Lời nói đầu
1. tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ từ một nước nông ngiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản đó là con đường mới mẻ đầy khó khăn thử thách.
Ngày nay trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế, chúng ta đang đứng trước yêu cầu bức xúc của tình hình thực tế là đỏi hỏi phải có một công cụ đặc biệt để giải quyết các vấn
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Thái nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề về mặt tài chính tiền tệ. Chính vì vậy hoạt động của hệ thống ngân hàng không thể đứng ngoài cuộc với việc hợp tác chặt chẽ cùng các bộ, ngành của Nhà nước để quản lý nền kinh tế quốc dân.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước NHNo&PTNT Việt Nam đã đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông, lâm, thuỷ hải sản góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn. NHNo&PTNT Việt Nam được khẳng định là ngân hàng chủ đạo trong thị trường tài chính nông thôn đồng thời là NHTM đa năng giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống NHTM Việt Nam .
Tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của Ngân hàng nông nghiệp . Hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp trong những năm gần đây gặp nhiều khó khăn thử thách như ảnh hưởng của thiên tai, bão lụt, kinh tế khó khăn một số doanh nghiệp, cá nhân chiếm dụng vốn. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Thành phố Thái nguyên cũng không tránh khỏi những khó khăn trên. Từ thực tiễn trên em đã chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái nguyên " làm đề tài nghiên cứu của mình. Tuy đây không phải là một đề tài mới mẻ nhưng lại là lĩnh vực vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ của một NHTM.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Việc tìm kiếm các biện pháp nhằm mở rộng nâng cao chất lượng tín dụng là một vấn đề quan trọng và thực sự cần thiết đối với hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Dư nợ thực tế và các số liệu có liên quan đến hoạt động tín dụng.
Phạm vi nghiên cứu: trong khoảng thời gian từ 2002-2003.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Thống kê thu thập các tài liệu trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn.
5. Kết cấu của khoá luận:
Về kết cấu ngoài phần mở đầu và kết luận khoá luận này gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị về việc nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên.
Chương 1
Những vấn đề cơ bản
về tín dụng và chất lượng tín dụng
của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.1. Khái niệm:
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị ( dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật ) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng với chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
Trước khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường, toàn bộ nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp. Hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng chịu sự chi phối đó. Trên thực tế các ngân hàng thực hiện dịch vụ kinh doanh của mình hoàn toàn theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Vốn hoạt động của ngân hàng phần lớn được lấy từ nguồn cấp khác chứ không phải từ nguồn vốn huy động trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn vốn kinh doanh của NHTM không còn do NHNN bao cấp mà phải tự huy động từ những nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong xã hội, tiến hành các hoạt động kinh doanh mang lai lợi nhuận. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho NHTM ( trên 70% ). Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường phải đương đầu với áp lực cạnh tranh, hoạt động của nó luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường mọi người đều muốn đồng vốn của mình bỏ ra phải sinh lời vì vậy họ sẵn sàng cho vay lấy lãi, còn các nhà doanh nghiệp, các cá nhân cũng vì mục đích sinh lời của đồng vốn mà rất cần tiền để mua nguyên nhiên vật liệu hay mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng chưa kịp tích luỹ. Để giải quyết vấn đề này ngân hàng cũng vì mục đích kiếm lời, với chức năng của mình ngân hàng đã đáp ứng được yêu cầu huy động vốn nhàn rỗi, tức là ngân hàng đã thực hiện chính sách " đi vay để cho vay ".
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế nên tín dụng có tác động nhất định đối với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người .
Tín dụng ngân hàng ra đời xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong nền kinh tế luôn làm phát sinh hiện tượng có những chủ thể tạm thời thừa vốn và những chủ thể tạm thời thiếu vốn. Tín dụng ngân hàng đã giải quyết được mâu thuẫn giữa cung cầu về vốn, là sự cần thiết khách quan phù hợp với sự vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Khối lượng tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hoá cũng như lưu thông tiền tệ.
Trước hết tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM . Để thực hiện kinh doanh tín dụng ngân hàng phải có vốn tự có bằng cách " đi vay để cho vay ". Trong xã hội luôn có một số người thừa vốn cần đầu tư và một số người thiếu vốn cần đi vay. Song những người này khó có thể trực tiếp gặp nhau để cho nhau vay hoặc có thể gặp nhau thì chi phí rất cao và không kịp thời nên tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn, giải quyết nhu cầu thoả đáng trong mối quan hệ này. Tín dụng ngân hàng làm trung gian để điều tiết nguồn vốn từ bộ phận nhàn rỗi đến bộ phận thiếu vốn một cách linh hoạt, giảm thiểu tình trạng lãng phí vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sau nữa tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc đẩy cạnh tranh nền kinh tế và góp phần tạo nên một cơ cấu hợp lý.
Hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vận động để phù hợp với những biến động của thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng và phải hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định do đó doanh nghiệp cần tìm hiểu và đầu tư vốn vào những ngành nghề có lợi nhuận cao, qua đó vừa duy trì được hoạt động của mình vừa hoàn trả được vốn vay ngân hàng. Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển vì chỉ có tín dụng ngân hàng mới đáp ứng được nhu cầu vốn lớn như vậy cho việc thay đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh. Tín dụng trở thành công cụ làm cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động, mềm dẻo và linh hoạt.
Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng tạo điều kiện hội nhập vào kinh tế thế giới. Tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện để nối liền nền kinh tế của các nước với nhau. Đặc biệt với các nước đang phát triển, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá đồng thời nhờ nguồn vốn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho ngành kinh tế kém phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn. Bằng việc sử dụng lãi suất ưu đãi vối những ngành kinh tế mũi nhọn cũng như những ngành kinh tế kém phát triển nhưng có lợi cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các ngành kinh tế này phát triển
Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế và xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi.
Tín dụng ngân hàng còn có vai trò kiểm soát đối với nền kinh tế. Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì phải nắm vững, hiểu sâu sắc hoạt động của doanh nghiệp để giảm thấp mức rủi ro trong cho vay. Như vậy ngân hàng có khả năng tổng hợp được tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, có thể đánh giá được mức độ phát triển của từng ngành từ đó có thể nêu nên ý kiến, góp phần để thực hiện việc điều chỉnh khi có sự mất cơ cấu trong cơ cấu kinh tế.
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng là biện pháp cơ bản và chủ yếu để điều hoà vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, biến mọi nguồn tiền tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung qua đó điều hoà quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội góp phần ổn định tiền tệ. Tín dụng ngân hàng giữ vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nhưng nó tác động theo chiều hướng nào đến nền kinh tế cồn phụ thuộc vào việc thực hiện các nghiệp vụ tín dụng ở NHTM có chất lượng và hiệu quả hay không. Trên cơ sở đó ta thấy rõ vai trò và tác động của tín dụng ngân hàng với nền kinh tế thị trường do đó mỗi NHTM cần chú trọng quan tâm đến công tác tín dụng và đổi mới nâng cao chất lượng tín dụng để đem lại hiệu quả thiết thực.
1.2. Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng:
1.2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng là hiệu quả của việc cho vay ( hay đầu tư bảo lãnh ) mang lại, là khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn cả vốn gốc và lãi theo dự định. Hiệu quả và khả năng thu nợ lớn thì chất lượng tín dụng cao và ngược lại. Hay nói cách khác rủi ro, thất thoát tín dụng càng thấp thì chất lượng tín dụng phải giảm tối thiểu được rủi ro tín dụng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng ( người gửi tiền và người vay tiền ) phù hợp với sự tăng trưởng của kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của tín dụng.
Chất lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với khách hàng: Tín dụng phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất, kỳ hạn hợp lý, đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, thu hút được nhiều khách hàng đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm, khai thác được khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế.
- Đối với NHTM: Hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động và cạnh tranh mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh toán cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của NHTM trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng thể hiện qua nhiều yếu tố như: thu hút được nhiều khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, an toàn vốn cao. Chất lượng tín dụng là sự tồn tại và là cơ sở mở rộng hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Mở rộng đầu tư tín dụng cần phải đi liền với công tác nâng cao chất lượng tín dụng, chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng. Nó quyết định sự hoạt động kinh doanh của ngân hàng xét cả về mặt hiệu quả kinh doanh cũng như uy tín của ngân hàng. Nếu các NHTM không quan tâm đến chất lượng tín dụng thì nguy cơ đổ bể, sạt nghiệp càng cao.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
1.2.2.1. Chỉ tiêu định tính:
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay:
Mỗi tổ chức kinh tế hoạt động đều được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước do vậy các nguyên tắc hoạt động của ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản vay điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không.
Nguyên tắc cơ bản của cho vay là:
* Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
* Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Để thực hiện được điều này thì cán bộ tín dụng phải có quy định về thời hạn cho vay một cách đúng đắn:
Thời hạn cho vay được xác định kể từ khi người vay nhận vốn vay đầu tiên cho đến khi người vay trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận cho vay căn cứ vào:
Chu kỳ sản xuất kinh doanh
Thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư
Khả năng trả nợ của khách hàng
Tính chất nguồn vốn của ngân hàng
Thông qua đó sẽ quy định rõ thời hạn khách hàng trả tiền lãi tiền gốc cho ngân hàng. Việc xác định thời hạn vay sẽ gắn trách nhiệm của người vay với khoản vay, buộc họ phải sử dụng vốn vay kinh doanh có hiệu quả trong khoảng thời gian đó.
Việc xác định thời hạn vay là rất quan trọng, nó thể hiện trình độ của cán bộ tín dụng, nó quyết định tới khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng thì họ không thể trả nợ đúng hạn vì chu kỳ sản xuát kinh doanh chưa kết thúc, họ chưa có nguồn thu điều này sẽ gây khó khăn cho khách hàng trong việc trả nợ ngân hàng.
Nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh thì cũng không tốt vì khi đã hoàn thành một chu kỳ kinh doanh mà vẫn chưa phải trả nợ ngân hàng thì rất có thể họ sẽ sử dụng vốn đó vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo hoặc một lĩnh vực kinh doanh khác, điều này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ.
Việc trả nợ đúng thời hạn của khách hàng giúp ngân hàng bảo toàn và phát triển vốn, tăng cường hoạt động cho vay.
Trả nợ không đúng hạn có thể xảy ra hai trường hợp:
- Trả trước hạn đã định: Có thể do khách hàng kinh doanh tốt sớm thu hồi vốn trả ngân hàng nhưng cũng có thể do khách hàng sau khi vay tiền đã thay đổi ý định sản xuất kinh doanh hoặc vay tiền được ở một nơi khác với lãi suất thấp hơn cũng có thể do khách hang sử dụng vốn sai mục đích và bị buộc phải hoàn lại vốn vay.
- Trả sau thời hạn đã định: Khi gần đến kỳ hạn trả nợ, cán bộ tín dụng sẽ gửi giấy báo nợ cho khách hàng. Trường hợp khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do nguyên nhân khách quan đưa lại thì khách hàng sẽ được ngân hàng gia hạn nợ sau khi cán bộ tín dụng thảm định lại những nguyên nhân và biện pháp mà khách hàng đưa ra có đúng với thực tế không. Đối với các khoản vay ngắn hạn thời gian gia hạn nợ tối đa không vượt quá một chu kỳ sản xuất kinh doanh còn các khoản vay trung dài hạn tối đa không quá sáu tháng.
Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì sẽ phải chuyển sang nợ quá hạn. Như vậy với cả hai trường hợp trả nợ trước và sau hạn đều thể hiện chất lượng tín dụng có vấn đề.
* Việc bảo đảm tiền vay phải thực hiện quy định của Chính phủ, thống đốc ngân hàng Nhà nước đối với khách hàng.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện:
Một là: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Hai là: Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Ba là: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: không vi phạm pháp luật, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Bốn là: Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư , phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
Năm là: Thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
c. Quá trình thẩm định:
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để ngân hàng nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng… Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định.Việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất lượng.
1.2.2.2. Chỉ tiêu định lượng:
a.Tốc độ luân chuyển vốn:
Doanh số trả nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết trong một thời gian nhất định vốn tín dụng quay được bao nhiêu vòng. Số vòng càng cao thì càng tốt. Tuy nhiên, nếu vòng quay tăng quá nhanh có thể là do dư nợ giảm nếu vậy đây sẽ là một biểu hiện không tốt dẫn đến ứ đọng vốn.
b. Chỉ tiêu về khả năng cho vay của ngân hàng:
Tổng dư nợ
Nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp cho ngân hàng so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng huy động vốn. Khi cho vay nhiều thì vốn ứ đọng ít, ngân hàng tránh được rủi ro do ứ đọng vốn. Vì vậy các NHTM thường mong muốn chỉ tiêu này của mình càng lớn càng tốt.
c. Chỉ tiêu về tình hình nợ quá hạn:
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này nhằm đánh giá chất lượng công tác tín dụng. Theo quy định của NHNN Việt Nam thì các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém, nhỏ hơn 5% thì ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng tín dụng cao. Nợ quá hạn là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, do đó ngân hàng nào kiểm soát được nợ quá hạn thì ngân hàng đó có chất lượng tín dụng tương đối cao. Nói chung trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng không có dư nợ quá hạn đã là một thành công của ngân hàng.
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ quá hạn người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi
Tổng nợ quá hạn
Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
d. Chỉ tiêu về khả năng sinh lời:
Thu lãi cho vay
Tỷ lệ thu lãi vay=
Dư nợ bình quân
Tỷ lệ này đánh giá khả năng thu lãi của ngân hàng trong kỳ, tỷ lệ càng cao khả năng thu lãi càng cao, doanh thu của ngân hàng tăng. Tuy nhiên không vì thế tăng lãi suất cho vay vì làm như vậy sẽ giảm khả năng cạnh tranh. Ngân hàng phải xem xét và đưa ra mức lãi suất cho vay hợp lý để thu hút được nhiều khách hàng.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Chỉ tiêu về khả năng sinh lời =
Dư nợ bình quân
Ngân hàng nào có chỉ tiêu này càng lớn thì chất lượng tín dụng càng cao và ngược lại. Khả năng sinh lời quyết định đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong nền kinh tế hiện nay luôn đặt lợi nhận lên hàng đầu, ngân hàng nào có chỉ tiêu này càng cao thì ngân hàng đó có lợi thế trong cạnh tranh vì từ khoản lợi nhuận này ngân hàng sẽ triển khai hoạt động nhằm tạo hình ảnh của mình trên thị trường, thu hút nhiều khách hàng.
e. Khả năng sinh lời của vốn vay:
Để xem xét hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường đánh giá qua các chỉ tiêu khả năng sinh lời, qua đó giúp ta nhìn nhận được chất lượng tín dụng mà ngân hàng cung cấp
Khi phân tích cần chú ý:
So sánh kỳ này với kỳ trước, thực tế với kế hoạch.
So sánh với tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng của ngành.
So sánh mức độ trung bình của các thông số giữa ngành này với ngành khác
Các chỉ tiêu phân tích
Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện
-Khả năng sản xuất kinh doanh=
Số dư vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động thì thu dược bao nhiêu đồng doanh thu
Lợi nhuận
-Khả năng sinh lời kinh tế=
Tài sản lưu động
Lợi nhuận
-Tỷ suất lợi nhuận=
Số dư vốn lưu động bình quân
Khả năng sinh lời cũng như tỷ suất lợi nhuận càng lớn càng tốt.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng tốt hay xấu, rủi ro cao hay thấp có nhiều nguyên nhân. Rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ta biết rằng chất lượng tín dụng có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại, phát triển của NHTM và của toàn xã hội. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ đòi hỏi phải hiểu rõ tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng thành hai loại: Nhân tố bên ngoài ( nhân tốkhách quan ) và nhân tố bên trong ( nhân tố chủ quan ).
1.2.3.1. Nhân tố khách quan:
a. Nhân tố kinh tế:
Để ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn, mở rộng hoạt động cho vay phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về phương diện tổng thể, nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao hoạt động tín dụng.
Một nền kinh tế phát triển ổn định, không có lạm phát, khủng hoảng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và như vậy khả năng vay mượn và trả nợ vay không bị biến động lớn. Ngân hàng không phải chịu những thiệt hại do mất giá của đồng tiền, tránh được sự giảm thấp chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên để xã hội tồn tại và phát triển đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế một số nước đã sử dụng mức lạm phát vừa phải để tăng trưởng tín dụng, kích thích đầu tư. Nhưng nếu như mở rộng tín dụng quá giới hạn sẽ xảy ra lạm phát tốc độ cao dẫn đến đồng tiền mất giá và chất lượng tín dụng bị giảm thấp.
Một trong những nhân tố có tác động không nhỏ tới chất lượng tín dụng là chu kỳ phát triển kinh tế. Nếu thời kỳ kinh tế thịnh hưng, sản xuất kinh doanh mở rộng dẫn đến nhu cầu vốn tăng, hiệu quả tín dụng cũng được tăng lên, giảm bớt rủi ro tín dụng . Mặt khác trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái, sản xuất trì trệ, kinh doanh bị thua lỗ, nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn tín dụng được thực hiện thì cũng khó có thể sử dụng hiệu qủa. Ngoài ra các chính sách kinh tế và sự tác động điều tiết của các cơ quan có thẩm quyền đều có những ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
b. Nhân tố xã hội:
Khách hàng và ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tín nhiệm giữa hai bên. Vì vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc vào ba yếu tố: Khách hàng, khả năng của khách hàng và sự tin tưởng lẫn nhau. Tín nhiệm là cầu nối mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, nó là tiền đề điều kiện để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng.
Khách hàng với tư cách vừa là người cung vốn vừa là người cầu về vốn. Khách hàng mong muốn ở ngân hàng một mức lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhanh gọn.
Ngân hàng vừa là người đại diện cho bên huy động vốn vừa là người đại diện cho bên cung cấp tín dụng. Mối quan hệ xã hội thể hiện cụ thể giữa ngân hàng và khách hàng là nhân tố không kém phần quan trọng quyết định đến quy mô và hoạt động của ngân hàng
c. Nhân tố pháp lý:
Môi trường pháp lý có ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng. Sự đồng bộ, đầy đủ của các bộ luật của Nhà nước tạo ra một môi trường pháp lý đầy đủ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Pháp luật là một bộ phận không thể thiếu được ở bất kỳ một nền kinh tế nào. Không có pháp luật hoặc pháp luật ban hành không phù hợp thì sẽ trở thành bức tường cản trở hoạt động kinh doanh phát triển. Một môi trường pháp lý đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh sẽ góp phần thúc đẩy đầu tư, phát triển kinh tế. Vì vậy nhân tố pháp lý có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng.
d. Nhân tố khách hàng:
Khách hàng có thể bị rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng nhưng cũng có thể do trình độ của khách hàng, khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, do đạo đức của khách hàng.
Trình độ khách hàng: Bao gồm trình độ sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý. Nếu quản lý tốt, sản xuất kinh doanh có hiêu quả sẽ có khả năng tài chính trả nợ ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khách hàng không có khả năng quản lý đồng thời sản xuất kinh doanh non yếu thì việc thua lỗ là điều khó tránh khỏi khi đó rủi ro tín dụng sẽ xảy ra.
Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của khách hàng, ngân hàng rất khó có thể kiểm soát từ đầu. Sử dụng vốn vay không đúng với phương án xin vay, thậm chí dùng cả vốn vay vào nộp thuế, dùng vốn ngắn hạn đầu tư vào tài sản cố định...Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng có thể là trước hoặc sau khi vay. Tuy nhiên, việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Đạo đức khách hàng: Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức. Đạo đức của khách hàng là yếu tố rất quan trọng vì khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không có được hoàn trả đúng hạn hay không là phụ thuộc vào đạo đức của khách hàng
1.2.3.2. Nhân tố chủ quan:
a. Chính sách tín dụng:
Là một trong những chính sách quan trọng nhất của ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Chất lượng tín dụng có tốt hay không là phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng của ngân hàng đúng đắn hay không
b. Công tác tổ chức của ngân hàng:
Tổ chức ngân hàng sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến từng cán bộ công nhân viên chức. Tổ chức ngân hàng làm cho hoạt động ngân hàng được linh hoạt chặt chẽ, nhịp nhàng. Đây là cơ sở để tiến hành nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng.
c. Thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, người nào nắm bắt được thông tin nhanh nhất, chính xác nhất thì đã nắm được đa phần thắng. Thông tin tín dụng có vai trò quan trọng đối với chất lượng tín dụng. Nhờ có thông tin giúp cán bộ tín dụng đưa ra quyết định đúng đắn, kịp thời liên quan đến cho vay và theo dõi khoản vay.
Cho vay vốn không phải là một vấn đề đơn giản vì trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn có hiệu quả và đúng mục đích. Nắm bắt kịp thời và chính xác các luồng thông tin là điều kiện để phân tích, quyết định cho vay hay không cũng như để đề phòng những rủi ro có thể xảy ra
Thông tin có thể thu thập từ nhiều nguồn khác nhau: Từ ngân hàng, các cơ quan chuyên về thông tin tín dụng, các nguồn khác như đài báo...
d. Trình độ cán bộ tín dụng:
Nhân tố con người là nhân tố trung tâm của mọi hoạt động. Nếu trình độ cán bộ tín dụng cao thì sẽ thực hiện đúng và tốt quy trình tín dụng. Ngược lại trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế về kiến thức chuyên môn cũng như xã hội sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng, việc thẩm định đánh giá tài chính của khách hàng không đúng sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng.
e. Vấn đề kiểm tra, kiểm soát, thanh tra:
Việc kiểm tra kiểm soát kịp thời sẽ nắm bắt được đầy đủ tình hình chấp hành chế độ, thể lệ tín dụng, phòng ngừa rủi ro xảy ra. Công tác kiểm tra không chỉ thực hiện với khách hàng mà còn được thực hiện với ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng đi liền với việc kiểm tra, kiểm soát để sớm phát hiện ngăn ngừa và xử lý kịp thời những sai phạm trong hoạt động tín dụng. Do đó trình độ năng lực và trách nhiệm của cán bộ thanh tra là rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng.
Tóm lại: Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụngcó thể là nhân tố chủ quan, khách quan hoặc cả hai. Đối với mỗi một khoản vay cán bộ tín dụng phải nắm bắt được rõ các nhân tố đó vận dụng vào thực tế từ đó tìm ra được những biện pháp hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng.
1.2.4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng:
Hoạt động tín dụng phải đảm bảo hiệu quả, tuân thủ pháp lý thì mới đảm bảo an toàn về vốn. Nâng cao chất lượng tín dụng là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
1.2.4.1. Đối với ngân hàng:
Nâng cao chất lượng tín dụng giúp ngân hàng tạo ra được thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng, tránh được những rủi ro, những tổn thất lớn có thể xảy ra. Chất lượng tín dụng quyết định cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
1.2.4.2. Đối với kinh tế, xã hội:
Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Trong nền kinh tế thị trường sự phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá ngày càng tăng chính vì thế hoạt động tín dụng luôn được coi trọng. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ giúp ngân hàng thực hiên tốt vai trò trung gian, cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tập trung vốn tránh được sự lãng phí vốn, giải quyết tốt cung cầu về vốn.
Tín dụng ngân hàng là một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Là công cụ để thực hện các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế, khơi dậy tiềm năng và thế mạnh của tất cả các thành phần kinh tế vào phục vụ công cuộc phát triển kinh tế nước nhà.
1.2.4.3. Đối với khách hàng:
Trong nền kinh tế mở với sự canh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng trên thị trường, khi ngân hàng thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng tín dụng thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng về phía mình. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ giúp ngân hàng cung ứng vốn nhanh, kịp thời đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Ngân hàng cũng tiến hành kiểm tra việc sử dụng vốn của khách hàng dể sớm có những điều chỉnh với những thiếu sót trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng là thực sự cần thiết cho mỗi khách hàng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ trở thành công cụ đòn bẩy khích thích nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện tốt vai trò trung tâm tiền tệ tín dụng.
1.3. Những kinh nghiệm về nâng cao chất lượng tín dụng ở NHTM một số nước và bài học rút ra vận dụng ở Việt nam:
1.3.1. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới:
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ:
Không phải tất cả các khoản nợ tín dụng đều được xếp loại, chỉ buộc phải xếp loại khi các nguồn thu để trả nợ không hội đủ và khi thanh lý nợ có nhiều rắc rối. Các khoản nợ tín dụng được xếp thành bốn loại: Những khoản tín dụng đáng chú ý; Những khoản nợ kém tiêu chuẩn; Các khoản tín dụng có nghi ngờ; Các khoản tín dụng bị mất trắng.
Quỹ dự phòng tổn thất cho vay được trích từ thu nhập và được duy trì ở mức vừa đủ để trang trải các khoản tổn thất đã biết trong cơ cấu tín dụng.
Để tránh rủi ro ở Mỹ quản lý tiền cho vay theo nguyên tắc sàng lọc, giám sát thiết lập những mối quan hệ khách hàng lâu dài và các mức tín dụng, yêu cầu thế chấp và n._.hững yêu cầu về số dư bù và sự hạn chế tín dụng.
Ngân hàng sàng lọc chọn lựa người vay vốn có triển vọng tốt trên cơ sở phân tích các thông tin tài liệu thu thập được.
Thực hiện đa dạng hoá đối tượng cho vay, không tập trung vốn cho một số khách hàng hoặc một số ngành như vậy sẽ giảm bớt được khả năng rủi ro.
Thực hiện tốt chính sách đối với khách hàng: Với khách hàng có mối quan hệ thường xuyên có thể được vay mượn nhanh chóng, lãi suất thấp
Vật thế chấp và số dư bù: Vật thế chấp là tài sản mà khách hàng đem ra để làm vật bảo đảm xin vay. Một dạng khác của vật thế chấp là số dư bù đó là khi khách hàng nhận được tiền vay bắt buộc phải để lại một số tiền nhất định trong một tài khoản ở ngân hàng. Nếu người vay không trả được nợ ngân hàng có thể lấy số tiền đó để bù vào tổn thất.
Hạn chế tín dụng: Ngân hàng xem xét cho vay rất thận trọng, không mở rộng tín dụng một cách ồ ạt để tránh rủi ro có thể xảy ra.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Malayxia:
Các NHTM đều có quỹ dự phòng chung ít nhất là 1%/tổng dư nợ. Ngoài ra còn có quỹ dự phòng đặc biệt cho các khoản nợ tổn thất và có nghi ngờ
Nợ tổn thất: Là nợ không có khả năng thu hồi, số tiền này cần được xoá sổ hoặc bù đắp bằng quỹ dự phòng.
Nợ nghi ngờ: Là nợ được coi là không có khả năng thu hồi vì khó đánh giá số tiền mất nên đặt một tỷ lệ là 50%.
Nợ kém tính chất: Ngân hàng phải chú ý thu hồi bớt nợ, bổ sung thế chấp nắm thông tin thường xuyên để có giải pháp thích hợp.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan:
Xếp loại tài sản có thành 3 loại: tổn thất, có nghi ngờ, kém tiêu chuẩn. Quỹ dự phòng được lập cho các khoản tín dụng bị xếp loại có nghi ngờ ở mức tỷ lệ 50% và mất trắng ở mức 100%. Nợ kém tiêu chuẩn ngân hàng được quyền xử lý. Ngoài ra chú ý tới các khoản nợ cần lưu ý ( những khoản nợ tốt hơn khoản nợ kém tiêu chuẩn ) để sớm đưa ra giải pháp xử lý, đưa các khoản nợ này trở thành những khoản nợ bình thường.
1.3.1.4. Kinh nghiệm của Nga:
Chia các khoản cho vay thành năm nhóm rủi ro là: Đạt tiêu chuẩn, chưa đạt tiêu chuẩn, nghi ngờ, nguy hiểm, khó đòi. Quỹ bù đắp rủi ro được tính từ chi phí và được ghi vào " các chi phí khác ". Quỹ này được điều chỉnh ít nhất một lần căn cứ vào số dư nợ thực tế và nhóm rủi ro của các khoản cho vay.
1.3.2. Bài học rút ra vận dụng ở Việt nam:
Vấn đề an toàn trong hoạt động tín dụng là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với NHTM.
Các NHTM trong hoạt động tín dụng phải chú trọng tăng cường công tác thu thập thông tin, sàng lọc những thông tin tin cậy để có những quyết định cho vay đúng đắn, tránh rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo đúng quy định.
Nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kiến thức xã hội cho cán bộ công nhân viên.
áp dụng dần khoa học công nghệ kĩ thuật hiện đại vào dịch vụ ngân hàng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát một cách chặt chẽ
Tóm lại: Tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị và xã hội. Việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng là điều thực sự cần thiết và vô cùng quan trọng vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của mỗi NHTM. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng ngân hàng còn nhiều vấn đề cần giải quyết, tháo gỡ.
Trong điều kiện hiện nay để có thể hội nhập với nền kinh tế thế giới thì việc tham khảo kinh nghiệm của ngân hàng các nước là sự cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng cho các NHTM Việt Nam.
chương 2
Thực trạng chất lượng tín dụng
tại NHNo&PTNT thành phố thái nguyên
2.1. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
2.1.1. Giới thiệu về NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên được thành lập theo quyết định số 70 ngày 1/10/1996 của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam.
NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên là chi nhánh cấp hai thuộc hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam , chịu sự lãnh đạo trực tiếp của NHNo&PTNT tỉnh Thái Nguyên. Chi nhánh có hai phòng nghiệp vụ là phòng kế toán - ngân quỹ và phòng tín dụng, có năm ngân hàng cấp ba hoạt động rộng khắp trên 26 phường, xã và trung tâm của thành phố Thái Nguyên. Với nhiệm vụ chủ yếu là huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội đồng thời đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, thực hiện thanh toán chuyển tiền và các dịch vụ tiện ích khác.
Tổng số cán bộ công nhân viên lao động: 51 người
Trong đó hợp đồng thời vụ: 3 người
Đoàn viên công đoàn: 45/48 cán bộ công nhân viên
Số trình độ đại học, cao đẳng: 26/48 chiếm 54%
Số có trình độ trung cấp: 17/48 chiếm 35%
Còn lại là 5 người có trình độ sơ cấp và kỹ thuật chủ yếu là bảo vệ và lái xe.
2.1.2. Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
Năm 2003 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm ( 2001-2005 ). Kinh tế của thành phố Thái Nguyên tiếp tục tăng trưởng cao, mức tăng GDP đạt 11,7%( vượt 0,7% so với kế hoạch ). Trong đó ngành công nghiệp tăng 14%, thương mại dịch vụ tăng 10%, nông lâm nghiệp tăng 4,5%, sản xuất nông nghiệp cũng tăng cao, giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 4,66% năm 2002 xuống còn 1,9% .
Về hoạt động ngân hàng: Cơ chế chính sách đã dần được bổ sung tương đối đồng bộ và thông thoáng. Địa bàn kinh doanh có tiềm năng có thể khai thác để huy động nguồn vốn, tăng trưởng dư nợ và các dịch vụ ngân hàng khác. Thường xuyên được sự quan tâm chỉ đạo , tạo điều kiện giúp đỡ của các cấp uỷ, chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành của thành phố và ban lãnh đạo NHNo&PTNT tỉnh Thái Nguyên.
Bên cạnh những thuận lợi cũng không tránh khỏi những khó khăn như:
Giá cả thị trường biến động phức tạp, đặc biệt là giá vàng, đô la và thị trường bất động sản tăng cao làm cho tâm lý người dân muốn tích luỹ bằng vàng, đô la và bất động sản gây bất lợi cho việc huy động vốn trong dân cư.
Trụ sở giao dịch không ổn định, trong năm 2003 hai lần chuyển trụ sở gây tâm lý bất an cho khách hàng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Thị trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh khốc liệt do trên địa bàn có thêm hai ngân hàng mới làm cho thị trường thị phần của NHNo&PTNT thành phốThái Nguyên phần nào bị thu hẹp.
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
2.2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
2.2.1.1. Tình hình huy động vốn:
Với phương châm " đi vay để cho vay " vì vậy để thực hiện được mục tiêu mở rộng kinh doanh, cho vay có hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là phải có vốn. Vốn là nguồn để đảm bảo hoạt động và luôn chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, nó là tiền đề cho các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng. Nhận thức rõ được vấn đề này NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên luôn coi trọng công tác nguồn vốn. Ngoài những biện pháp truyền thống là mở rộng các hình thức tuyên truyền, tiếp thị, phối hợp với NHNo tỉnh Thái Nguyên theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường vốn để điều hành lãi suất uyển chuyển, linh hoạt để hấp dẫn khách hàng.
Thường xuyên giáo dục cán bộ nghiệp vụ nâng cao trình độ để giải phóng khách hàng nhanh. Tinh thần phục vụ tận tuỵ, văn minh, lịch sự, giao dịch thêm ngày nghỉ, ngày tết làm thêm giờ, mở rộng mạng lưới tạo điều kiên cho ngân hàng. Ngoài ra NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên còn tìm đến với khách hàng để vận động tuyên truyền tạo điều kiện cho khách hàng mở tài khoản tiền gửi phục vụ theo nhu cầu gửi và rút tại nhà, khuyến mại tặng lịch đầu năm... Từ những biện pháp cụ thể như vậy nên kết quả công tác huy động vốn đã đạt được kết quả khả quan. Ta có thể thấy rõ điều này thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Thống kê công tác huy động vốn
Đơn vị: Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
31/12/02
31/12/03
Tuyệt đối
Tương đối
( % )
1
Tiền gửi tiết kiệm
- Tỷ trọng(%)
37.395
32,14
120.038
88,77
+82.643
+221
2
Tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
- Tỷ trọng(%)
16.658
14,32
14.006
10,36
-2.652
-15,92
3
Tiền gửi tiền vay tổ chức tín dụng
- Tỷ trọng(%)
132
0,11
1.175
0,87
+1.043
+790,15
4
Huy động kỳ phiếu
- Tỷ trọng(%)
62.168
53,43
-62.168
-100
Tổng nguồn vốn
116.353
135.219
18.866
+16,2
(Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003)
Như vậy qua một năm hoạt động, nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã tăng lên. Tính đến ngày 31/12/03 nguồn vốn đạt 135.219 triệu đồng, so với năm 2002 tăng 18.866 triệu đồng, tỷ lệ tăng 16,2%. Mặc dù tỷ lệ tăng nhưng mức tăng trưởng chưa cao. Nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm các nguồn chính sau:
*Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ truyền thống của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên, nó đã trở thành tiềm thức trong cuộc sống của dân cư, rất quen thuộc với mọi người kể cả người dân bình thường nhất. Nguồn vốn này huy động của các tầng lớp dân cư trên phạm vi rộng.Từ thực tế đó NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã tập trung vào việc huy động tiền gửi tiết kiệm, đây là nguồn vốn huy động chủ yếu nhất. Và kết quả đạt được cho đến ngày 31/12/03 là 120.038 triệu đồng tăng hơn so với 2002 là 82.643 triệu đồng, tỷ lệ tăng 221%, chiếm tỷ trọng 88,77% nguồn vốn của ngân hàng. Năm 2003 tiền gửi tiết kiệm của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên có mức tăng trưởng nhanh như vậy một phần là do ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất tiết kiệm bậc thang ( rút vào thời gian nào tính lãi suất theo kỳ hạn đó ) khách hàng không bị mất một khoản tiền lãi khi rút trước hạn. Ngân hàng cũng áp dụng quay thưởng đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng và số tiền gửi tối thiểu là 10 triệu đồng nên đã thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền.
*Tiền gửi tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
Qua số liệu ta thấy tính đến ngày 31/12/03 đạt 14.006 triệu đồng giảm 2.652 triệu đồng, tỷ lệ giảm 15,92% so với năm 2002. Nguyên nhân là do quá trình sắp xếp lại các đơn vị, các doanh nghiệp, bảo hiểm y tế sát ngập với BHXH tỉnh nên nguồn vốn từ NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên chuyển về NHNo&PTNT tỉnh Thái Nguyên sấp xỉ 7.000 triệu đồng. Tiền gửi của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội là một nguồn vốn có thể nói là rất có lợi cho việc mở rộng kinh doanh của ngân hàng, đây cũng là nguồn vốn có vai trò trong việc giảm lãi suất đầu vào. Song do điều kiện kinh tế trên địa bàn chưa phát triển mạnh, các đơn vị quốc doanh và ngoài quốc doanh có quan hệ với NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp nguồn vốn tự có ít. Hơn nữa hình thức này chưa trở thành thói quen của các tổ chức kinh tế. NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cần tuyên truyền mở rộng hoạt động của mình để thu hút khách hàng đến mở tài khoản nhiều hơn nữa.
*Tiền gửi, tiền vay tổ chức tín dụng
Tính đến ngày 31/12/03 đạt 1.175 triệu đồng, tăng 1.043 triệu đồng, tỷ lệ tăng 790,15% so với năm 2002, chiếm 0,87 tỷ trọng nguồn vốn. Nguồn vốn này tăng góp phần vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên
*Huy động kỳ phiếu
Đối với hình thức huy động vốn bằng kỳ phiếu được xử lý theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và là biện pháp xử lý tình thế lúc cần thiết khi nguồn vốn có nguy cơ bị thiếu nhiều chứ không huy động một cách thường xuyên. Năm 2003 NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã không có huy động kỳ phiếu vì nguồn vốn tương đối ổn định.
Tổng nguồn vốn tăng lên là do sự tăng trưởng mạnh mẽ của tiền gửi tiết kiệm. Thành công của việc huy động vốn đã giúp ngân hàng đứng vững trong cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh các kết quả đạt được trong công tác huy động vốn của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cũng còn một số tồn tại: Nguồn vốn huy động có tăng nhưng nguồn vốn trung hạn còn thấp chưa đủ đáp ứng nhu cầu vay trung hạn trên địa bàn mà vẫn phải sử dụng vốn của trung ương. Nguồn vốn của các doanh nghiệp lớn khai thác còn hạn chế so với các NHTM khác.
2.2.1.2. Tình hình sử dụng vốn:
Huy động vốn và sử dụng vốn là hai mặt hoạt động chủ yếu trong kinh doanh của các NHTM nói chung và của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên nói riêng. Những năm qua theo sự chỉ đạo của NHNo&PTNT tỉnh Thái Nguyên, NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã tập trung nhiều công sức, thời gian cho việc đầu tư vốn và giải quyết nợ quá hạn. Với phương châm: Chất lượng , hiệu quả và an toàn là trên hết, lấy hiệu quả của khách hàng là mục đích kinh doanh của ngân hàng. Công tác tín dụng luôn được coi là mũi nhọn, là nghiệp vụ hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Công tác tín dụng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên được thể hiện qua các mặt sau: Tập trung vốn để cho vay thực hiện các chương trình kinh tế, các dự án năm 2003 của HĐND, UBND tỉnh. Cho vay có trọng tâm, trọng điểm góp phần vào việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Phối hợp với hội nông dân, hội phụ nữ tỉnh tổ chức tổng kết bốn năm thực hiện nghị quyết liên tịch, đánh giá những mặt được, những tồn tại cần khắc phục đồng thời chỉnh sửa thoả thuận liên ngành cho phù hợp với cơ chế tín dụng mới. Ban ngành phối hợp tiếp tục triển khai thực hiện nghị quyết liên tịch, tổ chức họp dân để thành lập tổ vay vốn, tiếp tục phổ biến tuyên truyền pháp luật chính sách, thông tin thị trường, các quy định thủ tục về vay vốn của NHNo và kết quả cho thấy dư nợ tăng trưởng.
Đa dạng hoá phương thức đầu tư ngoài phương thức cho vay trực tiếp, ngân hàng từng bước mở rộng cho vay theo nhóm thông qua các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội, cho vay tiêu dùng thông qua các doanh nghiệp, cho vay giáo viên thông qua trường học...
Với những nỗ lực trên hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã không ngừng được mở rộng. Ta có thể xem xét khái quát hoạt động tín dụng của ngân hàng qua bảng sau:
Bảng 2.2: Tình hình dư nợ
Đơn vị: Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
31/12/02
31/12/03
Tuyệt đối
Tương đối (%)
Tổng dư nợ
82.689
132.204
+49.515
+59,5
1
Cho vay ngắn hạn
-Tỷ trọng(%)
36.640
44,3
65.903
49,85
+29.263
+79,87
2
Cho vay trung, dài hạn
-Tỷ trọng(%)
46.049
55,7
66.301
50,15
+20.252
+43,98
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được công tác tín dụng đã đạt được những thành tích sau:
Tính đến ngày 31/12/03 dư nợ là 132.204 triệu đồng, tăng 49.515 triệu đồng, tỷ lệ tăng 59,9% so với thời điểm 31/12/02. Quy mô tín dụng tăng rất nhanh, một phần do giá động sản biến động tăng nên việc cho vay tiêu dùng (mua đất ) được mở rộng hơn nữa trong thời gian này danh nghiệp tư nhân được thành lập có nhiều nhu cầu về vốn, cho vay đi làm việc ở nước ngoài tăng cao. Tính đến 31/12/03 thì cho vay ngắn hạn tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối, tăng 29.263 triệu đồng, tỷ lệ tăng 79,87% .Còn cho vay trung dài hạn tăng 20.252 triệu đồng, tỷ lệ tăng 43,98% so với năm 2002
Năm 2002 thì hoạt động cho vay trung dài hạn cao hơn cho vay ngắn hạn là 11,4% tương đương 9.409 triệu đồng nhưng đến 31/12/03 thì cho vay trung dài hạn chỉ cao hơn cho vay ngắn hạn là 0,3% tương đương 398 triệu đồng.
Nhìn chung dư nợ của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh việc tăng dư nợ thì nợ quá hạn cũng tăng theo. Đối tượng cho vay chủ yếu là hộ sản xuất, doanh nghiệp tư nhân nhỏ nên khoản vay nhỏ, chi phí cao mà lãi thu lại ít.
2.2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
2.2.2.1. Thực tế tình hình tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
Hội nhập với sự phát triển của cả nước trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cũng diễn ra hết sức sôi động, dư nợ tín dụng tăng nhanh. Ta sẽ đi sâu vào xem xét cụ thể dư nợ tăng đối với thành phần kinh tế nào. Khi nền kinh tế phát triển thì nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng, kinh tế hộ cũng cần được đầu tư. Nông dân và nông thôn luôn là người bạn đồng hành của NHNo do đó việc mở rộng quan hệ tín dụng được thực hiện chủ yếu ở kinh tế hộ. Điều đó được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.3: Cơ cấu tín dụng theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
2002
2003
Tuyệt đối
Tương đối
(%)
Tổng dư nợ
82.690
132.204
+49.514
+59,88
1
Dư nợ doanh nghiệp Nhà nước
-Tỷ trọng (%)
3.219
3,9
3.117
2,36
-102
-3,17
2
Dư nợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh
-Tỷ trọng (%)
3.030
3,66
8.907
6,74
+5.877
+193,9
3
Dư nợ hợp tác xã
-Tỷ trọng (%)
100
0,12
100
0,08
0
0
4
Hộ gia đình,cá thể
-Tỷ trọng (%)
76.314
92,32
120.080
90,82
+43.739
+57,29
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Như vậy, trong thời gian qua dư nợ doanh nghiệp Nhà nước giảm. Năm 2003 đạt 3.117 triệu đồng so với thời điểm 31/12/02 giảm 102 triệu đồng, tỷ lệ giảm 3,17%. Nguyên nhân cơ bản là do lãi suất cho vay của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cao hơn so với ngân hàng công thương, ngân hàng đầu tư do vậy các doanh nghiệp đã chuyển sang ngân hàng bạn làm dư nợ giảm. Hơn nữa đang trong thời kỳ các doanh ngiệp Nhà nước tiến hành cổ phần hoá, nhiều doanh nghiệp Nhà nước phải giải thể hoặc sát nhập. Khi đầu tư vào các doanh nghiệp Nhà nước các NHTM cũng phải cân nhắc, tính toán sao cho đồng vốn của mình sử dụng có hiệu quả nhất.
Thời kỳ này có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời vì thế dư nợ cũng tăng đáng kể. Năm 2003 tăng 5.877 triệu đồng, tỷ lệ tăng 193,9%so với 31/12/02. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đa dạng được loại hình sản phẩm, từng bước chuyển kịp với cơ chế thị trường chính vì thế nguồn vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng và ngân hàng có thể mở rộng tín dụng. Việc cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy đa dạng và phong phú nhưng cũng đầy tính phức tạp. Cho vay đối với thành phần kinh tế này đòi hỏi phải có tài sản thế chấp làm đảm bảo tiền vay nhưng giấy tờ pháp lý thế chấp lại không đầy đủ hoặc khi vay doanh nghiệp lại gặp sự cố thì việc chuyển hoá tài sản thế chấp lại gặp khó khăn do thủ tục pháp lý.
Dư nợ hợp tác xã không có biến động gì, nhìn chung là ổn định. Ngân hàng cần có biện pháp để tăng dư nợ hợp tác xã
Hộ gia đình và cá thể vẫn luôn là mục tiêu tập trung và mở rộng tín dụng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên chính vì thế kinh tế hộ có quan hệ vay vốn ngân hàng ngày một nhiều hơn và trở thành khu vực chủ yếu để ngân hàng đầu tư vốn. Điều đó thể hiện qua tỷ trọng dư nợ của khu vực kinh tế hộ trong tổng dư nợ: Năm 2003 chiếm 90,82%, năm 2002 chiếm 92,32%. Dư nợ 2003 tăng 43.739 triệu đồng, tỷ lệ tăng 57,29% so với 2002. Điều này thể hiện mối quan hệ gắn bó giưã NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên và khu vực kinh tế hộ đó là một xu hướng mở rộng cho vay rất tốt của ngân hàng.
Mở rộng đầu tư cho vay, phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế là một yêu cầu cần thiết song một yêu cầu đặt ra cần quan tâm đúng mức là chất lượng và hiệu quả tín dụng. Chất lượng, hiệu quả đầu tư cho vay của ngân hàng phải thực sự đầu tư cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đơn vị, tổ chức vay vốn phải làm ăn có lãi trả được nợ cho ngân hàng theo đúng quy định
NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ, có chiến lược kinh doanh, chiến lược khách hàng đúng đắn... nên đã đạt được nhiều thành công theo chủ trương đề ra trong công tác huy động vốn và sử dụng vốn nhưng để đánh giá được chất lượng tín dụng thì ta phải xem xét tỷ mỉ trong nợ quá hạn cao hay thấp, việc cho vay và thu hồi nợ có phù hợp với thời hạn quy định không.
Trong những năm gần đây công tác tín dụng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên còn gặp nhiều hạn chế đó là:
Nguồn vốn tăng trưởng cao nhưng chưa ổn định, các phương thức huy động còn đơn điệu, hình thức mới chậm triển khai. Tín dụng đã có bước phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế của địa phương, nhất là đáp ứng vốn cho các dự án lớn đang triển khai trên địa bàn.
Cũng như mọi doanh nghiệp khác ngân hàng cũng cần đến khách hàng, lấy đó là lý do tồn tại và phát triển. Trong quá khứ, hiện tại và tương lai khách hàng luôn là vấn đề lớn cần quan tâm có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển lâu dài của ngân hàng. Đối với NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cũng vậy, khách hàng luôn là một vấn đề được coi trọng bởi lẽ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên có nhiều ngân hàng: Ngân hàng công thương, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách xã hội. Đây là các ngân hàng có nhiêu lợi thế về vị trí, cơ sở vật chất... vì vậy để có được một lượng khách hàng đáng kể về phía mình NHNo thành phố Thái Nguyên đã áp dụng nhiều biện pháp, bằng nhiệt tình, bằng uy tín để thu hút khách hàng.
Ta hãy xem xét bảng số liệu sau:
Bảng 2.4: Cơ cấu khách hàng
Stt
Loại hình kinh tế
Năm 2002
Năm 2003
Tuyệt đối
Tương đối
(%)
1
Doanh nghiệp Nhà nước
-Tỷ trọng (%)
1
0,008
1
0,006
0
0
2
Doanh nghiệp ngoài QD
-Tỷ trọng (%)
3
0,024
16
0,098
+13
+433,33
3
Hợp tác xã
-Tỷ trọng (%)
1
0,008
1
0,006
0
0
4
Hộ gia đình, cá thể
-Tỷ trọng (%)
15.835
99,96
16.520
99,89
+685
+4,33
Tổng số
15.840
16.538
+698
+4,41
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Tình hình cơ bản về loại khách hàng trên như sau:
Năm 2003 số lượng khách hàng tăng là 698, tỷ lệ tăng 4,41% so với năm 2002. Qua bảng cơ cấu khách hàng ta thấy số lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày một tăng lên chứng tỏ ngân hàng đã tạo được sự tín nhiệm của mình đối với khách hàng
Doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã số lượng khách hàng ổn định , không tăng nhưng tỷ trọng giảm so với năm 2002. Hiện nay một số doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi và cơ cấu lại sản xuất nên chưa có nhu cầu tín dụng lớn. NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cần có biện pháp để thu hút lượng khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã vì đây là những đơn vị thường có nhu cầu vốn lớn cho sản xuất kinh doanh. Tỷ trọng khách hàng này quá nhỏ bé so với tổng số khách hàng của ngân hàng.
Khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh ( 433,33% ) nhưng tỷ trọng khách hàng này vẫn còn chưa cao..
Hộ gia đình, cá thể luôn là đối tượng được quan tâm nhất trong hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên. Tỷ trọng chiếm đến hơn 99%. Năm 2003 tăng 685 khách hàng so với năm 2002, tỷ lệ tăng là 4,33%. Đây là khách hàng truyền thống của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên. Vốn tín dụng của ngân hàng đã giúp hộ sản xuất, cá thể đảm bảo đáp ứng hoạt động kinh doanh, dịch vụ thương mại và dịch vụ du lịch, mở rộng các ngành nghề, chuyển đổi kinh tế nông nghiệp và nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm. Ngoài việc cho vay phải đảm bảo bằng tài sản thế chấp, NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên còn cho vay theo quyết định 67 không phải thế chấp thông qua tổ tín chấp, hội nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh... để tổ chức giải ngân. Tuy nhiên, những khách hàng có biểu hiện yếu kém, chây ỳ thậm chí lừa đảo... Tất cả những điều đó là một trong những nguyên nhân gây ra những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi và rủi ro cho ngân hàng.
2.2.2.2. Tình hình nợ quá hạn:
Một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng trong đánh giá chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ qúa hạn/tổng dư nợ. Nợ quá hạn là vấn đề được quan tâm số một trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Nợ quá hạn là tồn tại cơ bản nhất nếu không nhanh chóng khắc phục sẽ đe doạ trực tiếp đến sự lành mạnh và an toàn của ngân hàng cũng như nền kinh tế. Nợ quá hạn luôn là vấn đề nhức nhối đòi hỏi phải có nhiều biện pháp tập trung công sức và thời gian để xử lý.
Bảng 2.5: Diễn biến nợ quá hạn
Đơn vị: Triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Tuyệt đối
Tương đối
(%)
1
Tổng dư nợ
82.689
132.204
49.515
59,9
2
Nợ quá hạn
56
405
349
623,2
3
Nợ quá hạn/Tổng dư nợ
0,06%
0,31%
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Dư nợ của NHNo thành phố Thái Nguyên tăng rất cao nhưng bên cạnh việc tăng cao đó thì nợ quá hạn cũng tăng nhanh không kém. Năm 2003 nợ quá hạn tăng 349 triệu đồng, tỷ lệ tăng 623,2% một con số khá lớn. Theo quy định của NHNN Việt Nam thì các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu kém, nếu chỉ tiêu này dưới 5% thì ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt. Như vậy tỷ lệ nợ quá hạn của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên so với quy định là tốt nhưng việc tăng qúa nhanh tỷ lệ nợ quá hạn cần phải được xem xét để tìm ra nguyên nhân cụ thể từ đó tìm ra biện pháp hữu hiệu xử lý nợ quá hạn. Để đánh giá chính xác về nợ quá hạn ta cần xem xét về cơ cấu nợ quá hạn theo các cách sau:
Bảng 2.6: Cơ cấu nợ quá hạn theo loại tín dụng
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Số tiền
%
Số tiền
%
Ngắn hạn
16
28,57
169
41,73
Trung, dài hạn
40
7,43
236
58,27
Tổng cộng
56
100
405
100
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Qua bảng số liệu ta thấy nợ quá hạn tăng cả trong cho vay ngắn hạn và trung dài hạn. Xét về tỷ trọng nợ quá hạn ngắn hạn tăng nhanh còn nợ quá hạn trung dài hạn đã giảm bớt.
Thông qua số liệu thu thập được có thể nói 100% nợ quá hạn của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên là hộ gia đình, cá thể.
Bảng 2.7: Cơ cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
Đơn vi: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Số tiền
%
Số tiền
%
Doanh nghiệp Nhà nước
0
0
0
0
Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh
0
0
0
0
Hợp tác xã
0
0
0
0
Hộ gia đình, cá thể
56
100
405
100
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Hộ gia đình, cá thể luôn luôn là khách hàng truyền thống và quan trọng của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên. Tuy nhiên, năm 2003 nợ quá hạn của hộ gia đình, cá thể lại tăng rất nhanh so với năm 2002. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì những nguyên nhân chủ quan gây ra nợ quá hạn cũng không phải là không có. Để đánh giá một cách chính xác nợ quá hạn người ta còn xét nợ quá hạn theo thời gian.
Bảng 2.8: Cơ cấu nợ quá hạn theo thời gian
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Số tiền
%
Số tiền
%
Dưới 3 tháng
12
21,43
370
91,36
Từ 3 tháng đến 6 tháng
28
50
20
4,94
Từ 6 tháng đến 12 tháng
16
28,57
0
0
Trên 12 tháng
0
0
15
3.7
Tổng cộng
56
100
405
100
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Các khoản nợ quá hạn trên 12 tháng là nhỡng khoản nợ có khả năng thu hồi thấp. Năm 2002 không có nợ quá hạn trên 12 tháng nhưng đến năm 2003 đã xuất hiện nợ quá hạn trên 12 tháng với số tiền là 15 triệu đồng tuy không phải là số tiền lớn nhưng nó cũng là nguyên nhân làm giảm chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên.
Khoản nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng đã không còn, đây là điều tốt nhưng nợ quá hạn dưới 3 tháng lại tăng quá nhanh. Nợ quá hạn là không thể tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, song khi nợ quá hạn xảy ra dù lớn hay nhỏ với những tính chất phức tạp khác nhau đều có ảnh hưởng, tác động đến hoạt động kinh doanh đến thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng. Vì vậy ta phải tìm nguyên nhân để có biện pháp thu hồi nợ quá hạn cũng như có biện pháp phòng ngưà, hạn chế rủi ro một cách hữu hiệu.
2.2.2.3. Phân tích một số chỉ tiêu hiệu quả:
Chất lượng và hiệu quả là hai phạm trù tồn tại song song với nhau vì vậy khi đánh giá, xem xét thực trạng chất lượng tín dụng ta không thể bỏ qua các chỉ tiêu hiệu quả.
Hệ số sinh lời trên một đồng vốn đầu tư
Thu lãi tín dụng
Dư nợ bình quân
Khả năng sinh lời của vốn đầu tư tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.9: Tình hình khả năng sinh lời
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm2003
Tuyệt đối
Tương đối
Thu lãi tín dụng
7.602
11.456
+3.854
+50,7
Dư nợ bình quân
82.689
132.204
+49.515
+59,9
Hệ số sinh lời(lần)
0,092
0,087
-0,005
-5,4
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Năm 2003 thu lãi tín dụng tăng 3.854 triệu đồng, tỷ lệ tăng 50,7%. Tuy nhiên, hệ số sinh lời lại giảm 0,005 lần. Trong năm 2002 cứ 1 đồng vốn đầu tư tín dụng đem lại 0,092 đồng lãi còn năm 2003 cứ 1 đồng vốn đâu tư tín dụng chỉ đem lại 0,087 đồng lãi. Điều này làm ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Nguyên nhân thu lãi tín dụng giảm một phần là do nợ quá hạn tăng nhanh.
Chỉ tiêu về vòng quay vốn tín dụng
Doanh số thu nợ tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng=
Dư nợ bình quân
Bảng 2.10: Tình hình luân chuyển vốn
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2002
Năm 2003
Tuyệt đối
Doanh số thu nợ tín dụng
52.127
97.665
+45.538
Dư nợ bình quân
82.689
132.204
+49.515
Vòng quay
0,63
0,74
+0,11
( Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002,2003 )
Năm 2003 vòng quay vốn tín dụng là 0,63 vòng/năm, đến năm 2003 vòng quay vốn tín dụng tăng lên là 0,74 vòng/năm nhưng vòng quay vốn tín dụng vẫn chưa cao.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên cần quan tâm và có biện pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trong những năm tới để vòng quay vốn tín dụng cao hơn, sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
2.3. Đánh giá chung về thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên:
2.3.1. Những kết quả đạt được:
Nhìn chung năm 2003 NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã chú trọng mở rộng cho vay, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố.
Kết quả nổi bật trong hoạt động tín dụng của NHNo thành phố Thái Nguyên là dư nợ tăng cao, tỷ lệ tăng là 59,9% tương đương với 49.515 triệu đồng.
- Cho vay ngắn hạn: tăng 79,87% tương đương 29.263 triệu đồng
- Cho vay trung, dài hạn: tăng 43,98% tương đương 20.252 triệu đồng
Cho vay thực hiện các dự án uỷ thác đầu tư đến 31/12/03 là:
- Cho vay dự án KFW: 804 triệu đồng
- Cho vay dự án WB: 6.228 triệu đồng
-Cho vay dự án ADB: 2.507 triệu đồng
Để đánh giá đúng và nâng cao chất lượng tín dụng nên việc kiểm tra, xử lý nợ quá hạn đã được tăng cường một bước. Tạo cơ sở để đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Nợ xấu, nợ rủi ro đã được xem xét xử lý kịp thời.
Năm 2003 xử lý nợ xấu là 26.002triệu đồng.
Đôn đốc xử lý thu hồi 109.119 triệu đồng.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro trong năm 172,3 triệu đồng, đến nay quỹ dự phòng rủi ro của NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã trích lập được là298,2 triệu đồng.
Tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng của thị trường truyền thống là nông nghiệp nông thôn của 25 phường xã. NHNo&PTNT thành phố Thái Nguyên đã làm tốt việc thực hiện các chương t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2302.doc