB&ĐT ngày 28/12/2006 của Hội đồng Quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Năm 2007 là năm đầu tiên SGD chính thức trở thành một SGD cấp 1 trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương với mục tiêu thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của một Ngân hàng đa năng.
Sự ra đời của SGD đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của Ngân hàng Ngoại thương theo cơ chế thị trường. Hoạt động của SGD là nơi thể hiện rõ nhất kết quả thực thi các chính sách của Ban lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Đồng thời SGD, với vai trò của mình cũng góp phần quan trọng trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nhờ đó thúc đẩy sự phát triển của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương.
Trong phần lớn số lượng cán bộ nhân viên của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học. Với đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ cao, nguồn nhân lực của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn được đánh giá cao và sẽ là một trong những tiền đề cho sự phát triển của SGD trong tương lai.
Trong những năm qua, SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với định hướng không ngừng đổi mới và phát triển đã khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đã tạo ra được uy tín và niềm tin đối với khách hàng. Hiện nay, SGD là một trong những SGD hàng đầu của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
2.1.2 Tình hình hoạt động của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2007
2.1.2.1 Kết quả kinh doanh năm 2007 của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Sau khi tách ra khỏi Ngân hàng Ngoại thương NN, bên cạnh những thuận lợi về thương hiệu và ưu thế của SGD trước đây, SGD cũng gặp nhiều khó khăn do xáo trộn về tổ chức, nhiều nghiệp vụ mới được đưa vào thực hiện, khách hàng lớn chuyển lên NN quản lý khiến cho xuất phát điểm của SGD tính đến năm 2006 là thấp. Tuy vậy, với nỗ lực cố gắng của Ban giám đốc và cán bộ nhân viên, năm 2007 SGD đã đạt được các kết quả sau:
Bảng 1: Kết quả kinh doanh của SGD
Ngân hàng Ngoại thươngViệt Nam năm 2007
Đơn vị: tỷ VNĐ
STT
Chỉ tiêu
2007
1
Tổng doanh thu
2.237,67
2
Tổng chi
1.432,03
3
Kết quả kinh doanh trước thuế
805,64
4
Thuế thu nhập Doanh nghiệp
225,56
5
Kết quả kinh doanh sau thuế
580,08
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 2006-2007)
Như vậy, năm 2007 SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đạt được kết quả kinh doanh đáng khích lệ với lợi nhuận sau thuế đạt 580,08 tỷ VNĐ đóng góp khoảng 20% lợi nhuận sau thuế cho cả hệ thống Ngân hàng Ngoại thương.
Ngoài ra, SGD Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong các hoạt động xã hội như tích cực tham gia vào việc đóng góp ủng hộ đồng bào các tỉnh bị thiên tai lũ lụt, nhận phụng dưỡng suốt đời 118 bà mẹ Việt Nam anh hùng, ủng hộ các quỹ như Quỹ vì người nghèo, Quỹ khuyến học...
2.1.2.2 Các hoạt động kinh doanh cơ bản của SGD Ngân hàng Ng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7669.doc