Lời mở đầu
Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược phát triển kinh tế của nước ta do Đảng và Nhà nước đặt ra là phát triển kinh tế theo chiều sâu và thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, từ nguồn vốn do Ngân hàng cung cấp là rất cần thiết đặc biệt là nguồn tín dụng trung và dài hạn. Hiện nay, nước ta có một nên kinh tế đang phát triển nên nhu cầu về vốn đầu tư phát triển là rất lớn. Hơn nữa cuối năm 2005 nước ta còn gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) nên tình hình cạnh tranh gi
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ữa các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng ngày càng gay gắt. Như vậy nhu cầu vay vốn tín dụng trung dài hạn của các thành phần kinh tế nhằm xây dựng mới, đổi mới công nghệ, cải tạo và mở rộng sản xuất trong thời gian tới là rất lớn. Việc đáp ứng các nhu cầu vay vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế là cần thiết đồng thời cũng là cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh của các NHTM. Bên cạnh đó, cũng phải cung cấp các dịch vụ để phục vụ khách hàng đồng thời nâng cao chất lượng của khoản cho vay trung dài hạn nhằm bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại, nhằm phục vụ thiết thực cho sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức được điều đó, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh Thăng Long em đã hướng tới Đề tài:
“Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh Thăng Long”.
Trong đó, nội dung của bài viết được trình bày theo 3 chương sau:
Chương 1. chất lượng Tín Dụng trung và dài hạn của NHTM.
Chương 2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn
( Tại chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT VN )
Chương 3. Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
( Tại chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT VN )
Tuy nhiên, do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tập có hạn và sự hiểu biết về thực tế chưa nhiều, kiến thức của em còn hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các cán bộ tín dụng của chi nhánh ngân hàng để bài viết này được hoàn chỉnh hơn.
Em chân thành cám ơn!
Chương 1
Chất lượng Tín Dụng trung và dài hạn của NHTM
1.1. Tín dụng trung và dài hạn của Ngân Hàng Thương Mại.
1.1.1. Ngân Hàng Thương Mại:
Pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
NHTM là một trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, vốn được tạo ra từ qúa trình tích luỹ, tiết kiện của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, ngân hàng đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân và mọi thành phần kinh tế. Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng kịp thời cho quá trình tái sản xuất.
NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong cùng hệ thống góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường.
1.1.2. Tín dụng Trung và Dài hạn của NHTM
Khái niệm:
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng đồng thời cũng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất, rủi ro này có nhiều nguyên nhân đều gây ra tổt thất làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến tình trạng khó khăn về vốn. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ.
Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tài sản Ngân hàng được phân theo kỳ hạn. Tín dụng trung và dài hạn là loại cho vay vốn có thời hạn khá dài, thời gian này được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Cụ thể là thời hạn cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động, còn lại theo Quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Mục đích của tín dụng trung dài hạn là để đầu tư cho các dự án, xây dựng mới, mở rộng, cải tạo khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội và pháp luật của Nhà nước.
Đặc điểm:
Tính rủi ro lớn:
Bản chất của tín dụng trung và dài hạn khác so với tín dụng ngắn hạn là ở thời hạn cho vay dài hơn. Tín dụng ngắn hạn có tính lỏng cao, có thể xem như là một bộ phận đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. Trái lại, tín dụng dài hạn thường được đầu từ vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại, tức là các dự án chưa có khả năng sinh lời trong thời gian ngắn nên thời hạn của các khoản tín dụng này thường dài và nó chỉ được hoàn trả khi xuất hiện nguồn thu từ dự án. Mà thời hạn cho vay càng dài thì tính rủi ro càng cao. Cùng với nó là mỗi một khoản vay trung dài hạn này thường lớn.
Lãi suất cao:
Đặc điểm này thực chất là hệ quả của đặc điểm trên. Một khoản vay chứa đựng nhiều rủi ro hơn chắc chắn phải trả lãi suất cao hơn để có thể bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra. Do đó lãi suất cho vay trung dài hạn phải cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.
Vai trò của tín dụng trung và dài hạn:
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu được trong cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Việc sử dụng nó có thể là tốt hoặc xấu phụ thuộc vào lí do nhu cầu và khả năng hoàn trả của người vay mượn trong thời gian nhất định.
Đối với người tiêu dùng.
Tín dụng góp phần cải thiện mức sống. Nói chung người tiêu dùng nhận được lợi ích từ việc sử dụng tín dụng bởi vì nó tạo ra cơ chế cho phép họ có thể sử dụng các nguồn thu nhập trong tương lai để thanh toán cho những hàng hoá đã được mua sắm trước đó. Như vậy, họ có thể gia tăng mức sống hiện thời trên cơ sở khả năng kiếm hoặc thu được ngân quỹ trong tương lai. Ví dụ, các sinh viên có thể dùng tín dụng để tham dự các chương trình đào tạo bậc đại học hoặc cao hơn và cơ hội việc làm, sau này sẽ tạo ra nguồn thu nhập để hoàn trả nợ đã vay mượn của họ.
Xử lý những nhu cầu khẩn cấp, những nhu cầu tài chính khẩn cấp, không được dự kiến trước, có thể được tài trợ bằng con đường tín dụng như : sửa chữa nhà ở , phương tiện đi lại, chăm sóc sức khoẻ, mất mát tài sản… Các chương trình tín dụng cung cấp cho người tiêu dùng phương tiện thanh toán cho những trường hợp như thế.
Ngoài vai trò cung cấp phương tiện thanh toán, tín dụng còn là công cụ tạo ra tiện ích cho người sử dụng. Bằng cách sử dụng thẻ tín dụng, người tiêu dùng có thể du lịch khắp thế giới mà vẫn có thể thanh toán được theo nhiều loại chi phí khác nhau: như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, mua hàng lưu niệm…Nhu cầu mang một khối lượng lớn tiền mặt được giảm đáng kể và đã được công dân của nhiều nước đặc biệt ưa thích.
Đối với các Doanh Nghiệp:
Tín dụng ngân hàng đáp ứng đủ nhu cầu vốn để duy trì quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục và ngày càng mở rộng. Sự thiếu vốn là quá trình xảy ra thường xuyên ở các doanh nghiệp. Chính trong quá trình tập trung và phân phối vốn, tín dụng ngân hàng đã biến các vốn lẻ tẻ nằm trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như bộ phận tiền để dành trong dân thành nguồn vốn cho vay, đã góp phần điều hoà vốn cho nền kinh tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bù đắp được nhu cầu thiếu vốn tạm thời giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục.
Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp luôn phải đặt mình trước sự đổi mới về sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho thị trường. Điều này đồng nghĩa với doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, đầu từ trang thiết bị hiện đại, mở rộng dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm… thì mới thắng được trong cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường. Do đó vấn đề đầu tư cho phát triển sản xuất được đưa ra như một yêu cầu bức thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, ngoài nguồn vốn ngân sách hạn hẹp, họ phải chủ động tìm kiếm các nguồn vốn trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới, phát triển và mở rộng sản xuất đảm bảo giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn tự có ban đầu phải được hỗ trợ bằng nguồn vốn bên ngoài.
Có thể huy động vốn trung dài hạn bằng hai cách chủ yếu sau:
Phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán.
Vay ngân hàng.
ở các nước kinh tế phát triển, cách thứ nhất tỏ ra ưu thế hơn. Đây là thị trường vốn dài hạn rất có hiệu quả. Khi có nhu cầu đầu tư mới, công ty có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra thị trường, với chi phí phát hành thấp, hay công ty có thể thuê Ngân hàng đầu tư làm đại lý bán hộ hay bao tiêu số cổ phiếu phát hành. Lãi trả cho mỗi cổ phiếu là do công ty chủ động quyết định, công ty càng có uy tín trong kinh doanh thì trị giá cổ phiếu càng lớn, thu hút được nhiều cổ đông. Thậm chí công ty có thể phát hành trái phiếu đợt này để thanh toán cho đợt phát hành trước. Hơn nữa, khối lượng cổ phiếu phát hành là tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung và dài hạn của công ty, chứ không bị lệ thuộc vào hạn mức tín dụng của Ngân hàng.
Song ở nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán mới chỉ ở dạng sơ khai, các sản phẩm trên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý. Đối tượng phát hành mới chỉ là các Ngân hàng hay một số ít công ty lớn, bản thân các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện hoặc uy tín để phát hành cổ phiếu trái phiếu. Mặt khác, khuôn khổ pháp lý, môi trường kinh tế, thói quen, tâm lý của dân chúng chưa cho phép lưu hành cổ phiếu, trái phiếu một cách rộng rãi để thị trường này trở thành thị trường vốn trung và dài hạn tiềm năng hoạt động có hiệu quả. Do vậy doanh nghiệp không còn cách nào khác là tìm đến Ngân hàng.
Mục đích của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp là đầu tư vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị , công nghệ hiện đại, tức là đầu tư theo chiều sâu nên ta có thể thấy tác động trực tiếp của tín dụng trung và dài hạn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định hình thành từ vốn vay dài hạn sẽ cải tạo, nâng cấp hiện đại hoá cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân loại Tín Dụng:
Phân loại theo thời hạn tín dụng:
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành:
Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.
Tín dụng trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
Tín dụng dài hạn: từ trên 60 tháng trở lên.
Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong 1 năm. Do vậy, ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn từ 1 năm trở xuống. Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ trên 1 năm tới 5 năm. Công trình xây dựng nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể tới 10 hoặc15 năm.
Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh & cho thuê
Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian nhất định.
Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh. Các khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng...cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải kí hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba...), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo.
Phân loại tín dụng theo rủi ro:
Ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,...
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn....
Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá,....
Phân loại khác:
Theo ngành kinh tế: công, nông nghiệp,...
Theo đối tượng tín dụng: tài sản lưu động, tài sản cố định.
Theo mục đích: sản xuất, tiêu dùng,...
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Ví dụ: NHNo & PTNT VN bên cạnh việc đa dạng hoá các ngành tài trợ, vẫn tập trung tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
Chính sách tín dụng:
Nguồn cho vay:
Vốn tự có và các quỹ của Ngân hàng.
Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Các nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn huy động trong nước và nước ngoài: Bằng cách phát hành kỳ phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn.
Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội ở trong và ngoài nước.
Đối tượng cho vay trung và dài hạn:
Các doanh nghiệp trong và ngoài nước có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ.... Với sự phát triển nhanh tróng của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao. Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển.
Thời hạn cho vay trung và dài hạn:
Thời hạn cho vay là thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến khi bắt đầu trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng.
Thời hạn cho vay trung hạn từ trên 12 tháng tới 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn trên 60 tháng nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập của giấy phép kinh doanh đối với pháp nhân, không quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống.
Điều kiện cho vay:
Theo luật của Ngân hàng thì tất cả những khách hàng thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây đều được tiến hành cho vay:
có tư cách pháp nhân,thể nhân đầy đủ.
Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả.
Có vật tư hay hàng hoá tương đương tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay hoặc bảo lãnh của người thứ ba theo quy chế thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Có kế hoạch trả gốc và lãi Ngân hàng .
Sử dụng tiền vay đúng mục đích.
Các nghiệp vụ tín dụng:
Chiết khấu thương phiếu:
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người trả nợ) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng thường kí với khách hợp đồng chiết khấu ( cấp cho khách hàng hạn mức chiết khấu trong kì). Khi cần chiết khấu khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao.
Các hình thức cho vay:
Thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thơi gian xác định “gọi là hạn mức thấu chi”. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thế chấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,... Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệ mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức:
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng co thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặcdư nợ lâu không giảm sút.
Cho vay luân chuyển:
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguần cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Cho vay trả góp:
Là hình thức mà ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay gián tiếp:
Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như các tổ, đội, nhóm sản xuất, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ,... Các tổ chức này thương liên kết các thành viên theo mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay. Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng.
Cho vay bằng cách mua các Trái Phiếu:
Các ngân hàng mua trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai,... đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu.
Cho vay theo các dự án:
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định,... nhằm thực hiện các dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay vốn phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguần nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính,... trong đó phân tích tài chính là mục tiêu quan trọng hàng đầu của ngân hàng.
Cho thuê tài sản:
Là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ ( hoặc thu đủ ) giá trị của tài sản cho thuê và cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Bảo lãnh:
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
1.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM:
1.2.1. Khái niệm:
Chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử dụng nhằm đạt được và duy trì chất lượng một sản phẩm hoặc dịch vụ trong ngân hàng. Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động giữa ngân hàng và khách hàng. Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích , đánh giá đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn tại về chất lượng tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2. Quan niệm về chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp nó phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Quan niệm về chất lượng tín dụng (thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, sự tác động tới nền kinh tế, xã hội và môi trường).
Chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng tín dụng của các món vay có thời hạn trên 1 năm. Các món vay của Ngân hàng được xem là có chất lượng tốt khi vốn vay được khách hàng sử dụng đưa vào sản xuất kinh doanh đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn thông qua đó Ngân hàng thu hồi được gốc và lãi còn doanh nghiệp vừa trả được Ngân hàng đúng thời hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Xét về tổng thể, ngân hàng vừa phải tạo ra hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
Như vậy, để đánh giá một khoản tín dụng là tốt, xấu hay trung bình, điều đó cần phải có sự đánh giá từ hai phía: Ngân hàng và khách hàng.
Đối với Ngân Hàng:
Chỉ tiêu về huy động vốn trung và dài hạn:
Vốn trung dài hạn
Tổng nguồn vốn huy động
Phản ánh cơ cấu vốn trung dài hạn của Ngân hàng và khả năng cung ứng vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển.
Chỉ tiêu sử dụng vốn:
Có thể nói, đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tín dụng. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động tín dụng của một Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ Ngân hàng đã sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động được.
Chỉ tiêu vòng quay của vốn:
Tổng doanh số thu nợ
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này là cho ta biết Ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay càng lớn chứng tỏ Ngân hàng càng thu được nhiều nợ và chứng tỏ nguồn vốn trung dài hạn mà Ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Chỉ tiêu doanh số cho vay trung và dài hạn:
Phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giải ngân giúp doanh nghiệp đầu tư, cải tiến, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Con số và tốc độ tăng của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư trung và dài hạn là mở rộng hay thu hẹp.
Chỉ tiêu dư nợ trung và dài hạn:
Dư nợ trung và dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của một Ngân hàng qua các thời kỳ khác nhau. Tử số càng cao chứng tỏ mức độ phát triển của nghiệp vụ này càng lớn, mối quan hệ Ngân hàng với khách hàng là có uy tín. Vì tín dụng trung dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, dư nợ lại lớn chứng tỏ mối quan hệ khách hàng – Ngân hàng là hoàn toàn tin cậy và có hiệu quả.
Chỉ tiêu nợ quá hạn:
Nợ quá hạn tín dụng trung và dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên vay không đủ tiền để trả và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn rõ ràng là điều không mong muốn của các Ngân hàng. Không phải cứ nợ quá hạn cao thì đã đánh giá chất lượng tín dụng là không tốt, không có khả năng thu hồi nợ và ngược lại. Trên thực tế, các Ngân hàng luôn cố gắng hạ thấp nhất tỷ lệ nợ quá hạn.
Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi:
Nợ quá hạn khó đòi trung dài hạn
Tổng dư nợ trung dài hạn
Nó phản ánh khả năng khó có thể trả nợ hết cho ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao thì khoản tín dụng có chất lượng thấp, và điều đó dẫn đén việc đầu tư cuả Ngân hàng đã bị lãng phí một cách vô ích. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng này, các cán bộ tín dụng cần phải kiểm soát, kiềm chế tỷ lệ này ở mức thấp nhất.
Chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung dài hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung và dài hạn. Lợi nhuận ở đây phải hiểu là chênh lệch giữa chi phí đầu vào tức lãi suất huy động và thu nhập từ lãi suất cho vay của tín dụng trung dài hạn.
Lợi nhuận từ tín dụng trung dài hạn
Tổng lợi nhuận
Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung dài hạn trong hoạt động của Ngân hàng. Thu từ khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đóng góp lớn vào thu nhập của Ngân hàng. Nếu khoản tín dụng có chất lượng xấu thì thu không được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của Ngân hàng nên sẽ kéo lợi nhuận giảm tương ứng.
Đối với khách hàng:
Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn. Đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng biểu hiện ở một số chỉ tiêu sau:
Doanh thu từ dự án
Lợi nhuận tăng từ dự án
Lao động
Có thể nói đây là những chỉ tiêu hiệu quả phản ánh chất lượng tín dụng tốt hay xấu. Ngoài hai chỉ tiêu đầu là những chỉ tiêu quan trọng thì chỉ tiêu lao động tăng lên từ dự án cũng rất đáng quan tâm, nhất là trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, thì một dự án đầu tư sẽ giải quyết khó khăn việc làm cho doanh nghiệp cũng như cho xã hội.
Một khoản tín dụng tốt đối với Ngân hàng thường là tốt đối với doanh nghiệp và ngược lại. Từ nguồn vốn vay Ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, cải thiện điều kiện làm việc và góp phần nâng cao đời sống của công nhân viên… xét cho cùng, mục tiêu cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng không chỉ đơn thuần là để thu lãi mà thông qua nguồn vốn đó Ngân hàng kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi lại muốn đầu tư vào dự án mới.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng:
Môi trường kinh tế:
Sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ cho ta thấy được sự ảnh hưởng của nó đến chất lượng tín dụng. Do đó, mọi ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của những chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn nền kinh tế ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn phát đạt, mở rộng sản xuất, nên nhu cầu tín dụng ngày càng tăng. Khi đó, hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ phát triển. Ngược lại, trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái thì tất yếu nhu cầu tín dụng giảm, khả năng hấp thụ vốn của nền k._.inh tế cũng giảm sút. Lúc này ngân hàng sẽ dư thừa, ứ đọng một lượng vốn lớn, nguồn vốn huy động được sử dụng không hiệu quả có nghĩa là chất lượng tín dụng giảm.
Những biến động về lãi xuất, tỷ giá trên thị trường cũng ảnh hưởng tới lãi suất của ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đều tăng lãi suất của mình lên nhằm thu hút được lượng vốn lớn đến với mình, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng lớn, đặc biệt cuối năm 2005 VN gia nhập WTO.
Môi trường pháp lý:
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ đã gây khó khăn cho ngân hàng khi ký kết, thực hiện các hợp đồng tín dụng. Ví dụ như luật ngân hàng quy định bắt buộc khi cho vay phải có tài sản thế chấp nhưng thực tế đối với các doanh nghiệp Nhà nước, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, nên khi cho vay chủ yếu bằng tín chấp.
Luật Ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa đồng bộ với các quy định, văn bản dưới luật. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất lượng tín dụng của các Ngân hàng.
Sự thay đổi các chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, Nhà nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ, năng lực quản lý dẫn đến rủi ro, thua lỗ, làm giảm sút chất lượng tín dụng.
Đối với Ngân Hàng:
Công tác thẩm định dự án đầu tư: đóng vai trò quan trọng, nó xem xét tính khả thi của dự án để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Mục đích của việc thẩm định dự án là nhằm giúp Ngân hàng đưa ra các kết luận chính xác về tính khả thi, tính hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những khả năng rủi ro có thể xẩy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối. Đồng thời, cũng từ việc thẩm định Ngân hàng có thể tham gia góp ý cho chủ đầu tư, xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý phù hợp với năng lực của doanh nghiệp , nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao.
Các cán bộ nhân viên của ngân hàng: cũng có vai trò không thể thiếu, họ cũng cần được học hỏi và nâng cao chất lượng của chính mình để có thể sử dụng các phương tiện hiện đại, nắm bắt kịp thời các thông tin về kinh tế, thị trường… phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ những người làm Ngân hàng vừa phải là nhà phân tích vừa phải là người đánh giá khách hàng có đủ phẩm chất để được ngân hàng cho vay tín dụng hay không, những dự án khả thi, lập được những hợp đồng chất lượng tốt có lợi cho Ngân hàng.
Thông tin tín dụng: là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng. Nhờ có thông tin tín dụng mà ngân hàng có thể dự đoán cho nền kinh tế ở các năm tiếp theo. Trên cơ sở thông tin thu thập được, họ sàng lọc ra những thông tin đó để người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tiền vay. Thông tin tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn diện bao nhiêu thì càng thuận tiện cho công việc kinh doanh của ngân hàng bấy nhiêu và rủi ro có thể được hạn chế ở mức thấp nhất có thể.
Lãi xuất cho vay: là một yếu tố quan trọng của ngân hàng. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức kì vọng sinh lời của ngân hàng, rủi ro tín dụng của các khoản vay và tỷ lệ an toàn của vốn. Các doanh nghiệp khác nhau và từng dự án có mức lợi nhuận khác nhau, lại có mức rủi ro, khối lượng vay vốn, thời hạn cho vay khác nhau. Việc áp dụng lãi suất khác nhau ở từng dự án là nhằm khuyến khích cả doanh nghiệp và Ngân hàng đều hướng tới vay vốn trung dài hạn.
Chính sách tín dụng: là phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và chính bản thân của Ngân hàng. Đối với các NHTM, một chính sách tín dụng đúng đắn, rõ ràng, hợp lý phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường lối, chính sách của Nhà nước, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng và hấp dẫn đối với khách hàng. Hiện nay, sự không chặt chẽ của chính sách, chế độ tín dụng đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Chính vì có những khe hở trong những quy định trên nên một số cán bộ Ngân hàng đã lợi dụng những khe hở đó để luồn lách, gây hiệu quả nghiêm trọng cho hoạt động của Ngân hàng.
Đối với khách hàng:
Khả năng về tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở số vốn tự có của doanh nghiệp và tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn huy động. Ngoài ra, tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản nợ. Tài chính của doanh nghiệp trong tín dụng trung và dài hạn còn đòi hỏi doanh nghiệp có số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên của TSCĐ. Vì vậy, tài chính của doanh nghiệp càng cao thì càng thuận lợi cho Ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Khả năng thích nghi của bộ máy quản lý doanh nghiệp với biến động của cơ chế thị trường là điều cần thiết trước khi Ngân hàng quyết định cho vay. Ngoài ra, việc xem xét sự phù hợp của hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính của doanh nghiệp vơí quy định của pháp luật sẽ cho kết quả đánh giá về năng lực quản lý của doanh nghiệp một cách chính xác hơn.
Chương 2:
Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn
( Tại chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT VN)
2.1. Tổng quan về chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT VN
2.1.1. Giới thiệu về chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT
Giới thiệu về chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam(NHNo &PTNT Việt Nam ) là một trong các ngân hàng thương mại lớn ở Việt Nam. Tổ chức tiền thân của nó là Ngân hàng phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT VN có trụ sở chính tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội. Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long (tên gọi cũ là Sở giao dịch NHNo & PTNT 1) là doanh nghiệp được nhà nước xếp hạng I của một trong những ngân hàng thương mại Quốc doanh lớn nhất Việt Nam, có uy tín trong và ngoài nước. Tiền thân của chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long là Sở giao dịch I thành lập từ ngày 06/03/1991 đến ngày 14/04/2003, Sở giao dịch I được đổi tên thành Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long với chức năng kinh doanh là chính. Để nhanh chóng xây dựng thương hiệu kinh doanh mới, đồng thời phát huy lợi thế của Chi nhánh cấp I Ban Giám đốc đã có nhiều giải pháp năng động sáng tạo.
Đơn vị hạch toán độc lập
-Công ty kinh doanh mỹ nghệ vàng bạc đá quý
-Công ty cho thuê tài chính 1
-Công ty cho thuê tài chính 2
Đơn vị hạch toán độc lập
-Trung tâm đào tạo tay nghề
-Trung tâm tin học
-Trung tâm thanh toán phòng ngừa rủi ro
Đơn vị hạch toán phụ thuộc
- Chi nhánh kinh doanh tổng hợp
Sở dao dịch
Chi nhánh kinh doanh chuyên ngành
HĐQT
Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
Các đơn vị thành viên
Mô hình tổ chức của NHNo :
Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT
Cơ cấu tổ chức quản lý
Tính đến ngày31/12/2004. theo quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long, Giám đốc là người điều hành trực tiếp mọi hoạt động của Chi nhánh với sự giúp đỡ của 3 phó giám đốc, trong đó có 1 phó giám đốc thường trực. Dưới ban giám đốc, Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long có các phòng như sơ đồ dưới.
Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long có 241 cán bộ, số cán bộ trên được hình thành từ các nguần:
+ Cán bộ của SGD NHNo & PTNT I.
+ Cán bộ tuyển dụng từ Sinh viên của các trường Đại học, Cao đẳng và các nguồn khác của xã hội.
+ Cán bộ từ các đơn vị trong hệ thống ngân hàng điều về.
+ Cán bộ của nhà in Ngân hàng, Tổng Công ty Vàng bạc điều chuyển về, do sắp xếp lại các đơn vị trên.
Sơ đồ tổ chức hoạt động của chi nhánh Thăng LongNHNo & PTNT:
Giám đốc
Phó GĐ phụ trách Tín dụng
Phó GĐ phụ trách Kế toán
Phó GĐ phụ trách Thanh toán quốc tế
Phòng Tín dụng
Phòng hành chính nhân sự
Phòng Thanh toán Quốc tế
Phòng kế hoạch
Phòng thẩm định
Các chi
nhánh
và
phong giao dịch
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ
Phòng vi tính
Phòng Kế toán
Phòng Tín dụng: thực hiện nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng. Đó là việc sử dụng vốn để cho vay (dưới các hình thức :chiết khấu, cho vay theo dự án, đồng tài trợ, bảo lãnh …theo kỳ hạn và không kỳ hạn bằng VND, hoặc ngoại tệ ). Phòng tín dụng cũng chịu trách nhiệm quản lý về việc chi tiêu của các dự án và kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng. Thường xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc phục.
Phòng Kế hoạch: căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh được giao, hàng tuần, tháng có báo cáo và tổ chức đánh giá tình hình thực hiện, thường xuyên chỉ đạo việc xây dựng cũng như quyết toán công tác nguồn vốn và kế hoạch để rút ra mặt mạnh mặt yếu trong cơ cấu nguồn vốn huy động cũng như trong công tác đầu tư tín dụng để thực hiện được kế hoạch kinh doanh TW giao thực.
Phòng thẩm định: thẩm định các dự án vay vốn, bảo lãnh vượt quyền phán quyết cho vay của Giám đốc các Chi nhánh hoặc những món vay do HĐQT, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc chi nhánh quy định, chỉ định. Thu nhập, phân tích các thông tin kinh tế, thông tin khách hàng, thông tin thị trường,… có liên quan đến dự án cần thẩm định, để đảm bảo cho việc thẩm định có hiệu quả, đúng hướng. Tổ chức kiểm tra chuyên đề công tác thẩm định. Nhiệm vụ: Trực tiếp thẩm định các dự án do HĐQT, Tổng giám đốc chỉ định và thẩm định các dự án vượt quyền phán quyết của Chi nhánh. Làm đầu nối và tham gia thẩm định các dự án đồng tài trợ với các TCTD khác. Tiếp cận với các Bộ ngành có liên quan, các Tổng công ty và các địa phương, để nắm bắt định hướng phát triển kinh tế, các định mức kinh tê kỹ thuật liên quan đến đối tượng đầu tư; khai thác các dự án đầu tư có hiệu quả; tham mưu cho lãnh đạo trong việc làm đầu mối đồng tài trợ với các NHTM khác. Phối hợp với các Ban liên quan, tham mưu cho lãnh đạo trong việc xác định mức cho vay đối với một số ngành kinh tế, ngành hàng và doanh nghiệp… để đầu tư đúng hướng, phòng ngừa và phân tán rủi ro. Tổ chức kiểm tra công tác thẩm định của các chi nhánh theo quy định.
Phòng Hành chính nhân sự: thực hiện công tác văn thư, hành chính, quản trị, tuyên truyền, tiếp khách … nhằm mục tiêu xây dựng các PGD văn minh, lịch sự, với chức năng nhân lực, phòng giúp giám đốc quy hoạch, sắp xếp và bố trí cán bộ, thực hiện các quyết định khen thưởng, kỷ luật, thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động cũng như đề xuất cho cán bộ đi học tập, tham quan … Nhiệm vụ: Xây dựng và triển khai chương trình giao ban nội bộ chi nhánh và các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn. Tư vấn pháp chế trong việc thực thi các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến cán bộ, nhân viên và tài sản chi nhánh NHNo&PTNT. Đầu mối cho việc chăm lo đời sống vật chất, văn hoá tinh thần, thăm hỏi ốm đau, hiếu hỷ cán bộ nhân viên. Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị theo chỉ đạo của ban lãnh đạo chi nhánh
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: cũng giống như bộ phận chức năng về kiểm tra kiểm toán ở bất kỳ đơn vị nào khác, phòng KTKTNB của NHNo Việt Nam thực hiện việc rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm toán nôị bộ, kiểm tra các thông tin do kế toán cung cấp, xem xét việc tính và ghi các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính, kiểm tra tính chiếm lược và tính hiệu quả trong các đơn vị. Nhiệm vụ: Thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ kịp thời đề ra các biện pháp để uốn nắn sai lệch, sửa chửa khuyết điểm, phát huy các mặt mạnh, kiên quyết xử lý các trường hợp cá nhân sai phạm. Báo cáo Tổng giám đốcNHNo, Giám đốc chi nhánh NHNo & PTNT kết quả kiểm tra và đề xuất biện pháp xữ lý, khắc phục khuyết điểm , tồn tại.
Phòng Kế toán – Ngân quỹ: các cán bộ phòng kế toán, ngân quỹ không chỉ hạch toán các nghiệp vụ kinh doanh theo quy định mà còn tổ chức hạch toán, theo dõi các quỹ, vốn tập trung toàn hệ thống NHNo. Nhiệm vụ: thực hiện các dịch vụ rút tiền tự động, két sắt, thu chi tiền mặt, ngân phiếu thanh toán, vận chuyển tiền, quản lý kho, quỹ nghiệp vụ, tham gia thanh toán liên hàng …phòng còn đảm nhận các công việc về tài chính, phân tích hoạt động tài chính, cho đến việc nộp ngân sách nhà nước theo quy định.
Phòng vi tính:
Phòng vi tính chi nhánh Thăng Long được thành lập tháng 06/2002 với chức năng và nhiệm vụ là đơn vị đầu mối xây dựng kế hoạch và triển khai ứng dụng, quản lý hệ thống công nghệ thông tin tại chi nhánh đáp ứng yêu cầu hoạt động của chi nhánh.
Phòng thanh toán quốc tế: Thực hiện các nghiệp vụ về TTQT( bao gồm chiết khấu ,tái chiết khấu chứng từ, mở và theo dõi thư bảo lãnh, thư tín dụng theo lệnh của tổng giám đốc NHNo ). Phòng này còn thực hiện một chức năng quan trọng là tham gia đào tạo và tổ chức hướng dẫn các nghiệp vụ về TTQT trong hệ thống NHNo . Nhiệm vụ: Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu cho các khách hàng có nhu cầu, cho vay chiết khấu bộ chứng từ cho thế chấp làm nhiệm vụ thanh toán L/C khi đến hạn. Thực hiện các chức năng chuyển tiền và kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải nắm bắt tình hình tỷ giá để kinh doanh có lãi.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh Thăng Long NHNo & PTNT
Huy động vốn:
Đối với một Ngân hàng thì nguồn vốn là yếu tố đầu vào của quá trình hoạt động kinh doanh. Khi nguồn vốn có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của chi nhánh Thăng Long. Đơn vị: tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
2003
2004
Tổng số
Tỷ trọng(%)
Tổng số
Tỷ trọng(%)
Tổng nguồn vốn
Phân theo đơn vị tiền tệ
Bằng nội tệ
Bằng ngoại tệ quy đổi VNĐ
Phân theo ngành
Tiền gửi dân cư
Tiền gửi: TCKT; TCXH
Vốn uỷ thác đầu tư
Tiền gửi, vay khác
Phân theo thời hạn
Không kỳ hạn
Kỳ hạn dưới 12 tháng
Kỳ hạn trên 12 tháng
6355
5456
899
1102
2706
1049
1498
3355
1220
1780
100%
87
13
17
42
17
24
53
19
28
8253
7130
1123
993
4227
1250
1783
3797
2195
2261
100%
86
14
12
51
15
22
46
27
27
( Nguồn số liệu: lấy từ phòng kinh doanh của Chi nhánh Thăng Long)
Nguồn vốn: 8253 tỷ VNĐ, tăng 23% so với năm 2003, trong đó:
Cơ cấu nguồn vốn theo đồng tiền:
Nội tệ: 7.130 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 86% tổng nguồn vốn, tăng 23% so với năm 2003.
Ngoại tệ quy đổi theo VNĐ: 1.123 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 14% tổng nguồn vốn, tăng 25% so với năm 2003.
Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn:
Nguồn vốn không kỳ hạn: 3.797 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 46% tổng nguồn vốn, tăng 13% so với năm 2003.
Nguồn vốn có kỳ hạn < 12 tháng: 2.195 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 27% tổng nguồn vốn, tăng 80% so với năm 2003.
Nguồn vốn có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 2.261 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 27% tổng nguồn vốn, tăng 26% so với năm 2003.
Phân loại nguồn vốn:
Tiền gửi dân cư: 993 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 12% tổng nguồn vốn, giảm 11% so với năm 2003.
Tiền gửi TCKT, TCXH: 4.227 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 51% tổng nguồn vốn, tăng 45% so với năm 2003.
Vốn uỷ thác đầu tư: 1.250 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 15% tổng nguồn vốn, tăng 9% so với năm 2003.
Tiền gửi, vay khác: 1.783 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 22% tổng nguồn vốn, tăng 16% so với năm 2003.
Cho vay:
Cho vay là một chỉ tiêu quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Bên cạnh đó, cũng dễ phát sinh rủi ro nhất do môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, tính chất khách quan phức tạp. Dựa vào bảng sau chúng ta có thể nhìn nhận về các khoản cho vay của chi nhánh:
Bảng 2: Tình hình cho vay của chi nhánh Thăng Long. Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
31/12/2003
31/12/2004
Tổng số
Tỷ trọng(%)
Tổng số
Tỷ trọng(%)
1. Doanh số cho vay
3787424
100%
9063016
100%
Ngắn hạn
3030256
80
6740625
74
Trung dài hạn
757168
20
2322391
26
2. Doanh số thu nợ
2876962
7565394
Ngắn hạn
2614517
91
5598198
74
Trung dài hạn
262445
9
1967196
26
3. Tổng dư nợ
1845277
3342899
Ngắn hạn
1094627
59
2215260
66
Trung dài hạn
750650
41
1127639
34
4. Dư nợ quá hạn
32852
24275
Ngắn hạn
23512
72
17877
74
Trung dài hạn
9340
28
6398
26
( Nguồn số liệu: lấy phòng tín dụng tại chi nhánh Thăng Long )
Nhìn vào tình hình cho vay vốn của chi nhánh Thăng Long ta thấy doanh số cho vay tăng qua các năm. Năm 2004, doanh số cho vay đạt 9063 tỷ VNĐ tăng 5275tỷ VNĐ so với năm 2003. Trong đó: doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2004 đạt 2322 tỷ VNĐ tăng 757 tỷ VNĐ so với năm 2003.
Xét về doanh số thu nợ đã đạt 2876 tỷ VNĐ năm 2003. Trong đó thu nợ quá hạn 31,5 tỷ VNĐ năm 2003. Sang năm 2004 doanh số thu nợ đạt 7565 tỷ VNĐ tăng 4688 tỷ VNĐ so với năm 2003. Trong đó thu nợ quá hạn 24,2 tỷ VNĐ. Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn: nợ quá hạn phát sinh thường do các đơn vị kinh doanh theo mùa vụ, khách hàng thực hiện phương án kinh doanh không đúng theo tiến độ dự tính của phương án. Vì vậy việc thu hồi vốn thường chậm so với dự tính trên phương án. Ngoài ra do cho vay tiêu dùng trả nợ bằng lương của khách hàng thường định kì thu nợ theo hàng tháng. Vì vậy khi khách hàng gặp khó khăn đột xuất hoặc đi công tác dẫn đến việc trả nợ không đúng kì hạn nên phải chuyển nợ quá hạn. Khả năng thu hồi nợ quá hạn: chi nhánh Thăng Long sẽ cố gắng tận thu tất cả các khoản nợ quá hạn dưới 360 ngày. Chi nhánh luôn chấp hành quy định về chuyển nợ quá hạn, không có trường hợp nào đến hạn mà không chuyển nợ quá hạn.
Tổng dư nợ đến 31/12/2003 đạt 1845,2 tỷ VNĐ, trong đó: dư nợ ngắn hạn 1094,6 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 59%/tổng dư nợ; dư nợ trung và dài hạn 750,6 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 41%/tổng dư nợ. Đến năm 2004, tổng dư nợ đạt 3342,8 tỷ VNĐ. Trong đó, năm 2004: dư nợ ngắn hạn 2215,2 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 66%/ tổng dư nợ, dư nợ trung dài hạn: 1127,6 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 34%/ tổng dư nợ.
Xét về nợ quá hạn đến 31/12/2003 là 32,8 tỷ VNĐ. Sang năm 31/12/2004, nợ quá hạn là 24,2 tỷ VNĐ, chiếm 0.73%/ tổng dư nợ, giảm 9 tỷ VNĐ.
Nợ đã được xử lí rủi ro: 22 tỷ VNĐ
Thanh toán quốc tế:
Hoạt động Thanh toán quốc tế và Kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh Thăng Long năm 2004 tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Với sự ưu việt, đổi mới và hiện đại khi áp dụng mạng Korebank trong giao dịch, doanh số thanh toán đã tăng vượt mức kế hoạch năm 2004. Đánh giá lại cả một năm hoạt động có những mặt đựoc và chưa được như sau:
Bảng 3: Tình hình TTQT của chi nhánh Thăng Long. Đơn vị tính: USD
Doanh số
Năm 2003
Năm 2004
Tỷ lệ (%) đạt được so với năm trước
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Hàng xuất khẩu
43
1.551.176
122
4.402.461
284
Hàng nhập khẩu
764
146.512.559
941
347.502.126
237
Dự án
02
60.450.000
8
562.800.000
931
Trả kiều hối
67
428.558
107
603.370
141
Điều chuyển vốn
35
15.937.121
67
29.300.444
184
Tổng số
921
148.821.571
1.245
944.608.401
( Nguồn số liệu: lấy từ phòng TTQT của Chi nhánh Thăng Long)
Ghi chú: Bảng số liệu bao gồm cả các ngoại tệ đã được quy đổi ra USD theo tỷ giá ngày thực tế giao dịch do Ngân hàng Ngoại thương VN công bố.
Tổng thu về phí dịch vụ TTQT: 3.125.511.497 VNĐ.
Trong đó:
Thu từ dịch vụ TTQT: 2.185.384.127 VNĐ.
Thu lãi tiền gửi ký quỹ: 940.127.370 VNĐ.
Dựa vào bảng trên cho ta thấy, tổng doanh số thanh toán quốc tế của chi nhánh Thăng Long năm 2004 với tổng số 1245 món đạt 944 tỷ USD, tăng so với năm 2003. Trong đó hàng nhập khẩu: 941 món đạt 347,5 tỷ USD, tăng 237% so với năm 2003; thanh toán hàng xuất khẩu: 122 món đạt 4,4 tỷ USD tăng 284% so với năm 2003; thanh toán kiều hối : 107 món đạt 603 triệu USD tăng 141 % so với năm 2003 ; điều chuyển vốn: 67 món đạt 29,3 tỷ USD, tăng 184% so với năm 2003.
Trong năm 2004 chi nhánh hoạt động với tăng trưởng mạnh về cả số lượng và chất lượng. Tổng doanh số thanh toán quốc tế của chi nhánh Thăng Long năm 2004 đạt 944 tỷ USD, tăng so với năm 2003. Tổng thu về phí dịch vụ TTQT là: 3125,5 tỷ VNĐ. Trong đó thu từ: dịch vụ TTQT: 2185,3 tỷ VNĐ; thu lãi tiền gửi kí quỹ 940,2 tỷ VNĐ.
Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế đối với nghiệp vụ thanh toán quốc tế như: Thiếu cán bộ làm nghiệp vụ giao dịch cũng như để thực hiện mở rộng dịch vụ TTQT, mạng giao dịch cũng chưa kết nối trực tiếp dịch vụ này giữa trung tâm và chi nhánh. Tăng trưởng về doanh số xuất khẩu chưa cao do gặp khó khăn khi cạnh tranh với các ngân hàng bạn về lãi suất, cơ cấu đầu tư gửi tiền trên tài khoản, thế chấp L/c vay vốn, hoa hồng ngoại tệ,... Báo có ngoại tệ, nội tệ của trụ sở chính với chi nhánh chậm tạo nên tâm lí ảnh hưởng không tốt tới chất lượng dịch vụ dẫn đến mất khách hàng. Dịch vụ Westerm Union tuy đã phát triển nhưng chưa thật sự được chú trọng và có hiệu quả thấp do chính sách quảng cáo cũng như việc bố trí quầy, bàn giao dịch và các phương tiện khác.
Mua bán ngoại tệ:
Bảng 4: Tình hình kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh Thăng Long. Đơn vị tính: USD
Doanh số
Năm 2003
Năm 2004
Tỷ lệ %
Mua vào
116.825.927
251.678.581
215
Bán ra
166.573.635
254.213.729
218
Lãi
1.739.731.443
1.975.982.668
114
( Nguồn số liệu: lấy từ phòng TTQT của Chi nhánh Thăng Long)
Ghi chú: Bảng số liệu đã bao gồm cả các ngoại tệ quy đổi theo tỷ giá ngày lập báo cáo.
Dựa vào bảng trên, trong năm 2004 hoạt động mua vào đạt 251,6 tỷ USD, với tỷ lệ 215% so với năm 2003, bán ra 254,2 tỷ USD, với tỷ lệ 218% so với năm 2003.
Thu nhập từ hoạt động mua bán ngoại tệ năm 2004 đạt 1975,9 tỷ USD, tăng 114% so với năm 2003.
Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ như: Giá bán ngoại tệ của chi nhánh nói chung còn cao so với giá bán của các NHTM trên cùng địa bàn do chưa có cơ chế mạnh dạn khuyến khích kinh doanh các ngoại tệ khác ngoài đồng USD để bù đắp giá. Lượng mua bán ngoại tệ lớn, yêu cầu của khách hàng mua ngoại tệ trả nợ vay nhiều cùng với áp lực thanh toán hàng nhập khẩu nên trong một số trường hợp không gom đủ ngoại tệ để thực hiện yêu cầu của khách hàng dẫn đến chậm trả nợ, thiệt hại cho khách hàng. Mức cho vay ngoại tệ với doanh số quá cao vì lãi suất vay ngoại tệ thấp hơn nội tệ tạo áp lực lớn đối với hoạt động mua bán ngoại tệ trong thanh toán và trả nợ vay.
Kết quả kinh doanh:
Với một mạng lưới hoạt động rộng khắp trong thành phố Hà nội năm 2004 chi nhánh đã đạt được một số kết quả như sau:
Trong năm 2004 : tổng thu về tiền măt là 140.078.806 triệu VNĐ; về ngoại tệ là 145.585.279 USD, và 1.439.841 EURO.
Tổng chi về tiền mặt là 14.086.519 triệu VNĐ; về ngoại tệ là 141.473.780 USD, và 116.300 EURO.
Điều đó cho ta thấy: tổng thu chi tiền mặt năm 2004 tăng 42% so với năm 2003; tổng thu chi USD năm 2004 tăng 29% so với năm 2003; tổng thu chi EURO năm 2004 tăng 184% so với năm 2003; tổng nộp tiền mặt năm 2004 tăng 156% so với năm 2003. Số tiền giả đã phát hiện được trong năm với tổng số là 20.080.000 VNĐ. Trả tiền thừa cho khách hàng về tiền mặt là 108 món với số tiền 87.700.000 VNĐ; ngoại tệ 2 món với số tiền là 200 USD.
Với số liệu tổng hợp trên cho thấy: so với năm 2003 khối lượng công việc ngày càng nhiều, chất lượng công việc ngày càng tăng, đội ngũ cán bộ của toàn chi nhánh đã có rất nhiều cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và giữ được an toàn tuyệt đối tài sản. Tuy khối lượng thu chi lớn như trên, nhưng hàng ngay vẫn duy trì đều đặn nhiều loại hình dịch vụ khác nhau.
Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh
Thăng Long NHNo & PTNT
2.2.1. Thực trạng tín dụng trung và dài hạn của chi nhánh Thăng Long:
Bảng 5: Doanh số cho vay và mức dư nợ TDH tại chi nhánh Thăng Long. Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
2003
2004
Trung dài hạn
Tỷ trọng(%)
Trung dài hạn
Tỷ trọng(%)
Tổng DS cho vay
- Cho vay TDH
3787424
757168
100%
20
9063016
2322391
100%
26
Tổng dư nợ cho vay
- Dư nợ TDH
1845277
750650
100%
41
3342899
1127639
100%
34
( Nguồn số liệu: lấy từ phòng tín dụng của Chi nhánh Thăng Long)
Bảng 6: Dư nợ theo thành phần kinh tế.
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
2003
2004
Tổng
Tỷ trọng(%)
Tổng
Tỷ trọng(%)
Tổng dư nợ cho vay
1845277
100%
3342899
100%
1. DNQD
2. DNNQD
1118334
726943
61
39
1652221
1690678
49
51
( Nguồn số liệu: lấy từ phòng tín dụng của Chi nhánh Thăng Long)
Theo bảng 5 & 6, cho ta thấy doanh số cho vay trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ trọng tương đối cao trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng. Năm 2003, doanh số cho vay trung dài hạn chưa đến 757,1 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 20% trên tổng doanh số cho vay. Sang năm 2004, doanh số này mặc tăng lên 2322,3 tỷ VNĐ, chiếm tỷ trọng 26%.
Về mức dư nợ tăng so với năm trước, năm 2003 mức dư nợ là 750,6 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 41%, thì sang năm 2004 mức này tăng lên tới 1127,6 tỷ VNĐ, mức tăng cao hơn năm trước. Còn về số tương đối thì: tổng doanh số cho vay tăng 139,29%, tổng dư nợ là 81,16% điều đó có thể nói rằng một năm hoạt động thành công của chi nhánh.
Về cơ cấu cho vay trung dài hạn của chi nhánh Thăng Long trong thời gian qua cho vay các thành phần kinh tế vẫn chủ yếu là cho vay ngắn hạn và tập trung vào doanh nghiệp nhà nước. Trong hai năm vừa qua phần lớn chi nhánh Thăng Long cho vay ưu thế về bên doanh nghiệp quốc doanh cao hơn so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Nguyên nhân của thực trạng trên là: do các dự án vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đa phần không thoả mãn các điều kiện vay vốn ( về tài sản thế chấp, về vốn tự có,…). Hơn nữa, đây là một thị trường đầy phức tạp, luôn tiềm ẩn những vấn đề rủi ro khó có thể lường trước được,… Mặt khác, sự năng động của một số đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh thường đồng nghĩa với sự táo bạo, xem thường pháp luật, sử dụng vốn sai mục đích nên dễ đưa Ngân hàng trở thành nạn nhân của những món nợ khó đòi. Do đó, nhận biết được nguy cơ rủi ro của khu vực kinh tế này mà chi nhánh đã thận trọng trong việc cho vay đối với khu vực này, tỷ lệ cho vay đối với khu vực này thường thấp hơn so với các doanh nghiệp quốc doanh.
Nhưng nhìn lại trong 2 năm gần đây chi nhánh đã mở rộng đối với các khoản cho vay của mình đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó năm 2003 đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 726,9 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 39%/tổng dư nợ cho vay và sang năm 2004 đã tăng lên 1690,6 tỷ VNĐ chiếm tỷ trọng 51%/tổng dư nợ cho vay.
2.2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn:
Như ở chương 1 đã phân tích, việc nghiên cứu chất lượng tín dụng đòi hỏi phải được xem xét trên quan điểm Ngân hàng và khách hàng, cả về lợi ích thuần tuý và lợi ích xã hội. Có như vậy, chất lượng tín dụng mới được phản ánh một cách đầy đủ và khách quan:
Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng được xem xét trên nhiều chỉ tiêu chung như: Chỉ tiêu dư nợ, chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ tiêu vòng quay của vốn, …
Bảng 7: Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng
Đơn vị: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
2003
2004
Tổng
Tỷ trọng(%)
Tổng
Tỷ trọng(%)
Tổng dư nợ cho vay
1845277
100%
3342899
100%
1. DNQD
2. DNNQD
1118334
726943
61
39
1652221
1690678
49
51
Tổng doanh số thu nợ
2876962
7565394
( Nguồn số liệu: lấy từ phòng tín dụng của Chi nhánh Thăng Long)
Chỉ tiêu dư nợ: Đây là một chỉ tiêu cho thấy biến động của tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các thành phần kinh tế trong tổng dư nợ tín dụng qua các thời kỳ khác nhau. Theo bảng số liệu trên, ta thấy mức dư nợ tại các thành phần kinh tế chi nhánh Thăng Long đạt ở mức tương đối cao trong tổng dư nợ. Sang năm 2004 tình hình dư nợ có tăng lên so với năm trước đó, tỷ lệ dư nợ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên chứng tỏ chi nhánh đang mở rộng và quan tâm hơn đến khu vực kinh tế này.
Bảng 8: Chỉ tiêu phản ánh vòng quay vốn. Đơn vị: %
Chỉ tiêu
2003
2004
Tỷ lệ(%)
Tỷ lệ(%)
Vòng quay vốn
1,56
2,26
(Nguồn số liệu: lấy từ phòng tín dụng của chi nhánh Thăng Long)
Chỉ tiêu vòng quay của vốn: Nhìn vào bảng ta thấy chỉ tiêu vòng quay vốn của chi nhánh Thăng Long là nhỏ. Song do nguyên nhân là do chi nhánh Thăng Long chủ yếu cho vay ngắn hạn còn cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng không cao.
Bảng 9: Chỉ tiêu nợ quá hạn.
Đơn vị tính: triệu VNĐ
Chỉ tiêu
2003
2004
Nợ quá hạn đến 180 ngày
Nợ quá hạn từ 180 đến 360ngày
Nợ quá hạn trên 360 ngày
Nợ quá hạn đến 180 ngày
Nợ quá hạn từ 180 đến 360ngàày
Nợ quá hạn trên 360 ngày
Nợ quá hạn
7.033
1.554
22.954
19.628
4.640
8
Tỏng số:
31541
24276
(Nguồn số liệu: lấy từ phòng tín dụng của chi nhánh Thăng Long)
Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn: nợ quá hạn phát sinh thường do các đơn vị kinh doanh theo mùa vụ, khách hàng thực hiện phương án kinh doanh không đúng theo tiến độ dự tính của phương án. Vì vậy việc thu hồi vốn thường chậm so với dự tính trên phương án. Ngoài ra do cho vay tiêu dùng trả nợ bằng lương của khách hàng thường định kì thu nợ theo hàng tháng. Vì vậy khi khách hàng gặp khó khăn đột xuất hoặc đi công tác dẫn đến việc trả nợ không đúng kì hạn nên phải chuyển nợ quá hạn.
Khả năng thu hồi nợ quá hạn: chi nhánh Thăng Long sẽ cố gắng tận thu tất cả các khoản nợ quá hạn dưới 360 ngày.
Chi nhánh luôn chấp hành quy định về chuyển nợ quá hạn, không có trường hợp nào đến hạn mà không chuyển nợ quá hạn.
Đối với khách hàng:
Như ở chương 1, em đã đề cập đến chất lượng tín dụng của ngân hàng có ảnh hưởng như thế nào đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Một khoản tín dụng tốt đối với Ngân hàng thường là tốt đối với doanh nghiệp và ngược lại. Từ nguồn vốn cho vay của Ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, cải thiện điều kiện làm việc và góp phần nâng cao đời sống của công nhân viên… xét cho cùng, mục tiêu cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng không chỉ đơn thuần là để thu lãi mà thông qua nguồn vốn đó Ngân hàng kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho sự phát triển của nền kinh tế. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi lại muốn đầu tư vào dự án mới.
Mà ở đây khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn. Do đó, đối với khách hàng thì chất lượng tín dụng biểu hiện ở một số chỉ tiêu sau:
Doanh thu tăng.
Tiêu chuẩn đầu tiên mà doanh nghiệp quan tâm là doanh thu từ dự án. Nhìn chung các dự án mà chi nhánh Thăng Long cho vay qua 2 năm phần lớn các doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất có hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra được thị trường chấp nhận, và đạt lợi nhuận cao. Từ đó, đã đáp ứng yêu cầu của Ngân hàng là trả lãi và gốc vay đúng thời hạn. Bên cạnh đó còn có ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0361.doc