Lời mở đầu
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chiến lược phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, nhằm thực hiện mục tiên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Thực hiện chủ trương trên, từ sau đại hội 6 của Đảng (12/1986) đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chủ trương chính sách nhằm khuyến khích tạo điều kiện cho các
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần á Châu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, cùng với các doanh nghiệp quốc doanh, các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh như các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần... đã phát triển nhanh chóng, đang trở thành lực lượng đáng kể trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và ngày càng thể hiện vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Hiện nay, các doanh nghiệp ở nước ta tuy có tốc độ phát triển tương đối khá nhưng gặp khó khăn về nhiều mặt: thiết bị và công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức và quản lý yếu kém, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao, thị trường không ổn định, bị hàng hoá nhập khẩu lậu cạnh tranh gay gắt...
Khó khăn lớn nhất hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp là vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ... Thực trạng nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp tăng mạnh trong những năm gần đây nhưng các doanh nghiệp trong nước tích luỹ nội bộ thấp, vốn tự có ít nên hầu như đều trong tình trạng thiếu vốn, làm giảm khả năng cạnh tranh. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chưa đủ để đáp ứng nhu cầu vốn trong nước, mặt khác, trong những năm từ 1996 đến nay, đầu tư nước ngoài đã bắt đầu chững lại. Nắm bắt được nhu cầu của thị trường, hệ thống ngân hàng đã tăng cường hoạt động của mình để góp phần cung cấp vốn cho nền kinh tế nhằm đem lại vốn cho các doanh nghiệp, đồng thời mang lại lợi nhuận cho mình.
Hoà nhập chung với sự phát triển kinh tế đất nước, hoạt động của ngành ngân hàng đã có những bước chuyển biến tích cực. Hệ thống ngân hàng một cấp đã được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp, có sự phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh tín dụng, tiền tệ, cung ứng và điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước với chức năng kinh doanh tín dụng, tiền tệ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ của Ngân hàng thương mại.
Trong vài năm gần đây, các Ngân hàng thương mại đã cung cấp tín dụng, góp phần đáng kể vào tiến trình phát triển nền kinh tế đất nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, nhưng cũng là nơi chứa nhiều rủi ro nhất, ngay cả đối với những khoản cho vay có tài sản cầm cố, thế chấp, hệ số rủi ro cũng được xác định là 50% (theo Uỷ ban Bale quốc tế). Vì vậy, vấn đề chất lượng tín dụng không phải là điều mới mẻ, nhưng là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các Ngân hàng hiện nay. Đây là vấn đề đang được tranh luận, trao đổi và tìm biện pháp hữu hiệu để thực hiện.
Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội (ACB Hà Nội) cũng không nằm ngoài tình hình này. Ngân hàng hoạt động trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, nơi nhiều doanh nghiệp lớn đặt trụ sở, mặc dù mới được thành lập nhưng ngân hàng á Châu Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công tác tín dụng, song bên cạnh đó ngân hàng cũng có nhiều khoản nợ quá hạn có nguy cơ không thu hồi được đầy đủ.
Trong quá trình làm việc tại Phòng Tín dụng Ngân hàng á Châu Hà Nội, Tôi đã nhận thức được vấn đề chất lượng tín dụng có ý nghĩa thiết thực cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Do đó, Tôi đã quyết định đi sâu tìm hiểu nghiên cứu chất lượng công tác tín dụng. Trên cơ sở đó và các vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với ngân hàng, Tôi xin trình bày trong “Luận văn tốt nghiệp” của mình vấn đề: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội”.
Đề tài gồm ngoài Lời nói đầu và Kết luận gồm 3 phần chính:
Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Chương 3: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Do thời gian làm việc tại ngân hàng chưa lâu và trình độ hiểu biết thực tế có hạn nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, Tôi rất mong được sự đóng góp, chỉ bảo quý báu của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nhiệp trong ngân hàng để luận văn được hoàn chỉnh, góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp, viết Chuyên đề thực tập và làm Luận văn tốt nhiệp Tôi đã được sự giúp đỡ và chỉ dẫn nhiệt tình của thầy Lê Đức Lữ - thầy giáo hướng dẫn khoa học - và các góp ý chân thành của các đồng nghiệp trong ngân hàng. Nhờ có sự giúp đỡ đó, Luận văn của Tôi đã được hoàn chỉnh tốt hơn. Qua đây, Tôi xin được chân thành cảm ơn sự tận tình quan tâm giúp đỡ của Thầy Lê Đức Lữ và các bạn đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 1 tháng 12 năm 1998.
Sinh viên
Nguyễn Trường Giang.
Chương I
Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng
đối với sự phát triển kinh tế
I. các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tổng số tài sản nợ của các NHTM bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản nợ của các ngân hàng khác và tổ chức tài chính phi ngân hàng. NHTM hoạt động theo định chế tổ chức tài chính mang tính tổng hợp hơn các tổ chức trung gian tài chính khác. Ngoài ra, NHTM còn là thành viên chủ yếu tham gia vào hoạt động của thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn.
Luật Các Tổ chức Tín dụng được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua trong kỳ họp thứ 2, tháng 12 năm 1997, đã định nghĩa Ngân hàng nói chung, Ngân hàng thương mại nói riêng như sau:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chát và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân khác.”
Cũng theo Luật Ngân hàng, tại điều 20 khoản 10: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Như vậy Luật đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Trong đó có hai nghiệp vụ cơ bản:
- Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước.
- Sử dụng các khoản tiền gửi đó để cho vay các cá nhân, tổ chức, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và cung ứng các dịch vụ thanh toán...
Từ năm 1989 trở về trước, khi Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam là hệ thống ngân hàng một cấp, lúc đó trên toàn lãnh thổ Việt Nam chỉ có Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNN) và các chi nhánh của nó hoạt động. Khi đó NHNNVN vừa đóng vai trò của Ngân hàng Trung ương vừa đóng vai trò của Ngân hàng thương mại. NHNN vừa là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động ngân hàng, quản lý tiền tệ....; vừa trực tiếp kinh doanh tiền tệ như ngân hàng thương mại: hoạt động tín dụng, thanh toán....
Tháng 5/1990 Hội đồng Nhà nước đã thông qua và công bố hai Pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính, hiệu lực thi hành bắt đầu từ tháng 10 năm 1990. Định hướng cơ bản của các Pháp lệnh ngân hàng là tách bạch hai chức năng: Chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh trong ngành ngân hàng. NHNN là ngân hàng trung ương, có chức năng quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng; còn chức năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng thuộc về các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Từ đó:
- Tạo lập một hệ thống NHTM và Tổ chức tín dụng được phép kinh doanh tiền tệ - tín dụng và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ của pháp luật Nhà nước.
- Đa dạng hoá các loại hình: Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng.
- Đa dạng hoá về sở hữu: NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
- Tăng cường tính độc lập tự chủ trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng.
- Từng bước tạo lập môi trường, điều kiện nhằm bảo vệ người gửi tiền, người cho vay, người vay tiền để sản xuất kinh doanh... , từ đó làm cho hoạt động của hệ thống ngân hàng được an toàn, tránh rủi ro.
Với định hướng trên, trong những năm qua, hệ thống ngân hàng cấp II - cấp kinh doanh: ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, đã được thành lập và phát triển nhanh chóng. Hệ thống ngân hàng cấp kinh doanh đã, đang và sẽ tạo lập ra thị trường tiền tệ ngày càng lành mạnh, chấp nhận cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, với nhiều loại hình, nhiều loại sở hữu trong nước và nước ngoài. Theo báo cáo của NHNN, hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay gồm:
- 4 NHTM quốc doanh: Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Hệ thống các NHTM quốc doanh có hàng trăm chi nhánh, hàng ngàn phòng giao dịch đặt trụ sở trên phạm vi toàn quốc.
- 53 NHTM cổ phần gồm: 38 ngân hàng cổ phần đô thị, 15 ngân hàng cổ phần nông thôn.
- 2 công ty tài chính cổ phần.
- 4 ngân hàng liên doanh với nước ngoài.
- 19 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trong hệ thống NHTM nhiều thành phần nói trên, sự hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó bốn NHTM và các công ty tài chính quốc doanh hiện nay vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Hoạt động của NHTM bao gồm ba nghiệp vụ chính sau:
1. Nghiệp vụ nợ
Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ này nhằm mục đích tạo nguồn vốn cho nghiệp vụ có. Thực chất nghiệp vụ này là việc ngân hàng huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nghiệp vụ này bao gồm:
1.1. Tiền gửi
Tiền gửi là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ này là đặc trưng cơ bản trong nghiệp vụ nợ của ngân hàng. Tiền gửi bao gồm các loại:
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn).
Tiền gửi thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ và thực hiện các khoản chi khác. Đây không phải là tiền để dành mà là bộ phận tiền đang chờ thanh toán, vì vậy khách hàng có thể rút tiền ra hoặc sử dụng thanh toán bất cứ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản:
+ Tài khoản séc: Tài khoản này có số dư có, khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi tiền gửi của mình.
+ Tài khoản vãng lai: Tài khoản này lúc có số dư nợ, lúc có số dư có. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng và số dư nợ thể hiện khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được uỷ thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận thời gian rút tiền giữa ngân hàng và khách hàng. Như vậy, theo nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đã đến hạn thoả thuận, tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn nhưng không được hưởng lãi suất hoặc hưởng lãi suất thấp.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì vậy các ngân hàng thường chú trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này. Có các loại tiền gửi: ngắn hạn (dưới 12 tháng), trung hạn (1 - 5 năm), dài hạn (trên 5 năm). Mỗi kỳ hạn có một lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn gửi càng dài thì lãi suất càng cao.
- Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi, để dành của cá nhân, tổ chức được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Có hai loại tiền gửi là tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
- Các hình thức huy động khác
Ngoài huy động dưới hình thức tiền gửi, NHTM còn phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Chứng chỉ tiền gửi là loại phiếu nợ ngắn hạn (dưới 12 tháng), trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn.
1.2. Vay các ngân hàng khác
Ngoài tiền gửi và huy động tiền qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, NHTM còn vay vốn qua các NHTM khác hoặc NHTW.
1.3. Vốn của ngân hàng
Vốn của ngân hàng bao gồm: vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, lợi nhuận giữ lại và các loại quỹ khác.
- Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu tự nguyện đóng góp. Nếu là ngân hàng quốc doanh thì chủ sở hữu góp vốn là nhà nước, nếu là ngân hàng cổ phần thì là các cổ đông. Vốn điều lệ của ngân hàng được ghi trong giấy phép hoạt động và điều lệ ngân hàng (mức vốn này lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định - mức tối thiểu do nhà nước quy định cho mỗi loại hình ngân hàng).
- Các quỹ dự trữ:
+ Quỹ dự trữ đặc biệt: là loại vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bù đắp các rủi ro trong quá trình hoạt động. Hàng năm ngân hàng phải trích 10% trên lợi nhuận ròng cho đến khi bằng vốn pháp định.
+ Quỹ dự trữ: là loại vốn được trích từ lợi nhuận hàng năm để bổ sung vốn pháp định. Theo Pháp lệnh ngân hàng Việt Nam, hàng năm ngân hàng phải trích 5% trên lợi nhuận ròng để lập quỹ này, còn mức tối đa do NHNN quy định.
Theo Pháp lệnh ngân hàng: NHTM có thể huy động tối đa bằng 20 lần vốn tự có của ngân hàng, như vậy vốn của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng tài sản có. Đối với các ngân hàng nhỏ và các ngân hàng mới thành lập, vốn này chủ yếu để xây dựng trụ sở làm việc và mua sắm trang bị kỹ thuật cho hoạt động của ngân hàng, chỉ có một phần vốn này được dùng vào hoạt động kinh doanh: đầu tư vào các doanh nghiệp khác hoặc cho vay.
2. Nghiệp vụ có
Nghiệp vụ có là nghiệp vụ có nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của ngân hàng. Song nó cũng chính là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Tài sản có của ngân hàng bao gồm 4 khoản mục chính:
- Các khoản mục về ngân quỹ.
- Tín dụng.
- Đầu tư (chứng khoán).
- Tài sản có khác.
Nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng nhằm quản lý tốt tài sản có để đem lại lợi nhuận cao nhất, đồng thời rủi ro thấp nhất về phía ngân hàng.
2.1. Các khoản mục ngân quỹ, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại ngân hàng khác, các khoản ngân quỹ trong quá trình thu nhận.
2.2. Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Trong các khoản mục thuộc tài sản có, nghiệp vụ tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất, có thể lên đến 70 - 80% tổng tài sản có của ngân hàng.
2.3. Đầu tư, bao gồm: mua trái phiếu, tín phiếu của Chính Phủ hoặc của các doanh nghiệp khác. Đầu tư trực tiếp bằng cách mua cổ phiếu của các công ty...
2.4 Tài sản có khác, bao gồm: tài sản cố định của ngân hàng, các trang thiết bị khác.
Tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất đồng thời cũng rủi ro nhất của ngân hàng. Trong phần sau Tôi xin trình bày rõ hơn về nghiệp vụ này.
3. Nghiệp vụ trung gian (thanh toán)
Có hai hình thức thanh toán: dùng tiền mặt và không dùng tiền mặt (chi trả qua tài khoản ở ngân hàng, nghĩa là ngân hàng căn cứ vào các chứng từ để chuyển tiền từ tài khoản của doanh nghiệp này sang tài khoản của doanh nghiệp khác). Trong đó bao gồm các hình thức thanh toán sau:
3.1. Thanh toán bằng séc
Séc nghĩa là lệnh chi tiền. Có nhiều cách phân loại séc, thông thường, người ta phân chia theo tiêu thức người phát hành, có hai loại:
- Séc của ngân hàng đối với ngân hàng.
- Séc của khách hàng ra lệnh cho ngân hàng chi tiền. Loại này được chia làm 2 loại:
+ Séc tiền mặt: là chứng từ để chủ tài khoản nhận tiền mặt từ ngân hàng về hoặc ra lệnh cho ngân hàng chi tiền mặt cho người thứ ba.
+ Séc chuyển khoản: là chứng từ sử dụng để chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác. Loại này bao gồm:
++ Séc chuyển khoản thông thường: là loại séc mà chủ tài khoản được quyền viết vào tờ séc giao trực tiếp cho người thụ hưởng mà không đòi hỏi một điều kiện ràng buộc nào.
++ Séc bảo chi: là loại séc chuyển khoản được ngân hàng bảo chi. Thường có hai loại là bảo chi từng tờ séc và bảo chi cả quyển séc.
3.2. Uỷ nhiệm chi
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản giao trực tiếp cho ngân hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá hoặc dịch vụ đã nhận.
3.3. Uỷ nhiệm thu
Uỷ nhiệm thu là chứng từ người bán nhờ ngân hàng thu hộ tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung cấp cho người mua.
3.4. Thư tín dụng
Thư tín dụng là hình thức thanh toán có sự bảo đảm của ngân hàng đối với cả người mua và người bán. Người bán nhận được tiền nếu cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo đúng hợp đồng. Người mua chỉ phải trả tiền khi nhận được hàng hoá theo đúng hợp đồng.
ở Việt Nam trước đây chủ yếu dùng séc bảo chi. Trong trường hợp thanh toán bằng séc thông thường (không phải là bảo chi) thì không có lợi cho người bán vì người bán không nắm được số dư trên tài khoản của người mua. Trường hợp người mua phát hành séc quá số dư thì người bán không nhận được tiền thanh toán.
Trong thời gian gần đây, do quan hệ kinh tế ngày càng phát triển nên việc thanh toán sử dụng uỷ nhiệm chi và thư tín dụng cũng rất phát triển, đặc biệt trong quan hệ thanh toán quốc tế.
4. Mối quan hệ giữa các nghiệp vụ ngân hàng
Các nghiệp vụ của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó nghiệp vụ tài sản nợ (huy động vốn) quyết định quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng. Nghiệp vụ tài sản có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nghiệp vụ tài sản nợ. Nghiệp vụ trung gian sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển các nghiệp vụ tài sản nợ và có. Nói cách khác, nghiệp vụ trung gian là nghiệp vụ tiền đề, là điều kiện để duy trì và phát triển các nghiệp vụ khác.
Tuy nhiên, trong các nghiệp vụ của ngân hàng, đặc biệt là đối với các ngân hàng Việt Nam thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Vì thế nó đóng vai trò quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, là hoạt động mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng còn tiến hành cung cấp các dịch vụ khác để tăng lợi nhuận cho ngân hàng như: dịch vụ bảo quản các giấy tờ có giá, dịch vụ uỷ thác đầu tư, dịch vụ tư vấn, mối giới cho khách hàng...
II. vai trò của tín dụng đối với sự phát triển kinh tế
1. Khái niệm tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Nhìn chung, trong các khoản mục thuộc tài sản có, nghiệp vụ tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất (có thể lên tới 70% - 80% tài sản có), đây cũng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng.
Tín dụng là một khái niệm chỉ những quan hệ kinh tế giữa ngân hàng, các tổ chức tài chính với các nhà doanh nghiệp và tư nhân. Nói cách khác, nó thể hiện quan hệ vay mượn có hoàn trả giữa người vay và người cho vay cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, kèm theo các điều kiện đảm bảo, theo thoả thuận giữa hai bên.
2. Vai trò của tín dụng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
Trong quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường, xuất hiện rất nhiều các thành phần, các chủ thể kinh tế. Hàng loạt các công ty ra đời, các cá nhân tự do buôn bán cũng xuất hiện rất nhiều. Trong số họ, không phải ai cũng có đủ vốn để sản xuất, kinh doanh vì thế nhu cầu vay vốn của ngân hàng ngày càng tăng.
Tín dụng của các NHTM có một số vai trò chủ yếu như sau:
2.1. Tín dụng ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng của tất cả các thành phần kinh tế, trên cơ sở đó cho các doanh nghiệp và cá nhân vay vốn, góp phần mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để thực hiện nghiệp vụ tín dụng, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội, các ngân hàng cần phải tìm kiếm nguồn vốn. Vốn ngân hàng bao gồm vốn huy động từ các thành phần kinh tế và vốn tự có của ngân hàng.
Việc tìm kiếm nguồn vốn là một thực tế khách quan. Trong quá trình hoạt động, kinh doanh có nhiều đơn vị, tổ chức kinh tế, tổ chức văn hoá xã hội, các tầng lớp dân cư trong và ngoài nước, Chính phủ... có tiền nhàn rỗi chưa dùng đến, họ đem tiền gửi vào ngân hàng vừa được hưởng lãi vừa không phải mất chi phí cất giữ, đồng thời lại thuận tiện trong việc thanh toán với các đối tác khác thông qua ngân hàng. Như vậy, ngân hàng là một trung gian tài chính có vai trò rất quan trọng trong việc điều chuyển vốn từ nơi nhàn rỗi sang nơi cần vốn.
2.2. NHTM cung cấp các khoản tín dụng ngắn hạn chủ yếu nhằm bổ sung phần vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc làm dịch vụ của doanh nghiệp.
Trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp luôn phát sinh những khoản mua chịu, bán chịu. Vì thế, phần vốn lưu động còn thiếu này phát sinh do có sự không ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi. Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp đã làm cho một số doanh nghiệp bị lúng túng như khi cần mua vật tư, nguyên liệu, thiết bị, phụ tùng... thì không có tiền để mua, do đó khi có điều kiện bán được hàng thì lại không có hàng để mà bán.
Đặc biệt do cạnh tranh trên thương trường ngày càng ác liệt, các doanh nghiệp luôn phải chứng tỏ được ưu thế vượt trội về khả năng chiếm lĩnh thị trường và khách hàng nên các doanh nghiệp càng cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
2.3. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Muốn khai thác tốt nhất lao động tài nguyên, ngành nghề trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng cơ sở thì phải tiến hành phân công lại lao động, phân bố lại dân cư, tổ chức lại sản xuất, đổi mới quản lý. Tất cả những việc đó chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là phải có nguồn vốn tương ứng.
Giải quyết vốn cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, có nhiều nguồn, nhiều kênh. Nhưng do bản chất của tín dụng ngân hàng là vay bảo đảm hoàn trả cả gốc và lãi cho người cho vay, nên nó có thể huy động được một khối lượng vốn nhàn rỗi rất lớn.
Ưu thế nổi bật của hoạt động tín dụng ngân hàng là không làm tăng khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Với chức năng đi vay, tín dụng ngân hàng “hút” lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Với chức năng cho vay, tín dụng ngân hàng “đẩy” tiền ra lưu thông khi tiền trong lưu thông thiếu.
Như vậy, tín dụng ngân hàng góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ, làm cho quan hệ tiền - hàng cân đối. Vì thế, tín dụng cũng là một công cụ để chống lạm phát, ổn định tiền tệ, giá cả, góp phần tạo điều kiện ổn định, thuận lợi trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp, đồng thời còn có lợi cho người tiêu dùng.
2.4. Chính sách lãi suất tín dụng áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế đã tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, triệt để khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.5. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu.
Thực hiện yêu cầu ấy, nếu chỉ dựa vào sự tích luỹ của chính bản thân doanh nghiệp thì không đủ ngay cả đối với những doanh nghiệp lớn. Nhưng nếu thông qua sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng thì việc đó có thể thực hiện một cách nhanh chóng.
ở nước ta hiện nay, tuy đã qua mười năm đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vẫn còn trong quá trình tổ chức và tổ chức lại. Nhiều doanh nghiệp rất cần vốn để đầu tư máy móc, thiết bị, vật tư nguyên liệu, năng lượng và lao động hoặc đổi mới công nghệ, nâng cao kỹ thuật và từng bước hiện đại hoá. Nhiều doanh nghiệp mới hình thành đang rất cần vốn hoạt động. NHTM đã cung cấp vốn phục vụ những nhu cầu đó của các doanh nghiệp. Mặt khác, trong thời gian quan, NHTM còn phải tập trung một lượng vốn lớn đầu tư cho các công trình trọng điểm của nhà nước.
2.6. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác.
Trong cơ chế thị trường, việc sản xuất kinh doanh vì động cơ lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành kinh doanh sản xuất khác nhau.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành, sản xuất ra cùng một loại hàng hoá. Mục đích của cạnh tranh là giành ưu thế trong sản xuất để có ưu thế trong tiêu thụ, nhằm thu hút lợi nhuận siêu ngạch. Điều kiện để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh này là doanh nghiệp phải có vốn khá lớn để đổi mới kỹ thuật và công nghệ, cải tiến tổ chức và quản lý, nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá do doanh nghiệp của mình sản xuất ra thấp hơn giá thị trường. Thực hiện yêu cầu này, các doanh nghiệp cần có vốn hỗ trợ của các ngân hàng.
Việc tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất khác nhau trong lĩnh vực khác có ý nghĩa nhiều mặt. Một mặt, đó là việc tín dụng ngân hàng với chức năng phân phối thực hiện sự phân phối lại vốn giữa các ngành phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế quốc dân một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mặt khác, đó là việc tín dụng ngân hàng góp phần vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành trong nền kinh tế một cách hợp lý.
III. các loại hình tín dụng của NHTM
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau thì việc phân loại nghiệp vụ tín dụng cũng khác nhau. Sau đây Tôi xin liệt kê các tiêu thức , căn cứ vào đó người ta phân loại các loại hình tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các khách hàng của mình.
1. Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng:
1.1. Căn cứ thời gian cấp tín dụng:
- Tín dụng có kỳ hạn: là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ:
+ Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu nhằm bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp và cá nhân.
+ Tín dụng trung và dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng, mục đích chính nhằm bổ sung vốn cố định cho các doanh nghiệp và cá nhân.
- Tín dụng không kỳ hạn: là loại tín dụng được ứng dụng đối với các khoản vay không xác định rõ thời hạn trả nợ.
1.2. Căn cứ thành phần kinh tế:
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
1.3. Căn cứ mục đích sử dụng vốn:
- Tín dụng công nghiệp.
- Tín dụng thương mại.
- Tín dụng nông nghiệp.
- Tín dụng tiêu dùng.
- Tín dụng kinh doanh bất động sản.
- Tín dụng kinh doanh chứng khoán.
- Tín dụng đối với các đối tượng khác: các đối tượng chính sách, sinh viên, người nghèo...
1.4. Căn cứ tính chất bảo đảm:
- Tín dụng có bảo đảm: là những khoản cho vay mà ngân hàng nắm giữ các tài sản thế chấp, cầm cố như: bất động sản, các tài sản có giá, sổ tiết kiệm, chứng khoán,...
- Tín dụng không có bảo đảm: là khoản mà ngân hàng cho vay không cần nắm giữ tài sản thể chấp, cầm cố.
1.5. Căn cứ phương pháp hoàn trả:
- Trả gốc gọn một lần, lãi trả đều kỳ.
- Hoàn trả theo định kỳ hoặc trả góp...
1.6. Căn cứ nguồn phát sinh các khoản tín dụng:
- Tín dụng trực tiếp: trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng, xem xét tình hình người vay...
- Tín dụng gián tiếp: ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không có liên hệ gì với người vay như: cho vay hợp vốn với ngân hàng khác, chiết khấu, mua chứng khoán...
Việc phân loại có ý nghĩa giúp ngân hàng đánh giá lựa chọn cách thức cho vay cũng như khách hàng tốt nhất, trên cơ sở đó nghiên cứu thể lệ và chính sách tín dụng thích hợp. Trong thực tế kinh doanh ngân hàng chúng ta thường xem xét chủ yếu các loại hình tín dụng ngắn hạn là chủ yếu. Khi phân chia các loại hình tín dụng ngắn hạn, người ta thường nhìn dưới giác độ các “sản phẩm tín dụng” hay còn gọi là kỹ thuật cấp tín dụng.
2. Căn cứ theo kỹ thuật cấp tín dụng:
NHTM cấp tín dụng ngắn hạn dưới các hình thức sau đây:
2.1. Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng cổ điển, nhưng mãi đến ngày nay vẫn được coi là một trong những kỹ thuật cấp tín dụng chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi suất chiết khấu và hoa hồng.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ ít gặp rủi ro và không làm “đóng băng” tín dụng của ngân hàng. Trên thế giới, luật lưu thông thương phiếu đều qui định thống nhất và ghi trên thương phiếu thanh toán: “Tất cả những ai ký tên trên chứng từ này đều có nghĩa vụ thanh toán” và các thông tin về doanh nghiệp phát hành thương phiếu đều được lưu trữ tại Trung tâm phòng ngừa rủi ro. Do đó, ngân hàng có nhiều khả năng để thu hồi nợ. Đồng thời chiết khấu còn tạo điều kiện cho NHTM xin tái cấp vốn ở NHTW (theo hình thức tái chiết khấu thương phiếu) để củng cố năng lực thanh toán, cũng như mở rộng qui mô tín dụng trong những trường hợp cần thiết.
Thông thường, chứng từ mà các ngân hàng sử dụng để chiết khấu là các thương phiếu. Đối với hối phiếu, ngân hàng chỉ chấp nhận khi người mua ký chấp nhận trả tiền.
2.2. Tín dụng thấu chi (vượt chi, ứng chi)
Mỗi khách hàng đều có một tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được sử dụng số tiền đã gửi trên tài khoản. Do nhu cầu kinh doanh, khách hàng thường có nhu cầu chi quá số tiền gửi trên tài khoản.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một số tiền lớn hơn số tiền gửi mà khách hàng hiện có.
Những khách hàng có nhu cầu đối với hình thức tín dụng thấu chi là những doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu thường xuyên và thường xuyên có thu nhập bằng tiền nộp vào tài khoản của ngân hàng, thường là các đơn vị thương mại mới thường xuyên có nguồn tiền ra, vào.
Thấu chi là một hình thức tín dụng giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ động và tiện lợi, tuy nhiên cũng gặp nhiều rủi ro, vì vậy chỉ áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh, có uy tín, là khách hàng quen của ngân hàng.
2.3. Tín dụng thuê mua (leasing)
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê mua rất phát triển. Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê bất động sản và động sản như: nhà cửa, máy móc thiết bị, xe vận tải, xe chuyên dùng, thiết bị văn phòng... Các chủ thuê có thể là:._. các ngân hàng trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức tín dụng thuê mua.
Khách hàng thuê tiến hành trả dần giá trị tài sản theo hợp đồng đã thoả thuận với ngân hàng. Khi giá trị tài sản đã trả xong, khách hàng được quyền sở hữu tài sản đó. Trong thời gian chưa trả hết nợ, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng.
Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí, các loại thuế và lãi kinh doanh. Tuỳ từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính với giá khác nhau.
Thời hạn thuê mua có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Tuy nhiên thời hạn trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn thường ít.
2.4. Tín dụng trả góp
Tín dụng trả góp là hình thức cấp tín dụng mà khách hàng được trả dần số tiền vay gồm cả gốc và lãi theo định kỳ. Tín dụng trả góp có quan hệ chặt chẽ với việc mua bán hàng hoá (tài sản), trong đó chủ yếu ngân hàng cho vay để mua hàng hoá của các công ty thương mại. Việc cấp tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoả thuận của ba bên có liên quan: khách hàng mua - người đi vay, công ty bán hàng và ngân hàng.
Tín dụng trả góp khác về cơ bản với tín dụng thuê mua là tài sản sau khi bán đã thuộc quyền sở hữu của người mua và họ có quyền định đoạt. Trong trường hợp tài sản thuộc đối tượng của tín dụng là bất động sản thì có thể dùng làm thế chấp cho ngân hàng, khi khách không trả được nợ thì ngân hàng được phát mại tài sản thế chấp và chỉ được thu phần nợ còn thiếu.
Tín dụng trả góp có ưu điểm là nó không những phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của người vay mà còn kích thích được tiêu thụ hàng hoá, mở rộng sản xuất và tiêu dùng. Mặt khác, người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả, từ đó lập được kế hoạch trả nợ.
2.5. Tín dụng bảo lãnh
Tín dụng bảo lãnh là loại tín dụng phát sinh do ngân hàng nhận thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua không có khả năng thanh toán số nợ này. Ngân hàng thu dịch vụ phí bảo lãnh, mức thu phụ thuộc vào loại nhu cầu bảo lãnh và thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Hình thức bảo lãnh của ngân hàng cũng rất phong phú và đa dạng: bảo lãnh tín dụng, bảo lãnh cung cấp hàng hoá... Tín dụng bảo lãnh phát triển đã đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi tiêu của các nhà sản xuất kinh doanh trong các hoạt động kinh tế tiêu dùng và xã hội.
2.6. Tín dụng vãng lai
Tín dụng vãng lai là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng và ngân hàng với nội dung đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đặc điểm của hình thức tín dụng này là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều ghi vào bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi bên nợ tài khoản. Khi không còn số dư có, khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không khống chế số dư có. Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản, tín phiếu...
Điều kiện để được vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Ngoài ra trong một số trường hợp, người vay có uy tín cao thì có thể vay tín chấp.
Thời hạn vay thường từ 3 - 6 hoặc 12 tháng. Trên lý thuyết, tín dụng vãng lai được xem là tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều ngân hàng cho vay với thời hạn 2 - 3 năm nên tín dụng vãng lai trở thành hình thức tín dụng trung và dài hạn.
2.7. Tín dụng cầm đồ
Tín dụng cầm đồ là loại tín dụng có thế chấp bằng động sản - tài sản cầm đồ, tài sản này phải được ngân hàng cất giữ, trường hợp cá biệt có thể để ở kho chuyên dùng hoặc giao cho người vay giữ. Tài sản cầm đồ được đánh giá không phải bằng toàn bộ giá trị của nó mà được đánh giá thấp hơn để khi có rủi ro có thể bán được ngay, nhằm thu hồi đủ nợ gốc và lãi.
Tín dụng cầm đồ cho vay với thời hạn mang tính chất thời vụ. Các động sản dùng để cầm đồ rất đa dạng: tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, cổ phiếu, sổ tiết kiệm, kim đá quý... Đối với các loại hàng hoá thì nó phải có giá trị, dễ bảo quản, có chứng từ bảo hiểm cần thiết. Mức tín dụng cầm đồ phụ thuộc vào tài sản đem ra cầm, tỷ lệ này tuỳ theo từng loại tài sản nhưng giao động từ 50 - 90% giá trị tài sản trừ đi lãi suất trong thời gian cầm đồ để lại ngân hàng.
Tín dụng cầm đồ là loại tín dụng rất phù hợp với đặc điểm nhu cầu sử dụng vốn đa dạng của kinh tế thị trường. Loại tín dụng này ngày càng được mở rộng và góp phần làm đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay, tạo điều kiện cho những cá nhân, hoặc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có bất động sản thế chấp vay vốn tại ngân hàng có khả năng tăng vốn phục vụ cho việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cá nhân hoặc các nhu cầu khác.
iV. chất lượng tín dụng
1. Khái niệm chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng quát phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chất lượng tín dụng phản ánh đầy đủ cả về mặt chất và mặt lượng các hoạt động của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi, trang trải chi phí khác và có lợi nhuận đồng thời góp phần phát triển nền kinh tế.
Như vậy, qua một quá trình chu chuyển của đồng vốn (T - H - T), ngân hàng sẽ thu hồi được gốc và lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả sẽ mang lại lợi ích cho bản thân, đồng thời quá trình sử dụng vốn ấy cũng đem lại hiệu quả cho nền kinh tế. Không phải ngân hàng cho khách hàng vay mà không xem xét cân nhắc, để cuối cùng phải thu nợ bằng phát mại tài sản thế chấp của khách hàng. Khi cho vay ngân hàng phải xem xét tính khả thi của dự án. Khi thấy dự án có khả năng đem lại lợi nhuận cho khách hàng, từ đó khách hàng có thể trả được nợ cả gốc và lãi, đồng thời đem lại lợi ích chung cho nền kinh tế thì mới được xét duyệt cho vay.
Chất lượng tín dụng càng cao phản ánh trình độ tổ chức quản lý của ngân hàng càng cao và ngược lại chất lượng tín dụng thấp phản ánh trình độ tổ chức quản lý của ngân hàng không hiệu quả. Chất lượng tín dụng phản ánh ở kết quả kinh doanh tín dụng của ngân hàng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng khi sử dụng vốn vay và hiệu quả mà khách hàng đem lại cho nền kinh tế.
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Các ngân hàng thường đưa ra một số chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng như sau:
2.1. Các chỉ tiêu định tính
* Bảo đảm nguyên tắc cho vay: Các nguyên tắc cho vay bao gồm 3 nguyên tắc sau đây
- Nguyên tắc 1: Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi theo đúng hạn đã cam kết.
Nguyên tắc này nhằm nâng cao trách nhiệm của người đi vay, đòi hỏi họ phải cân nhắc, tính toán kĩ khi vay vốn cũng như quá trình sử dụng vốn vay. Họ phải tìm mọi biện pháp tiết kiệm, để làm vốn vay hỗ trợ một cách tốt nhất cho sản xuất kinh doanh, thu lợi nhuận cao. Về phía ngân hàng nguyên tắc này nhằm bảo toàn vốn cho ngân hàng.
- Nguyên tắc 2: Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích như đã cam kết, có hiệu quả kinh tế.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo rằng doanh nghiệp sử dụng vốn vào những hoạt động kinh doanh đúng mục đích và lành mạnh, chống thất thoát vốn, để đồng vốn có thể được phát huy hiệu quả. Để thực hiện công tác này đòi hỏi ngân hàng phải có công tác thẩm định thật chính xác, đầy đủ về phương án sử dụng vốn vay trước khi quyết định cho vay và công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay cuả doanh nghiệp sau khi đã được vay.
- Nguyên tắc 3: Vốn vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh đảm bảo nợ vay hay vật tư tương đương làm đảm bảo.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế những khả năng rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm vốn được thu hồi đầy đủ, bảo toàn vốn kinh doanh của ngân hàng. Do đó, ngân hàng chỉ cho vay với giá trị thấp hơn giá trị của tài sản bảo đảm.
* Cho vay bảo đảm các điều kiện
Khi các khách hàng muốn vay vốn ngân hàng thì phải có đầy đủ các điều kiện sau:
- Có tư cách pháp nhân đầy đủ, hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt nam.
- Sản xuất kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn.
- Có vốn tự có theo qui định
- Tổ chức hạch toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh kế toán và thống kê, sẵn sàng cung cấp các tài liệu cần thiết khi Ngân hàng có yêu cầu.
- Phải có phương án sử dụng vốn vay nêu được mục đích, hiệu quả, tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn vay.
- Thừa nhận và chấp hành thể lệ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và các quy định của ngân hàng nơi vay vốn.
Riêng đối với doanh nghiệp tư nhân ngoài những qui định trên còn phải có:
- Trụ sở doanh nghiệp được đặt cùng địa bàn với ngân hàng.
* Quá trình thẩm định tín dụng
Việc thẩm định tín dụng được tiến hành sau khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ xin vay của khách hàng, nó có vài trò quyết định đến chất lượng công tác tín dụng, giúp ngân hàng tránh được rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Việc thẩm định gồm các bước chính sau:
- Đánh giá chung về khách hàng, bao gồm:
+ Lĩnh vực hoạt động SX - KD, thị trường của sản phẩm, thị phần, uy tín, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh, phát triển của khách hàng,...
+ Đánh giá tổng quát về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
+ Bộ máy điều hành, lý lịch của từng người điều hành. Cơ cấu tổ chức, chất lượng của lao động...
+ Cơ chế quản lý điều hành SX - KD.
+ Các đối tác của khách hàng: bạn hàng, đối thủ cạnh tranh....
+ Khả năng phát triển, nguy cơ tiềm ẩn, các thuận lợi và khó khăn khác....
- Đánh giá tình hình tài chính, tình hình công nợ của khách hàng, bao gồm:
+ Các cơ chế quản lý, điều hành tài chính.
+ Tập hợp, đánh giá các chỉ tiêu tài chính thông qua các báo cáo tài chính 03 năm gần nhất; Xác định trên cơ sở các số liệu trên về khả năng tài chính của khách hàng, xác định nhu cầu vốn của khách hàng (vốn cố định và vốn lưu động cho quá trình SX - KD)
+ Các quan hệ kinh doanh và vay vốn, trả nợ của khách hàng.
+ Tình hình công nợ: tình hình vay vốn, bảo lãnh, công nợ khác, các khoản phải trả (lưu ý nợ quá hạn)...
+ Khả năng trả nợ của khách hàng đối với các nghĩa vụ tài chính đã cam kết.
- Thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư của khách hàng. Bao gồm thẩm định về:
+ Hiệu quả kinh tế của dự án: điểm hoà vốn, thời gian hoàn vốn, tỷ suất sinh lời...
+ Cơ cấu vốn đầu tư (vốn tự có, vốn vay...)
+ Xác định khả năng hoàn trả vốn vay của dự án.
+ Rủi ro của dự án.
- Thẩm định về tài sản thế chấp cầm cố:
+ Xác minh tính chất hợp pháp của TSTC.
+ Đánh giá giá trị tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của khách hàng.
+ Rủi ro của TSTC, cầm cố.
2.2. Các chỉ tiêu định lượng
* Tổng doanh số cho vay
Tổng doanh số cho vay phản ảnh qui mô hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có doanh số cho vay lớn chứng tỏ ngân hàng có uy tín, có mối quan hệ với nhiều khách hàng hoặc có quan hệ tốt với những khách hàng lớn.
* Tổng doanh số thu nợ
Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với doanh số thu nợ lớn. Nếu ngân hàng có doanh số cho vay lớn nhưng doanh số thu nợ thấp chứng tỏ dư nợ quá hạn của ngân hàng cao, chất lượng tín dụng thấp.
* Dư nợ quá hạn
Như ta đã biết, quá trình kinh doanh của ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro vì khác với các loại hình doanh nghiệp khác, kinh doanh của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ. Kinh doanh của ngân hàng có thể chấp nhận rủi ro nhưng rủi ro ở mức chấp nhận được. Dư nợ quá hạn của ngân hàng lớn nghĩa là chất lượng tín dụng thấp, dễ dàng dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh hoặc dẫn đến phá sản.
* Lợi nhuận
Lợi nhuận của ngân hàng là thước đo của việc ngân hàng kinh doanh có tốt hay không. Lợi nhuận cao, dư nợ quá hạn thấp chứng tỏ ngân hàng đã huy động được nguồn vốn với giá rẻ, cho vay thu hồi được gốc và lãi lớn. Như vậy chất lượng kinh doanh tín dụng của ngân hàng cao.
* Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng
Ngân hàng có chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn càng cao thì hoạt động kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại.
Hiệu suất sử dụng vốn của ngân hàng được tính theo công thức:
x 100%
H =
Tv
Thđ
Trong đó: H - là hiệu suất sử dụng vốn (%).
Tv - là tổng dư nợ (đơn vị tính là đồng)
Thđ - là tổng nguồn vốn huy động (đơn vị tính là đồng)
* Các chỉ tiêu định lượng khác: Ngoài ra, khi đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng người ta còn dùng một số chỉ tiêu khác như:
- Tổng dư nợ quá hạn trên tổng doanh số cho vay của ngân hàng
- Tổng dư nợ quá hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng
- Nợ khó đòi trên tổng dư nợ của ngân hàng
- Nợ khó đòi trên tổng doanh số cho vay của ngân hàng v.v...
Tất cả các chỉ tiêu trên nhằm tính toán mức độ chất lượng tín dụng của ngân hàng, tính xem trong 1 đồng vốn cho vay hoặc một đồng dư nợ tín dụng có bao nhiêu đồng là nợ quá hạn hay nợ khó đòi. Từ đó, ngân hàng có những biện pháp làm giảm những tỉ lệ này xuống, nâng cao chất lượng tín dụng cho chính mình.
Các chỉ tiêu khác như: tổng lợi nhuận trên tổng tài sản có, tổng lợi nhuận trên vốn tự có của ngân hàng để đo lường khả năng sinh lợi của ngân hàng.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Có một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại như sau:
3.1. Các yếu tố môi trường
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, nên hoạt động kinh doanh và chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng cũng chịu sự tác động của môi trường xung quanh. Trong đó có thể kể đến các môi trường sau:
* Thứ nhất là môi trường kinh tế - xã hội
Nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường đã được hơn 10 năm song sự hiểu biết về kinh tế thị trường còn hạn chế. Điều này đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam, ngân hàng cũng không nằm ngoài tình trạng này.
Trong giai đoạn hiện nay, môi trường pháp lý nói chung, môi trường pháp lý cho nghành ngân hàng nói riêng còn nhiều vấn đề. Các văn bản pháp lý của chúng ta còn có kẽ hở, chưa chặt chẽ và thiếu tính đồng bộ. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách thường phải điều chỉnh là điều không tránh khỏi, những điều chỉnh đó đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Thứ hai là môi trường Chính trị - Pháp lý
Việt Nam có ưu thế là chỉ có Đảng cộng sản lãnh đạo, chính trị trong nước ổn định, song như trên đã nêu, một trong những hạn chế của ta là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện và đồng bộ gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Luật pháp càng đầy đủ, chặt chẽ bao nhiêu thì càng tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả bấy nhiêu. Từ đó, hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới được thuận lợi và chất lượng kinh doanh được nâng cao.
* Thứ ba là môi trường công nghệ
Môi trường công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và với ngân hàng nói riêng. Trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ càng hiện đại, hiệu quả kinh doanh càng cao. Sử dụng hệ thống máy móc hiện đại phục vụ hoạt động ngân hàng sẽ góp phần giảm chi phí nhân công của ngân hàng, mang lại sự thuận tiện cho khách hàng, đồng thời giúp nhân viên ngân hàng truy cập được thông tin nhanh, chính xác, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
* Thứ tư là môi trường tự nhiên
Đây là yếu tố gián tiến ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên tai, hoả hoạn, lụt lội, bệnh dịch... xảy ra thường xuyên. Điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến một số ngành, đặc biệt là những ngành có liên quan đến nông nghiệp, thuỷ sản, hàng hải... Vì thế, việc đầu tư vào những ngành này có thể dẫn đến những rủi ro do môi trường tự nhiên gây ra, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
3.2. Các yếu tố thuộc về khách hàng
Ta có thể kể đến một số nhân tố sau ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng:
* Thứ nhất là do trình độ công nghệ và trình độ sản xuất của doanh nghiệp
- Về trình độ công nghệ: Hiện nay, trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp nước ta còn lạc hậu, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhìn chung, máy móc thiết bị của các doanh nghiệp nước ta lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 2 - 4 thế hệ, có nhiều xí nghiệp công nghiệp địa phương còn sử dụng các thiết bị chế tạo từ những năm 1940 - 1945. Với trình độ công nghệ như vậy, sản phẩm của doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh được trên thị trường, nhất là thị trường quốc tế.
- Về trình độ sản xuất: Hiện nay, có những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh kém, thị trường hạn hẹp, chưa tạo được thế đứng ổn định vì chất lượng sản phẩm thấp; mẫu mã, hình thức chủng loại sản phẩm kém phong phú, không hợp với thị hiếu người tiêu dùng lại bị sản phẩm nhập lậu cạnh tranh về giá cả. Từ đó dẫn đến sản phẩm không bán được trên thị trường, ứ đọng sản phẩm, ứ đọng vốn dẫn đến việc không hoàn trả được nợ vay của ngân hàng, làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
* Thứ hai là do trình độ quản lý trong doanh nghiệp
Trong nhiều doanh nghiệp, trình độ của đội ngũ giám đốc, chủ doanh nghiệp, kế toán trưởng và các cán bộ quản lý còn thấp, trình độ chuyên môn cũng không cao, chưa qua các lớp bồi dưỡng về quản trị kinh doanh, nghiệp vụ quản lý. Từ đó dẫn đến việc quản lý tồi, gây thua lỗ trong kinh doanh, không có nguồn để trả nợ ngân hàng. Những doanh nghiệp mà đội ngũ lãnh đạo có trình độ quản lý tốt, công việc sản xuất, kinh doanh tiến triển tốt đẹp, doanh thu cao, lợi nhuận cao, hoàn trả được nợ vay ngân hàng thì các doanh nghiệp đã góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
* Thứ ba là tình trạng nợ nần dây dưa, bị chiếm dụng vốn lẫn nhau, thậm chí cả lừa đảo giữa các doanh nghiệp, kể cả vốn vay từ ngân hàng hiện nay xảy ra nhiều trong nền kinh tế nước ta.
* Thứ tư là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
Nhiều doanh nghiệp dùng tiền vay của ngân hàng để quay vòng không đúng với đối tượng kinh doanh, không đúng với mục đích, phương án đã được trình khi xin vay nên đã không trả được nợ đúng hạn. Có những người cố tình không trả nợ ngân hàng, dùng bất động sản thế chấp khi vay vốn, khi giá bất động sản giảm giá đã đẩy phần rủi ro về phía ngân hàng.
* Thứ năm là do sự kém hiểu biết của khách hàng
Có những khách hàng kém hiểu biết về thị trường, không có khả năng kinh doanh nhưng thấy người khác kinh doanh được cũng đứng ra thành lập doanh nghiệp, vay vốn ngân hàng để kinh doanh dẫn thua lỗ. Hoặc có những khách hàng do trình độ dân trí thấp, nghĩ rằng việc vay được tiền của ngân hàng như “của trời cho”, dẫn đến việc sử dụng tiền vay sai mục đích hoặc lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
* Thứ sáu là do hiện nay do Pháp lệnh kế toán và thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê kế toán chính xác, kịp thời.
Hiện nay, đa phần các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện được chế độ kiểm toán bắt buộc nên số liệu không phản ánh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy ngân hàng không thể đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp khi xét duyệt cho vay. Thậm chí có những doanh nghiệp còn cố tình đưa số liệu sai lệch với sự thật như lỗ lại nói là lãi. Những món vay trên cơ sở thông tin sai sự thật như vậy sẽ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho ngân hàng.
* Thứ bảy là do khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng rồi tìm cách trốn chạy.
Tuy nhiên ngân hàng cũng có thể ngăn ngừa được tình trạng này bằng cách thẩm định khách hàng kỹ lưỡng trước khi cho vay.
Trên đây là các nguyên nhân từ phía khách hàng gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng. Về phía ngân hàng cũng có thể tự mình hạn chế các nguyên nhân đó để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình.
3.3. Các yếu tố thuộc về ngân hàng
* Thứ nhất là chính sách tín dụng của ngân hàng.
Chúng ta biết rằng nền kinh tế nước ta đang trong thời kì chuyển đổi nên cơ chế chính sách của ta cũng dần thay đổi và hoàn thiện. Chính sách tín dụng, cơ chế nghiệp vụ tín dụng trong thời gian qua đã có những đổi mới cơ bản theo cơ chế thị trường nên đã góp phần quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ - tín dụng của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát có kết quả.
Song thực tế hiện nay có một số chính sách, thể lệ và cơ chế nghiệp vụ tín dụng còn chưa phù hợp, chưa chặt chẽ gây cản trở trong việc mở rộng đầu tư đối với nền kinh tế. Các quy chế, chính sách, quy định... về tín dụng nói riêng về ngân hàng nói chung, còn chồng chéo thiếu thống nhất, hay thay đổi, gây khó khăn cho việc thực hiện. Về cho vay doanh nghiệp Nhà nước không qui định rõ ràng về việc thế chấp, cầm cố tài sản. Việc qui định theo dõi kiểm tra sau khi cho vay chưa rõ ràng, do vậy những cán bộ tín dụng chưa có kinh nghiệm rất khó theo dõi kiểm tra việc sử dụng tiền vay của khách hàng nên có những trường hợp bị một số kẻ lừa đảo, lợi dụng sơ hở về thể chế tín dụng để chiếm dụng một số tiền lớn.
* Thứ hai là do việc chấp hành, qui định, thể lệ tín dụng còn chưa nghiêm túc.
Có một thực tế, nhiều ngân hàng xem xét hồ sơ, điều tra khách hàng không kĩ trong quá trình xét duyệt cho vay. Thí dụ khách hàng vay ở nhiều ngân hàng, có dư nợ quá hạn, nợ khoanh đang bị kẹt mà vẫn được vay ở ngân hàng mới khác và rõ ràng món vay đó khó tránh được rủi ro. Bên cạnh đó, việc đánh giá tài sản thế chấp không chính xác, hồ sơ tài sản thế chấp không được lập và bảo quản đúng qui định, như vậy khi khách hàng không trả được nợ, việc phát mại tài sản thế chấp cũng không trả đủ vốn vay cho ngân hàng. Có cả những trường hợp ngân hàng cho khách hàng vay để đảo nợ nhằm giảm dư nợ quá hạn của ngân hàng làm cho khách hàng không thấy rõ trách nhiệm phải tìm mọi cách hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
* Thứ ba là cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn đối với một số doanh nghiệp mà vốn tự có của họ quá ít, trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro dễ dẫn đến việc không thu hồi được nợ.
* Thứ tư là do việc kiểm tra sau khi cho vay của ngân hàng chưa chặt chẽ.
Thực tế thời gian qua, có những trường hợp khách hàng vay vốn ngân hàng để đầu tư và tài sản cố định, bất động sản. Những trường hợp này khi đến hạn sẽ khó trả được nợ ngân hàng. Hoặc khi giá cả của bất động sản biến đổi theo chiều hướng giảm cũng dẫn đến việc khách hàng không trả được nợ ngân hàng, dẫn đến tình trạng nợ dây dưa kéo dài. Hoặc có trường hợp ngân hàng để khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích, làm ăn theo kiểu chiếm đoạt, buôn bán lòng vòng... dẫn đến tình trạng gia tăng dư nợ quá hạn cho ngân hàng trong thời gian gần đây.
* Thứ năm là trình độ của cán bộ tín dụng còn hạn chế.
Do đó không có khả năng phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, không thẩm định được dự án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc không phân tích được báo cáo tài chính một cách chính xác, hay không đánh giá được khả năng của người lãnh đạo doanh nghiệp, không biết năng lực thực sự của khách hàng. Kiến thức về kinh tế xã hội, thị trường của cán bộ tín dụng bị hạn chế cũng gây nên rủi ro cho món vay. Vì có những trường hợp, doanh nghiệp không xác định đúng nhu cầu của thị trường, không nắm bắt đúng thị hiếu người tiêu dùng... dẫn đến mặt hàng kinh doanh bị ứ đọng, doanh nghiệp bị ứ đọng vốn. Nếu cán bộ tín dụng có hiểu biết rộng, biết phân tích thị trường, có khả năng phán đoán biến động của thị trường thì có thể sẽ tránh được những tổn thất trên.
* Thứ sáu là công tác kiểm tra kiểm soát trong ngân hàng chưa kịp thời và thường xuyên.
Bên cạnh công tác tôn trọng các qui trình tín dụng cần phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát mới đảm bảo an toàn tín dụng. Nhưng trong thời gian qua, việc làm này còn chưa chủ động vì chỉ khi nào phát sinh vụ việc thì lúc đó mới biết cử đoàn xuống kiểm tra. Do vậy chức năng ngăn ngừa là không thực hiện được mà kết quả các cuộc kiểm tra chỉ là để kiểm nghiệm hoặc rút kinh nghiệm một cách qua loa vì nó đã qua. Việc thường xuyên thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những người có liên quan nhằm hạn chế thiệt hại trong công tác tín dụng là cần thiết song cũng nên tránh tình trạng kiểm tra nhiều quá gây mệt mỏi, tạo căng thẳng cho bộ phận bị kiểm tra.
* Thứ bảy là do công tác tổ chức, nhân sự trong ngân hàng
Nếu ngân hàng sắp xếp những cán bộ không có năng lực trong lĩnh vực tín dụng làm công tác tín dụng sẽ dễ dàng dẫn đến việc gây ra những rủi ro trong các khoản tín dụng của ngân hàng. Nếu xét thấy họ không đủ khả năng làm công tác tín dụng thì lập tức phải điều họ sang làm những công việc khác thích hợp và điều những cán bộ có năng lực vào vị trí của họ. Công tác tổ chức, nhân sự trong ngân hàng tốt sẽ hạn chế được rủi ro tín dụng và phát huy được năng lực của từng nhân viên trong ngân hàng.
* Thứ tám là do hệ thống thông tin ngân hàng
Đối với ngân hàng, thông tin rất quan trọng trong việc quyết định có cho vay hay không? Hoặc biết thời điểm doanh nghiệp có thua lỗ để thu nợ... Hiện nay, Việt Nam đã có trung tâm thông tin tín dụng song các thông tin tại đó được cập nhật chưa đầy đủ hoặc thiếu chính xác. Ngoài thông tin tại CIC, các ngân hàng còn phải tìm kiếm thông tin về khách hàng qua các nguồn khác, chủ yếu tìm hiểu qua các bạn hàng, đối thủ cạnh tranh hoặc trên sách báo... Việc thu thập được thông tin đầy đủ và chính xác về khách hàng là rất quan trọng trong việc giảm được các rủi ro nghiệp vụ cho vay của ngân hàng.
Chương II
Thực trạng chất lượng tín dụng tại
Ngân hàng TMCP á Châu - Hà Nội
I. Khái quát tình hình kinh doanh của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
1. Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu & Chi nhánh Hà Nội
1.1 Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu (ACB).
Ngân hàng TMCP á Châu (Tên giao dịch quốc tế là asia Commercial Bank - viết tắt là ACB) được thành lập ngày 13 tháng 5 năm 1993 và bắt đầu hoạt động kinh doanh từ 4 tháng 6 năm 1993 theo Giấy phép hoạt động số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 4 năm 1993. Ngân hàng TMCP á Châu là một trong những Ngân hàng TMCP được thành lập mới sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng của Việt Nam ra đời. Hội sở chính của Ngân hàng TMCP á Châu được đặt tại 442 - Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 3 - TP Hồ Chí Minh.
Vốn điều lệ tại thời điểm thành lập ngân hàng là 20 tỷ VNĐ, thuộc sở hữu của 27 cổ đông. Đến nay, sau 3 lần tăng vốn ACB đã có vốn điều lệ là 353,711 tỷ VNĐ trong tổng số vốn tự có của ngân hàng là 404,311 tỷ VND, là góp vốn của 533 cổ đồng trong đó có 4 cổ đông nước ngoài là các tập đoàn kinh tế và các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt nam (vốn của các cổ đông nước ngoài chiếm 25,4% tổng số vốn điều lệ). Như vậy, hiện nay Ngân hàng á Châu có vốn điều lệ cao nhất trong hệ thống NHTMCP tại Việt Nam.
Hoạt động chính của ACB bao gồm việc nhận tiền gửi, cung cấp tín dụng bằng tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ, thanh toán chuyển tiền và nhờ thu, phát hành thư bảo lãnh Ngân hàng, tín dụng chứng từ và đầu tư vào các dự án... Ngân hàng á Châu là Ngân hàng hoạt động sớm trong các lĩnh vực tạo ra những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng mới như: Phát hành thẻ tín dụng ACB-Master Card và ACB-VISA; huy động và cho vay bằng vàng, cho vay trả góp để mua nhà- đất, xây dựng - sửa chữa nhà, các hình thức cho vay trả góp khác để phục vụ nhu cầu của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Hiện nay, Ngân hàng á Châu đã có 8 chi nhánh và 4 phòng giao dịch và 2 trung tâm: Trung tâm thẻ và Trung tâm vàng. Các chi nhánh ACB được trải rộng trên toàn quốc: Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, An Giang và Cà Mau. Nhờ có mạng lưới rộng khắp này, hoạt động kinh doanh của ACB đã gặp nhiều thuận lợi hơn. ACB đã thiết lập được hơn 1200 đại lý thanh toán thẻ tín dụng và chi trả chuyển tiền nhanh Western Union trong phạm vi cả nước. Trong năm 1998, ACB có kế hoạch mở thêm từ 2 đến 3 chi nhánh tại Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu long.
1.2. Đôi nét về Ngân hàng TMCP á Châu - Chi nhánh Hà Nội.
Ngân hàng TMCP á Châu - chi nhánh Hà Nội là một trong 8 Chi nhánh của Ngân hàng TMCP á Châu trên toàn quốc. Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội được phép hoạt động kinh doanh theo Giấy chấp thuận số 0016/GTC ngày 31 tháng 12 năm 1993 và đặt trụ sở tại 16 - 18 Phan Chu Trinh - Quận Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội.
Ngân hàng TMCP á Châu Hà nội hoạt động trên địa bàn Quận Hòan Kiếm, một quận trung tâm ở Thành phố Hà nội và là khu vực buôn bán nhộn nhịp, nơi nhiều doanh nghiệp đặt trụ sở nên phần nào Ngân hàng cũng có những thuận lợi trong các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
Trong những năm trước, do mới được thành lập với số vốn hoạt động ban đầu còn nhỏ (chỉ có 20 tỷ), phạm vi kinh doanh hẹp, cùng với việc chưa có kinh nhiệm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nên ngân hàng khó có khả năng thu hút các khách hàng lớn, có uy tín. Các tổng công ty lớn của Việt Nam với đặc điểm: quy mô hoạt động lớn, có truyền thống kinh doanh lâu,... nên trong quan hệ với các ngân hàng thường hoạt động với những ngân hàng quốc doanh và không muốn chuyển sang quan hệ với những ngân hàng mới. Do đó, Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội gặp khó khăn trong việc thu hút các khách hàng lớn. Chính vì thế khách hàng của ngân hàng trong giai đoạn ban đầu chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân kinh doanh.
Từ năm 1997 đến nay, cùng với sự lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng TMCP á Châu, Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội đã trở thành một trong những ngân hàng có uy tín, vì thế hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp lớn cũng được mở rộng. Trong chính sách tín dụng của ngân hàng đã có bước chuyển biến tích cực, thị trường tín dụng đã chuyển mạnh mẽ từ việc phục vụ các khách hàng vừa và nhỏ sang phục vụ các khách hàng lớn là các Tổng công ty 90, 91 của nhà nước. Tuy nhiên, do nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng còn nhiều hạn chế cả về số lượng và thời hạn huy động nên khả năng đáp ứng nhu cầu vốn với số lượng lớn và thời hạn dài của các khách hàng lớn vẫn còn ._.rủi ro, trong việc đào tạo nhân viên và tiêu chuẩn hoá cán bộ phải được tiến hành song song hai mặt: Thứ nhất là: đào tạo về mặt nghiệp vụ, trình độ chuyên môn; Thứ hai là: giáo dục về mặt tư tưởng, đạo đức...cho cán bộ nhân viên. Chỉ có làm được như vậy mới nâng cao được chất lượng trong hoạt động tín dụng.
Thực tế trong thời gian vừa qua, đội ngũ cán bộ tín dụng ở các chi nhánh được tuyển dụng còn chưa theo các tiêu chuẩn thống nhất. Đa phần cán bộ tín dụng là các sinh viên mới ra trường, kinh nghiệm trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống còn rất hạn chế. Một số còn không được đào tạo đúng chuyên ngành về ngân hàng. Nhìn chung yếu điểm của các cán bộ tín dụng là: nghiệp vụ ngân hàng còn có nhiều hạn chế, trình độ chuyên môn về tài chính - kế toán trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, các cán bộ tín dụng cũng thiếu hiểu biết về các ngành nghề nói riêng và thị trường nói chung, kinh nghiệm kinh doanh chưa có...Chính vì các nguyên nhân trên nên chất lượng thẩm định tín dụng còn chưa cao, không thể tránh khỏi thiếu sót.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, Ngân hàng TMCP á Châu Hội sở cần có chính sách thống nhất trong toàn hệ thống về việc tuyến chọn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ tín dụng. Trong tình hình hiện nay, ngân hàng phải có chính sách nhân sự đúng đắn, có như vậy mới thu hút được các cán bộ có năng lực, giữ được họ và phát huy được khả năng cán bộ phục vụ cho kinh doanh ngân hàng.
Về đào tạo, hiện nay ngân hàng đã có kế hoạch đào tạo nhân viên trong thời gian tới, tuy nhiên về nội dung đào tạo cần gắn liền với thực tế của Việt Nam cũng như từng vùng lãnh thổ, bởi vì đặc điểm của Việt Nam có nhiều điều khác với các nước trong khu vực cũng như đặc điểm giữa các vùng khác nhau cũng khác nhau. Việc đào tạo cán bộ không nhất thiết phải tập trung về một nơi - hội sở mà có thể được tổ chức ngắn hạn tại các Chi nhánh theo nội dung đào tạo thống nhất do Hội sở ngân hàng soạn thảo.
Cuối cùng, ngân hàng TMCP á Châu Hội sở cũng cần ban hành qui chế về cán bộ tín dụng. Quy chế phải xác định rõ tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ tín dụng, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ phải được xác định rõ ràng. Ai không đủ năng lực và phẩm chất cần thiết, nhất thiết không để họ tiếp tục làm cán bộ tín dụng nữa.
Thứ tư: Hoàn thiện công tác tổ chức xét duyệt tín dụng
Hiện nay việc xét duyệt các khoản vay của ngân hàng á Châu vẫn hầu như tập trung toàn bộ về hội sở ngân hàng theo cơ chế: Các ban tín dụng ở tại các Chi nhánh, Hội đồng tín dụng ở tại Hội sở. Ngân hàng đã quy định hạn mức phán quyết cho vay của các ban tín dụng tại các Chi nhánh hiện nay là: 300 triệu VND cho một khách hàng. Trong trường hợp cho vay trên hạn mức phán quyết thì phỉa chuyển về Hội sở. Với cách tổ chức như vậy việc xét duyệt cho vay đối với một khoản vay nhìn trên một khía cạnh nào đó là khá chắc chắn. Tuy nhiên mặt trái của nó thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thứ nhất: hiện nay quy mô hoạt động của ngân hàng còn tương đối nhỏ (tổng mức dư nợ của toàn hệ thống hiện nay ở mức trên dưới 1.000 tỷ VND - bằng tổng mức dư nợ của 02 chi nhánh ngân hàng Công thương hoặc VCB). Với quy mô hoạt động như vậy, việc kiểm soát chặt chẽ của Hội sở còn có tác dụng. Nếu quy mô hoạt động sau này tăng lên chắc chắn cách quản lý như vậy sẽ không đảm bảo.
- Thứ hai: Việc xem xét, thẩm định cho vay đối với một món vay kéo dài và phức tạp. Do tập trung phán quyết về hội sở theo chu trình: Chi nhánh xem xét trình về phòng tín dụng hội sở, cán bộ tín dụng hội sở tập hợp hồ sơ tái xem xét lại (ở đây Tôi nới là “tái xem xét lại” chứ không phải tái thẩm định lại), sau đó trình lên Hội đồng tín dụng xem xét. Trong trường hợp được Hội đồng tín dụng thông qua, lúc đó mới có quyết định cho vay. Trong trường hợp có thắc mắc từ phía Hội đồng tín dụng, hồ sơ sẽ được trả về để bổ sung thêm. Như vậy về mặt thời gian để xem xét một khoản vay là khá lâu và phức tạp. Trong nhiều trường hợp do sự cách biệt về địa lý (Miền Bắc với Miền Nam) nên việc xem xét lại của các cán bộ tín dụng tại hội sở không chính xác và mang tính hình thức. Đứng về phía khách hàng, việc kéo dài thời hạn xem xét cũng làm hạn chế đáng kể cảm tình của khách hàng.
- Thứ ba: Việc áp dụng thống nhất một hạn mức cho các Chi nhánh là chưa thoả đáng. Hiện nay hạn mức phán quyết áp dụng cho các Ban tín dụng tại tất cả các Chi nhánh là thống nhất. Việc áp dụng như vậy là bất hợp lý nếu so sánh một Chi nhánh ở Đồng bằng sông Cửu Long - nơi chủ yếu cho vay nông nghiệp (mức vay thấp) với Chi nhánh Hà Nội - nơi cho vay các khách hàng là các Tổng công ty lớn quốc doanh (mức vay cao gấp nhiều lần).
Để khắc phục tình trạng trên chỉ bằng cách thành lập các trung tâm vùng. Hội sở khi đó chỉ ra các quy chế tín dụng thống nhất trong toàn hệ thống và làm công tác kiểm tra kiểm soát các hoạt động tín dụng tại các Chi nhánh. Đồng thời Hội sở đưa ra các định hướng chiến lược trong kinh doanh. Phần còn lại về điều hành các công việc cụ thể sẽ do các trung tâm vùng và các Chi nhánh thực hiện. Có tổ chức như vậy, quy mô hoạt động của ngân hàng mới tăng lên được, đồng thời hoạt động tín dụng mới được kiểm soát an toàn, chặt chẽ, không rơi vào tình trạng hình thức, không làm phiền nhiễu khách hàng.
Thứ năm: Tăng cường công tác hoạch định chính sách tín dụng và xây dựng kế hoạch tín dụng.
Hiện nay hàng năm Hội sở vẫn xây dựng kế hoạch kinh doanh trong năm và từng quý để các Chi nhánh thực hiện. Tuy nhiên ngân hàng hiện nay còn chưa có một chính sách kinh doanh tín dụng cụ thể. Chính sách kinh doanh tín dụng dựa trên cơ sở chính sách thị trường sản phẩm và chính sách sản phẩm tín dụng. Tuỳ theo điều kiện đặc điểm của từng Chi nhánh, việc xác định chính sách thị trường tín dụng hưỡng vào đâu, phục vụ cho khách hàng nào? đưa ra các sản phẩm dịch vụ nào phục vụ cho khách hàng trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài?...Tất cả các vấn đề đó phải được xây dựng và soạn thảo một cách cụ thể.
Về việc xây dựng kế hoạch kinh doanh. Hiện nay theo yêu cầu của Hội sở các Chi nhánh chủ động trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình. Trong kế hoạch đó, hội sở kiểm soát chặt chẽ kế hoạch về lợi nhuận sẽ thực hiện trong năm của Chi nhánh. Tuy nhiên trong việc xây dựng kế hoạch, điểm khó của nó là đánh giá sự phát triển của thị trường và các biện pháp hữu hiệu để thực hiện các kế hoạch đó. Điểm yếu hiện nay trong việc xây dựng kế hoạch là tính khoa học của nó cũng như sự tập hợp được trí tuệ của tập thể các cán bộ, nhân viên còn hết sức hạn chế.
Thứ sáu: Hiện đại hoá hệ thống thông tin ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng luôn là vấn đè được nhiều ngân hàng quan tâm đặc biệt. Một ngân hàng muốn có công nghệ cao trước hết đòi hỏi phải có hệ thống thông tin ngân hàng hiện đại, nhất là trong giai đoạn bùng nổ về công nghệ máy tính và sử lý thông tin như hiện nay. Để có thể phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn, để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác, đòi hỏi phải đầu tư nâng cấp, đổi mới hệ thống thông tin ngân hàng. Hệ thống thông tin của ngân hàng á Châu hiện nay đã không đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Trong thời gian tới đây, ngân hàng phải đầu tư các thiết bị thông tin và sử lý thông tin mới cho toàn hệ thống ngân hàng. Đồng thời phải có các chương trình máy tính hữu hiệu để cập nhật, sử lý và lưu trữ các thông tin.
Thứ bảy: Tăng cường cơ sở vật chất của ngân hàng.
Ngân hàng á Châu Hà Nội kể từ khi bắt đầu hoạt động đến nay đã được 04 năm. Từ lúc là một ngân hàng nhỏ bé, đến nay đã trở thành một trong những ngân hàng thương mại hoạt động có uy tín trên địa bàn Hà Nội. Sự lớn mạnh của hoạt động ngân hàng lại không đi đôi với việc nâng cao cơ sở vật chất cho nó. Vấn đề trụ sở của ngân hàng cũng như các phương tiện làm việc cho các cán bộ nhân viên ngày càng trở lên bức xúc. Tuy nhiên việc này lại không thể do ngân hàng á Châu Hà Nội tự quyết định mà phải do Hội sở quyết định. Việc chậm chễ trong việc xây dựng trụ sở mới cũng như đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cùng hệ thống thông tin đã phần nào ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng và hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong thời gian tới đây hội sở cần hỗ trợ tích cực Chi nhánh Hà Nội đ có thể hoàn thành công vịệc xây dựng trụ sở ngân hàng mới.
Thứ tám: Các kiến nghị về các vấn đề khác
Về thế chấp cầm cố, tài sản để thế chấp ngân hàng. Như đã phân tích ở trên về việc thế chấp cầm cố tài sản của các DNNN, việc thế chấp cầm cố không có ý nghĩa thực tế và hiện nay đa phần các ngân hàng thương mại quốc doanh đều cho vay tín chấp đối với các DNNN. Điều kiện cho vay tín chấp ở đây là: doanh nghiệp làm ăn có lãi trong ba năm gần nhất, đồng thời có phương án kinh doanh có hiệu quả có khả năng thu hồi vốn. Đối với ngân hàng á Châu hiện nay, các DNNN khi vay vốn vẫn phải thế chấp tài sản mới được vay vốn. Thực chất việc thế chấp tài sản trong nhiều trường hợp chỉ có ý nghĩa hình thức, không có ý nghĩa kinh tế. Mặt khác, khi xét duyệt cho vay ngân hàng không bao giờ coi việc thế chấp tài sản là điều kiện chủ yếu để vay vốn ngân hàng, mà thường dựa vào phân tích tình hình SXKD cũng như tài chính của doanh nghiệp, đồng thời xem xét tính khả thi của dự án xin vay để quyết định cho vay. Như vậy khi có văn bản tháo gỡ phần nào thủ tục về vấn đề này đối với việc cho các DNNN vay vốn sẽ giúp cho việc làm các thủ tục vay vốn đơn giản hơn.
Cuối cùng, để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng cần nghiên cứu, cho phép áp dụng và hướng dẫn thực hiện một số phương thức tín dụng mà các nước đang áp dụng một cách phổ biến như:
- Cho vay theo số dư (thấu chi): khách hàng có số dư tiền gửi và số dư tiết kiệm tại ngân hàng trên 1 năm thì được ngân hàng cho vay thấu chi. Chênh lệch giữa số tiền gửi và số tiền rút là số tiền mà ngân hàng cho vay thấu chi. Nhưng mức rút tiền phải có giới hạn do ngân hàng xác định.
- Chiết khấu chứng từ: Sắp tới đây khi thị trường chứng khoán ở nước ta đi vào hoạt động, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành thì nghiệp vụ chiết khấu chứng từ sẽ là nghiệp vụ phổ biến. Vì thế, ngân hàng cần nghiên cứu, có chuẩn bị về việc thực hiện nghiệp vụ này ngay từ bây giờ để cán bộ tín dụng có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Trong giai đoạn trước năm 1997, do những sai sót trong điều hành quản lý cũng như trong công tác của phòng tín dụng, kết quả là nợ quá hạn đã lên cao. Tính đến thời điểm quý I năm 1998, toàn bộ các khoản nợ quá hạn và khó đòi đã được thể hiện hết trong các báo cáo về tín dụng. Các khoản nợ đó đến nay đã được chuyển sang ban thu hồi công nợ để giải quyết. Chính những sai sót như đã nêu ở phần II của bài viết này đã là nguyên nhân làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng á Châu Hà Nội bị giảm sút mạnh mẽ trong thời gian qua. Nhân thức rõ được điều đó, đồng thời được sự chỉ đạo của Hội sở ngân hàng á Châu, trong thời gian vừa qua ngân hàng á Châu Hà Nội đã có những chuyển biến sâu sắc. Tuy nhiên theo Tôi còn một số vấn đề trong thời gian sắp tới còn phải tiếp tục tiến hành, nếu không làm tích cực các vấn đề đó thì có thể trong thời gian sắp tới các vấn đề về chất lượng tín dụng sẽ lại một làn nữa là vấn đề nghiêm trọng.
Thứ nhất: Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức của phòng tín dụng nói riêng của ngân hàng nói chung.
Thời gian vừa qua hầu như toàn bộ các cán bộ tín dụng cũ của phòng tín dụng đã được thay bằng các nhân viên mới. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên về mặt mạnh cũng như mặt yếu của các cán bộ tín dụng mới, hiện nay đa phần các cán bộ tín dụng vẫn còn non về nghiệp vụ, yếu về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm kinh doanh hầu như chưa có. Tuy nhiên xuyên suốt các vấn đề đó còn vấn đề tư tưởng của các cán bộ tín dụng hiện nay. Với cơ chế hiện nay khi mà trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các cán bộ tín dụng còn chưa rõ ràng. Tất cả chung ta đều biết làm cán bộ tín dụng trong giai đoạn hiện nay là hết sức khó khăn, một mặt công việc đòi hỏi nhiều kiến thức, kinh nghiệm; mặt khác trách nhiệm của các cán bộ tín dụng luôn luôn là cao nhất so với các cán bộ khác trong ngân hàng; ngoài ra trong công việc các cán bộ tín dụng còn chịu nhiều sức ép từ nhiều phía đối với công việc của mình. Nhưng về mặt quyền lợi nhằm khuyến khích người lao động còn chưa cân bằng với trách nhiệm và nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, ngoài khoản lương được hưởng hàng tháng với mức lương tương đương với các cán bộ nghiệp vụ ở các bộ phận khác, các cán bộ tín dụng không được hưởng thêm một khoản nào khác. Ngoài ra việc đi công tác đến khách hàng cũng cần chi phí, nhưng việc thanh toán các chi phí đó hiện nay là hết sức phức tạp và khó khăn. Một nguyên nhân quan trọng khác nữa là khi có bất kỳ một vấn đề gì nảy sinh trong hoạt động thì cán bộ tín dụng lại là người đầu tiên phải chịu trách nhiệm.
Tất cả các lý do nêu trên trong giai đoạn hiện nay đã không kích thích được cán bộ tín dụng làm việc. Ngoài ra theo Tôi nó còn làm cho các cán bộ tín dụng không muốn làm việc tại bộ phận tín dụng nữa.
Như vậy Tôi lại quay trở lại vấn đề chính sách nhân sự mà Tôi đã nêu ở phần trên. Đây là một vấn đè hết sức lớn không những với Ngân hàng á Châu hội sở mà đặc biệt còn đúng với ngân hàng á Châu Hà Nội. Theo Tôi trong phạm vi quyền hạn của mình, ban lãnh đạo ngân hàng á Châu Hà Nội cần tự mình nghiên cứu xây dưng cho riêng Chi nhánh một chính sách nhân sự thích hợp trong giai đoạn hiện nay khi chưa có chính sách của toàn hệ thống. Các giải pháp về tổ chức, nhân sự Tôi đã nêu một phần ở trên nên ở đây xin không nêu lại. Vấn đề kiện toàn bộ máy tổ chức ở đây Tôi chỉ xin nhấn mạnh một điểm: việc kiện toàn bộ máy trước hết phải thực hiện từ cán bộ khung của Chi nhánh, cán bộ khung có tốt thì sau đó các cán bộ cấp dưới tốt. Ngoài ra cần xây dựng một cơ chế rõ ràng trong điều hành tổ chức quản lý, có cơ chế rõ ràng mọi ngưòi mới có khả năng làm đúng, làm tốt nhiệm vụ được giao.
Trong khâu tổ chức, quản lý còn cần lưu ý việc phối hợp công việc giữa các phòng chức năng của ngân hàng. Hiện nay, khâu phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong ngân hàng còn yếu, trong nhiều trường hợp còn có tính chất “thủ công”. Trong thời gian tới đây, cùng với việc hiện đại hoá hệ thống thông tin ngân hàng, cần phải có các biện pháp đồng bộ để phối hợp hoạt động tốt hơn giữa các bộ phận của ngân hàng với nhau.
Thứ hai: Tăng cường bồi dưỡng đào tạo, nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng cũng như của toàn thể các nhân viên của ngân hàng.
Như trên đã nêu, hiện nay các cán bộ tín dụng cũng như các nhân viên ngân hàng phần lớn mới ra trường. Trong khả năng của mình, ngân hàng cần tổ chức việc bồi dưỡng đào tạo về nghiệp vụ và chuyên môn cho các cán bộ.
Thứ ba: Tăng cường hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tín dụng.
Để đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng thì trước khi quyết định cho vay biện pháp tích cực nhất của ngân hàng là thẩm định tín dụng. Thẩm định tín dụng bao gồm các khâu từ thẩm định tính pháp lý của khách hàng đến tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính , thẩm định tính khả thi của phương án xin vay và cuối cùng là thẩm định về tài sản, thế chấp cầm cố của khách hàng để đảm bảo món vay.
Thẩm định khách hàng là một công tác đòi hỏi kiến thức và kinh nghiệm trên nhiều mặt. Đây là một công việc khó khăn nhất hiện nay đối với công tác thẩm định tín dụng. Mục tiêu của công tác thẩm định khách hàng là các cán bộ tín dụng phải trình bày được cũng như biết được tình hình thực tế của khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ cũng như “ý chí sắn sàng trả các món nợ khi đến hạn” của khách hàng...Để làm tốt khâu này, không thể làm trong một thời gian ngắn, công tác này đòi hỏi phải hoàn thiện dần từng bước, có cập nhật thường xuyên và bám sát các khách hàng.
Thẩm định tính khả thi của dự án xin vay là một trong những khâu quan trọng. Tuy nhiên hiện nay do tình hình thực tế, bộ phận tín dụng của ngân hàng vẫn phải làm việc chung cả các phương án xin vay ngắn hạn cũng như dự án trung dài hạn, với thực tế đó công tác thẩm định về phương án xin vay của khách hàng còn gặp nhiều lúng túng. Mạt khác do kinh nghiệm thực tế kinh doanh của các cán bộ tín dụng còn ít, thông tin về các ngành nghề kinh doanh còn nhiều hạn chế...Tất cả những điều đó hiện nay cũng ảnh hưởng đến chất lượng việc đánh giá tính khả thi của dự án xin vay.
Ngoài những hướng dẫn trong qui trình thẩm định món vay, cán bộ tín dụng không chỉ lệ thuộc vào những tài liệu do khách hàng cung cấp để phân tích tình hình tài chính, năng lực kinh doanh, nguồn trả nợ v.v... mà đặc biệt còn phải chú ý đến năng lực quản lý, tư cách đạo đức, tuổi tác, tình trạng sức khỏe của người lãnh đạo doanh nghiệp...
Đối với việc thẩm định tài sản thế chấp cầm cố phải xác định tính pháp lý của tài sản thế cấp cầm cố cho ngân hàng. Đánh giá đúng giá trị của tài sản thế chấp cầm cố để dùng làm cơ sở cho việc xác định tổng mức có thể cho khách hàng vay. Đánh giá khả năng mất giá hoặc hao mòn theo thời gian, đánh giá khả năng phát mại của tài sản khi xảy ra rủi ro.... Đối với trường hợp bảo lãnh phải xem tư cách của người bảo lãnh, uy tín của họ đối với ngân hàng và khách hàng... Đồng thời cũng phải xem xét các vật bảo đảm cho các khoản vay mà người bảo lãnh dùng đó đảm bảo cho món vay.
Thứ tư: Đẩy mạnh công tác Marketing ngân hàng.
Thực hiện tốt marketing ngân hàng là một biện pháp tích cực hồ trợ cho hoạt đọng kinh doanh ngân hàng. Hiện nay, việc Marketing ngân hàng vẫn còn là khâu yếu trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng á Châu Hà Nội hoạt động đã 04 năm trên thị trường Hà Nội, trong điều kiện hiện nay khi mà kinh doanh ngân hàng đang chịu sự cạnh tranh khá quyết liệt; để có thể đứng vững và phát triển kinh doanh khâu Marketing cần phải làm tốt hơn nữa. Về khâu tổ chức cần phải có cán bộ chuyên trách, có như vậy mới có thể làm tốt công tác này. Về phía ban lãnh đạo, cần có chính sách Marketting nhất quán, từ khâu xác định thị trường khách hàng, chính sách sản phẩm dịch vụ, đến các chính sách cụ thể đối với từng loại khách hàng cũng như từng loại hình dich vụ. Cần có chính sách ưu đãi và nhất quán đối với các khách hàng lớn cũng như các lĩnh vực mà ngân hàng cần tiếp cận hướng tới phục vụ trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài.
Trong khâu marketing, một trong những công việc quan trọng là tổ chức hội nghị khách hàng. Ngân hàng cần tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ hay đột xuất, định kì ở đây có thể là 6 tháng hay 1 năm tổ chức một lần. Việc tổ chức hội nghị khách hàng là rất cần thiết trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Khi tình hình kinh tế gặp nhiều biến động việc “giao lưu” giữa ngân hàng và khách hàng giúp ngân hàng hiểu rõ hơn những khó khăn của khách hàng. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra những biện pháp thích hợp trong việc điều chỉnh lãi suất hay đưa ra hình thức huy động vốn hoặc cho vay đối với khách hàng nhằm mục tiêu “cả hai bên cùng có lợi”. Nếu ngân hàng không tổ chức hội nghị khách hàng định kì thì việc đưa ra các quyết định trong hoạt động của ngân hàng sẽ không đi sát với tình hình thực tế. Ví dụ nếu trong tình hình nền kinh tế gặp nhiều biến động xấu việc ngân hàng đặt mức lãi suất cho vay cao sẽ khiến khách hàng không thể vay được làm ứ đọng vốn của ngân hàng. Nếu thời gian sau ngân hàng mới biết được và hạ lãi suất xuống thì có thể đã mất đi một số khách hàng quan trọng rồi. Việc “giao lưu” thường xuyên với khách hàng sẽ giúp ngân hàng tránh được tình trạng ấy.
Việc tổ chức hội nghị khách hàng định kì cũng giúp ngân hàng hiểu thêm về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng đồng thời làm cho quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thêm gắn bó.
Hội nghị khách hàng cũng nên tổ chức theo hình thức một buổi hội thảo, trao đổi dân chủ. Không phải chỉ có giới lãnh đạo ngân hàng mà các khách hàng cũng cùng diễn thuyết, trao đổi một cách dân chủ để cả hai phía ngân hàng và khách hàng đều cùng hiểu nhau. Đặc biệt, ngân hàng cũng cần chuẩn bị trước nội dung hội nghị khách hàng và cần báo trước cho những khách hàng chủ yếu (những khách hàng lớn hoặc khách hàng đang có nhiều vấn đề cần tháo gỡ). Việc chuẩn bị trước nội dung buổi hội nghị giúp ngân hàng có định hướng rõ ràng trong các vấn đề cần thảo luận, tránh tình trạng lan man để rồi cuối cùng không đạt được mục đích. Ngân hàng cần báo trước cho những khách hàng quan trọng để họ có thời gian chuẩn bị, nếu có gì vướng mắc thì có thể trao đổi trước với ngân hàng.
Thứ năm: Quy định rõ hơn kỳ hạn nợ, mức cho vay, lãi suất và giới hạn về mặt địa lý
Một số doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta, những người sáng lập viên thường là những người có quan hệ anh em, cha con, vợ chồng nên tài sản thế chấp, văn phòng, xưởng sản xuất thường không cùng một địa bàn. Tình trạng nhiều doanh nghiệp cùng một lúc thế chấp cùng một tài sản vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau, nhất là các doanh nghiệp có tính chất gia đình cũng có khá nhiều. Vì vậy trong cơ chế tín dụng ngân hàng phải rất lưu ý qui định rõ các giới hạn về địa lý, mức tín dụng, thời hạn và lãi suất đối với các doanh nghiệp.
Trong vấn đề này ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội nên có một số qui định:
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì được tự do lựa chọn để phục vụ. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ cho vay trong địa giới hành chính (thành phố) chứ không nên chỉ giới hạn là chỉ cho các doanh nghiệp trên cùng địa bàn của ngân hàng vay vốn.
- Hạn mức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung phụ thuộc chủ yếu vào tài sản thế chấp và khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Song trường hợp cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì phải cho vay có tính chất thăm dò. Những món vay đầu tiên, dù có tài sản thế chấp, có phương án kinh doanh có thể chấp nhận được cũng chỉ nên cho vay khoảng 50% giá trị của tài sản thế chấp và số vốn cho vay không vượt quá vốn tự có của doanh nghiệp. Quá trình cho vay nếu có tín nhiệm sẽ tăng dần hạn mức.
- Thời hạn cho vay nói chung căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vật tư hàng hoá xin vay. Nhưng nói chung nên quy định thời gian ngắn phù hợp với khả năng quản lý của khách hàng và sau đó sử dụng việc kiểm tra, xem xét việc cho hay không gia hạn nợ để xử lý từng khoản vay.
Thứ sáu: Nâng cao chất lượng công tác thông tin về khách hàng nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro.
Thông tin về khách hàng vay vốn với các ngân hàng trên địa bàn là cần thiết nhất để đảm bảo một khách hàng không vay vốn ở nhiều ngân hàng và đảm bảo khả năng hoàn trả của khoản vay.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã có hệ thống trung tâm thông tin tín dụng song thông tin được cập nhật còn chưa nhanh và chưa đầy đủ, hình thức còn đơn điệu. Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội nên cử một số cán bộ chuyên trách về thông tin khách hàng nhằm thu thập thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn. Đồng thời, ban lãnh đạo ngân hàng cũng phải thường xuyên nắm bắt thông tin về các khách hàng vay vốn của ngân hàng, không nên dựa hoàn toàn vào quyết định của cán bộ tín dụng.
Thứ bảy: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát khách hàng vay vốn, theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay.
Công tác kiểm tra, giám sát có thể tiến hành theo các hình thức:
- Kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vay, đôn đốc khách hàng trả nợ các khoản gốc và lãi đến hạn.
- Kiểm tra bằng các thông tin thu thập từ các nguồn khác nhau về khách hàng.
Thứ tám: Cần lập hồ sơ khách hàng để theo dõi khách hàng thường xuyên. Với yêu cầu:
- Hồ sơ khách hàng là bắt buộc.
- Thường xuyên bổ sung thông tin vào hồ sơ để phản ánh đúng và kịp thời về thực trạng của khách hàng, nghĩa là hồ sơ về khách hàng không phải chỉ lập lần đầu khi thiết lập giao dịch rồi để y nguyên như vậy mà phải thường xuyên bổ sung những thông tin mới để ngân hàng có thể theo dõi sít sao và chính xác tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Cán bộ cần định kì đánh giá khả năng của khách hàng thông qua hồ sơ. Một khách hàng trong thời gian này có thể là khách hàng tốt nhưng ở thời gian khác cũng có thể đã trở thành một khách hàng tồi. Chính vì thế, việc thường xuyên đánh giá khách hàng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong quan hệ với khách hàng.
Thứ chín: Mở rộng và phát triển hơn nữa nghiệp vụ tín dụng. Ngân hàng cần đa dạng hoá các sản phẩm của mình nhằm thu hút khách hàng như tín dụng thuê mua, tín dụng cầm đồ...
Thứ mười: Hoàn thiện công tác xử lý và thu hồi nợ quá hạn
Trong tình trạng dư nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội tăng trong thời gian gần đây, ngân hàng cần tìm cách tốt nhất để thu hồi vốn. Cụ thể, ngân hàng có thể sử dụng biện pháp khai thác nếu thấy người vay còn có khả năng để duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân hàng có thể giúp họ khắc phục các khó khăn trước mắt bằng một số biện pháp như: hướng dẫn, đưa ra lợi khuyên nhằm tác động đến khả năng tạo và thu được lợi nhuận; có thể gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng để giảm quy mô hoàn trả trước mắt, tìm cách tăng vốn, tăng sức mạnh tài chính bằng cách nhận thêm các bảo đảm tín dụng như tài sản thế chấp, kêu gọi người bảo lãnh... giúp họ quản lý chặt chẽ ngân quỹ, khôi phục sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng phải giám sát cho đến khi số nợ vay được hoàn trả. Đây là biện pháp tốt nhất cho cả khách hàng lẫn ngân hàng vì không những không đẩy khách hàng đến chỗ phá sản mà còn tạo khả năng thu hồi khoản nợ khó đòi cho ngân hàng.
Trong trường hợp xét thấy người vay không đủ khả năng để tiếp tục sản xuất kinh doanh thì việc áp dụng các biện pháp trên là vô vọng. Do thủ tục việc phát mại tài sản thế chấp rườm rà và mất thời gian dài nên để nhanh chóng thu hồi được vốn, ngân hàng cần động viên khách hàng tự giải quyết đối với các tài sản thế chấp để trả nợ ngân hàng.
Nếu phát hiện thấy khách hàng có mưu đồ xấu thì ngay lập tức ngân hàng phải đưa ra các biện pháp thu hồi vốn như: phát mại tài sản, đòi hỏi người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, chuyển quyền sở hữu tài sản cho đơn vị mới có khả năng nhận nợ hoặc tái sở hữu các tài sản có thể sử dụng cho thuê v.v...
3. Kiến nghị đối với khách hàng
Một là cần nâng cao trình độ của đội ngũ giám đốc, kế toán trưởng cũng như của cán bộ quản lý nhằm quản lý tốt doanh nghiệp.
Hai là khi vay vốn ngân hàng, các khách hàng cần phải thu thập những thông tin đáng tin cậy, điều tra thị trường nhằm xây dựng dự án mang tính khả thi.
Ba là khách hàng cũng cần phải tích cực hỗ trợ ngân hàng trong việc cung cấp thông tin cho ngân hàng để ngân hàng có thể đánh giá chính xác hiệu quả của dự án cũng khả năng thu nợ. Có thể có những dự án doanh nghiệp chưa tính hết những biến động theo chiều hướng xấu của thị trường nhưng ngân hàng lại phát hiện ra, tránh thiệt hại cho chính bản thân doanh nghiệp.
Bốn là cần tham khảo ý kiến các chuyên gia trong việc nhập máy móc thiết bị loại gì, của ai, chất lượng như thế nào thì phù hợp nhằm tránh việc nhập dây chuyền công nghệ không phù hợp, gây lãng phí vốn cho chính bản thân doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc trả nợ vay ngân hàng, từ đó gián tiếp gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Kết luận
Ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay nên nó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần hút và đẩy tiền ra lưu thông, chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp, trước hết tín dụng ngân hàng cần phải có những giải pháp thích hợp để thu hút vốn và mở rộng các hình thức cho vay. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp từng bước đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Trước tình trạng số dư nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các ngân hàng đang tăng cao, các ngân hàng cần đề ra các biện pháp để nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay, hạn chế thấp nhất các rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội cũng luôn nhận thức được điều này nên ngân hàng đã và đang tìm cách thu hồi nợ quá hạn và nợ khó đòi từ các năm trước tồn lại đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, đưa ra các qui định chặt chẽ trong cho vay... nhằm hạn chế tối đa rủi ro.
Bản Luận văn này, trên cơ sở nghiêm cứu, phân tích những nguyên nhân, khả năng có thể dẫn đến rủi ro cho tín dụng ngân hàng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng, mong rằng có thể góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Chắc chắn rằng trong thời gian tới, Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội nói riêng và các Ngân hàng thương mại nói chung sẽ có những định hướng, biện pháp tích cực hơn nữa để hạn chế các rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng nhằm phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tài liệu tham khảo
Luật Các Tổ chức Tín dụng được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua trong kỳ họp thứ 2, tháng 12 năm 1997.
Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính - 1990.
Ngân hàng thương mại - Edward W. Reed & Edward K. Gill.
Những điều cần biết về hoạt động ngân hàng - Theodore A.Platz, Sr.
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - David Cox - NXB Chính trị quốc gia.
Kinh doanh tiền tệ - Harold Barger.
Chiến lược phục vụ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước - Cao Sỹ Kiêm - Thời báo Ngân hàng số đặc biệt kỉ niệm 45 năm ngày thành lập ngân hàng.
Chính sách tài chính tiền tệ của NHNN Việt Nam 1996 - 2000, Tài liệu hội thảo khoa học NHNN Hà Nội tháng 8/1995 do NHNN tổ chức.
Tài liệu tập huấn tín dụng - Ngân hàng TMCP á Châu.
Báo cáo tổng kết Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội năm 1997, quý I - 1998.
Thời báo kinh tế năm 1997 và 1998.
Tạp chí ngân hàng năm 1997 và 1998.
Bài giảng các môn học của Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3738.doc